Chương 22 VIẾT THÊM:-VIẾT VĂN LÀ MỘT VIỆC PHIÊU LƯU
Viết văn là một công việc làm thiệt ăn chơi hoặc làm chơi ăn thiệt. Viết quyển sách này chính là dịp cho tôi nhìn lại những gì mình đã viết trong một thời gian khá dài, từ trẻ đến già, mê đọc và ham viết. Đọc không nhiều mà viết cũng chẳng bao nhiêu, chỉ có sự ham muốn say mê thì vẫn còn đầy ăm ắp. Ước gì trẻ lại để viết những gì chưa viết được.
Văn chương là gì mà sao tôi mê dữ vậy? Cũng có thể nói đây là một thứ tình.
Chữ tình là chữ chi chi
Cũng có khi mà cũng có khi. (Tản Đà)
Hoặc:
Hôm nay ôn lại chuyện non sông
Nghe sóng nghìn xưa vỗ bến lòng. (Ngân Giang)
Chỉ có vậy thôi – mấy chữ – mà sao đọc rồi không quên? Và lại mơ gặp những người đã viết ra những chữ ấy. Hay quá hay! Nhưng nếu có ai bảo tôi cắt nghĩa, thì tôi không thể nào cắt nghĩa được.
Và có lẽ những người viết ra những câu trên cũng như tôi – đều không cắt nghĩa được! – Đó là văn chương, là nghệ thuật. Nó đi không cùng và sống mãi như một anh chàng phiêu lưu, một kẻ trường sanh bất tử.
Sở dĩ tôi nói nó là một việc làm thiệt ăn chơi, là vì có những cái mình gò gẫm tưởng hay lắm, nhưng khi đưa ra rồi, không có tiếng vang, ngược lại có những cái mình không dự định gì hết mà lại…
Văn chương là một ước lệ, không có ai đo được chính xác như cưa gỗ làm nhà hoặc đo vải may áo. Nhà làm xong thì ở, áo may xong thì mặc cho đến hư đến rách. Người ta ai cũng gọi đó là cái áo, cái nhà, nhưng văn chương lại khác, sách in ra, kẻ khen người không, mỗi người một lời bình phẩm.
Anatole France là hậu sinh của Emile Zola, tác phẩm cũng ít hơn Zola, danh tiếng có lẽ cũng không bằng Zola, ông khổng lồ của trường phái hiện thực. Nhưng A. France lại bảo: “Zola không phải là nhà văn!”
Không biết có ai cãi lại hay không? Có cũng tốt mà không có cũng chẳng sao. Vì Zola chết trước France 22 năm, và tác phẩm của ông còn sờ sờ ra đó, trong lúc France còn tại đường, và tác phẩm của ông cũng sờ sờ ra đó trong đời sống người Pháp. Đánh giá văn chương là một vân đề tương đối.
Cùng là một câu Kiều, nhưng hôm sau tôi đọc thấy nó hay hơn bữa trước, là vì tôi có tâm sự gì đó, hoặc không có tâm sự gì cả… Vì thế nên tôi mới nghĩ ra rằng: văn chương chỉ là một ước lệ, nó không bao giờ là một định lý. Thí dụ: thi sĩ Xuân Diệu có câu “Yêu là chết ở trong lòng một tí”. Đó là một cách ví von tình yêu thôi, chớ chưa chắc hẳn ai yêu cũng “chết một tí” cả. (Câu này không phải của Xuân Diệu, mà Xuân Diệu rút trong thơ văn Pháp).
Toán thì có công thức, nhưng trong văn thơ không có một công thức nào dạy muốn làm một bài thơ, thì phải bắt đầu thế nào, và phải kết thúc ra sao? Và ai muốn làm thơ phải theo luật lệ đó.
Còn phiêu lưu? Tôi nghĩ người viết văn là kẻ phiêu lưu vô cùng. Mặc dù có đích ngắm, nhưng chắc gì đã đến đó? Có khi sự lạc lối đâm ra hay hơn là đi theo con đường mình tự vẽ ra cho mình trước.
