← Quay lại trang sách

Chương II TƯƠNG QUAN GIỮA PHẬT GIÁO VÀ CỘNG SẢN VIỆT NAM

Sự liên hệ chặt chẽ giữa Phật Giáo và Cộng Sản Việt Nam được tìm thấy dễ dàng trong các tài liệu Việt Cộng viết sau 30.4.1975, trong các bút ký của một số nhà lãnh đạo Phật Giáo, trong sử liệu của các sử gia Phật Giáo hay sử gia miền Nam Việt Nam, trong các tài liệu của Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình (WCRP) và Hội Nghị Á Châu về Tôn Giáo và Hòa Bình (ACRP), trong cuốn "Violations of Human Rights in The Socialist Republic of Vietnam" do tổ chức Aurora Foundation xuất bản năm 1989 và trong các tài liệu của các tổ chức bảo vệ nhân quyền khác như Amnesty International, v.v... Sự liên hệ này được tìm thấy ngay cả trên các sách và báo chí của các tăng sĩ hay cư sĩ Phật Giáo Việt Nam xuất bản ở hải ngoại.

Phủ Đặc ủy Trung ương Tình Báo và Tổng Nha Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa trước đây cũng có hồ sơ đầy đủ chi tiết về các tăng sĩ và cư sĩ Phật Giáo đi theo hay hoạt động cho Việt Cộng. Riêng các tài liệu liên hệ đến Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thượng Tọa Thích Minh Châu đã có lần được đem trình bày cho một vài ký giả ngoại quốc và Việt Nam cũng như cho một số nghị sĩ và dân biểu thân chính quyền tại Saigon trong một buổi họp kín khi những người này nêu thắc mắc về hành động của chính phủ đối với một vài hoạt động của Phật Giáo. Được hỏi tại sao không bắt những tăng sĩ hoạt động cho Việt Cộng khi đã có bằng chứng rõ ràng, viên chức tiết lộ tài liệu đã nêu ra hai lý do: Lý do thứ nhất là mọi hành động liên hệ đến tôn giáo đều phải được tính toán một cách thận trọng để tránh những phản ứng bất lợi về chính trị. Chỉ khi nào quá cần thiết mới bắt. Lý do thứ hai là duy trì tình trạng đó để theo dõi các hoạt động nội thành của Việt Cộng, nhất là trong khối Phật Giáo Ấn Quang. Phá một đường dây thì dễ nhưng móc nối lại để theo dõi rất khó. Chúng tôi đã cố gắng kiểm chứng lại các tài liệu đã được tiết lộ và nhận thấy hoàn toàn đúng. Dĩ nhiên, cơ quan tình báo CIA của Hoa Kỳ cũng được cung cấp đầy đủ các hồ sơ này và cựu Tổng Thống Richard Nixon đã xử dụng các tài liệu đó để viết về trường hợp của Thượng Tọa Thích Trí Quang và Phật Giáo trong cuốn No More Vietnams.

Ngày 19.5.1941, tại Pác-bó, Cao Bằng, Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Mặt Trận Việt Minh. Mặt Trận này được thành lập căn cứ vào Nghị Quyết của Hội Nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Đông Dương họp vào đầu tháng 5 năm 1941. Theo Nghị Quyết này, Mặt Trận Việt Minh sẽ quy tụ các hội cứu quốc. Đảng Cộng Sản Đông Dương được coi là một đoàn thể cứu quốc nên là thành viên của Mặt Trận và có trách nhiệm lãnh đạo Mặt Trận.(1)

Trong danh sách các hội cứu quốc của Mặt Trận Việt Minh, người ta thấy có Hội Công Dân Cứu Quốc, Hội Nông Dân Cứu Quốc, Hội Thanh Niên Cứu Quốc, Hội Phụ Nữ Cứu Quốc, Hội Phụ Lão Cứu Quốc, Hội Nhi Đồng Cứu Quốc, v.v. Về tôn giáo, người ta chỉ thấy có Hội Phật Giáo Cứu Quốc mà không thấy có Hội Cao Đài Cứu Quốc, Hội Phật Giáo Hòa Hảo Cứu Quốc hay Hội Công Giáo Cứu Quốc. Tại sao? Đây là vấn đề chúng tôi sẽ đề cập trong chương nói về Thiên Chúa Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo với Cộng Sản Việt Nam.

Tháng 8 năm 1945, khi mới chớp được chính quyền, thế lực còn yếu, Hồ Chí Minh đã tìm cách ve vãn các tôn giáo để thu hút các tôn giáo đứng vào Mặt Trận Việt Minh. Nhân dịp lễ Giáng Sinh, lễ Phật Đản hay Rằm Tháng Bảy, Hồ Chí Minh thường gởi thông điệp chúc mừng các tín đồ liên hệ.

Trong "Đơn xin cứu xét nhiều việc" đề ngày 25.6.1992 gởi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam, Hòa Thượng Thích Huyền Quang có viết:

"Cụ Hồ lãnh đạo Kháng chiến chống Pháp, nhưng mỗi lần lễ Noel đến, cụ Hồ không quên gởi Thông Điệp chúc mừng Noel, thân thiện với Thiên Chúa Giáo. Năm rồi Đài Phát Thanh Hà Nội có dành hai giờ văn nghệ, để cúng dường Giáng Sinh. Trong lúc đó, lễ Phật đản chúng tôi, không được Nhà Nước nói đến một lời nào mà còn làm khó dễ đủ thứ trong việc tổ chức lễ Phật đản. Tôi nghĩ, và có lẽ tôi nghĩ không sai: Ai mạnh thì Nhà Nước coi trọng, ai yếu thì Nhà Nước xem khinh..."

Đọc qua đoạn này, nhiều nhân sĩ Phật Giáo đã nói rằng Hoà Thượng Huyền Quang thiếu thận trọng, không được thông tin đầy đủ và có tinh thần bài Thiên Chúa Giáo khi viết lá đơn nói trên. Sự thật, theo thư tịch mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã công bố, vào các lễ lớn của Phật Giáo như Phật Đản hay Rằm Tháng Bảy, Hồ Chí Minh có gởi thông điệp khúc mừng đến tín đồ Phật Giáo như ông đã gởi cho các tín hữu Công Giáo nhân dịp lễ Giáng Sinh. Sau đây là một đoạn trong Thông Điệp đề ngày 15 tháng 7 âm lịch năm Bính Tuất (tức 11.8.1946) gởi Hội Phật Tử Việt Nam:

"Nhân ngày lễ Phật rằm tháng Bảy, tôi kính cẩn cầu nguyện Đức Phật bảo hộ Tổ quốc và đồng bào ta, và tôi gởi lời thân ái chào các vị trong Hội Phật Tử.

"Từ ngày Nước ta trở nên Dân chủ cộng hòa, Hiến Pháp ta tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì Phật giáo cũng phát triển một cách thuận tiện.

"Thế là: Nước độc lập thì đạo Phật mới dễ mở mang.

"Bọn thực dân Pháp muốn cướp nước ta. Chúng đốt chùa chiền, phá tượng Phật, hành hạ tăng ni, tàn sát đạo hữu. Chúng hòng phá tan Đạo Phật.

"Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn. Muốn cứu chúng sinh ra khỏi khốn nạn, Người phải hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma..."(2)

Mặc dầu được ve vãn, các giáo sĩ lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã không tham gia Mặt Trận Việt Minh vì biết Mặt Trận đó là của Cộng Sản. Trái lại, một số đông tăng sĩ cao cấp của Phật Giáo đã gia nhập Mặt Trận Việt Minh ngay từ khi Mặt Trận này mới thành lập và nhất là vào năm 1945, khi Việt Minh đã cướp được chính quyền. Đa số các tăng sĩ gia nhập Mặt Trận này đều là người Miền Trung, xuất thân từ Trường An Nam Phật Học ở Huế. Có lẽ các tăng sĩ này đã chịu ảnh hưởng của hai nhân vật quan trọng là Hòa Thượng Thích Trí Độ, Giám Đốc Trường An Nam Phật Học và Bác Sĩ Lê Đình Thám, Hội Trưởng Hội An Nam Phật Học. Khi Việt Minh lên nắm chính quyền, Hòa Thượng Thích Trí Độ được cử giữ chức Chủ Tịch Trung ương Hội Phật Giáo Cứu Quốc, còn Bác Sĩ Lê Đình Thám trờ thành Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ. Một số tăng sĩ xuất thân từ hai tổ chức trên đã vào chiến khu hoạt động cho Việt Minh. Một số khác ở lại làm nội tuyến, thành lập những tổ chức ngoại vi nhằm giúp Việt Cộng đánh bại phe quốc gia và thiết lập chế độ cộng sản.

