← Quay lại trang sách

Chương I LÝ DO, MỤC TIÊU, CHIÊU BÀI PHÁT ĐỘNG THÁNH CHIẾN

LÝ DO VÀ MỤC TIÊU

Quan sát các cuộc thánh chiến được phát động tại Việt Nam trong suốt 30 năm qua, các nhà phân tích đều đồng ý rằng đằng sau các cuộc thánh chiến đó có rất nhiều bí ẩn cần phải được nghiên cứu để phát hiện. Người ngoại cuộc nhìn vào các cuộc thánh chiến đó tưởng rằng đây chỉ là những cuộc tranh đấu đòi quyền tự do và bình đẳng về tôn giáo, đòi tự do dân chủ, nhân quyền..., nhưng nhìn các chiêu bài được xử dụng cũng như các chiến lược và chiến thuật đã được áp dụng, chúng ta thấy có nhiều hiện tượng không bình thường. Tại sao có các cuộc thánh chiến này? Các cuộc thánh chiến đó được phát động nhắm mục đính gì? Câu trả lời có lẽ không có gì quá khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM

Karl Marx đã tuyên bố:

"Xóa bỏ tôn giáo, một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là đòi hỏi hạnh phúc thật sự của nhân dân."(2)

Lénine coi Thiên Chúa Giáo là đối tượng nguy hiểm nhất cần phải thanh toán, sau đó là Hồi Giáo. Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng nhận định rằng Thiên Chúa Giáo là một trở ngại lớn lao trên con đường tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Chính Thiên Chúa Giáo là bức thành ngăn chận không cho chế độ cộng sản lan qua Âu Châu và Mỹ Châu, và đang gây khó khăn cho việc cộng sản hóa toàn bộ nước Việt Nam. Trong thời gian lưu vong chống Pháp, Hồ Chí Minh đã viết vô số bài chống Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam. Một số bài này được đăng lại trong bộ Hồ Chí Minh Toàn Tập do nhà xuất bản Sự Thật ở Hà Nội ấn hành. Vậy phải tìm mọi cách loại bỏ Thiên Chúa Giáo hay vô hiệu hóa mọi hoạt động của tôn giáo này. Tại Việt Nam, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo cũng là hai trở ngại cho việc cộng sản hóa Việt Nam, nên hai tôn giáo này cũng là mục tiêu thanh toán như Thiên Chúa Giáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA MỘT SỐ TĂNG NI, PHẬT TỬ CỰC ĐOAN MIỀN TRUNG

Một số tăng ni và Phật tử miền Trung gốc Bình-trị-thiên theo tông phái Phật Giáo Ấn Quang, nhất là nhóm theo Hòa Thượng Thích Trí Quang, cho rằng đạo Thiên Chúa mới xâm nhập vào Việt Nam khoảng bốn thế kỷ mà đã chiếm được ưu thế về chính trị, văn hóa và xã hội, gây biến dạng văn hóa cổ truyền Việt Nam. Vậy phải tìm mọi cách để ngăn chận lại. Trong bài Dân Tộc và Phật Giáo cuối thế kỷ 20 đăng trên Bông Sen số 17, Lý Khôi Việt đã diễn tả khá đầy đủ ý nghĩ đó:

"Chính trị Việt Nam suốt 100 năm này, đã dành một số phận đen tối, khắc nghiệt nhất cho những đứa con Việt Nam ưu tú (tức Phật Giáo) và dành một chỗ ngồi ưu đãi nhất cho những đứa con phản bội xấu xa (tức Thiên Chúa Giáo)."

Từ những nhận định tương tự như thế, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã đưa ra chủ thuyết PHẬT GIÁO và DÂN TỘC để hành động. Họ lập luận rằng Phật Giáo và dân tộc đã gắn liền với nhau. Vận mệnh của đất nước đi liền với vận mệnh của Phật Giáo. Vậy muốn cứu vãn dân tộc, chỉ có một con đường duy nhất là đưa Việt Nam trở lại thời đại Lý-Trần, Phật Giáo là quốc giáo, các Hòa Thượng làm Quốc Sư. Muốn tiến tới mục tiêu đó, trước tiên phải siêu việt hóa Phật Giáo và cổ võ việc loại trừ Thiên Chúa Giáo, một tôn giáo bị coi là "đạo ngoại lai". Chủ thuyết này đã được đa số các tăng sĩ của nhóm Phật Giáo cực đoan nhai đi nhai lại như con vẹt, không cần biết chủ thuyết đó có căn cứ hay không.

CÁI THẾ LIÊN ỨNG

Nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung chống Thiên Chúa Giáo nhận thấy họ không đủ khả năng ngăn chận Thiên Chúa Giáo vì thiếu tổ chức và không được sự yểm trợ của đồng bào trong nước cũng như quốc tế. Vậy chỉ còn một cách là mượn bàn tay Cộng Sản. Giữa Phật Giáo và Cộng Sản có những mục tiêu bất khả dung hợp, nhưng một số nhà điều khiến chiến dịch lý luận rằng có thể mượn bàn tay Cộng Sản để đánh bại Thiên Chúa Giáo rồi sau đó dùng Phật Giáo để "hóa giải" Cộng Sản.

Phía Cộng Sản rất nhạy cảm, họ nhận ra được những ý định của một số tín đồ Phật Giáo cực đoan nên tương kế tựu kế: Dùng chiến tranh tôn giáo để gây suy yếu hàng ngũ chống cộng và kiềm chế Thiên Chúa Giáo, sau đó khống chế Phật Giáo.

Vì lý do nói trên, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã phối hợp với Cộng Sản rất chặt chẽ trong việc đánh phá miền Nam Việt Nam và Thiên Chúa Giáo, nhất là trong các cuộc "thánh chiến" được phát động từ 1963 - 1966 tại miền Trung. Chúng tôi sẽ chứng minh sự phối hợp chặt chẽ nầy ở các chương sau.

CHIÊU BÀI XỬ DỤNG

Trong phương thức đấu tranh cho quyền lợi của phe phái mình, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung trong tông phái Phật Giáo Ấn Quang đã xử dụng phương châm của Karl Marx mà những người cộng sản thường áp dụng, đó là phương châm "Cứu cánh biện minh phương tiện" (la fin justifie les moyens), nghĩa là dùng bất cứ phương tiện gì, dù tốt hay xấu, miễn là đạt được cứu cánh thì thôi. Vì thế, chúng ta thấy nhóm nầy đã không ngần ngại xử dụng phương thức của Phát-xít Đức.

Hitler, khi muốn kích động dân tộc Đức đứng lên dành quyền bá chủ thế giới, đã đưa ra thuyết "chủng tộc vượt trội" (master race), coi chủng tộc Đức vượt lên trên tất cả các chủng tộc khác. Căn cứ vào chủ thuyết nầy, Hitler đã phát động chiến dịch đề cao chủng tộc Đức và hô hào diệt chủng tộc Do Thái để gây động lực đấu tranh.

Phương thức đó đã được nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung áp dụng khi phát động đấu tranh: Tuyên truyền Phật Giáo là một tôn giáo siêu việt còn các tôn giáo khác, nhất là Thiên Chúa Giáo, đều là những thứ "tà đạo", đang bị đào thải qua quá trình lịch sử.

Sau khi siêu việt hoá Phật Giáo, nhóm này đưa ra chủ thuyết ĐẠO PHÁP và DÂN TỘC để đồng hóa Phật Giáo với dân tộc Việt Nam và đòi chiếm địa vị độc tôn.

Để thực hiện sứ mạng Phật Giáo hóa Việt Nam, đưa Phật Giáo lên nắm địa vị ưu thắng trong nền chính trị quốc gia cần phải có một nhóm Phật Giáo siêu việt, thuộc loại "đỉnh cao của trí tuệ loài người" như kiểu Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhóm này không ai khác hơn là các tăng sĩ miền Trung gốc Bình - Trị - Thiên trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang.

DÙNG THUYẾT PHẬT GIÁO SiÊU VIỆT VÀ ĐỘC TÔN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM LÀM CHIÊU BÀI.