Người đi buôn có thể nắm chắc kết quả chuyến buôn, nhưng kẻ viết văn thì có khi, có lắm khi dự tính sai hoàn toàn. Phải chăng đó là phiêu lưu, một sự phiêu lưu thú vị.
Tôi đã kể ở một chương trước rằng: Tô Hoài không biết tiểu thuyết là gì, khi nhận viết “một cái tiểu thuyết” cho Vũ Ngọc Phan, và rồi rất thành công ngoài sự tưởng tượng của chính mình và Vũ Ngọc Phan.
Nguyên Hồng viết Bỉ Võ hồi còn quá trẻ, đâu chưa đầy hai mươi thì phải? Và nó đã được giải thưởng cao quí của Tự Lực Văn Đoàn. Anh sống đến sáu mươi ba tuổi, viết rất nhiều, nhưng theo ý tôi chẳng có cái nào được yêu mến bằng Bỉ Võ cả. Cả hai nhà văn này chẳng phải là những kẻ phiêu lưu là gì?! Phải chăng sự phiêu lưu nghề nghiệp lây sang đời sống tư riêng? Và ngược lại Balzac rất phiêu lưu trong nghề viết cũng như trong đời sống.
Hãy liếc sơ qua cuộc đời tình ái phiêu lưu của Balzac. Một bà bá tước Ba Lan, tên Hanska đọc truyện của Balzac rồi yêu ông viết thư cho ông, ông đáp lại. Rồi hai người yêu nhau trên giấy mực và trong mộng. Những bức thư tình mà Balzac gửi cho Hanska gom lại thành một tác phẩm tên là Lettres à l’étrangère (Tinh thư gửi người phương xa). Có một giai thoại ghi rằng: người phu trạm đem thơ đến nhà Balzac hàng ngày, nhận thấy tên người gửi là một người đàn bà Ba Lan, ông ta bèn cho các cô các bà trong khu phố hay. Các cô các bà nghi ngờ, nên đã xé đại ra xem. Càng xem, họ càng ghen tức: “Bộ Paris này không có ai bằng cái mụ Ba Lan đó hay sao?” Và yêu cầu bưu điện không gửi cũng không phát thư cho Balzac nữa.
Không biết sau đó hai ông bà còn thư từ qua lại với nhau không, không thấy sách nói. Nhưng mối tình này không tan vỡ. Tuy nhiên phải đợi cho tới khi ông bá tước qua đời thì hai người mới gặp mặt nhau. Cuộc hẹn hò được đặt ra ở một vườn hoa gần biên giới hai nước. Hai bên cho biết đặc điểm về hình dáng nhau. Riêng Balzac thì cầm một đóa hoa hồng để tặng Hanska.
Họ gặp nhau trên giấy, trong mộng mười lăm năm trời như Nguyễn Du mô tả cuộc tái hồi Kim Trọng và Kiều:
Những là rầy ước mai ao,
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!
Gặp nhau trên giấy, gặp nhau trong mộng, rồi bây giờ chàng tặng nàng đóa hoa hồng nơi vườn hồng. Rồi họ làm lễ kết hôn trong một ngôi nhà thờ nhỏ ở gần đó. Nhưng chỉ mười lăm hôm sau, Hanska lại trở thành góa phụ. Và chính ngôi nhà thờ còn ngát hương của buổi lễ thành hôn hôm nào, nay lại chính là nơi Hanska đưa linh hồn Balzac về chầu Chúa.
Một cuộc tình phiêu lưu có một không hai trong lịch sử và lịch sử văn học. Phiêu lưu thường là bạn chung tình của lãng mạn.
Balzac là nhà văn lãng mạn và là người thanh niên lãng mạn nổi tiếng của Paris thời bây giờ. Mỗi ngày ông đều thay đổi sắc phục. Và cách ăn mặc của ông đã thành “mốt” được thanh niên bắt chước và được thiếu nữ yêu chuộng… “à la Balzacienne”. (Ăn mặc theo kiểu Balzac.)