CÁC TĂNG SĨ VÀ CƯ SĨ PHẬT GIÁO ĐÃ HOẠT ĐỘNG CHO VIỆT CỘNG

Số tăng sĩ và cư sĩ nòng cốt của Phật Giáo đi theo Mặt Trận Việt Minh hoặc yểm trợ các hoạt động của Đảng Cộng Sản Việt Nam khá đông. Một số cao tăng đã gia nhập Mặt Trận Việt Minh ngay từ đầu nên đã lôi kéo các môn sinh của họ gia nhập Mặt Trận này.

Hòa Thượng Thích Thiện Chiếu

Không biết tên thật, sinh năm 1898 tại Rạch Giá (? dấu chấm hỏi của tác giả), tu ở chùa Tam Bảo, Rạch Giá. Ông là người có kiến thức rộng, ở trong Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học. Chính ông là người đầu tiên đã đem chủ nghĩa cộng sản vào Phật Giáo và biến chùa Tam Bảo thành căn cứ địa của kháng chiến. Năm 1940, ông đi theo phong trào Nam Kỳ Khởi Nghĩa ở Hốc Môn, Gia Định. Đến năm 1942, ông bị Pháp bắt và bị đày đi Côn Sơn. Năm 1945, Pháp bị Nhật đuổi, Việt Cộng cướp chính quyền, ông được đưa về làm Tỉnh ủy Gò Công. Năm 1954, sau khi hiệp định Genève được ký kết, ông theo Việt Cộng tập kết ra Bắc. Củng cố xong miền Bắc, Hồ Chí Minh không dùng các thành phần miền Nam tập kết nữa, ông được đưa vào Ủy Ban Xã Hội của Viện Triết Học rồi cho hưu trí. Ông chết tại Hà Nội ngày 23.8.1974.

Hòa Thượng Thích Trí Độ

Hòa thượng Thích Trí Độ tên thật là Nguyễn Kim Ba, sinh năm 1895 tại làng Phổ Trạch, An Nhơn, Bình Định, thọ giới và xuất gia với Hòa Thượng Thích Trí Hải ở chùa Bích Liên An Nhơn, Bình Định, sau ra làm Giám Đốc Trường An Nam Phật Học ở Huế và trụ trì ở chùa Trúc Lâm.

Ngày 19.8.1941, Hồ Chí Minh thành lập Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Mặt Trận Việt Minh, ông gia nhập ngay và làm Chủ Tịch Trung ương Hội Phật Giáo Cứu Quốc. Vì uy tín của ông trong Trường An Nam Phật Học ở Huế, Đảng Cộng Sản Đông Dương giao cho ông nhiệm vụ tổ chức hội cứu quốc trong hàng ngũ Phật Giáo trên toàn quốc.

Năm 1945, khi Đảng Cộng Sản Đông Dương cướp chính quyền, Hòa Thượng Thích Trí Độ đứng ra hô hào Phật Giáo ủng hộ Cách Mạng. Ông dùng tờ Đuốc Tuệ của Phật Giáo kêu gọi các tăng ni Phật tử tham gia các Hội Cứu Quốc. Đuốc Tuệ số ngày 30.8.1945 đã hô hào: "Tăng ni các hạt mau lập đoàn Tăng Già Cứu Quốc, theo mục đích mà tham gia vào cuộc cách mạng hiện thời."

Ngày 27.5.1946, Hồ Chí Minh thành lập Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam để đánh lừa các tôn giáo và đảng phái quốc gia, ông là Ủy viên Trung ương của hội này.

Năm 1949, Hồ Chí Minh thành lập Ban Vận Động Hòa Bình Thế Giới và cử cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám làm Chủ Tịch. Ông cũng nằm trong ban lãnh đạo của tổ chức đó.

Ngày 5.3.1951, Hồ Chí Minh sát nhập Mặt Trận Việt Minh với Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam thành Mặt Trận Liên Việt, ông trở thành Ủy viên Trung ương của Mặt Trận Liên Việt

Năm 1953, Hồ Chí Minh lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới, ông cũng giữ chức Ủy viên của Ủy Ban

Sau khi chiếm được miền Bắc Việt Nam, Việt Cộng đổi Mặt Trận Liên Việt thành Mặt Trận Tổ Quốc, ông làm Ủy viên Trung ương của Mặt Trận Tổ Quốc. Năm 1955, Việt Cộng cho lập Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để quy gồm tất cả các tông phái Phật Giáo miền Bắc vào Mặt Trận Tổ Quốc, ông là Chủ Tịch hội này từ 1955 - 1979, tức đến lúc ông qua đời. Hòa Thượng Thích Đức Nhuận (Bắc) là người kế vị ông.

Hòa Thượng Thích Trí Độ là một đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông luôn tuân hành các chỉ thị của đảng trong công tác vận động Phật Giáo, không bao giờ có hành động tự phát hay sai lệch, vì thế ông được đảng tín nhiệm. Trong thời gian hoạt động cho Việt Cộng, ông được chọn làm đại biểu Quốc Hội các khóa 2, 3, 4, 5 và 6 và là Ủy viên Ban Thường Vụ Quốc Hội. Ông qua đời ngày 24.10.1979 tại Hà Nội, được Nhà Nước ban Huân Chương Độc Lập hạng ba và Huân Chương Kháng Chiến hạng nhì.

Hòa Thượng Thích Đôn Hậu

Hòa Thượng Thích Đôn Hậu tên thật là Diệp Thuần, sinh năm 1904 tại làng Xuân An (sau gọi là Triệu Thượng?), Phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông xuất gia năm 1927 và theo học với Hòa Thượng Tâm Tịnh tại chùa Tây Thiên ở Huế. Về sau ông là Giảng sư của Phật Học Đường Thừa Thiên và là Hội Trưởng Hội An Nam Phật Học.

Sau khi Hòa Thượng Thích Đôn Hậu qua đời ngày 23.4.1992, Nhật báo Nhân Dân của Đảng Cộng Sản Việt Nam ra ngày 25.4.1992 đã đăng một "TIN BUỒN" của Quốc Hội, Mặt Trận Tổ Quốc, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo Thừa Thiên Huế và Pháp Quyền, cho biết những "thành tích" mà Hòa Thượng đã đạt được trong các công tác mà Đảng và Nhà Nước giao phó như sau:

"Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, sinh ngày 17.2.1905 tại xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

"Đại biểu Quốc Hội khóa VI, nguyên Ủy viên Đoàn Chủ Tịch Ủy Ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, nguyên Ủy viên Hội Đồng Chinh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, nguyên Phó Chủ Tịch Liên Minh các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam, nguyên Ủy viên Thường Trực Hội Phật Giáo Châu Á vì Hòa Bình (ABCP), Phó Pháp Chủ Kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

"Huân chương Hồ Chí minh, Huân chương Độc Lập hạng nhì, Huy chương vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân. "

"Sau một thời gian bị bệnh nặng, đã được các giáo sư bác sĩ hết lòng cứu chữa, nhưng vì tuổi cao sức yếu, Hòa Thượng đã viên tịch tại chùa Linh Mụ, thành phố Huế, hồi 19 giờ 55 phút ngày 23.4.1992 (ngày 21 tháng 3 năm Nhâm Thân). "

"Là nhà tu hành chân chính và giàu lòng yêu nước, sau Cách Mạng tháng Tám năm 1945, Hòa Thượng được mời trụ trì tại chùa Linh Mụ, thành phố Huế, giữ chức Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung Bộ kiêm Chủ Tịch Hội Phật Học tỉnh Thừa Thiên.

"Năm 1947, Hòa Thượng bị thực dân Pháp bắt giữ một thời gian. Sau khi được tự do, Hòa Thượng lần lượt giữ chức vụ Hội Trưởng Tổng Trị Sự Hội Phật Học Trung Việt, Giám Luật của Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc, chủ nhiệm báo Liên Hoa.

"Từ năm 1963, Hòa Thượng là một trong những giáo phẩm cao cấp Phật Giáo tham gia đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đình Diệm.