Các nhà phát động đấu tranh của tông phái Phật Giáo Ấn Quang luôn luôn tuyên bố Phật Giáo là đạo dân tộc, dân tộc là Phật Giáo và truyền thống dân tộc là truyền thống Phật Giáo. Thời kỳ quang vinh nhất của dân tộc Việt Nam là thời đại Lý - Trần, một thời đại do Phật Giáo nắm vận mệnh quốc gia. Vậy phải trở về với tình trạng Phật Giáo của thời Lý - Trần, nghĩa là đưa Phật Giáo lên hàng quốc giáo, chính quyền tuân theo chính sách của Phật Giáo, Việt Nam mới có hòa bình, tự do dân chủ và phú cường. Sau đây là quan điểm của một số tác giả về căn bản của chủ thuyết Phật Giáo siêu việt và độc tôn của dân tộc Việt Nam:

Lý Khôi Việt:

"Có thể nói đạo Phật ngày nay vẫn là chủ đạo văn hóa của quốc dân Việt Nam như trong thời Phật Giáo thịnh trị khác... Phật Giáo là chủ đạo văn hóa ưu thắng của Việt Nam, nghĩa là của đại đa số dân chúng tin theo và chi phối các sinh hoạt xã hội..."

"Trên lãnh vực chính yếu của mình, văn hóa Phật Giáo đã vừa thực hiện một thành tích kỳ diệu: nó đã cùng nền văn hóa dân tộc đánh bại một cách toàn diện và dứt khoát văn hóa Mac-xít"(3)

Phan Quang Độ:

"Phật Giáo đã thích nghi một cách kỳ diệu với tất cả mọi nền văn hóa hoàn toàn khác biệt nhau,... Trong tiến trình thích nghi, hòa nhập nầy, hoàn toàn không có chiến tranh, không có xâm lăng không có giết hại, không có áp bức và đau khổ như tiến trình thiên chúa giáo hóa tại Việt Nam cũng như tại các nơi khác."(4)

Phan Quang Độ đã quả quyết rằng các thời đại Ngô, Đinh, Lý, Trần đưa nước vào thời kỳ vinh quang là nhờ tôn Phật Giáo làm quốc giáo và được Phật Giáo giúp đỡ. Cuối cùng, Phan Quang Độ kết luận:

"Việt Nam hôm nay mà phục hưng được chánh pháp, chính quyền biết lãnh đạo quốc gia trong tinh thần từ bi, bao dung, khai phóng của đạo Phật thì chắc chắn Việt Nam sẽ phát triển thần kỳ như những con rồng khác tại Á Châu và kỷ nguyên quang hưng sẽ đến với quê hương ta"(4)

Đọc những đoạn vừa trích dẫn trên, người đọc có cảm tưởng như vừa đọc cuốn "Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng," chỉ khác là hai chữ "Cộng Sản" được thay bằng hai chữ "Phật Giáo".

KÍCH ĐỘNG LÒNG CĂM THÙ THIÊN CHÚA GIÁO NHƯ LÀ ĐỘNG LỰC ĐẤU TRANH.

Khi Phát-xít Đức đưa dân tộc Đức lên tận mây xanh, họ đã nhận chìm dân tộc Do Thái xuống tận đáy bùn đen. Một nhóm lý thuyết gia thuộc tông phái Phật Giáo Ấn Quang, sau khi siêu việt hóa Phật Giáo, cũng đã đối xử như vậy đối với Thiên Chúa Giáo:

Phan Quang Độ:

"Và Vatican được hiểu như một đế quốc cũng từ đặc tính độc tôn văn hóa và diệt chủng văn hóa của các dân tộc khác: những nhà truyền giáo TCG La Mã đã hủy diệt nền văn minh Maya cổ đại của dân tộc Mễ Tây Cơ, tàn phá kim tự tháp khổng lồ của nền văn minh nầy và giết hại hàng chục triệu người dân Mễ Tây Cơ và Nam Mỹ. "

"Thiên chúa giáo Việt Nam không ra ngoài đặc tính nầy: không chấp nhận thích nghi văn hóa, chỉ muốn đi đồng hóa kẻ khác, kể cả bằng bạo lực, súng đạn hay mua chuộc bằng tiền bạc, danh lợi, hay tồi tệ hơn, cả bằng tình yêu và hôn nhân của con cái và mặt khác, thích nghi rất quỷ quyệt về chính trị để hướng đến mục tiêu tối hậu là cướp chính quyền và dùng chính quyền để bành trướng đạo thiên chúa. "

"Hơn 100 năm nay, Phật Giáo và dân tộc đã không ngừng tranh đấu, hy sinh chống lại xâm lăng, tàn phá của đế quốc Vatican và đế quốc cộng sản."(5)

Lý Khôi Việt:

"Việt Nam đang trở lại tình trạng bất công của thời thực dân nô lệ, đó là tôn giáo thiên chúa giáo, một tôn giáo có bản chất độc đoán, bất khoan dung, có truyền thống ngoại lai, vong bản, tay sai ngoại bang, có lịch sử phản quốc đã nhiều lần bán đứng đất nước cho các thế lực xâm lăng thì lại được chính quyền ưu đãi, vuốt ve, thỏa hiệp..."

"Vì có tín đồ thiên chúa giáo VN thần phục mù quáng Vatican, đang làm việc phản quốc và phá hủy văn hóa dân tộc, phá hủy Tổ Quốc, nhưng họ lại tưởng là đang xây dựng tốt đẹp đất nước, như những tín đồ Việt Nam khờ dại, cuồng tín của chủ nghĩa Mác, đã từng nghĩ như thế suốt 60 năm qua."

"Đế quốc thiên chúa giáo La Mã mưu đồ khống chế Việt Nam về tôn giáo, tinh thần, văn hóa, chính trị và kinh tế. Nếu đa số người Việt Nam theo đạo thiên chúa thì Việt Nam, được hiểu như một quốc gia có văn hóa đặc thù độc lập, sẽ bị hủy. Họ sẽ viết lại lịch sử Việt Nam theo nhãn quan của họ như đã từng sửa đổi ngụy tạo lịch sử giáo hội La Mã, cuộc đời của chúa Christ và cả thánh kinh, họ sẽ tiêu hủy nền văn hóa độc sáng Việt Nam, như đã tiêu hủy các nền văn hóa đặc thù của dân Mễ Tây Cơ và các dân tộc khác tại Nam Mỹ..., họ sẽ áp dụng một chế độ độc tài bất khoan dung và hết sức khắc nghiệt, tàn bạo và Việt nam sẽ chỉ là một thuộc địa của các lãnh chúa áo đen như thời Trung Cổ man rợ như đã thấy dưới sự thống trị của các ông cố đạo và của đảng Cần Lao. Và là một sự nô lệ càng khó gỡ hơn cả sự nô lệ vào đế quốc Trung Hoa."(6)

Trong các bài viết, khi viết hai chữ Phật Giáo, Lý Khôi Việt và Phan Quang Độ luôn viết bằng chữ hoa, còn ba chữ Thiên Chúa Giáo hay Đạo Thiên Chúa được viết bằng chữ thường!

Nếu Thiên Chúa Giáo tồi tệ như thế, làm sao có số tín hữu trên thế giới hiện nay lên đến khoảng 1.783.660.000 người, trong khi số tín đồ Phật Giáo chỉ có 309.127.000? Nhưng chúng ta không nên mất thì giờ để tranh luận về những điểm mà nhóm Bông Sen đã nêu ra ở trên, vì nói theo kiểu của Luật Sư Phạm Nam Sách khi phê phán các luận điệu của một lý thuyết gia cộng sản, những lập luận đó "rặt toàn lời lẽ tuyên truyền, nói lấy được, nói vô tội vạ, ta gọi là khẩu thuyết vô bằng, còn Tây gọi là "parler pour ne rien dire".

QUAN NIỆM CHỈ CÓ TÔNG PhÁI PHẬT GIÁO ẤN QUANG LÀ PHẬT GIÁO CHÍNH THỐNG VÀ ĐẠI DIỆN CHO PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Trước 30.4.1975, tại miền Nam đã có 45 Giáo Hội và Hiệp Hội Phật Giáo hoạt động hợp pháp. Chỉ có Giáo Hội Ấn Quang hoạt động ngoài vòng pháp luật. Hiện nay, theo nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cho biết ở trong nước có đến 22 tông phái Phật Giáo. Nhưng qua những lời tuyên bố cũng như hành động của của nhóm Phật Giáo miền Trung cực đoan trong tông phái Ấn Quang từ 1963 đến nay, chúng ta thấy rằng nhóm này muốn rằng chỉ có tông phái Phật Giáo Ấn Quang mới được coi là Phật Giáo chính thống và đại diện duy nhất cho toàn thể Phật Giáo Việt Nam. Trong công văn "tuyệt mật" mang số L06/PA 15 - 16 ngày 18.8.1992 được mạo hóa một cách rất vụng về, nhóm này đã mượn danh nghĩa. "Công An Tỉnh Quảng Trị" để ca tụng "Giáo Hội Phật Giáo. Việt Nam Thống Nhất (Phật Giáo Ấn Quang) là giáo hội chủ lực trong các giáo phái". Những nhóm hay tông phái khác không muốn gia nhập vào tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang thường bị lên án nặng nề như Việt Gian, tay sai chính quyền, gây chia rẽ Phật Giáo, v.v. Một số tông phái đã bị tấn công bằng vũ lực như trường hợp của Hòa Thượng Thích Từ Quang, Viện Trưởng Hoằng Pháp của Tổng Giáo Hội Việt Nam được thành lập do Sắc Luật số 001/64 ngày 8.2.1964 hay trường hợp của ban lãnh đạo Viện Hóa Đạo Việt Nam Quốc Tự bị bắt giam và Thượng Tọa Thích Tâm Châu bị mưu sát.

