← Quay lại trang sách

Chương 21 GÓP NHẶT BỐN PHƯƠNG

Ở ngoài bìa của quyển tự vị Pháp Larousse có một vòng tròn mạ vàng to bằng khu chung mắt trâu. Trong cái vòng tròn đó có in hình cô đầm ngó nghiêng đang thổi những nhụy hoa bay đi. Bên ngoài cái vòng tròn có dòng chữ “Je sème à tout vent” (Tôi gieo mầm theo gió bốn phương). Bây giờ nhớ lại, tôi lại ghi: “Je ramasse de tout vent” (Tôi nhặt từ bốn phương).

Nhà văn? Có tờ báo phỏng vấn: – Tại sao anh viết? Đáp thế nào cho đạt yêu cầu? Thôi thì đáp: Không biết. Người ta lại hỏi: – Anh đi vào nghề văn bằng con đường nào? Tôi càng không biết. Tôi chỉ có thể trả lời rằng: Tôi ham viết lắm. Có một lần anh bạn tôi, nhà báo, phỏng vấn tôi, tôi có tếu lên mà trả lời: Tôi cảm thấy, tôi chỉ sống khi tôi ngồi viết, còn làm việc gì khác, tôi cũng thấy mất thì giờ cả!

Đến đây thì những câu chuyện lan man của tôi có thể chấm dứt được rồi. Chính ra tôi cũng không biết ghi ra cái gì nữa. Tôi còn nhớ mấy lời vàng ngọc của văn hào Ilya Ehrenbourg người Nga, xin ghi ra. Đây là rút từ bài diễn từ của ông đọc trước độc giả của ông ở Paris vào năm ông sáu mươi ba tuổi. Ông là tác giả của hai quyển tiểu thuyết đồ sộ La Tempête (Bão Tố) và La Chute de Paris (Balê thất thủ). Dân tộc Pháp mang ơn ông đã ghi lại “giùm” cho dân tộc này cái cảnh mất nước trước quân Hít-le. Cái tát vào mặt viên thiếu tướng Petit, kẻ trấn thủ mặt trận Maginot làm cho chiến lũy này vô hiệu quả, thật là đích đáng. Năm ngón tay in trên mặt viên tướng kia nay đã năm mươi năm, nhưng hình như rõ hơn bao giờ hết.

Ông viết bằng tiếng Pháp, chớ không phải dịch từ bản chính ra tiếng Pháp. Những bồi bàn quán rượu ở biên giới miền Nam nước Pháp, mỗi khi thây ông đến, đều có thói quen đem giấy bút đến cho ông, để ông viết cho những chữ, những đoạn văn. Thời kỳ quân Nga đánh với quân Hít-le, có chỉ thị của bộ tổng chỉ huy rằng những số báo có bài của Ilya Ehrenbourg phải được binh sĩ truyền tay nhau đọc, không được xem như những tờ báo khác.

Làm nhà văn như ông thật không vinh quang nào bằng. Khi ông thọ sáu mươi ba tuổi, chính độc giả Paris đã tổ chức mừng sinh nhật ông.

Tôi đọc được bài diễn từ này, cách nay ít ra cũng bốn mươi sáu năm tại Cần Thơ lúc tôi mới tập tễnh viết những bài ký sự nho nhỏ.

Những lời nói của ông thật đáng thiên kim. Sứ mệnh của nhà văn. Bài “La mission de 1’écrivain” không dài, có những câu tôi nhớ đời đời. Xin tạm dịch ra đây, lẫn ghi lại nguyên văn thuộc lòng:

Écrire ce n’est pas jongler avec des mots, mais c’est servir l’homme (Viết không phải là đùa giỡn với chữ mà là phụng sự con người.)

La mission de 1’écrivain c’est de révéler le trésor dans le coeur de l’homme. (Sứ mệnh của nhà văn là phát hiện kho tàng trong trái tim con người.)

II n’y a pas de distributeur de talent… Il n’y a que le travail. (Không có cái máy nào phân phát tài năng cả. Chỉ có cần cù làm việc.)

L’écrivain ne connaît pas la vieillesse. II est jeune jusqu’à ce que la mort l’arrache de sa table de travail. (Nhà văn không biết tuổi già. Anh ta trẻ cho đến ngày cái chết rứt anh ta ra khỏi chiếc bàn làm việc.)

Tôi còn nhớ được mấy câu đó mà cũng thấy sung sướng lắm rồi. Có lẽ không bao giờ tôi quên chúng.

Tôi đọc Ehrenbourg rất say mê. Tiếc thay bây giờ không tìm thấy ông ở đây nữa. Những bài tùy bút của ông viết trong cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân Nga là những tuyệt tác.

Trong quyển Công việc nhà văn của ông, tôi còn nhớ một câu như sau:

“Khi anh hoàn thành tác phẩm, anh có một niềm vui, niềm vui hoàn thành tác phẩm, nhưng cũng có một nỗi buồn, nỗi buồn xa các nhân vật mà anh dựng lên. ”

Đúng y trang tâm trạng của nhà văn. Phải là một nhà văn viết nhiều mới nói được câu ấy. Đọc xong câu này, tôi buông sách thán phục ông.

Hiện giờ phút này, tôi cũng đang có nỗi buồn ấy.

Từ bấy lâu nay viết những trang sách, tôi có cảm giác là thưa chuyện nhỏ to cùng các bạn. Bây giờ xong rồi, chuyện đã chấm dứt, xa các bạn, tôi buồn, biết bao giờ tái ngộ để cùng trò chuyện? Cả một cái cổ kim thiên hạ hàng trăm người tôi vừa gặp lại trong những trang sách qua.