"Năm 1964, Hòa Thượng giữ chức Chánh Đại Diện miền Vạn Hạnh và tỉnh Thừa Thiên thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

"Từ năm 1968, Hòa Thượng ra vùng giải phóng tiếp tục tham dự sự nghiệp cứu nước và hoành dương Phật pháp, Hòa Thượng được cử giữ nhiều chức vụ quan trọng (như đã kể trên).

"Từ năm 1975, Hòa Thượng trở lại trụ trì chùa Linh Mụ lo việc hoành dương Chánh Pháp và đảm nhận chức vụ Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống, tiếp đó kiêm giữ chức Xử Lý Viện Tăng Thống (khi Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết viên tịch vào năm 1977). Đầu năm 1980, Hòa Thượng là Cố Vấn Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo trong cả nước để thành lập giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh).

"Tại Đại Hội Đại Biểu Thống Nhất Phật Giáo việt Nam, tháng 11 năm 1981, Hòa Thượng được chư tôn giáo phẩm và toàn thể đại biểu đại hội suy tôn làm Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh)..."

Năm 1947 Hòa Thượng Đôn Hậu bị Pháp bắt và tra tấn, định đem đi bắn, may nhờ sự can thiệp của Bà Từ Cung nên ông được thả ra.

Sau biến cố Tết Mậu Thân, không ai biết Hòa Thượng Đôn Hậu đi đâu. Bỗng nhiên đài phát thanh Hà Nội phát đi lời kêu gọi của Hòa Thượng Đôn Hậu, trong lời kêu gọi đó có câu "Chư Tăng, Ni và đồng bào Phật tử hãy đoàn kết với nhau, nhất tề vùng lên đánh đuổi Đế Quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai Đế Quốc Mỹ." Sau khi Việt Cộng chiếm được miền Nam, Hòa Thượng Đôn Hậu trở lại Huế và giữ chức Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống của Giáo Hội Ấn Quang. Ngày 31.1.1979, Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Viện Trưởng Viện Tăng Thống qua đời, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu kiêm Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống. Với tư cách này, ông đã cùng Hòa Thượng Thích Trí Thủ và Thích Trí Tịnh đưa Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang sát nhập vào Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh năm 1981 và giữ chức Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh của Giáo Hội quốc doanh.

Đám tang của Hòa Thượng Đôn Hậu được tổ chức rất trọng thể. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước kiêm Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đứng ra làm Trưởng Ban Tổ Chức Tang Lễ. Đến tham dự tang lễ, ngoài Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ còn có ông Nguyễn Quyết, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước, ông Lê Quang Đạo, Chủ Tịch Quốc Hội, ông Phan Minh Tánh, Trưởng Ban Dân Vận Trung ương, ông Vũ Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng và các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương.

Các tăng ni ở Huế không muốn nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam nhắc đến các chức vụ mà Hòa Thượng Thích Đôn Hậu đã đảm nhận trong chế độ cộng sản Việt Nam, nên đã cãi qua cãi lại với đại diện chính quyền, nhưng Nhà Nước vẫn cho công bố các chức vụ và huy chương của Hòa Thượng Đôn Hậu trên nhật báo Nhân Dân.

Hòa Thượng Thích Đôn Hậu được coi như người có tư tưởng ôn hòa, ông chú tâm vào việc đạo hơn việc đời, ăn nói lúc nào cũng hòa nhã. Khi thuyết pháp hay tuyên bố, ông không hề xúc phạm các tôn giáo khác hay các phe bất đồng chính kiến với Giáo Hội Ấn Quang. Nhưng ông cũng quá nhu nhược nên đã trờ thành một công cụ tốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong lá bài Phật Giáo. Ông không phải là đảng viên và chỉ hoạt động trong các tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng Sản Việt Nam nhưng ông đã hoàn thành tất cả mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam giao phó cho ông, kể cả công việc gay cấn nhất là đem Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang sát nhập vào Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh. Ông không hề có một lời phản đối chính thức nào.

Một đoạn sau đây trong thư Hòa Thượng Đôn Hậu gởi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam mà tạp chí Giao Điếm của Hồng Quang ở Orange County đã đăng cũng đủ cho thấy vai trò của Hòa Thượng Đôn Hậu trong công tác dân vận của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

"Kính thưa quý vị,

"Trước đây, tại Trường Sơn, khi được đề cử chức Phó Chủ Tịch Trung ương Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam, tôi có trình bày nguyện vọng rằng, khi hòa bình được lập lại xin cho tôi trở về cương vị một tu sĩ thuần túy, và được cơ quan chấp thuận. Nguyện vọng này cũng đã được Đại Diện Ủy Ban Thống Nhất tại Hà Nội đồng ý.

"Nhưng sau khi hòa bình trở lại, vì nhu cầu cách mạng trong giai đoạn mới, tôi vẫn cố gắng tiếp tục công tác được giao phó bằng cả tâm huyết và rồi sau đó cố gắng ra ứng cử Đại Biểu Quốc Hội... "

Những chức vụ ông đảm nhận trong chế độ cộng sản cũng như trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đều là hữu danh vô thực. Trong chế độ cộng sản, ông chỉ thi hành mệnh lệnh của Đảng Cộng Sản. Trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang, các Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thích Thiện Minh đã mượn danh nghĩa của ông cũng như Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết để hành động. Hai đại lão Hòa Thượng nầy nhiều khi không biết gì cả.

Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang vẫn quả quyết Hòa Thượng Đôn Hậu làm những công việc trái với quyền lợi của Phật Giáo Ấn Quang là vì có sự cưỡng bức của Việt Cộng, nhưng một số Phật tử đã thắc mắc: Một vị đại lão Hòa Thượng như thầy Đôn Hậu không lẽ đành chịu cúi đầu trước sự cưỡng bức sao? Nhiều tăng sĩ trẻ hơn đã chịu tra tấn, chịu chết hay chịu giam cầm trong ngục tù chứ không bao giờ khuất phục trước bạo quyền cộng sản.

Hòa Thượng Thích Huyền Quang

Hòa Thượng Thích Huyền Quang có tên thật là Lê Đình Nhàn, sinh năm 1917 tại Bình Định. Thủa nhỏ, ông theo học ở Phật Học Đường Lưỡng Xuyên, Trà Vinh, sau về học Phật Học Đường Long Khánh ở Bình Định. Ông không được đào tạo tại Trường An Nam Phật Học ở Huế như một số tăng sĩ khác nên kiến thức chỉ có giới hạn.

Năm 1945, ông gia nhập Hội Phật Giáo Cứu Quốc của Hòa Thượng Thích Trí Độ, giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Phật giáo Cứu Quốc Bình Định, sau đó ông được chọn làm Khu Ủy Viên Liên Khu V kiêm Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Liên Khu V từ 1945 đến 1951. Năm 1951, Hồ Chí Minh quyết định sát nhập Mặt Trận Việt Minh (trong đó có các Hội Cứu Quốc) và Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam thành Mặt Trận Liên Việt. Các hội cứu quốc bị hủy bỏ, trong đó có Hội Phật Giáo Cứu Quốc. Vì thế, Thượng Tọa Thích Huyền Ouang bị mất chức Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Liên Khu V. Ông không theo kịp sự chuyển hướng trong đường lối của Đảng nên đã phản đối và bị bắt giam từ 1952 đến 1954 mới được trả tự do. Trong "Đơn xin cứu xét nhiều việc" đề ngày 25.6. 1992 gởi nhà cầm quyền Hà Nội, Hòa Thượng Huyền Ouang nói rất rõ:

"Giáo Hội Phật Giáo Cứu Quốc Liên Khu 5 cũ (trong Mặt Trận Việt Minh), được thành lập đồng lúc cùng với các đoàn thể cứu quốc khác, sau ngày khởi nghĩa mùa thu 1945, tại các tỉnh: Nam, Ngãi, Bình, Phú. Sau sáu năm làm việc cứu quốc, như các tổ chức nhân dân khác, đến năm 1951, Mặt Trận Liên Việt Liên Khu 5, buộc chúng tôi mở đại hội tại Bồng Sơn, Bình Định, để lấy quyết định "chuyển hướng công tác " bằng cách cắt bỏ hai chữ cứu quốc và giao hết quần chúng Phật tử qua các tổ chức nhân dân khác. Phật giáo chúng tôi bây giờ, sau Đại hội trên chỉ còn cái tên là: Hội Phật Giáo Liên Khu 5 không có quần chúng. Mặt Trận Liên Việt cắt đứt hết mọi liên hệ với Phật giáo chúng tôi. Tôi chống việc làm đó nên bị bắt giam tại Quảng Ngãi từ 1952 - 1954."