Nhìn chung, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung gốc Bình-trị-thiên đã bắt chước phương pháp đấu tranh của Cộng Sản khi mưu tìm một địa vị chính trị ưu thắng trong quốc gia. Trong khi Đảng Cộng Sản Việt Nam đem "chủ thuyết Mác-Lênin ưu việt" và "bách chiến bách thắng" để áp đặt thì nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã thay thế chủ thuyết Mác-Lênin bằng chủ thuyết "Phật Giáo siêu việt và độc tôn" của dân tộc Việt Nam. Cộng Sản dùng "giai cấp đấu tranh" làm động lực cho cuộc cách mạng, còn nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung lấy sự kích động lòng căm thù Thiên Chúa Giáo làm động lực. Đảng Cộng Sản Việt Nam quan niệm chỉ có Đảng là "đội tiên phong của giai cấp công nhân tổ chức và lãnh đạo" mới có thể đưa cuộc cách mạng tới thành công, còn nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung cho rằng chỉ có các tăng sĩ miền Trung gốc Bình-trị-thiên trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang mới có khả năng đưa Phật Giáo Việt Nam lên địa vị ưu thắng trên chính trường. Rập khuôn theo phương pháp của Cộng Sản, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã và đang đưa Phật Giáo và dân tộc đi về đâu? Đây là những vấn đế chúng tôi sẽ đề cập trong các chương sau

NHÌN VÀO THỰC TẾ

Sau khi trình bày lý do, mục tiêu và chiêu bài của các cuộc thánh chiến đã và đang được phát động, chúng ta thử khảo sát qua về chủ thuyết Phật Giáo và Dân Tộc, tình trạng Phật Giáo dưới thời Lý - Trần, tình trạng Phật Giáo trong một trăm năm qua cũng như sự du nhập và phát triển của Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam để xem lập luận của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung trong Giáo Hội Ấn Quang có đứng vững không. Những hành động và những hậu quả do chủ trương của nhóm này đem lại sẽ được trình bày trong các chương tiếp theo.

I.- CHỦ THUYẾT PHẬT GIÁO VÀ DÂN TỘC

Trong tiến trình cộng sản hóa Việt Nam, Việt Cộng thường dùng chiêu bài "NHÂN DÂN" để hành động. Tịch thu tài sản của địa chủ và tư sản mại bản để đưa vào hợp tác xã, Việt Cộng gọi là "cuộc cách mạng dân chủ nhân dân". Các tổ chức và cơ quan công quyền của Việt Cộng luôn được được ghép hai chữ "Nhân Dân" đằng sau, như Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Hội Đồng Nhân Dân, Ủy Ban Nhân Dân, Tòa án Nhân Dân, Viện Kiểm Sát Nhân Dân v.v.. Bắt chước Việt Cộng, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang thường tự đồng hóa Phật Giáo với "DÂN TỘC" để hành động. Chúng ta thử xét qua nội dung của chủ thuyết Phật Giáo và dân tộc, những yếu tố mà nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã dựa vào để đưa ra chủ thuyết này và những hệ quả do chủ thuyết đó đem lại.

NỘI DUNG CHỦ THUYẾT PHẬT GIÁO VÀ DÂN TỘC

Chúng ta chưa tìm thấy được một bản văn nào trình bày đầy đủ về chủ thuyết Phật Giáo và dân tộc. Chúng ta chỉ tìm thấy ý niệm đó trong những lời phát biểu của một số tăng sĩ và Phật tử trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang.

Đến dự tang lễ của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu tại chùa Linh Mụ ngày 3.5.1992, Hòa Thượng Thích Huyền Quang đã phát biểu: "Pháp lý của Giáo Hội Phật Giáo là Chính Pháp của 2.000 năm lịch sử đạo lý và văn hiến trên đường mở nước và dựng nước. Cơ sở của Giáo Hội Phật Giáo là nông thôn, thành thị, núi rừng, là hải đảo dưới ánh hào quang của Trí Tuệ và Từ Bi. Địa vị của Phật Giáo là 80% dân chúng, già, trẻ, lớn, bé.

Thương Tọa Thích Quảng (Độ?), trong một bài phỏng vấn dành cho tạp chí Bông Sen đăng trên số 17, đã tuyên bố:

"Bất cứ nhà cầm quyền nào trước hay sau 75 hay sau 95, hay là sau năm hai ngàn đi nữa, GHPGVN vì tự thấy mình là hiện thân của dân tộc, vì tự thấy mình là dân tộc cho nên có bổn phận phải nói tiếng nói của dân tộc. "

Phan Quang Độ viết trong bài Phật Giáo và Chính Quyền đăng trong Bông Sen số 17:

"Truyền thống quật cường bất khuất của dân tộc và truyền thống hy sinh đồng lao cộng khổ với dân tộc của Phật Giáo qua suốt bao thăng trầm, thịnh suy, vinh nhục suốt 20 thế kỷ đã biên Phật Giáo bất khả phân ly với dân tộc. Và vì vậy, khi dân tộc còn đau khổ, Phật Giáo còn hy sinh, khi dân tộc được vinh quang, Phật Giáo sẽ rạng rỡ. Điều này đã chứng minh trong 2.000 năm qua, đã thấy rõ trong hiện tại và sẽ hiển sinh trong tương lai sắp đến."

CĂN BẢN CHỦ THUYẾT PHẬT GIÁO VÀ DÂN TỘC

Qua các lời phát biểu nói trên, chúng ta nhận thấy nhóm Phật Giáo miền Trung đã căn cứ vào hai yếu tố sau đây để xác định Phật Giáo là dân tộc: Tín ngưỡng của người Việt Nam và sự đóng góp của Phật Giáo cho đất nước. Chúng ta sẽ khảo sát qua hai yếu tố này.

TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM: MÊ TÍN DỊ ĐOAN VÀ TÔN GIÁO HÒA ĐỒNG

Cuốn The Almanac of the Chirstian World 1993 - 1994 cho biết số tín đồ của các tôn giáo tại Việt Nam như sau:

- Không tôn giáo hay vô thần: 22,5%

Phật Giáo: 54% với ghi chú: có nhiều thành phần, đa số theo luôn cả Khổng Giáo, thờ thần linh và phù thủy (đạo Lão)

- Phật( Giáo Hòa Hảo và Cao Đài: 11% (Hòa Hảo 1.800.000, Cao Đài 3.600.000)

- Thờ thần linh (dân tộc thiểu số): 4%.

- Thiên Chúa Giáo: 7,5%

Cuốn niên giám này không cho biết xuất xứ của tài liệu thống kê nói trên. Nhưng thông thường khi muốn biết các tài liệu liên quan đến dân số hay tình trạng xã hội của một quốc gia, các nhà làm niên giám thường xin thẳng tài liệu của quốc gia liên hệ, nên chúng ta có thể tin tài liệu đó do nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cung cấp, vì hiện nay không có cơ quan nào được phép làm cuộc kiểm kê đó.

Số người được gọi là "vô thần" trong bảng thống kê, trước tiên phải kể đến các đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam và những thành phần hiện nay đang được coi là "đối tượng đảng". Những người này chính thức khai không có theo tôn giáo nào, ít ra là trước mặt đảng. Thành phần còn lại là những người khai không tôn giáo trong đơn xin Chứng Minh Nhân Dân (thẻ căn cước).