Ở Paris chiều thứ bẩy luôn luôn có dạ tiệc mời Balzac tới dự, hoặc khi nào ông bán được sách, có tiền thì ông bày tiệc thết đãi. Những người yêu Balzac và yêu văn chương Balzac phần lớn là các “demoiselles” và các “dames Parisiennes”, những cô những bà mệnh phụ ở chốn Paris phồn hoa, trong đó có những bà công tước, bá tước mà Balzac bảo thẳng rằng: “Nếu các bà không phải là người yêu của tôi, thì tôi phải gọi các bà bằng mẹ. ” Có lẽ trong hoàn cảnh này mà Balzac đã viết một câu như sau: “Chỉ mối tình cuối của người đàn bà mới thỏa mãn được mối tình đầu của người đàn ông. ” Có đúng vậy không? Ai mà biết được! Nhưng có lẽ Balzac cũng có lý, vì đó chính là kinh nghiệm bản thân của ông chăng?
Balzac là một người lãng mạn phi thường, ông yêu nhân vật của ông như người bằng xương bằng thịt: cô Marie, ông thầy thuốc miệt vườn, con ngựa, người ốm. Sách kể lại rằng: Có lần bạn đến chơi, thấy ông trùm mền tùm hum trên bàn viết, thì tưởng ông đang đau, nhưng ông bảo: thằng Jean của tôi đang sốt! – Jean nào? Hỏi ra thì đó chỉ là thằng Jean trong truyện của ông.
Nhưng Balzac không chỉ phiêu lưu và lãng mạn, ông còn là một người cầm bút rất tự hào về chức nghiệp và sứ mệnh của mình. Trong một bức thư của ông viết cho Napoléon ler có câu như sau:
“Tu fais ton oeuvre avec ton épée. Je l’achève par ma plume.” (Ngài làm nên sự nghiệp của ngài bằng thanh gươm, còn tôi hoàn thành nó bằng ngòi bút của tôi!).
Tôi đọc quyển Trois Maîtres (Ba bậc thầy) của Stefan Zweig cách đây bốn mươi năm, nhưng vẫn còn nhớ được một vài giai thoại của các bậc vĩ nhân trong văn học, xin kể lại để các bạn đọc giải buồn, chớ nó không phải là những kinh nghiệm viết văn. Tuy nhiên ta cũng có thể thấy được những mảnh đời kỳ thú của những thiên tài sống trước ta và thấy các vị sống và viết thế nào.
Trong sách này, tác giả còn đề cập tới Féodor Dostoyevski nhà văn thời Nga hoàng. Tôi không còn nhớ vì sao ông bị đầy đi Xi-bê-ri, chỉ còn nhớ rằng những kiệt tác của ông đều được viết trong lao tù, hoặc trong một cuộc sống vô cùng khổ ải. Ông phải bán đến những cái áo nịt vú của người yêu để lấy tiền sống và viết. Ồng mất hết lòng tin ở sự tốt lành của con người, cho đến nỗi ông phải đánh bài để bói số mệnh đỏ đen.
Khi ông còn sống thì tên tuổi và tác phẩm của ông không được đề cao cho lắm, cho đến mãi vào những năm cuối đời, ông mới được kính trọng và tác phẩm được đánh giá rất cao. Độc giả xếp ông ngang với Léon Tolstoi. Nhân vật của ông phần lớn đều u ẩn tối tăm có tâm sự nặng nề uất ức, chớ không trong sáng thanh thản như của Tolstoi —đọc L’Idiot thì thấy rõ điều này: Hoàng thân Mitchkine, Desdémona, Rogogine… —Khi ông qua đời trong một ngõ hẻm tối tăm, những độc giả yêu ông đã kéo tới đông nghẹt bít cả lối đi, chỉ mong được sờ vào quan tài của ông. số người đông đến nỗi gian nhà mất hết dưỡng khí, làm cho những cây nến phải tắt đi, và sự chen lấn làm cho chiếc quan tài phải đổ ngang.
Gương mặt của ông trông đến khiếp! Một gương mặt kỳ dị như tạc bằng đá. Stefan Zweig hay một nhà văn nào tôi không nhớ, đã viết rằng: “Bộ râu của ông như rừng rậm, còn ánh sáng của đôi mắt thì như chiếu hẳn vào phía bên trong… ” Ông là một nhà văn đau khổ suốt đời, và viết không lúc nào ngừng. Phải chăng niềm đau đó đã làm cho ông trở nên vĩ đại? Như Victor Hugo nói một câu triết lý:
“Rien ne nous rend plus grand qu’une grande douleur. ” (Không gì làm cho ta lớn bằng một niềm đau lớn.)