Mặc dầu đã ở trong vùng Cộng Sản chiếm đóng tại Liên Khu V từ 1945 đến 1954, làm việc và ở tù dưới chế độ cộng sản, Hòa Thượng Thích Huyền Quang tỏ ra không am tường nhiều về Cộng Sản. Ngoài chuyện không hiểu tại sao Hồ Chí Minh giải tán các Hội Cứu Quốc năm 1951 như đã nói trên, ông còn phạm một lỗi lầm to lớn là sau khi Việt Cộng chiếm được miền Nam, ông và Viện Hóa Đạo Ấn Quang đã vội vàng thương lượng với Hội Phật Giáo quốc doanh miền Bắc để thống nhất Phật Giáo hai miền và tạo uy thế cho Giáo Hội Ấn Quang. Sự vội vàng này đã để lộ cho Việt Cộng thấy rõ tham vọng của các tăng sĩ trong Viện Hóa Đạo Ấn Quang nên tìm cách gây mâu thuẫn nội bộ và diệt từng phần. Gom không được Hội Phật Giáo miền Bắc vào Giáo Hội Ấn Quang, ông và các tăng sĩ trong Giáo Hội Ấn Quang đã tổ chức Đại Hội Phật Giáo kỳ 7 để củng cố nội bộ và quay lại chống chính quyền. Trong cuộc lục soát chùa Ấn Quang của lực lượng an ninh vào đêm 6.4.1977, ông đã bị bắt giam cùng với một số tăng sĩ khác. Ông đã bị truy tố và đưa ra Tòa án Nhân Dân tại Saigon xét xử ngày 8.12.1978. Ông bị phạt hai năm tù treo. Trong phiên tòa nói trên, Viện Kiểm Sát có đọc lời tự thú của ông khi bị giam ở công an như sau:

"Từ trước đến nay, chủ trương của chúng tôi là bất hợp tác với chính quyền. Chúng tôi xin xác nhận rằng, trong quá khứ cũng như từ sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, chúng tôi có những việc làm sai trái với đường lối chính sách, luật pháp của chính quyền. Những tội lỗi là do chúng tôi gây ra."(3)

Tháng 11 năm 1981, Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh được thành lập và nhà cầm quyền coi như Giáo Hội Ấn Quang đã gia nhập vào Giáo Hội này, nhưng ông và một số tăng sĩ trong Viện Hoá Đạo đã chống lại việc sát nhập đó. Ông được cử làm Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo thay thế Hòa Thượng Thích Trí Thủ đã đi vào Giáo Hội quốc doanh nên tháng 2 năm 1982 ông bị bắt và bị chỉ định cư trú tại chùa Hội Phước, xã Nghĩa Chánh, trong thị xã Quảng Ngãi.

Người Pháp nói: "Le style c’est l’homme." (văn là người). Đọc "Đơn cứu xét nhiều việc" đề ngày 25.6.1992 gởi nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội do Hòa Thượng Thích Huyền Quang viết, chúng ta biết được kiến thức, những suy tư và quan điểm chính trị của ông. Lúc đầu, ông Võ Văn Ái đã cắt xén và trau chuốt cả hình thức lẫn nội dung lá đơn này lại trước khi phổ biến. Nhưng khi nhận được bản sao toàn văn của đơn này, mọi người đã thất vọng. Các nhân sĩ Phật Giáo lấy làm tiếc về những lời ông đã viết trong đơn. Nhìn chung, qua lá đơn này, người ta thấy kiến thức và sự hiểu biết của ông rất giới hạn nên ông có nhiều nhận định sai lầm. Ông lại có tinh thần đố kỵ Thiên Chúa Giáo. Bất cứ lúc nào có cơ hội, ông đều đưa Thiên Chúa Giáo ra để suy tỵ hay mỉa mai. Trong "Đơn xin cứu xét nhiều việc", ông hỏi tại sao Nhà Nước quốc doanh hóa Phật Giáo Ấn Quang mà không quốc doanh hóa Giáo Hội Thiên Chúa Giáo? Phải chăng Nhà Nước đã "xem kẻ thù như quý khách" và xem Phật Giáo là "con nhà nghèo"? Trong dịp lên tiếng tại chùa Linh Mụ ngày 3.5.1992 nhân đám tang của Hòa Thượng Đôn Hậu, ông hỏi tại sao các linh mục Thiên Chúa Giáo được tự do hành lễ, còn ông không được Ban Tổ Chức cho hành lễ ở Huế? Chính sự thiếu hiểu biết và đố kỵ này đã gây nên những phản ứng không thuận lợi cho cuộc đấu tranh mà ông đang phát động.

Cách viết của Hòa Thượng Huyền Quang trong "Đơn xin cứu xét nhiều việc" không phải là cách viết của một nhà chân tu và càng không phải là cách viết của một nhà lãnh đạo cao cấp của một tôn giáo. Lòng thù hận của ông đã bộc lộ một cách công khai khi viết cũng như khi nói.

Trong văn thư số 248 CV/TGCP ngày 25.7.1993 gởi Hòa Thượng Huyền Quang, Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã trả lời những điểm mà ông khiếu nại bằng những lời lẽ khá gay gắt, nhất là về điểm hai Hòa Thượng Thích Đôn Hậu và Thích Trí Thủ đem Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang sát nhập vào Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh. Ban Tôn Giáo kết luận:

"Yêu cầu ông nhận rõ lẽ phải và đạo lý, nhận rõ sai lầm, khuyết điểm đối với đạo, đối với đất nước, đối với pháp luật để thành tâm sửa chữa và chuyên tâm tu hành vì sự nghiệp cao cả phụng sự dân tộc và đạo pháp."

Hòa Thượng Thích Huyền Quang không phải là đảng viên của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông chỉ tham gia các hoạt động ngoại vi của Đảng nên không hiểu nhiều về đường lối, chiến lược, chiến thuật và thủ đoạn của Đảng. Ông bị mang họa do sự thiếu hiểu biết nầy.

Thượng Tọa Thích Mật Thể

Thượng Tọa Thích Mật Thể có tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1921 tại làng Nguyệt Biều, Hương Thủy, Thừa Thiên. Ông theo học Hòa Thượng Thích Giác Tiên ở chùa Trúc Lâm, Huế. Ông có soạn bộ Việt Nam Phật Giáo Sử Lược. Ông thông thạo về Hán học. Về Tây học, ông học chưa tới nơi tới chốn, nhưng nhờ thông minh và chịu tự học thêm, ông có kiến thức rất khá.

Năm 1945, ông gia nhập Hội Phật Giáo Cứu Quốc và làm Chủ Tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc Thừa Thiên. Ông theo Hòa Thượng Thích Trí Độ hoạt động rất tích cực cho Việt Minh. Nhờ ông và Hòa Thượng Trí Độ cổ võ, rất nhiều tăng sĩ trong Hội An Nam Phật Học đã gia nhập Hội Phật Giáo Cứu Quốc. Vì công trạng của ông, năm 1946 ông đã được Đảng Cộng Sản Đông Dương bố trí cho làm Đại Biểu Quốc Hội khóa I. Ông là một chức sắc cao cấp đầu tiên của Phật Giáo tham gia chính quyền.

Khi quân Pháp trở lại chiếm Huế, ông theo Việt Minh tản cư ra Đồng Hới rồi đến Vinh. Cùng đi với ông có Đại Đức Thích Thiện Mẫn. Trước khi đi, ông tập họp một số tăng sĩ và cư sĩ tại chùa Thế Chí ở Đại Lộc, tỉnh Thừa Thiên, dặn dò những người này những công việc phải làm. Tham dự cuộc họp này có các Đại Đức Thích Đức Trạm, Thích Mãn Giác, Thích Thiện Ân và hai cư sĩ. Những người này sau đó đều trở lại Huế.

Trong thời gian chống Pháp, ông làm công tác hậu cần ở Liên Khu IV. Sau hiệp định Genève 1954, ông không được chế độ miền Bắc tin dùng, ông quay lại phê bình chế độ nên bị quản chế ở Nghệ An. Nhiều người ở Nghệ An vào cho biết ông phải lao động vất vả mới có ăn nên bị bệnh và chết năm 1961, lúc chỉ mới có 49 tuổi.