Số tín đồ Phật Giáo hiện nay là một vấn đề đang được tranh luận. Các nhà lãnh đạo Phật Giáo thường cho rằng số tín đồ Phật Giáo ở trong nước chiếm đến 80% dân số. Nhưng vấn đề không giản dị như vậy. Người Việt Nam đa số vừa theo Phật Giáo, Khổng Giáo và Lão Giáo, vừa tin thần linh, bói toán và phép phù thủy. Chúng ta thử phân tích tình trạng tôn giáo tại Việt Nam để xem tôn giáo của đa số người Việt Nam là tôn giáo nào và tại sao người Việt Nam theo tôn giáo đó.

a) Khái niệm về mê tín dị đoan và Tam Giáo hòa đồng trong tín ngưỡng của người Trung Hoa và người Việt Nam.

1.- Mê tín dị đoan và đạo thờ thần trong tín ngưỡng của người Trung Hoa và người Việt Nam

Trình Văn Thanh đã viết về bối cảnh tín ngưỡng của người Trung Hoa và người Việt Nam như sau:

"Trước kỷ nguyên Tây lịch, Trung Hoa cũng như hầu hết các dân tộc khác đều sùng bái thiên nhiên. Họ quan niệm rằng mỗi bộ phận của thiên nhiên đều có linh hồn, linh hồn đó không biết được lẽ sống của loài người nên trước cuộc sống quá chật vật, gian nan, họ tôn thờ cúng bái và đặt những linh hồn thiêng liêng đó là thần linh như Thần Thái Dương, Thần Mặt Trăng, Thần Gió, Thần Lửa, Thần Sấm, Thần Chớp, Thần Núi, Thần Sông,...

"Vị có quyền uy tối linh tối thượng, có quyền tạo sinh tạo sát cho vạn vật muôn loài là ông Thiên. Nếu ở Thiên Đình gọi là Ngọc Hoàng, ở hạ giới gọi là Hoàng Đế. Người ở chức vị Thượng Đế rất to lớn và công minh. Trong Kinh Thư có nói: "Duy Hoàng Thượng Đế giáng trung vu hạ dân: Thượng đế rất lớn ban sự công bình không thiên lệch cho nhân dân" Vị Thiên này rất trừu tượng nhưng là não tủy cai quản các thần, cai quản cả luật pháp của người và vật: "Thiên sinh chúng dân hữu vật hữu tắc dân chi bỉnh ghi, hiếu thị ý đức: Trời sinh ra dân chúng, hễ có vật là có phép tắc, dân giữ cái tính thường còn; yêu báu cái đức tốt đẹp. "

"Ngoài sự tôn sùng, thờ cúng thần linh trên, người Trung Hoa còn thờ phụng ông bà tổ tiên và các anh hồn của những anh hùng vị quốc vong thân một cách trang trọng nữa."

"Đó cũng là những nét cố hữu tín ngưỡng dân tộc Việt Nam."(8)

Tại Việt Nam, hầu hết các làng đều có Đình. Mỗi đình thường có một Thành Hoàng. Nhưng cũng có đình thờ hai ba vị hay năm bảy vị một lúc, gọi là Phúc Thần, tức vị thần giáng phúc cho dân. Có làng còn thờ những thần rất kỳ lạ như thần Cụt đầu, thần ăn mày, thần ăn trộm, v.v... Những làng chưa có thần thì thờ Thổ Thần bản thổ hoặc thờ ngay người đã lập ra làng.

Đình là nơi thờ và cúng tế Đức Thành Hoàng, vị thần phù hộ làng. Miếu được dựng lên khắp nơi để quỷ thần an ngự. Ở đó phải cúng tế thường xuyên. Miễu là ngôi miếu thờ những người bất đắc kỳ tử gặp giờ linh. Tại những nơi hay xẩy ra tai nạn, dân chúng thường đặt một bàn thờ hay làm một cái miếu để xin thần linh phù hội cho tai nạn đừng xẩy ra. Ban là bàn thờ ở một ngôi miếu để thờ thêm một thần bộ hạ của vị thần chính.

Tại tư gia, người ta thường thấy bàn thờ gia tiên. Đa số người Việt tin linh hồn của tổ tiên bất diệt và lấy việc thờ cúng tổ tiên làm điều hiếu. Bàn thờ gia tiên đặt ngay ở chính giữa. Những nhà chật chội thì đóng một chiếc trang trên tường. Sau bàn thờ gia tiên là bàn thờ thần. Thần quan trọng nhất của mỗi nhà là Thổ Công, một vị thần trông coi gia cư và định họa phúc cho mỗi gia đình. Bàn thờ Thổ Công là một hương án, tức bàn để đốt hương cúng tế. Hương án kê liền với hậu trường nhà. Sau Thổ Công là Thần Tài, vị thần mang lộc tới cho gia đình, rồi đến Thánh Sư, ông tổ của nghề nghiệp, Đức Thánh Quan

Khấn vái là một cách xin thần thánh hộ phù với lới cam kết sẽ thực hiện một điều gì để đáp lại. Bói toán được phổ cập trong nhân gian. Đây là một hình thức vấn sự, xin thần linh cho biết những chuyện đã, đang và sẽ xẩy ra. Bói trúng hay không là tùy thần có ứng hay không ứng, linh hay không linh.

Ngoài việc thờ thần, người Trung Hoa và Việt Nam còn nhiều mê tín dị đoan khác, như tục đi thề, kiêng kị (kiêng đầu năm, kiêng đầu tháng, có chửa kiêng cắt tiết gà...) chiêm đoán (xem chân giò, xem đầu gà, cầu mộng), chiêm nghiệm (xem thiên thời, điềm lạ, sự di chuyển của sao v.v.), phương thuật (trừ tà, trừ ác điểu, chữa bệnh, v.v.), độn số v.v

Thờ thần và những sự tin tưởng nhảm nhí nói trên là một hiện tượng phổ biến trong dân chúng từ lâu đời và hoàn toàn trái với giáo lý của Phật Giáo, nên không thể coi những người thờ thần linh và tin nhảm nhí là Phật tử đúng nghĩa.

2.- Vài nét về Nho Giáo

Nho Giáo do Khổng Tử lập ra. Khổng Tử húy là Khâu, tên chữ là Trọng Ni, sinh ở nước Lỗ năm 551 trước Tây Lịch, qua đời năm 479 trước Tây Lịch, thọ 72 tuổi.

Nho Giáo là đạo xử thế. Khổng Tử định rõ ba điều chính yếu sau đây:

- Những biến hóa của vũ trụ liên quan đến con người.

- Những diềng mối luân thường đạo lý của xã hội.

- Các nghi lễ trong việc tế tự: tế Trời, tế Đất và tế Quỷ Thần.

Đạo Nho là đạo làm người, tập cho loài người sống ra con người. Khổng Tử lấy Hiếu, Đễ, Trung, Thứ làm tôn chỉ và lấy sửa mình làm cốt cán. Khổng Tử không dạy những điều u ẩn huyền diệu khác với đạo thường mà lấy những điều hợp với bản tính loài người để dạy con người. Có người hỏi về sự sống chết, Khổng Tử trả lời: "Vị tri sinh, yên tri tử?", nghĩa là chưa biết được việc sống, làm sao biết được việc chết? Nói đến Quỷ thần, Khổng Tử bảo: "Quỷ thần kính nhi viễn chi ". Quỷ thần thì nên kính mà không nên đến gần.

Về tế tự, Nho Giáo chú trọng đến nghi lễ tế Trời. Trời được quan niệm như là một Chúa Tể càn khôn, sinh hóa muôn vật, chủ trì vận mệnh của vũ trụ và con người. Vua, tức Thiên Tử, mới có quyền tế Trời để cảm thông giữa Trời Đất với con người. Tục này có từ thời Phục Hy. Tại Huế, Vua Gia Long có xây một đàn Nam Giao (Nam là phương Nam. Giao là khoảng cách kinh thành 100 dặm) ở làng An Cựu, phía Nam thành phố Huế. Hàng năm vua tới đó để tế Trời, gọi là tế Nam Giao. Đến thời Pháp thuộc, ba năm mới tế một lần. Lần tế Nam Giao cuối cùng là ngày 29.3.1942 do vua Bảo Đại chủ tế.

Nhìn qua lịch sử, chúng ta thấy trong Tam Giáo, đạo Nho được người Trung Hoa cũng như người Việt Nam trọng hơn cả. Đạo Nho đã ăn sâu vào lối suy tư và nếp sống của người Việt Nam. Phật Giáo cũng có lúc thịnh, nhưng chỉ thịnh có một thời, rồi lại nhường chỗ cho Nho Giáo. Ngay cả trong thời cực thịnh của Phật Giáo như thời Lý-Trần, Nho Giáo cũng được dùng để trị quốc và giáo hóa dân. Khi đề cập đến Nho Giáo tại Việt Nam, Toan Ánh đã viết:

"Ảnh hưởng của Nho Giáo hiện nay vẫn còn vững chắc trong đời sống của dân chúng Việt Nam, và những phong tục của dân ta, rất nhiều bị chi phối bởi Nho Giáo, nếu không bắt nguồn hẳn từ Nho Giáo."