Có lẽ trong các nhà văn lớn trên thế giới, hai vị hạnh phúc nhất là Victor Hugo và Léon Tolstoi. Hugo là con của một ông tướng. Thủa nhỏ cùng đi học với Ngô Quang Trưởng ở trường Quận, tôi có học bài “Après la bataille” (Sau trận chiến) của ông.
Quái nhỉ, sao lại những câu thơ học cách đây gần sáu mươi năm bỗng nhiên lại hiện lên trong óc mình? Vừa rồi NQT đến thăm bất ngờ, tôi có hỏi anh còn nhớ thằng Văn cháu ngoại ông Bùi Quang Chiêu hay không? Thì cũng đúng lúc tôi nhận được tờ báo Phụ Nữ Diễn Đàn. Tôi đưa cho NQT xem hình ông Bùi Quang Chiêu và nói: Hồi nhỏ mình đi học, qua nhà ổng hàng ngày (ở thị trấn Mỏ cày) mà nào có biết ổng. Bây giờ nhờ nhà văn Hứa Hoành, mà tụi mình tóc đã bạc, mới biết mặt ông Bùi, một trí thức tiền tiến của dân Việt Nam.
Thời ấy, mình học bài thơ rất ngắn của V. Hugo kể trên. Trong đó tác giả mô tả chiến trường ngổn ngang xác chết, Ông đại tướng Hugo, thân phụ của V. Hugo cưởi ngựa đi duyệt qua chiến trận sau khi đã tàn binh lửa. Bỗng từ trong một đống gạch vụn lê lết một người lính địch bị thương, anh ta giơ tay há miệng xin một tí nước. Ông đại tướng quay lại bảo viên sĩ quan hầu cận cho anh ta tí nước, thì… “đoành!” Một phát nổ. Chiếc kê-pi đại tướng của ông bay tung, con ngựa lồng lên rồi vọt tới. Nhưng ông vẫn quay lại bảo viên sĩ quan: “Donnez-luỉ tout de même à boire!” (Cứ cho nó uống như thường!)
Bài thơ của Hugo còn sót lại trong đầu tôi hai câu, câu đầu là:
“Mon père au sourire si doux.” (Cha tôi với nụ cười hiền hậu)
Và câu cuối đã kể trên.
Ngoài ra còn một chữ nữa: “Caramba!” Đó là tiếng Tây-ban-nha tỏ nỗi căm thù với kẻ địch. Anh lính thừa lúc ông đại tướng quay đi, bèn hét lên một tiếng dữ dội và rút súng ngắn giấu trong lưng ra bắn. Mặc dù bị bắn suýt chết, ông đại tướng vẫn bảo cho kẻ địch uống như thường.
Ôi văn chương, nào ai biết được chữ nghĩa đi đến những đâu và sống đến bao giờ? Victor Hugo chống độc tài quân phiệt Napoléon, và ra tị nạn nước ngoài. Napoléon III đã cho người sang mời ông về nước, ông ttả lời bằng một bài thơ ngắn rất nổi tiếng là “Ultima Verba” (Lời nói cuối cùng). Thủa nhỏ tôi thuộc vanh vách, bây giờ chỉ còn nhớ có một câu:
“Tôi chỉ về cùng với tự do!” (Je ne retourne qu’avec la liberté). Khi ông mâ’t, nhân dân Pháp đã cử hành quốc táng để tôn vinh ông. Ông làm bài thơ đầu tiên hồi mười ba tuổi. Đến tám mươi tuổi, hàng ngày ông ngồi trước cửa sổ nhìn cảnh vật quê hương xứ sở và viết ra thơ như chép tạo vật vào giấy.