Thích Mật Thể là người thông minh và hòa nhã, không có tham vọng chính trị. Ông bị Việt Cộng lừa nên theo. Khi ông khám phá ra các sự gian dối của Cộng Sản thì đã muộn.

Thượng Tọa Thích Thiện Minh

Thượng Tọa Thích Thiện Minh tên thật là Đỗ Xuân Hàng sinh năm 1921 tại Quảng Trị, tốt nghiệp Trường An Nam Phật Học ở Huế năm 1943, cùng một khóa với Thượng Tọa Thích Trí Quang và cũng là học trò của Hòa Thượng Thích Trí Độ. Lúc đầu ông lấy pháp danh là Thích Trí Nghiễm, sau đổi thành Thích Thiện Minh.

Năm 1945, ông tham gia Hội Phật Giáo Cứu Quốc của Hòa Thượng Thích Trí Độ và giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc Quảng Trị. Năm 1946, ông bị Pháp bắt tại Quảng Trị, nơi ông đang hoạt động cho Mặt Trận Việt Minh. Ông bị quản thúc tại đây cho đến năm 1947 thì được phóng thích và trở lại chùa Từ Đàm ở Huế. Từ năm 1948, ông vào hoạt động ở vùng Nha Trang và Đà Lạt. Thượng Tọa Thích Huyền Minh cho biết, trong thời gian này ông vừa hoạt động về Phật sự vừa tham gia các hoạt động kháng chiến. Ông thường đến dự các phiên họp bí mật ở vùng Việt Cộng kiểm soát. Sau Hiệp Định Genève 1954, lúc ông hoạt động ở Nha Trang, lúc ông lại về chùa Từ Đàm ở Huế.

Trong cuộc tranh đấu chống chính quyền Ngô Đình Diệm ông là Trưởng Phái Đoàn Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo thương lượng với Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ông cùng với Thượng Tọa Thích Trí Quang thành lập Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc phát động chiến dịch đánh phá ở miền Trung. Đầu tháng 4 năm 1966, ông tuyên bố sinh viên Saigon đã nhận 5 triệu của chính phủ để không tham gia đấu tranh. Ngày 13.4.1966, sinh viên của 14 phân khoa Đại Học Saigon họp báo yêu cầu ông đưa bằng chứng về vụ này, nếu ông không xuất trình bằng chứng, sinh viên sẽ tuyệt thực 48 tiếng đồng hồ để phản đối. Ngày 17.4.1966, ông phải gởi một thư ngỏ cho sinh viên nói ông không hề tuyên bố như vậy, đây chỉ là một sự hiểu lầm.

Lúc 10 giờ 30 ngày 1.6.1966, ông vừa đến trụ sở Tổng Hội Thanh Niên ở đường Công Lý thì bị một kẻ lạ mặt ném lựu đạn và bị thương nặng. Vụ này không được Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang làm lớn chuyện như các vụ khác. Theo Thượng Tọa Thích Huyền Minh thì vụ nầy chỉ liên quan về nội bộ, do những sự tranh chấp về chính trị và tài chánh. Điều này chứng tỏ đang có một sự nứt rạn giữa ông và Thích Trí Quang. Thông thường thì Thượng Tọa Thích Trí Quang không từ bỏ bất cứ một cơ hội nào để xách động quần chúng, nhưng ông đã không khai thác vụ Thích Thiện Minh bị mưu sát.

Sau khi các phong trào đấu tranh miền Trung bị dẹp tan (xem ở Chương IV), Thượng Tọa Thích Thiện Minh bắt đầu đứng hẳn về lập trường của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Nhưng sự nứt rạn giữa ông và Thượng Tọa Thích Trí Quang trở nên trầm trọng hơn. Năm 1968, ông tách ra khỏi các tổ chức của Thích Trí Quang và thành lập một tổ chức mới gọi là Phật Xã Đảng (tức Đảng Xã Hội Phật Giáo). Tuy nhiên, đảng của ông không thu hút được Phật tử vì miền Nam không phải là địa bàn hoạt động quen thuộc của ông. Từ năm 1969, ông bất đầu đi thuyết pháp khắp nơi, nhất là các tỉnh miền Tây, tố cáo sự độc tài và tham nhũng của chính quyền. Ông thường tố cáo mà không cần dẫn chứng các điều ông tố cáo.

Ngày 25.2.1969, cơ quan an ninh lục soát Tịnh xá Quảng Đức, nơi Thích Thiện Minh cư trú và hoạt động, tìm thấy một số võ khí, các tài liệu tuyên truyền cho Việt Cộng và nhiều thanh niên trốn quân dịch. Thích Thiện Minh đã bị bắt giữ và bị truy tố ra Tòa. Trong phiên tòa ngày 15.3.1969, Tòa án Quân Sự Mặt Trận Vùng III đã tuyên phạt ông 10 năm khổ sai và 5 năm cấm cố. Khi bản án này được công bố trên đài phát thanh và trên báo chí, thì chỉ ngày hôm sau đài phát thanh Hà Nội đã cho đọc một bản tuyên bố của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu ở miền Bắc, nhân danh Phó Chủ Tịch Liên Minh Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình, phản kháng vụ bắt giam Thích Thiện Minh, kêu gọi Phật tử đứng lên lật đổ chính quyền miền Nam và lập một nội các hòa bình để nói chuyện với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Nhờ các cuộc thương lượng ôn hòa giữa Viện Hóa Đạo Ấn Quang và chính phủ, ngày 30.11.1969 Thượng Tọa Thích Thiện Minh đã được ân xá.

Năm 1970, ông cầm đầu Phái Đoàn Phật Giáo Ấn Quang đi dự Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình ở Nhật và đưa ra Tuyên Ngôn 6 điểm giống hệt các đề nghị của Hà Nội tại hòa đàm Paris: Mỹ ngưng ném bom B-52, ngưng các cuộc hành quân bình định tại miền Nam, thả hết các tù cộng sản đang bị giam giữ, Mỹ rút và giải tán chính quyền bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu, v.v..

Hiệp Định Paris vừa được ký kết ngày 27.1.1973, Thượng Tọa Thích Thiện Minh đã ra thông bạch tuyên bố thành lập ngay Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc và giao cho Luật Sư Vũ Văn Mẫu làm Chủ Tịch. Mục tiêu của lực lượng này là quy tụ các thành phần thân Cộng để đưa vào Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải Hòa Hợp dự liệu trong Hiệp Định, giúp Việt Cộng chiếm đa số trong Hội Đồng.

Sau 30.4.1975, ông cũng góp phần với Thượng Tọa Thích Mãn Giác trong việc tổ chức mừng "giải phóng" ngày 15.5.1975 và lễ sinh nhật "bác Hồ" ngày 19.5.1975. Nhưng sau khi sau khi mưu tìm một sự thống nhất Phật Giáo dưới quyền lãnh đạo của Giáo Hội Ấn Quang bị Việt Cộng ngăn chận, ông cũng như đa số các tăng sĩ trong khối Ấn Quang quay lại chống đối chế độ. Sau khi công an lục soát chùa Ấn Quang vào ngày 6.4.1977, ông bị bắt cùng một số tăng sĩ khác. Đầu tiên ông bị giam ở công an, sau đưa vào khám Chí Hòa, rồi chuyển ra trại Hàm Tân ở Bình Tuy và ông đã chết trong tù vào tháng 10 năm 1978. Theo cơ quan công an Việt Cộng cho biết, Thượng Tọa Thích Thiện Minh bị chết vì bệnh viêm não tại trại Hàm Tân, nhưng một vài tờ báo Phật Giáo tại Hoa Kỳ nói rằng ông bị tra tấn và chết tại trại thẩm vấn X4 ở đường Nguyễn Trãi Saigon, sau đó xác ông được đưa về hóa trang ở trại Hàm Tân. Tin này chưa phối kiểm được. Trước khi Thượng Tọa Thích Thiện Minh qua đời ít lâu, cụ Cao Huy Đính từ Bắc vào có ghé thăm và khuyên bảo ông. Thích Thiện Minh biết mình không còn sống được bao lâu nữa nên đã than với cụ Cao Huy Đính: "Mình đã lỡ đưa chúng nó vào thì mình phải chịu cái quả". Cụ Cao Huy Đính đã nhờ nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn nói lại cho anh em nghe những điều đó khi đến Hoa Kỳ.