Thật ra, ngày nay Nho học không còn thực dụng và đã trở thành môn cổ học. Nho Giáo đã được cải biến. Trong tam cương (vua tôi, cha con, vợ chống) thì đạo quân thần (vua tôi) không còn nữa, nhưng đạo phụ tử, phu phụ vẫn được người Việt quý trọng. Ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) vẫn còn là đạo làm người của người Việt Nam. Tứ hạnh (hiếu, đễ, trung, tín) và tứ duy (lễ, nghĩa, liêm, sỉ) của người con trai vẫn là tiêu chuẩn để đạt tới càng gần càng tốt. Trong tam tòng của người con gái thì trách nhiệm tòng phụ, tòng phu và tòng tử đã được giảm nhẹ đến mức tối thiểu. Người phụ nữ không còn bị ràng buộc chặt chẽ như ngày xưa, nhưng một sự buông lỏng hoàn toàn vẫn không được xã hội Việt Nam chấp nhận. Trong thiệp cưới vẫn còn mấy chữ "vâng lệnh song thân", v.v... Trong tứ đức thì công và dung đã thay đổi nhưng ngôn và hạnh vẫn là những mẫu mực của người con gái đoan chính.

Không phải THIỀN HỌC mà chính những cái còn lại của Nho Giáo đó đã giúp nền văn hóa và đạo đức của người Việt Nam không bị khủng hoảng trầm trọng khi tiếp xúc với nền văn hóa Tây phương và xã hội chủ nghĩa.

3.- Vài nét về Lão Giáo

Lão Giáo phát sinh tử Lão Tử. Lão Tử người nước Sờ, họ là Lý, tên là Đam, sinh năm 604 trước Tây Lịch, qua đời năm 523 trước Tây Lịch, thọ 81 tuổi.

Lúc đầu, Lão Giáo là một môn triết học cao siêu. Lão Tử cho rằng ngay từ lúc hỗn mang chưa có Trời Đất thì đã có Đạo rồi. Đạo là hư vô, muôn vật do Đạo mà sinh ra. Muốn đạt tới mục đích của Đạo phải giữ lòng trong sạch, yên lặng, tự nhiên, không cần dùng tới trí lực. Tất cả được tóm lược trong mấy chữ "thanh tịnh vô vi".

Về sau, các đệ tử của Lão Tử thêm phần phép biến hóa và chế linh đan để thành tiên, trường sinh bất tử và phần thuật số, tu luyện đạo phù thủy, v.v... Vì thế, những người theo Lão Giáo được gọi là Đạo Sĩ. Các đạo sĩ tin rằng luyện được đạo phù thủy thì có thể sai khiến được âm binh, diệt trừ ma quỷ. Mỗi thầy phù thủy lập một ngôi Tĩnh để thờ các thần của đạo Lão và dùng làm nơi lập ấn bắt quyết, cầu khẩn khi trừ tà. Đồng cốt và Cô Hồn cũng do các đệ tử của Lão Tử bày ra. Đồng cốt thờ chư vị như Liễu Hạnh Công Chúa, Cửu Thiên Huyền Nữ, các vị hoàng tử, các cậu các cô, v.v... Không phải ai cũng có thể lập điện thờ hay lên đồng được. Chỉ những người có "căn đồng" mới làm được các việc này. Cô hồn là người gọi hồn cho những ai muốn gọi để cầu xin hay hỏi chuyện nọ chuyện kia. Hồn nhập vào xác người gọi nên xác người này được gọi là xác cậu hay xác cô và muốn xác này để nói. Phụ Tiên cũng là một hình thức gọi hồn, nhưng người nhập là một vị tiên chớ không phải âm hồn người chết như khi gọi hồn. Cô hồn thờ ông Chiêu và bà Dí, tức hai người có nhiệm vụ đi chiêu âm hồn muốn gọi. Một biến thể khác của đạo Lão được nhiều người Việt Nam ưa thích và tin tưởng là tục xin thẻ hay xin xăm. Đây cũng là một hình thức vấn sự như bói toán.

Những mê tín dị đoan nói trên được giới bình dân, nhất là những người ít học, tin tưởng.

4.- Vài nét về Phật Giáo

Nguyên tổ của đạo Phật là Đức Thích Ca Mâu Ni, sinh tại Ấn Độ. Không ai biết chắc Ngài sinh năm nào. Đạo phái phía Bắc cho rằng Ngài sinh vào năm 1028 trước Tây Lịch, còn Đạo phái phía Nam nói Ngài sinh vào năm 624 trước Tây Lịch. Các nhà nghiên cứu tin rằng Ngài sinh khoảng từ 558-520 trước Tây lịch, cùng thời với Khổng Tử.

Hòa Thượng Tuệ Giác tóm lược về Phật Giáo như sau:

"Đức Phật Thích Ca nhận thấy cuộc đời là khổ hải tức là biển khổ (sinh, lão, bệnh, tử, v.v...) mà người ta bị trầm luân nghĩa là chìm đắm trong đó.

"Sự khổ ấy, không phải một kiếp này phải chịu mà hết kiếp này sang kiếp khác, cứ sinh tử, tử sinh mãi mãi mà chịu nỗi khổ ấy không bao giờ thôi: tức là người ta ở trong vòng luân hồi nghĩa là cái bánh xe xoay hết vòng lại trở lại mãi.

"Cái nghiệp ta chịu kiếp này là cái quả của công việc ta về kiếp trước mà những công việc ta về kiếp này lại là cái nhân của nghiệp ta về kiếp sau. Thế là ta cứ chịu sự nghiệp báo (karma) ấy mãi.

"Cái nguyên nhân sự khổ là gì? Chính là lòng tham muốn của người ta: tham sống, tham sướng, tham mạnh.

"Vậy muốn diệt khổ, nghĩa là dứt hết nỗi khổ não thì phải tiêu trừ lòng ham muốn không để cho còn một chút nào. Muốn thế phải dốc chí tu hành, chánh tâm theo đạo để cắt đứt những cái nhân duyên, nó ràng buộc mình ờ trần thế

"Khi đã diệt được khổ rồi, tức là được giải thoát, nghĩa là ta khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo, không sinh, không tử nữa mà tới cõi niết bàn (Nirvâna). "

Thượng Tọa cũng đã nhấn mạnh đến điểm quan trọng trong Phật Giáo là tự cường để giải thoát, nên đừng tin tướng vào các sức mạnh thiêng liêng:

"Ngài (Đức Thích Ca) cho các bậc Trời và các bật thánh không phải không có, song những bậc ấy dù có trường thọ đến mấy muôn năm nữa, rồi cũng không ra khỏi cái biến hóa của vũ trụ.

"Vậy trời, thánh tự mình chưa giải thoát được mình, còn giải thoát cho ai?

"Bởi lẽ ấy cho nên đạo Phật không lấy sự cầu nguyện trời, thánh làm trọng, không nương tựa vào sức thiêng liêng nào ở ngoài cái TÂM của mình cả và chỉ vụ lấy cái sức tự cường của minh mà giải thoát cho mình."(10)

Đây là những đặc điểm cốt lõi của Phật Giáo mà đa số người Tàu và người Việt Nam theo Phật Giáo không biết đến khi phối hợp Phật Giáo với mê tín dị đoan trong tín ngưỡng của họ và làm biến thể Phật Giáo như chúng tôi sẽ đề cập dưới đây.

b) Sự trộn lẫn giữa mê tín dị đoan và Tam Giáo hòa đồng trong tín ngưỡng của người Việt Nam

Sau khi trình bày qua những nét đại cương về mê tín dị đoan của người Tàu cũng như người Việt và Tam Giáo, chúng ta thấy rõ tín ngưỡng của đa số người Việt Nam là tín ngưỡng bao gồm Tam Giáo hòa đồng và mê tín dị đoan.