Lạ thay, ông viết thể loại nào cũng đứng đầu trong văn học Pháp. Những Kẻ Khốn Khổ, Người Lưng Gù Nhà Thờ Notre Dame De Paris, thơ Lá Thu... Ông đứng đầu trường phái lãng mạn về kịch nghệ. Một nhà danh họa Pháp đã vẽ Victor Hugo ngồi trên nóc nhà hát Paris, một chân gác trên chồng tiểu thuyết, một chân gác trên Lá Thu. Còn một nhà điêu khắc đã đục một tượng Balzac cưỡi con lừa mang một bị sách. Hai ông sống cùng thời, có thư từ qua lại, lại rất phục tài nhau. Đó là thời huy hoàng nhất của văn học Pháp.
Mất hai ông rồi, nước Pháp nghèo đi, và càng ngày càng nghèo, mãi cho đến ngày nay thì càng sa sút, như một nhà văn Mỹ bạn tôi phải than thở với tôi: “Junk sells better than qualities!” (Đồ nát bán chạy hơn phẩm chất!)
Người ta phải quay lại thời xưa để tìm văn chương nghệ thuật. Ở đâu cũng vậy, không cứ gì ở đâu! Thời đại khoa học càng giăng đôi cánh, thì đôi cánh văn học nghệ thuật cũng teo lại dần, hay đó chính là điều Balzac đã tiên liệu trong quyển Mảnh da lừa (La peau de chagrin).
L. Tolstoi cũng như Hugo là con nhà quí phái, hay chính ông là người quí phái. Nếu tôi không nhớ nhầm, thì ông là Nam tước thời Nga hoàng. Ông giầu sang vô kể. Chính những nhân vật trong Chiến tranh và Hòa bình là dòng họ của ông chớ không ai khác. Toàn là quận công, vương tướng, hầu tước… Có vị sắm cả một bầy nô lệ ba trăm người chuyên môn đi săn chim ri để phục vụ cho gia đình.
Nhưng chính Nam tước Tolstoi lại có đầu óc xã hội rất sớm, ông từ chối cuộc đời nhung lụa của ông để bố thí cho người nghèo, và ông từ bỏ lâu đài nguy nga để sống trong nhà tranh vách lá, chân mang giày rơm và viết trên bàn gỗ thô.
Ông đã nghĩ tới cái chết bốn mươi năm trước khi cái chết thực sự đến với ông vào lúc ông tám mươi hai tuổi. Một đêm mưa tuyết hãi hùng, ông đã bỏ nhà ra đi. Sáng hôm sau, người ta tìm thấy xác ông vùi lấp trong tuyết ở gần ga Polyana… ở đâu đó trên nước Nga, tôi không nhớ, chỉ nhớ rằng ông di chúc chôn ông đừng làm mả to (1), ngay cả không đắp nấm và không cắm mộ bia. Sinh thời cuả ông, báo chí Âu châu viết: “ Có một người mạnh hơn cả Hoàng đế, đó là Léon Tolstoi và cây bút của ông.”
Ngày nay người Nga vẫn giữ lời di chúc của ông, không đắp nấm mộ, chỉ một mô đất thấp… Nhưng hàng ngày có nhiều khách thập phương đến đặt những đóa hoa tươi, trên mô đất thấp lè tè ấy, vì người ta biết dưới đó là nơi an nghỉ của tác giả Chiến tranh và Hòa bình.
(1) Chí Phèo của Nam Cao đã chế giễu một cách sâu sắc: “…Có ông nào chết mà được khen là ông mả to đâu!” Chỉ có những kẻ hợm mình mới xây lăng hoặc bắt con cháu làm mả to cho mình.
Một trong các nhà văn trẻ được Tolstoi chú ý là Maxime Gorki. Một hôm Tolstoi gọi Gorki tới khen một số truyện của Gorki vừa xuất bản. Nhưng sau cùng, ông bảo: “Chú tả sai một nét!” Gorki sung sướng được cụ chỉ cho, nhưng không đoán ra mình tả sai nét nào. Tolstoi bèn bảo: “Không có cô gái nào như cô Anna của chú cả. Vào tuổi 18-19, cô nào cũng mơ mộng và thích được tán tỉnh ôm ấp bởi những chàng trai.” Gorki phục quá, vì ông tả Anna như một nữ thánh. (Đây là câu chuyện của anh Nguyễn Huy Tưởng kể lại cho chúng tôi nghe hồi tôi ở Hà Nội).