Trong những người xuất thân từ Trường An Nam Phật Học ở Huế, ông được coi là một người xuất sắc nhất, vượt xa Thượng Tọa Thích Trí Quang. Ông có tài đối đáp mau lẹ nên thường được cử làm trưởng các phái đoàn Phật Giáo đi thương thuyết hay dự hội nghị Phật Giáo Quốc Tế. Nhưng ông thuộc vào loại nóng tính và quá khích, có tinh thần Phật Giáo cực đoan. Khi thuyết pháp hay tuyên bố, ông hay có luận điệu khiêu khích và thách đố. Ông cũng tỏ ra rất đố kỵ với Thiên Chúa Giáo.

Thượng Tọa Thích Thiện Minh chỉ hoạt động trong các cơ quan ngoại vi của Đảng Cộng Sản Việt Nam và tưởng rằng sau khi Việt Cộng chiếm được miền Nam, Phật Giáo sẽ được ưu đãi và ông sẽ có địa vị ưu thắng. Sau năm 1975, khi ông nhận ra được bộ mặt thật của Việt Cộng thì mọi sự đã quá muộn. Cái chết của ông là hậu quả của các sự lầm lẫn của ông.

Thượng Tọa Thích Minh Châu: Hành tung bí mật.

Ở Việt Nam, ít ai biết đến hành tung của Thượng Tọa Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, vì ông giấu rất kỹ. Một người làng ông và rất thân với gia đình ông khi còn nhỏ, đã nhận ra ông khi ông làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, nên tìm đến thăm ông và hỏi han về gia đình của ông ở miền Bắc, nhưng ông chối dài và nói anh ta đã nhận lầm. Đến khi anh ta nhắc tới tên đứa con trai của ông và cho biết chính anh là người đã dạy đứa con đó, ông mới chịu xuống giọng.

Thượng Tọa Thích Minh Châu có tên thật là Đinh Văn Nam, sinh năm 1918 tại làng Kim Khê, Huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Huyện Nghi Lộc nằm sát Huyện Nam Đàn, nơi có làng Kim Liên, quê của Hồ Chí Minh. Kim Khê cách Kim Liên chỉ khoảng 15 cây số.

Gia đình Thượng Tọa Thích Minh Châu thuộc dòng dõi khoa bảng. Thân phụ ông là cụ Đinh Văn Chấp, Tiến sĩ Hán học của nhà Nguyễn. Ông là con thứ ba của gia đình 8 con theo thứ tự như sau: Đinh Văn Kinh là con trưởng, đến Đinh Văn Quang, Đinh Văn Nam (tức Thượng Tọa Thích Minh Châu), Đinh Văn Linh, Đinh Văn Phong, Đinh Thị Kim Hoàn Đinh Thị Kim Thai và Đinh Thị Khang. Anh chị em gia đình này rất thông minh, được học cả Hán học lẫn Tây học. Như những người giàu có thời đó, Cụ Đinh Văn Chấp còn nhiều vợ thứ. Trước khi cưới vợ chánh là mẹ Thích Minh Châu, ông đã cưới một người vợ thứ rồi, vì thế anh chị em nhà này rất đông.

Đinh Văn Nam có gia đình lúc 20 tuổi. Vợ Đinh Văn Nam là Lê Thị Bé, con một gia đình khoa bảng khác ở cùng làng là cụ Lê Văn Miến. Cụ Lê Văn Miến là một người vừa đậu Tây học, vừa thông Hán học nên làm giáo sư Hán văn và Pháp văn sau vào dạy Quốc Tử Giám (đại học của triều đình) ở Huế.

Chúng tôi không rõ lúc đầu Đinh Văn Nam học đến đâu rồi nghỉ việc đi làm, nhưng được biết vào khoảng năm 1940, lúc 21 tuổi, ông được bổ làm Thừa Phái, một loại công lại thuộc các bộ phận của triều đình, thường làm thư ký hay các công tác giao dịch tại trung ương hay địa phương.

Sau khi Việt Minh cướp chính quyền vào tháng 8 năm 1945, cụ Đinh Văn Chấp, thân phụ của Thượng Tọa Thích Minh Châu, đã tản cư từ Huế về Nghệ An và được Việt Minh mời làm Chủ Tịch Ban Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác-Lê. Sau khi cụ Đặng Hướng, Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt tỉnh Nghệ An lên làm Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt Liên Khu IV, cụ Đinh Văn Chấp thay cụ Đặng Hướng làm Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt Nghệ An. Còn cụ Lê Văn Miến, nhạc phụ của Thích Minh Châu là người liêm khiết nên rất nghèo. Khi cụ trở về quê ở Kim Khê thì không có nơi cư ngụ. Các học trò của cụ phải góp mỗi người 5 đồng làm cho cụ một căn nhà lá nhỏ ở tạm. Vốn là thầy giáo, không quen các nghề bằng tay chân và nhất là với sĩ diện của một nhà Nho, cụ không có kế gì để sinh nhai. Nghe nói về sau cụ bị chết đói.

Hai huyện Nam Đàn và Nghi Lộc là nơi Đảng Cộng Sản Đông Dương lập các cơ sở đầu tiên của họ. Gia đình cụ Nguyễn Sinh Sắc (bố Hồ Chí Minh) ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, nên Hồ Chí Minh quen biết rất nhiều trong vùng này. Ông cho người đi móc nối các sĩ phu, thuyết phục họ tham gia Cách Mạng. Trong hai huyện Nghi Lộc và Nam Đàn, không ai lạ gì gia đình của Hồ Chí Minh, tức Nguyễn Sinh Cung. Anh của Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Khiêm, một người mắc bệnh tâm thần, không có nghề nghiệp, thường lui tới các gia đình của những người quen biết ở hai huyện Nam Đàn và Nghi Lộc để xin ăn. Chị của Hồ Chí Minh là Nguyễn Thị Thành, trước có làm liên lạc cho cụ Phan Bội Châu, sau bị mật thám Pháp theo dõi, phải trở về làng sống trong một túp lều tranh nhỏ bé và xiêu vẹo, rất cơ cực. Sĩ phu trong hai huyện Nam Đàn và Nghi Lộc gia nhập Đảng Cộng Sản Đông Dương khá nhiều.

Trần Điền, người cùng làng với Thích Minh Châu, một cán bộ cao cấp của Việt Cộng, đã xin cưới cô Đinh Thị Kim Hoài em của Thích Minh Châu, nhưng về sau bị từ chối. Tuy không được làm rể nhà họ Đinh, Trần Điền vẫn giữ liên lạc tốt đẹp với gia đình Thích Minh Châu. Trần Điền đã làm Đại Sứ của Hà Nội tại Nam Vang trong thời kỳ Sihanouk chấp chính Đây là một đường dây liên lạc tốt của Thích Minh Châu.

Sau này cô Đinh Thị Kim Hoài làm vợ bé của Thiếu Tướng Nguyễn Sơn khi tướng này về làm Chủ Tịch Ủy Ban Kháng Chiến Liên Khu IV, một Liên Khu vững vàng nhất của Việt cộng thời đó.

Trường hợp của Thiếu Tướng Nguyễn Sơn là một trường hợp rất lạ lùng, nhưng ít người biết đến. Nguyễn Sơn là một Trung Tướng của Hồng Quân Trung Quốc, chỉ huy Đệ Bát Lộ Quân ở Diên An. Ông gốc người Thổ, đi tham gia kháng chiến với Mao Trạch Đông. Năm 1945, khi Hồ Chí Minh quyết định khởi nghĩa, đã xin Mao Mao Trạch Đông gởi cho một tướng giỏi để huấn luyện và cố vấn về quân sự. Mao Trạch Đông liền biệt phái Tướng Nguyễn Sơn sang. Tướng Nguyễn Sơn đến Pắc-Bó một thời gian ngắn thì có sự lủng củng giữa Võ Nguyên Giáp và Tướng Nguyễn Sơn. Tướng này cho rằng Võ Nguyên Giáp không biết gì về quân sự nên coi thường. Mỗi lần Võ Nguyên Giáp thuyết trình về quân sự thì Tướng Nguyễn Sơn ngồi ngủ. Sau khi cướp được chính quyền, để chấm dứt sự xích mích giữa hai bên, Hồ Chí Minh liền cử Tướng Nguyễn Sơn làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ, nhưng hạ quân hàm xuống Thiếu Tướng. Mao Trạch Đông có hỏi lý do hạ quân hàm, Hồ Chí Minh trả lời rằng tại Việt Nam lúc đó cấp bậc Thiếu Tướng là cao nhất.