Đạo Lão gần gũi với đạo Phật hơn đạo Nho. Về căn bản, Lão Giáo và Phật Giáo hoàn toàn khác nhau: Lão Giáo lấy bản thể làm Đạo và theo đạo pháp Tự Nhiên, coi vũ trụ vạn hữu đều do Tự Nhiên mà sinh ra. Trong khi đó Phật Giáo lấy bản thể làm Tâm, cho rằng vạn vật có đều do Tâm. Nhưng hai tư tưởng Phật Giáo và Lão Giáo giống nhau về khuynh hướng siêu hình và tiêu cực đối với nhân sinh. Do đó, nhiều Đạo Sĩ đã mượn Phật Giáo để triển khai Đạo Giáo, còn các Thiền Sư của đạo Phật đã dùng hệ thống lập thuyết của đạo Lão để giảng giải Phật học.

Đời Hán đã có luận thuyết hỗn hợp tương đồng hay phụ hội giữa Phật gia và Đạo gia. Đến đời Tấn, đời Lục Triều, Phật và Lão rất gần nhau. Ảnh hưởng này về sau sinh ra trào lưu "Nho - Thích - Đạo, Tam Giáo đồng nguyên". Trào lưu này làm cho Phật Giáo biến thể.(11)

Trong tiến trình tiến tới siêu thoát, người Hoa và người Việt hướng về Lão Giáo và Phật Giáo. Còn trong việc xử thế, người Hoa và người Việt lại coi Nho Giáo như khuôn vàng thước ngọc. Mê tín dị đoan là niềm tin nơi sự tế độ của thần linh, nhất là những khi gặp tình trạng bấp bênh, bệnh tật hay hoạn nạn trong cuộc sống. Người ta coi Phật như một vị thần linh có thể ban phước hay cứu độ, nên đã cầu Phật như cầu các vị thần linh khác.

Tam Giáo và mê tín dị đoan ảnh hưởng đến tín ngưỡng, văn hóa và tập quán Trung Hoa, rồi truyền sang Việt Nam, ăn sâu vào cuộc sống của người dân Việt Nam, nhất là các thành phần ít học. Tục thờ thần, thờ cúng ông bà, Thần Tài, Quan Công (Quan Vân Trường), Phật Bà Quan âm, Thánh Mẫu,... phổ biến khắp nơi. Vào dịp Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ, Rằm tháng Bảy, Tết Trung Thu, lễ khánh thành, lễ tất niên, lễ tân niên... người Hoa lẫn người Việt đều theo những nghi thức, những tập tục và những kiêng kị mang nặng tính chất dị đoan giống nhau. Rất nhiều chuyện thần bí liên quan đến đạo Phật được truyền tụng khắp trong nhân gian như chuyện Lão Tử thành Phật ở đất Hồ, chuyện Quan âm Nam Hải, Quan âm Thị Kính, chuyện tự ý đầu thai, chuyện giáng hổ, v.v... Sự tích của các cao tăng cũng được huyền thoại hóa như những chuyện hoang đường, điển hình là chuyện Từ Đạo Hạnh. Vua Trần Nhân Tông khi đã xuất gia thường đi về các thôn làng khuyên dân từ bỏ việc thờ cúng các hình lõa thể và bộ phận sinh dục, vì lúc đó việc thờ các dâm hình này rất phổ biến. Năm 1951, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt thành lập Hội Phật Học, đã phát động chiến dịch bài trừ mê tín dị đoan trong Phật Giáo như xin xăm, bói quẻ, cúng sao, cúng hạn, đốt giấy tiền vàng bạc, v.v... Khi bàn về những mê tín dị đoan của đạo Phật thời nhà Lý, Nguyễn Lang đã kết luận:

"Tính chất mê tín dị đoan của Phật Giáo đời Lý có thể còn ít hơn tính chất mê tín dị đoan ở những thời đại Phật Giáo suy đồi như trong thời Lê Sơ và trong thời Pháp thuộc."(12)

Nhưng Phật Giáo không phải chỉ bị trộn lẫn với mê tín dị đoan và đạo thờ thần ở trong nhân gian mà thôi, mà còn ờ ngay trong giới tăng sĩ của Phật Giáo nữa. Trong cuốn Những Vấn Đề trong Đạo Phật, Thượng Tọa Thích Chánh Lạc đã ghi nhận:

"Thế nhưng ngày nay thì sự thờ tự đã phức tạp nhiều. Một ngôi chùa đúng lý chỉ để thờ Tam Bảo, nhưng lại thờ luôn cả Quan Thánh, Ngọc Hoàng, Thánh Mẫu, Thập Điện như nhiều chùa ở Trung, Nam. Và thờ luôn cả Khổng Minh Không, Thánh Mẫu như nhiều chùa ở Bắc Việt, đây là chưa nói còn thờ nhiều hình tượng khác mông lung vô nghĩa. Hình như bất cứ tượng gì hễ lọt vào mắt nhà chùa cũng trở thành linh thiêng, đưa vào chùa thờ được cả. Có người không thờ tại chùa, lại bày vẽ, hoặc a tòng với những nơi thờ tự tà mị yêu quái. "(13)

Nho Giáo, Lão Giáo và Phật Giáo Đại Thừa, tuy khác hẳn nhau về căn bản tín ngưỡng, nhưng lại được người Tàu cũng như người Việt tin tưởng lẫn lộn như là một tín ngưỡng. Phật Giáo, nếu không trộn lẫn với Lão Giáo, Nho Giáo và mê tín dị đoan thì rất khó hội nhập vào đời sống của đại chúng.

Nói tóm lại, về phương diện văn hóa và tín ngưỡng, đa số người Việt Nam không phân biệt đâu là ranh giới giữa Nho Giáo, Lão Giáo, Phật Giáo và mê tín dị đoan. Sự lẫn lộn này đã làm biến thể đạo Phật khiến Hòa Thượng Thích Thiện Chiếu, một nhà nghiên cứu Phật học nổi danh của Việt Nam trong Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, đã phải than:

"Đau đớn thay, lạ lùng thay! Muốn bênh vực rằng Phật Giáo không phải là một đạo mê tín hoang đường, thì sờ sờ ra đó biết bao nhiêu là việc huyền hoặc hoặc dị đoan! Muốn bào chữa cho Phật Giáo không phải là một đạo hữu thần, thì nhan nhản ra đó cũng cầu xin, cũng chuộc tội, có khác nào những kẻ ỷ lại thần quyền. "(14)

Thượng Tọa Thích Tuệ Giác cũng có nhận định tương tự:

"Thời kỳ suy đồi: (từ thế kỷ XV tức là từ đời Hậu Lê). Phật Giáo bị phái nhà Nho công kích không được nhà vua săn sóc đến nữa, lâu dần thành một tôn giáo của dân chúng, không có tổ chức, hệ thống gì nữa, các tăng ni phần nhiều là ít học, bày ra các mối dị đoan, các lễ nghi phiền phức, còn giáo lý cao siêu của nhà Phật ít người hiểu đến.

Sử gia Trần Trọng Kim, người có nhiều công trình nghiên cứu sâu rộng về tam giáo tại Việt Nam, trong một buổi thuyết giảng về Phật Giáo tại chùa Sứ Quán Hà Nội ngày 11.1.1936, cũng đã cảnh cáo:

"Ai đem sự mê tín mà theo đạo Phật là người làm điều trái hẳn với đạo Phật... "(16)

Lão Giáo đi vào quần chúng không phải do triết lý cao siêu của Lão Tử mà do các biến thể mà đệ tử của ông thêm vào. Cũng vậy, ít ai hiểu được triết lý cao siêu của đạo Phật. Nếu không có sự lẫn lộn giữa Phật Giáo với những mê tín dị đoan và Lão Giáo, làm sao Phật Giáo có thể trở thành đạo quần chúng như ngày nay? Ngay cao tăng Vạn Hạnh còn xử dụng cả sấm ngữ và khoa độn số, làm sao Phật tử không hướng về mê tín dị đoan, Lão Giáo và Khổng Giáo?

Lichtenberg đã nói: "Để cho quần chúng thích tôn giáo, điều tối cần là tôn giáo phải giữ lại những cái gì của thị hiếu dị đoan." Nhưng nếu gom tất cả số người Việt Nam theo Tam Giáo hòa đồng và mê tín dị đoan vào con số Phật tử có nghĩa là chấp nhận sự biến thể của đạo Phật.

Con số thống kê về số tín đồ của mỗi tôn giáo tại Việt Nam hiện nay với những ghi chú mà cuốn niên giám The Almanac of The Christian World đã công bố là một tài liệu đáng chú ý. Tài liệu thống kê đó đã coi những người vừa tin ở triết lý của đạo Phật, vừa theo Khổng Giáo, vừa tin thần linh và phù thủy, là Phật tử. Nhưng thử hỏi, một người sáng đi chùa niệm Phật, trưa vào Lăng Ông xin xăm, chiều thắp nhang trong miếu cầu xin ngày mai thượng lộ được bình an và tối đưa con tới thầy phù thủy nhờ chữa bệnh, người đó đã theo tôn giáo nào? Họ là Phật tử?