Gorki có một cuộc sống thiếu thốn vô cùng vất vả. Ông đã phải lang thang khắp nơi và làm đến mười bẩy nghề không tên để kiếm ăn. Trong đó có cả cái nghề lặn mò đồ của khách đánh rơi ở bến tàu, và nghề rửa chén cho các tiệm ăn. Ông lăn lộn sống chung với những anh bồi chị bếp, ông thấy giá trị của họ, và trở thành bạn thân của họ. Chính ông đã tặng cho nhà văn danh hiệu “kỹ sư linh hồn”. Tôi không nhớ ông qua đời lúc nào, ở đâu, và vì bịnh gì? Nhưng tôi nhớ ông đã đến New York đâu khoảng 1901 – 02 gì đó. Và khi trở về xứ, ông viết những cảm tưởng không mấy gì tốt đẹp của ông đối với thành phố này trong quyển Thành phố Con Quỉ Vàng.
Có lẽ đây là sai lầm lớn nhất của Gorki? Nhưng nghĩ lại thì cũng không đáng trách. Ồng cũng là người phàm mắt thịt như ta, chỉ khác ở cái tâm hồn nghệ sĩ, thì làm sao đoán chuyện quá khứ vị lai bá niên tiền, bá niên hậu được? Ông là bạn thân của Lénine, nhưng không vô đảng của Lénine như nhiều người lầm tưởng ông là ủy viên Trung ương đảng.
Ở Hà Nội khoảng 1958 – 60, bọn trẻ chúng tôi thường gọi anh Nguyên Hồng là Maxime Gorki, vì Nguyên Hồng cũng có vẻ lam lũ khắc khổ nghèo nàn, và còn có dáng dấp phu phen bến tàu như Gorki.
Mà thật, Nguyên Hồng là dân nghèo cảng Hải phòng. Chính ở đây anh đã nghĩ ra Bỉ Võ, vì trông thấy một tay chạy võ mà anh nghĩ là giống dân Sàigòn, và đặt tên nhân vật chính của Bỉ Võ là Năm Sàigòn.
LẠI VIẾT THÊM
Sáng nay đem cái bản thảo NHỮNG BỰC THẦY CỦA TÔI để xem lại, không hiểu sao tôi lại bật nhớ hai câu thơ của Tản Đà và của Ngân Giang nữ sĩ rồi viết ra đoạn này:
Ngân Giang nữ sĩ là một người đàn bà đẹp như thơ và lại làm thơ. Vì thế chất thơ có đến gấp đôi trong Ngân Giang. Hai câu thơ của chị, tôi đã kể ở phần VIẾT THÊM ở trên, thật là tuyệt tác. Đúng đây là “Lạc giữa trần gian một tấm lòng” (thơ TAT). Bây giờ không mấy ai nhắc đến, chứ thực ra thì ở Hà Nội, thử tìm xem có được mấy câu như vậy – mà đây là thơ hồi 1946 kia đấy, tức là thời kỳ tôi mê thơ, đi tìm thơ mà chép để dành đọc cho thích.
Xin vô phép chữa thơ cụ Tản Đà:
“Văn chương là cái chi chi
Cũng có khi mà cũng có khi!”
Cái “chi chi” thì không thể định nghĩa được, còn “có khỉ mà cũng có khi” – Khi gì? Cũng không biết được! Thế mà sao tôi thích? Cũng không trả lời được. Sự đời ai có ngờ đâu chàng kiếm sĩ luồn trôn anh hàng thịt giữa chợ, mà bỗng chốc trở thành Phá Sở Đại Nguyên Soái khét tiếng lừng danh. Rồi cũng ai có ai ngờ đâu vị Phá Sở Đại Nguyên Soái kia đã đem lại cho một triều đại lớn nhất lịch sử (nhà Hán) một giang san cũng rộng lớn nhất thế giới – mà rồi lại chết lãng xẹt vì tay một mụ đàn bà. Có lẽ trong lịch sử không có một tướng soái nào uy danh lớn lao như Hàn Tín, mà lại chết như Hàn Tín.