Năm 1947, khi miền Trung từ Quảng Bình trở vào bị Pháp chiếm, Tướng Nguyễn Sơn phải trở về lại Bộ Tổng Tư Lệnh. Năm 1948, Hồ Chí Minh lại cử Tướng Nguyễn Sơn vào Thanh Hóa làm Chủ Tịch Ủy Ban Kháng Chiến Liên Khu IV, gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Tướng Nguyễn Sơn đã giữ vững ba tỉnh này, Pháp chiếm không được.

Nguyễn Sơn là một tướng tài, đẹp trai và lịch thiệp, nên đi đến đâu đều được các cô các bà bám chặt. Ông ở chỗ nào ít lâu là có vợ ở chỗ đó. Cuộc đời của ông có khoảng 15 bà vợ. Khi ông vào Nghệ An, cô Đinh Thị Kim Hoài, em gái của Thượng Tọa Thích Minh Châu, rất thích ông. Ít lâu sau, hai người lấy nhau, mặc dầu lúc đó ông đã có khoảng 13 hay 14 bà vợ rồi. Sau này, Hồ Chí Minh đã ra lệnh thủ tiêu Tướng Nguyễn Sơn, vì tướng này đã coi thường Võ Nguyên Giáp và Bộ Chính Trị và hay bất tuân thượng lệnh.

Đinh Văn Linh, em của Thích Minh Châu, là một Đại Tá trong bộ đội Việt Cộng, từng làm Đại Sứ của Hà Nội ở Bắc Kinh và sau về làm Chủ nhiệm nhật báo Quân Đội Nhân Dân của Việt Cộng. Khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Đinh Văn Linh là người đầu tiên được Việt Cộng đưa vào Saigon để tiếp thu.

Một người làng của Thích Minh Châu cho biết Thích Minh Châu đã gia nhập Mặt Trận Việt Minh vào đầu thập niên 40, khi Mặt Trận này mới thành lập. Nhóm của ông thường họp tại chùa Cẩm Linh, Diệc Cổ Tự hay trụ sở của Hội Nghiên Cứu Phật Học Trung Kỳ ở trong nội thành của thành phố Vinh.

Một tăng sĩ Phật Giáo đã công khai phản đối việc dùng chùa chiền để làm nơi hội họp bí mật của nhóm nói trên là Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu. Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu tên thật là Trương Thế Giám, trụ trì ở chùa Phước Hòa, Sầm Sơn, Thanh Hóa, là người thông thạo cả Hán học lẫn Tây học. Ông đã đào tạo rất nhiều tu sĩ Phật Giáo. Ông thường đến dạy cho các tăng ni và Phật tử ở Vinh về Phật học. Ông còn mở một lớp "Cours d'Aldulte" (lớp dạy cho người lớn) ở Vinh để dạy Pháp Văn cho những người lớn tuổi muốn học thêm Tây học. Ông biết chuyện một số người đã dùng chùa và trụ sở của Phật Giáo hội họp làm chính trị nên lên tiếng phản đối. Ông bị hăm dọa. Các bạn đồng môn vớl ông như Hà Huy Tập, Trần Văn Tăng đều gia nhập Đảng Cộng Sản, nhưng ông chống đối quyết liệt. Vào khoảng năm 1947, ông có liên hợp với Linh mục Hoàng Quỳnh ở Phát Diệm thành lập Mặt Trận Liên Tôn để đối phó với những sự quấy phá và lộng hành của Mặt Trận Việt Minh. Năm 1954, khi Hiệp Định Genève ký kết, ông đã liên lạc với các làng công giáo chung quanh để tìm cách di cư vào Nam nhưng đi không lọt. Trong cuộc đấu tố năm 1957, ông bị chôn sống.

Thượng Tọa Thích Minh Châu ở với vợ là Lê Thị Bé được 5 năm, sinh được hai người con, một trai và một gái. Người con trai đầu lòng tên là Đinh Văn Sương. Người con gái tên là Đinh thị Phương (tôi không nhớ tên lót chính xác). Khoảng năm 1943, ông bỏ vợ đi vào Huế làm thừa phái (thư ký) Tòa Khâm rồi tiếp tục học ở trường Khải Định Huế cho đến khi đậu Tú Tài Toàn Phần. Từ đó ông ít khi trở về quê thăm vợ con. Vợ ông phải làm việc rất vất vả để nuôi con. Tài liệu nói về Thích Minh Châu của Đại Học Vạn Hạnh cho biết đến năm 1948 ông xuất gia, vào tu ở chùa Từ Đàm và học Trường An Nam Phật Học ở Huế. Nhưng những người thân cận với gia đình ông nói rằng ông xuất gia trước khi Việt Minh cướp chính quyền. Ông được gởi đi du học Ấn Độ vào năm 1952 và đậu Tiến Sĩ Triết Học tại đại học Bihar ở Ấn. Đi cùng với ông có Nguyễn Đình Kỳ, nhưng Nguyễn Đình Kỳ lại Ấn Độ và đã chết bên đó. Thích Minh Châu trở về miền Nam Việt Nam năm 1964, sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị Hoa Kỳ lật đổ.

Trong cuốn "Những Vấn Đề Trong Đạo Phật" Tập 2, Thượng Tọa Thích Chánh Lạc, hiện trụ trì tại chùa Như Lai ở Colorado, Hoa Kỳ, có cho biết ba mươi mấy năm về trước (cuối thập niên 50?), chính ông là người hàng tháng về Huế thu tiền các Phật tử cúng để gởi cho các thầy Thiện Ân, Minh Châu và Trần Quang Thuận đang du học ở ngoại quốc.

Ấn Độ dưới thời Tổng Thống Jawaharlal Nehru là một quốc gia thân Bắc Việt và chống Việt Nam Cộng Hòa. Vì vậy, Việt Nam Cộng Hòa đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Ấn Độ, ở Ấn Độ lúc đó chỉ có Tòa Đại Sứ Bắc Việt. Cán bộ Việt Cộng hoạt động ở New Delhi rất mạnh. Trong thời gian du học ở Ấn Độ, Thích Minh Châu đã được Tòa Đại Sứ Việt Cộng ở đây khuyến khích và giúp đỡ về mọi phương diện. Ông đã sinh hoạt thường xuyên với các nhân viên sứ quán và lãnh sự của Việt Cộng như là đảng viên. Vì thế, việc trở về miền Nam của Thượng Tọa Thích Minh Châu rất gay cấn. Phủ Đặc Ủy Trung ương Tình Báo và Tổng Nha Cảnh Sát đã đưa nhiều tài liệu chứng minh ông hoạt động cho Việt Cộng ở Ấn Độ, trong đó có cả tấm hình ông bắt tay Hồ Chí Minh khi Hồ Chí Minh sang thăm Ấn Độ. Nhưng Viện Hóa Đạo đã can thiệp mạnh vì Phật Giáo đang cần người điều khiển một viện đại học của Phật Giáo sắp thành lập. Các Đại Đức khác không đủ bằng cấp hay khả năng để đảm nhận chức vụ này. Cuối cùng, Tướng Nguyễn Khánh đã nhượng bộ sau khi Viện Hóa Đạo cam kết không để cho Thích Minh Châu hoạt động chính trị. Tướng Nguyễn Khánh vốn là con cưng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, rất sợ bị tố là dư đảng Cần Lao, nên ông đã nhượng bộ nhiều yêu sách vô lý của Phật Giáo. Tuy có lời cam kết như vậy, nhưng sau khi nhận chức Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, Thượng Tọa Thích Minh Châu đã cho lập ngay một chi bộ đặc công Việt Cộng sinh hoạt tại viện này, còn Thượng Tọa Thích Trí Quang gởi Nguyễn Trực, mang quân hàm Trung úy Việt Cộng, vào làm Bí Thư Chi Bộ và kiểm soát hoạt động của Đại Học Vạn Hạnh. Mỗi lần nhóm cán bộ nằm vùng nói trên đi về Huế họp với Khu ỦyTrị - Thiên - Huế để nhận chỉ thị, cơ quan tình báo Việt Nam Cộng Hòa đều theo dõi và thông báo cho Viện Hoá Đạo Ấn Quang biết. Cơ quan an ninh không bắt tổ đặc công này vì sợ đụng chạm đến Phật Giáo và muốn duy trì đường dây đó để theo dõi các đường dây khác.