Trong cuốn No More Vietnams, Cựu Tổng Thống Richard Nixon nói rằng người ta ước lượng số tín đồ Phật Giáo là 70%, nhưng con số thật sự chỉ khoảng 30%.(17) Nếu cơ quan tình báo Hoa Kỳ chỉ ước lượng căn cứ vào số người theo Phật Giáo thuần túy thì con số đó có lẽ không sai.

Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã từng cho biết số người khai là Phật Giáo trong thẻ Chứng Minh Nhân Dân (tức thẻ căn cước) rất ít so với số người khai không tôn giáo hay đạo ông bà. Trái lại, các tín đồ Thiên Chúa Giáo, Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo thường khai rõ tôn giáo của họ.

Tự tuyên xưng tín ngưỡng trước bạo quyền Cộng Sản là biểu hiện chính xác nhất tín ngưỡng của mỗi người dân.

Nếu chấp nhận phương châm "quý hồ tinh bất quý hồ đa" thì những con số "phần trăm" không có ý nghĩa gì cả. Người ta chỉ chú trọng hay thổi phồng những con số "phần trăm" khi muốn đòi những đặc quyền đặc lợi mà thôi. Nhưng đó không phải là mục tiêu chân chính mà các tôn giáo muốn đạt tới.

SỰ ĐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO VÀO SỰ TỒN VONG CỦA DÂN TỘC

Yếu tố thứ hai mà nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung muốn nhấn mạnh là sự đóng góp của Phật Giáo vào sự tồn vong của dân tộc. Trong phần phân tích về tín ngưỡng của người Việt Nam nói trên, chúng ta đã thấy tín ngưỡng của đa số người Việt Nam là thờ thần linh và Tam Giáo hòa đồng, trong đó đạo Nho đóng vai trò quan trọng. Trong Việt Nam Sử Lược, khi viết về Nho Giáo, sử gia Trần Trọng Kim, một người sùng đạo Phật, đã kết luận:

"Đạo Nho mỗi ngày một thịnh, dẫu trong nước có đạo Lão, đạo Phật mặc lòng, bao giờ đạo Nho vẫn là trọng hơn".

Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, chúng ta thấy Phật Giáo chỉ thật sự tham chánh dưới thời Lý-Trần mà thôi, trong các thời khác Nho Giáo đóng vai trò chủ yếu trong sự tồn vong của quốc gia. Ngay cả khi Phật Giáo được coi là quốc giáo và các Thiền Sư giữ chức vị Quốc Sư như dưới thời Lý - Trần, sự đóng góp của Phật Giáo cho sự thịnh vượng và văn hóa của dân tộc Việt Nam cũng không nhiều so với đạo Nho. Lúc đó, hết một phần ba tài sản quốc gia nằm trong tay nhà chùa và số tăng sĩ gần bằng một nửa số đinh phu (người có thể làm công dịch) khiến lực lượng sản xuất và chiến đấu của quốc gia giảm hẳn đi. Đó là chưa nói đến việc nếu không có sự kiên định của nhà Nho, các Thiền Sư Phật Giáo đã để mất nước rồi. Khi Vua Trần Nhân Tông, một Thiền Sư của Phật Giáo, đã theo lòng từ bi của đạo Phật, định hàng quân Nguyên cho dân khỏi khổ, thì Trần Hưng Đạo, với khí phách của đạo Nho, đã hỏi vua Phật Giáo: "Bệ hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân đức, nhưng mà Tông Miếu Xã Tắc thì sao?" Chính cái khí phách của đạo Nho đã khiến quân ta đại thắng quân Nguyên. Phần nói về Phật Giáo dưới đời Lý - Trần mà chúng tôi trình bày dưới đây sẽ chứng minh điều đó.

HỆ QUẢ CỦA VIỆC ĐỒNG HÓA PHẬT GIÁO VỚI DÂN TỘC

Giả thiết đa số người Việt Nam theo Phật Giáo và Phật Giáo đã đóng góp rất lớn vào sự tồn vong và văn hóa dân tộc, thì một sự đồng hóa Phật Giáo với dân tộc để đưa Phật Giáo lên địa vị độc tôn cũng sẽ đem lại những hệ quả không có gì tốt đẹp: Chủ trương đó mang tính chất kỳ thị các tôn giáo và đi ngược lại trào lưu tiến hóa của lịch sử nhân loại. Ngày nay, quyền tự do tín ngưỡng và quyền bình đẳng giữa các tôn giáo đã được ghi vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Hiến Pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả các quốc gia cộng sản.

Điều 1 của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền tuyên bố:

"Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi".

Điều 2 của bản Tuyên Ngôn này xác định:

"Mỗi người đều có quyền hưởng các quyền và tự do dự liệu trong bản Tuyên Ngôn này, không phân biệt thứ loại như chủng tộc, màu sắc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính trị và ý kiến khác biệt, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh hoặc các tình trạng khác."

Hiến Pháp Hoa Kỳ cấm cơ quan lập pháp không được biểu quyết các đạo luật đưa một tôn giáo là quốc giáo. Tu Chính Án I (1791) của Hiến Pháp Hoa Kỳ nói rõ:

"Quốc Hội không được làm luật suy tôn việc thiết lập tôn giáo hay ngăn cấm việc hành xử quyền tự do tôn giáo"

Một chế độ độc tài như chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay mà còn phải quy định ở điều 70 bản Hiến Pháp 1982 như sau:

"Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật."

"Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để làm trái luật pháp và chính sách của Nhà nước."

Tại Nga, khi vừa thoát khỏi chế độ cộng sản, một số tín đồ của Chính Thống Giáo, một tôn giáo của đa số, đã làm một dự luật hạn chế sinh hoạt tôn giáo của một số tôn giáo khác như Công Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, v.v. Dự luật này đã được phe đa số theo Chính Thống Giáo trong Quốc Hội Nga thông qua. Nhưng ngày 14.7.1993, Tổng Thống Yeltsin đã phủ quyết với lý do dự luật này vi phạm các hiệp ước quốc tế về nhân quyền mà Nga đã ký kết. Nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung chưa nắm được chính quyền mà đã đòi xâm phạm quyền tự do tôn giáo của người khác! Chúng ta không hiểu trong 30 năm qua họ đã tranh đấu cho cái gì? Tranh đấu cho sự độc tôn?

Vậy, không thể căn cứ vào nguồn gốc, số đông hay sự đóng góp của một tôn giáo để dành địa vị độc tôn cho tôn giáo đó và loại trừ các thành phần khác ra khỏi cộng đồng dân tộc.

Hoa kỳ là hợp chủng quốc, trong đó đa số theo Thiên Chúa Giáo, nhưng các dân tộc thiểu số không đồng tôn giáo với đa số như Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn, Cam bốt,... vẫn được đối xử bình đẳng và tạo điều kiện cho góp phần vào việc xây dựng đất nước Hoa Kỳ. Nếu những người theo Thiên Chúa Giáo tại Hoa Kỳ căn cứ vào số đông và sự đóng góp cho quốc gia này của họ để đồng hóa Thiên Chúa Giáo với dân tộc Hoa Kỳ và đòi địa vị độc tôn thì làm sao Phật Giáo Việt Nam có chỗ đứng ngày nay tại Hoa Kỳ?

Cũng vậy, tại Việt Nam, chúng ta không thể căn cứ vào sự đóng góp của số đông dân tộc Việt Nam trong cộng đồng quốc gia để loại trừ các dân tộc thiểu số khác như Mường, Mán, Mèo, Lô lô, Khmer, Trung Hoa v.v.

Quan trọng hơn nữa, ĐẠO là con đường đưa tới CHÂN LÝ, mà CHÂN LÝ thì vượt qua thời gian và không gian. Dân tộc này hay dân tộc kia có thể bị tiêu diệt, nhưng CHÂN LÝ vẫn còn mãi mãi. Nếu đạo Phật là đường đưa tới CHÂN LÝ, tức tới nơi không còn đau khổ nữa, thì làm sao dính liền với vận mạng của một dân tộc được?