Võ nghiệp là cái chi chi
Cũng có khi mà cũng có khi.
Thì cũng như Võ Hậu, tức Võ Tắc Thiên. Từ một cô cung nữ tầm thường chỉ được quyền xếp quần áo cho vua, chớ không được đến gần vua. Thế mà rồi khi vua băng hà, lại liếc mắt đưa tình với hoàng tử qua đầu quan tài vua cha, rồi cuỗm luôn được ông hoàng tử, rồi lập mưu giết cả hoàng hậu. Nhưng chưa thỏa mãn tham vọng, giết luôn cả vua để lên ngôi. Ba thằng con trai léo nhéo, mụ ta giết láng để tuyệt hậu hoạn. Vậy mà làm vua luôn năm mươi năm, triều thần mọp răng rắc. Chỉ có một người dám can ngăn sự tàn bạo của bà ta, đó là nhà thơ Trần Tử Ngang.
Ông nhà thơ thấy quá nhiều chuyện phi lý, bất bình, bèn làm một bài sớ, dưới hình thức một bài thơ dài dâng lên. Võ Hậu xem qua, mắt đổ lửa, đầu tóc đứng dựng lên, triều thần lạnh xương sống. Nhưng không có việc gì xảy ra hết. Võ Hậu đã không hành hình nhà thơ cương trực, lại còn thăng cấp và thưởng vàng bạc. Rồi mụ còn quay lại mắng mỏ lũ triều thần:
– Các quan chỉ là một lũ vô dụng, chỉ biết nịnh hót và cúi lòn!
Nhưng mụ có biết đâu chính mụ là nguyên nhân của sự nịnh hót và cúi lòn đó. Dù sao, từ ấy mụ cũng bớt chém giết trung thần như trước kia.
Thì ra, trong kẻ ác cũng còn có một chút ánh sáng của lương tri. Tần Thủy Hoàng là ông vua sợ chữ nghĩa nhất. (Vì chữ nghĩa ghi tội ác của ông lưu xú muôn đời. Mà hôn quân không sợ gì hơn sợ người ta gọi mình là hôn quân). Cho nên mới có việc đốt sách và chôn sống học trò, ai cũng phải khiếp oai. Do đó mà triều thần không dám can gián, trừ một người, đó là Úy Liêu, Úy Liêu đã dám khổ gián nhà vua, ông cởi trần trước bệ rồng và nói những lời trung trực. Triều thần nhắm mắt lại không dám nhìn, nhưng không bịt tai, để nghe. Trước sân lúc nào cũng có sấn một chảo dầu sôi, ai can gián vua sẽ được quăng vào đó mặc tình bơi lội. Tần Thủy Hoàng thấy Úy Liêu cởi trần thì phán hỏi tại sao vô lễ. Úy Liêu đáp: “Để cho đao phủ khỏi mất công.” Tần Thủy Hoàng lập tức bước xuống bệ rồng, vỗ vai khen Úy Liêu là bề tôi trung nghĩa, dám liều chết can vua. Bèn sai quan thị vệ đem vàng bạc ra ban thưởng, rồi cởi long bào khoác cho Úy Liêu.
Nếu chẳng có Úy Liêu thì Tần Thủy Hoàng sẽ còn tiếp tục đốt sách và chôn học trò. Về sau Tần Thủy Hoàng lại bị Kinh Kha ám sát. Không rõ là lời nói của Úy Liêu, và lưỡi gươm của Kinh Kha, cái nào có tác dụng hơn? Với một hôn quân, lưỡi gươm cũng chính là sự phát biểu rất nên thơ vậy. Đây không phải là lần đầu tiên hắn bị mưu sát. Một lần khi hắn du hành, long xa bị một chùy sắt của một tráng sĩ đập nát. Hai lần chết hụt, ắt hẳn tên bạo chúa phải suy nghĩ, cũng như Võ Hậu trước lá sớ của Trần thi sĩ.