Vợ của Thích Minh Châu là Lê Thị Bé đã hoạt động tích cực trong Hội Phụ Nữ Cứu Quốc khi Việt Minh cướp chính quyền vào năm 1945 và sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Sau 30.4.1975, Lê Thị Bé được Đảng cấp giấy phép cho vào Saigòn thăm chồng là Thượng Tọa Thích Minh Châu, nhưng chỉ được phép ờ lại Sai gon 10 ngày mà thôi. Trong dịp này bà có đến thăm một vài gia đình quen thân cũ đã di cư vào Nam năm 1954. Đảng không muốn dân chúng biết lai lịch của Thượng Tọa Thích Minh Châu để bảo vệ uy tín của ông và xử dụng ông vào công tác Phật Giáo vận quan trọng sau này. Quả thật người Việt ở trong và ngoài nước, kể cả các tăng sĩ lớn tuổi, ít ai biết được những bí mật về cuộc đời của Thượng Tọa Thích Minh Châu.

Khi được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đưa về làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, ông đứng trung dung, không tham dự vào cuộc tranh chấp giữa Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang. Theo sự công bố của Việt Cộng sau 30.4.1975, Thượng Tọa Thích Minh Châu là cán bộ hoạt động nội tuyến của Việt Cộng và Viện Đại Học Vạn Hạnh là cơ sở hoạt động nội thành của họ. Phủ Đặc Ủy Trung ương Tình Báo, Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia và cơ quan tình báo Hoa Kỳ đều biết rõ hoạt động của tổ chức nội tuyến này, nhưng chỉ cài người vào để theo dõi chứ không bắt, có lẽ vì sợ đụng chạm đến Phật Giáo. Hơn nữa, hoạt động của tổ chức trí vận này không gây tác hại nghiêm trọng về mặt chính trị như hoạt động của chùa Ấn Quang nên có thể tạm duy trì để khám phá các đường dây hoạt động liên hệ. Dân chúng chỉ thấy rõ những bộ mặt thật ẩn nấp đàng sau Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 30.4.1975, khi Ban Giảng Huấn và sinh viên Đại Học Vạn Hạnh được Nguyễn Trực điều động, đã kéo nhau ra Ngã Tư Bảy Hiền đón "quân đội giải phóng".

Không như Thượng Tọa Thích Trí Quang, Thượng Tọa Thích Minh Châu là một cán bộ có kỷ luật, luôn hành động đúng theo chỉ thị của Đảng chớ không hành động theo ý muốn và sáng kiến cá nhân, nên rất được tin dùng. Sau khi một số tăng sĩ cao cấp của Giáo Hội Phật Giáo bị bắt vào ngày 4.6.1977, ông cùng với Võ Đình Cường kết hợp với Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống và Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, chuẩn bị đưa Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang vào quốc doanh.

Trong cuộc vận động thành lập Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước, ông làm việc rất tích cực. Mọi sự phản kháng của nhóm Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Thích Thông Bửu và Thích Thuyền Ấn đều được ông báo cáo đầy đủ. Có lần ông báo cáo đích danh Thượng Tọa Thích Quảng Độ là người phá hoại công cuộc thống nhất Phật Giáo.

Hiện nay, mặc dầu Hòa Thượng Thích Trí Tịnh được đưa lên làm Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh, nhưng trong thực tế, Hòa Thượng Thích Đức Nhuận (của miền Bắc, vừa qua đời trong tháng 1/1994) điều hành phần Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh ở miền Bắc, còn Hòa Thượng Thích Minh Châu điều hành phần Giáo Hội quốc doanh ở miền Nam. Ông còn điều khiển một Trường Cao Cấp Phật Học ở 716 đường Nguyễn Kiệm (tức đường Võ Di Nguy nối dài cũ), Phú Nhuận, huấn luyện các tăng ni về Phật học dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lê và cũng là giảng viên thường trực về môn này cho Trường Cao Cấp Phật Học tại chùa Quán Sứ Hà Nội.

Tính tình hòa nhã, không hiếu động, luôn tuân theo đường lối của Đảng, ông đã làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó trong công tác trí vận ở miền Nam Việt Nam trước đây và kết hợp các tông phái Phật Giáo tại Việt Nam thành một Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh thống nhất trên toàn quốc. Ông là một tăng sĩ có uy tính nhất đối với Đảng và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam hiện nay. Mặc dầu đã góp công lớn trong việc làm tan rã Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang, ông vẫn được một số Phật tử của Giáo Hội này quý mến và tôn sùng!

Thượng Tọa Thích Trí Quang: Đại náo cửa thiền.

Thượng Tọa Thích Trí Quang tên thật là Phạm Quang sinh năm 1922 tại làng Diêm Điền (còn được gọi là làng Nại Hiên hay làng Kẻ Nại ) ở phía tây ngoại ô thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Đây là một làng nổi tiếng có nhiều người hoạt động cho Việt Cộng. Các cán bộ cộng sản của làng này cũng thuộc vào loại quá khích và sắt máu. Năm 1885, khi Phong Trào Văn Thân nổi lên, chính dân làng Diêm Điền và làng Đồng Đình đã tiến vào đốt nhà thờ Sáo Bùn của Công Giáo ở phía Nam thành Phố Đồng Hới, thiêu luôn mấy trăm giáo dân ở trong đó. Số giáo dân còn sống sót phải bỏ làng chạy về phía Bắc thành phố Đồng Hới và về sau lập một giáo xứ mới tại đây lấy tên là giáo xứ Tam Tòa. Sự thù ghét Công Giáo của dân làng Diêm Điền đã in sâu vào tâm trí của Thượng Tọa Thích Trí Quang từ lúc ông còn niên thiếu.

Dân làng Diêm Điền chứa chấp du kích Việt Cộng. Trong thời gian Pháp chiếm đóng Đồng Hới, từ 1947 đến 1954, ít ai dám đi sâu vào làng Diêm Điền, mặc dầu làng này ở sát phía Tây thành phố và bên làng có đồn của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam trấn đóng. Rất nhiều người bị mất tích khi đi vào làng Diêm Điền.

Gia đình ông có bốn anh chị em: Phạm Quang, Phạm Minh, Phạm Chánh và Phạm Đại. Bốn người em của ông chỉ học tới sơ học (lớp 3), đã gia nhập bộ đội Việt Cộng từ 1946. Phạm Chánh có cấp bậc Trung Sĩ, chỉ huy một tiểu đội du kích của Việt Cộng, đã bị Pháp bắn chết ở Đức Phổ, phía Tây thành phố Đồng Hới vào ngày 4.6.1947 khi mới 21 tuổi. Đây là người đã được một vài "sử gia" Phật Giáo mô tả là "một trong những lãnh tụ kháng chiến"! Phạm Đại là một y tá bộ đội đã ở lại miền Bắc sau khi Hiệp Định Genève được ký kết.

Sau khi Phạm Chánh qua đời, vợ của Phạm Chánh từ chiến khu trở về xin cấp giấy phép hồi cư để phụng dưỡng bố mẹ chồng ở Diêm Điền. Thiếu úy Huỳnh Công Tịnh, Trưởng Phòng II của Trung Đoàn Nguyễn Huệ đóng ở Đồng Hới, đã cứu xét đơn, bắt cô ta làm tờ cam kết không tiếp tục hoạt động cho Việt Minh, rồi cấp giấy phép cho hồi cư, nhưng thông báo cho Trưởng Đồn Diêm Điền biết và ra lệnh phải theo dõi vì đây là một thành phần nguy hiểm. Vợ của Phạm Chánh là một người con gái có nhan sắc, mới trở về nhà cha mẹ chồng được một hai tuần thì đã lân la đến khu đồn Diêm Điền đùa cợt tình tứ với các binh sĩ trong đồn. Ít lâu sau, cô ta bắt bồ được với anh Trướng Đồn. Sau nhiều lần tiếp xúc, anh Trưởng Đồn thấy có ta có những hành vi khả nghi như hay lấm lét quan sát các vị trí chiến đấu quanh đồn, hay hỏi về tình trạng trong đồn, theo dõi các cuộc hành quân... nên anh ta tương kế tựu kế và báo tin cho Thiếu úy Huỳn