Trong bài Bản chất dung hòa và hóa giải dân tộc của Phật Giáo đăng trên Bông Sen số 3 tháng 12 năm 1991, Nguyễn Điều viết dè dặt hơn:

"PHẬT GIÁO tôn trọng đúng mức Ý NGHĨA của hai chữ DÂN TỘC! Ngay cả khi Phật Giáo được sự tín nhiệm của đa sô dân chúng VN (giả sử như vậy), Phật Giáo cũng không dám lẫn lộn giữa hai sự ĐẠI DIỆN là đại diện cho toàn thể dân tộc Việt Nam, và đại diện cho tôn giáo lớn là Phật Giáo!"

Nhìn chung, chủ thuyết Phật Giáo và dân tộc không dựa trên một nền tảng vững chắc mà chỉ dựa trên hư cấu. Sự tự đồng hóa Phật Giáo với dân tộc này nhắm vào mục tiêu chính trị: Đưa Phật Giáo lên nắm vai trò chủ yếu trong nền chính trị quốc gia. Phật Giáo ở đây phải được hiểu là nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung trong tông phái Ấn Quang, vì nhóm này luôn coi họ là Phật Giáo chính thống, đại diện cho toàn thể Phật Giáo Việt Nam. Các tông phái khác chẳng những không được thừa nhận mà có khi còn bị bài xích hay tấn công một cách nặng nề.

Những lời phát biểu về chủ thuyết Phật Giáo và dân tộc thực chất chỉ là "đại ngôn vô đương" (nói cho sướng miệng), sẽ không giúp ích gì cho cho Giáo Hội Ấn Quang trong nỗ lực tìm kiếm một thế đứng mới, trái lại sẽ tạo thêm nhiều khó khăn chồng chất trên con đường muốn vượt qua.

II- VẤN ĐỀ TRỞ LẠI THỜI ĐẠI CỦA PHẬT GIÁO DƯỚI THỜI LÝ-TRẦN:

Hiện nay chúng ta thấy báo chí Phật Giáo đề cập rất nhiều đến Phật Giáo dưới đời Lý-Trần và một số người cho rằng phải đưa Việt Nam trở về thời đại Lý-Trần, đất nước mới cường thịnh được. Vậy chúng ta thử tìm hiểu xem dưới thời đại Lý-Trần, tình trạng chính trị, đạo lý, văn hóa và xã hội Việt Nam như thế nào.

Lịch sử cho biết, thời kỳ hưng thịnh nhất của Phật Giáo tại Việt Nam là từ đầu thế kỷ thứ VII đến cuối thế kỷ XIV, nhất là dưới thời Trần Thánh Tôn (1023 - 1072), Trần Anh Tôn (1136 - 1175) và Trần Cao Tôn (1173 - 1210). Trong giai đoạn đó, các vua theo đạo Phật, tăng sĩ làm Quốc Sư, Phật giáo trở thành quốc giáo và được đặc biệt ưu đãi.

a) Lý do Phật Giáo đời Lý-Trần trở thành quốc giáo.

Trong Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim có kể lại:

"Tục truyền rằng Công Uẩn không có cha, mẹ là Phạm-thị đi chơi chùa Tiêu-sơn (làng Tiêu-sơn, phủ Từ-sơn), nằm mộng thấy đi lại với thần nhân rồi về có thai đẻ ra đứa con trai. Lên ba tuổi đem cho người sư ở chùa Cổ- pháp tên là Lý khánh Văn làm con nuôi, mới đặt tên là Lý công Uẩn.

"Công Uẩn lớn lên vào Hoa-lư làm quan nhà Tiền-Lê, đến chức Tả-thân-vệ Điện-tiền Chỉ-huy-sứ. Khi Lê Long Đĩnh mất, thì Lý công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán-giận nhà Tiền-Lê lắm, ở trong triều có bọn Đào cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý công Uẩn lên làm vua.

Lý công Uẩn bèn lên ngôi hoàng-đế, tức là vua Thái-tổ nhà Lý. (18)

Trong cuốn Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển, Trịnh Văn Thanh chép:

"Vạn Hạnh Thiền Sư, tên một cao tăng đời Lý gọi là Sư Vạn Hạnh. Người quê ở Cổ Pháp, thuộc Phủ Từ Sơn, Tỉnh Bắc Ninh (Bắc Phần).

"Thủa nhỏ Sư Vạn Hạnh rất thông minh, có sách chép ông đã học khắp Tam Giáo và nhất là chuyên tâm lo khảo cứu rất nhiều kinh luận nhà Phật. Ngoài ra, Thiền Sư còn giỏi về sấm ngữ và khoa độn số.

"Năm 20 tuổi, ông xuất gia tu Phật và theo thụ giáo với Thiền ông Đạo Giả, tức là đời pháp thứ hai của phái Tỳ-ni-đa lưu-chi. Đinh Huệ Thiền Sư là bạn đồng môn với ông.

"Năm 1010, nhờ khoa độn số, ông đã đoán biết vận nhà Lê đã mạt, Thiền Sư hội ý với Đào Cam Mộc mà tôn Lý Công Uẩn lên làm vua.

"Vua Lê Đại Hành và vua Lý Thái Tổ (tức Lý Công Uẩn) lúc còn nhỏ được thụ giáo với Sư Vạn Hạnh. Và đến khi lên ngôi Hoàng Đế thường với Thiền Sư vấn kế về việc trị nước.

"Năm 1018 (tức năm Mậu Ngọ), Thiền Sư Vạn Hạnh tịch."(19)

Lý Công Uẩn lúc nhỏ sống nhờ cơm chùa, thụ giáo với sư, được Sư Vạn Hạnh lập mưu với Đàm Cao Mộc đưa lên làm vua, nên khi cầm quyền tất nhiên phải đưa Phật Giáo lên làm quốc giáo và tôn nhà sư làm Quốc Sư, chuyện đó không có gì đáng ngạc nhiên.

b) Những ưu đãi dành cho Phật Giáo đời Lý - Trần

1.- Những ưu đãi dưới đời nhà Lý

Vua Lý Thái Tổ rất trọng đãi các nhà sư, lấy tiền trong kho nhà nước ra làm chùa và đúc chuông. Tháng 6 năm Mậu Ngọ (1018), vua sai hai quan Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc qua Tàu lấy Kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại Hưng. Kể từ đó đạo Phật phát triển rất nhanh.

Nhà Lý đã tổ chức độ tăng để chọn người xuất gia. Có ba đợt độ tăng quan trọng vào các năm 1916, 1019 và 1134. Mỗi đợt có khoảng 1.000 người ở Thủ Đô Thăng Long được chọn để xuất gia.

Các chùa được xếp vào loại danh lam thắng cảnh đều được triều đình cấp ruộng đất. Đối với các chùa không được cấp ruộng đất, dân chúng cúng dường ruộng đất hay lương thực cho các tăng ni sinh sống. Các tăng ni không phải lo gì đến sinh kế.

Vì đời sống và địa vị của các tăng sĩ được nâng cao nên số người xuất gia tăng nhanh, không còn kiểm soát được, làm phát sinh nhiều tệ trạng. Có người xuất gia vì muốn trốn nghĩa vụ quân sự, có người xuất gia chỉ vì sinh kế gặp khó khăn, v.v. Năm 1179, vua Lý Cao Tông phải ra lệnh khảo hạch lại các Tăng quan. Năm 1198, vua ra lệnh gạn lọc và sa thải bớt các tăng sĩ không xứng đáng. Tăng trở thành một thứ công lại. Mọi việc tuyển mộ, khảo hạch, thăng chức, sa thải... đều do triều đình quyết định.

Đến đời Lý Cao Tông (1 176 - 1210), Nho sĩ Đàm Dĩ Mộng đã tâu lên vua như sau:

"Bây giờ tăng đồ gần bằng số đinh phu (người có thể làm công dịch), chúng tự kết bè, bầu chủ, họp nhau thành từng bầy, chúng làm những việc bẩn thỉu hoặc ở giới trường, tĩnh xá mà công nhiên rượu thịt, hoặc ở trong trai phòng tĩnh viện mà âm thầm gian dâm. Ngày ẩn tối ra, thật như một đàn cáo chuột, chúng làm bại tục phương giáo, dần dần thành thói quen, nếu không cấm thì càng ngày càng thêm quá lắm."(20)

2.- Những ưu đãi dưới đời nhà Trần

Dưới thời nhà Trần, nhất là từ Trần Thái Tông (1225 - 1258) đến đời Trần Thuận Tông (1388 - 1398), Phật Giáo hoàn toàn được ưu đãi. Vua theo các Thiền Sư học đạo Phật thì giới trí thức cũng phải theo họ