Rất tiếc là lịch sử không ghi lại bài thơ của Trần Tử Ngang, xem ông ta gieo vần dùng chữ như thế nào, để đến nỗi một Võ Hậu phải chùn tay chém giết? – Nhiều nhà triết học đã viết trùng nhau trên một ý tưởng: “Những kẻ dùng sức mạnh là những kẻ yếu”. Tôi không nghĩ đây là một chân lý, nhưng nó cũng không đến đỗi sai.
o O o
Tôi viết quyển sách này là một việc bất ngờ. Một hôm tôi đến chơi nhà một người bạn gốc Hà Nội đã đọc truyện tôi mà chưa hề gặp mặt đó là ông bà bác sĩ Nguyễn Như Lâm. Rồi cũng lại bất ngờ gặp chị Trương Anh Thụy, cháu gọi ông bà bằng cậu, mợ từ Washington xuống thăm. Trong câu chuyện văn thơ thường lệ, chúng tôi nhắc về mảnh đất văn vật Hà Nội. Để tỏ lòng mang ơn mảnh đất này, tôi đã kể chuyện về những nhà văn tiền bối mà tôi được hân hạnh gặp và học kinh nghiệm nghề nghiệp. Tôi có thuật lại câu bất hủ của nhà văn Nguyễn Công Hoan nói về nghệ thuật viết truyện: “Truyện là bịa y như thật. Anh nào bịa giỏi anh ấy ăn”
Một bất ngờ nữa là, đọc trong Chân Trời Lam Ngọc 2 của Hồ Trường An tôi được biết gia đình cụ Trương Cam Khải có thời gian cư ngụ tại thôn Trích Sài gần chợ Bưởi. Chính tôi có đến đây xin ở trong một ngôi chùa sát bờ Hồ Tây để sáng tác. Cũng chính nơi đây tôi đã gặp nhà văn Nguyễn Công Hoan, đã phỏng vân ông và được trả lời như trên. Ven hồ có rất nhiều sen… Phải chăng cô bé Trương Anh Thụy đã bơi thuyền đi hái trộm sen với các bạn ở nơi này cách đây nửa thế kỷ?
Chị Anh Thụy được nghe kể chuyện các nhà văn thì bắt ngay vào vấn đề:- “Chắc anh đã được nghe các cụ truyền nhiều kinh nghiệm viết văn lắm nhỉ? Anh kể thêm nữa đi!” Bị hỏi bất ngờ, tôi chưa biết đáp thế nào. Sự thật thì có đúng như vậy, nhưng bảo kể lại thì làm sao mà kể được? Nay nghe một câu, mai nghe một câu, chớ đâu có lớp trường nào hẳn hoi, bài mục thứ tự! Nhưng chị Anh Thụy quả quyết bảo: “Anh hãy kể ra tất cả, để tôi in ra cho mọi người đọc với, chớ anh để trong bụng hoài uổng quá!…” Tôi chỉ làm thinh, chớ không dám hứa. Tuổi già là tuổi bất trắc bất ngờ, nhưng ai lại đi từ chối một sự hảo tâm thiện chí như vậy? Tôi về nhà mới ngồi nhớ lại và cặm cụi viết… hồi ký. Mãi hai tháng sau tôi mới gọi phôn cho chị: “Chị Anh Thụy ơi, tôi viết xong rồi!” – “Vậy hả? Anh gửi lên cho tôi ngay đi!” – cả hai cùng mừng.
Tôi viết hồi ký kể từ khi tôi biết ham đọc sách và trang truyện đầu tiên tôi đọc là truyện Tây Du. Rồi kế đó là hàng trăm bộ truyện Tàu, Việt, Pháp… cho tới bây giờ thì đã sáu mươi mùa…
Thu đi… vũ trụ bạc phơ đầu…
(thơ Trương Anh Thụy)
Ngồi ghi lại những chuyện đời buồn vui mà cảm thấy như:
Hôm nay ôn lại chuyện non sông
Nghe sóng nghìn xưa vỗ bến lòng.
(thơ Ngân Giang)
Xin cảm ơn những câu thơ đã cho tôi cái kết tuyệt diệu của quyển sách, và cái đầu bạc phơ này xin chân thành gửi nó đến các bạn.