← Quay lại trang sách

Chương III TƯƠNG QUAN GIỮA CÔNG GIÁO, CAO ĐÀI, PHẬT GIÁO HÒA HẢO VÀ CỘNG SẢN VIỆT NAM

Lịch sử cho thấy ba tôn giáo tại Việt Nam chống Cộng Sản mạnh mẽ nhất là Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo. Khi Việt Minh cướp chính quyền vào năm 1945, có một số chức sắc và tín đồ của ba tôn giáo này đã tham gia Mặt Trận Việt Minh với tư cách cá nhân vì lầm tưởng đó là một lực lượng chống ngoại xâm. Nhưng khi nhận ra được bộ mặt thật của Đảng Cộng Sản Đông Dương, đa số đã từ bỏ Mặt Trận Việt Minh.

Tại sao Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo không gia nhập Mặt Trận Việt Minh?

Trước hết, Mặt Trận Việt Minh chỉ là mặt nổi của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Các nhà lãnh đạo ba tôn giáo nói trên đều nhận thức rằng chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa vô thần, không dung hợp với các tôn giáo. Nếu cần phải có sự liên kết với các tôn giáo để chống xâm lăng, Cộng Sản chỉ liên kết trong giai đoạn mà thôi. Cuối cùng, Cộng Sản cũng thanh toán tôn giáo. Karl Marx đã từng nhận định:

"Tôn giáo là hơi thờ của tạo vật quằn quại, là trái tim của thế giới không trái tim, là tinh thần của thời đại không tinh thần. Nó là thuốc phiện của dân chúng."

Sau đó Karl Marx tuyên bố:

"Xóa bỏ tôn giáo, một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là đòi hỏi hạnh phúc thật sự của nhân dân."

Nói một cách khác, Karl Marx cho rằng tôn giáo chỉ là một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân. Vậy phải hủy bỏ tôn giáo đi mới có thể đem lại hạnh phúc cho nhân dân.

Trong khi đó, tín đồ của các tôn giáo đều tin rằng tôn giáo là con đường giải thoát của nhân loại. Bauldelaire đã nói:

"Dù không có Thượng Đế đi nữa, tôn giáo vẫn thánh thiện và thần thánh."

Ngoài sự bất dung hợp giữa tôn giáo với chủ nghĩa cộng sản, sự tráo trở và phản bội của Đảng Cộng Sản Đông Dương đã làm cho Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo dứt khoát với Việt Cộng.

Sau khi Hồ Chí Minh cướp được chính quyền tháng 8 năm 1945, tình hình trong nước rối loạn, bên trong các đảng phái quốc gia chống đối mạnh mẽ vì cho rằng Việt Minh đã cướp công của họ, bên ngoài Pháp bắt đầu mở cuộc tấn công để chiếm lại Đông Dương. Trong tình thế này, Hồ Chí Minh đã giả vờ thỏa hiệp với các đảng phái quốc gia và các tôn giáo để rảnh tay thương lượng với Pháp. Ngày 1.1.1946, Hồ Chí Minh thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Lâm Thời với các đảng phái quốc gia, dành cho các đảng phái quốc gia 5 ghế:

- Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân Chính): Bộ Trưởng Ngoại Giao.

- Huỳnh Thúc Kháng: Bộ Trưởng Nội Vụ.

- Trần Đình Chi (Việt Cách): Bộ Trưởng Xã Hội và Y Tế.

- Bồ Xuân Luật (Việt Cách): Bộ Trưởng Canh Nông.

- Chu Bá Phượng (Việt Quốc): Bộ Trưởng Kinh Tế.

Ngoài ra, Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) được giữ chức Phó Chủ Tịch, còn Vũ Hồng Khanh (Việt Quốc) giữ chức đồng ủy Viên Quốc Phòng với Võ Nguyên Giáp. Nhưng trong thực tế, công an và bộ đội đều nằm trong tay Đảng Cộng Sản Đông Dương.

Ngày 6.3.1946, Hồ Chí Minh ký thỏa ước sơ bộ với Pháp để làm kế hoãn binh. Thỏa hiệp xong với Pháp, Hồ Chí Minh quay lại thanh toán các đảng phái quốc gia và các tôn giáo. Hai vụ tàn sát có quy mô nhất là hai vụ sau đây:

Vụ thứ nhất xẩy ra vào đêm 27.6.1946. Để cho các đảng phái và các tôn giáo không nghi ngờ và đề phòng, ngày 7.5.1946 Hồ Chí Minh cho lập Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam và kêu gọi các tôn giáo và các đảng phái quốc gia tham gia để chống Pháp. Bất thần, trong đêm 27.6.1946, Hồ Chí Minh ra lệnh cho bộ đội và công an tấn công các cơ sở tôn giáo và đảng phái quốc gia được xếp vào loại "phản động" trên toàn quốc, giết hoặc đem đi thủ tiêu các lãnh tụ và cán bộ của các tổ chức này. Con số bị giết tại chỗ hoặc bị thủ tiêu lên đến khoảng 50.000 người. Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh chạy trốn qua Trung Hoa.

Vụ tàn sát thứ hai xẩy ra vào đêm 19.12.1946 còn khốc liệt hơn. Ngày 18.12.1946, Bộ Tư Lệnh Pháp thấy có nhiều chuyện bất thường trong việc điều quân của Việt Minh tại Hà Nội. Nhiều chướng ngại vật được dựng lên trong thành phố, các đơn vị Tự Vệ được tập trung về bố trí nhiều nơi, tình hình trở nên nghiêm trọng. Bộ Tư Lệnh Pháp liền ra mật lệnh cho các kiều dân Pháp tập trung vào các khu vực gần các trại lính Pháp để dễ bảo vệ, đồng thời gởi thư cho Hoàng Hữu Nam phản đối thái độ khiêu khích của các toán Tự Vệ. Vào khoảng 20 giờ ngày 19.12.1946, Hồ Chí Minh ra lệnh cho nổ súng trên toàn thành phố Hà Nội, vừa tấn công các đồn của Pháp vừa lùng bắt các lãnh tụ và cán bộ của các đảng phái và tôn giáo. Số người bị giết lần này còn cao hơn lần trước. Nhà cách mạng Trương Tử Anh đã bị giết trong đợt tấn công này. Cuộc tấn công cũng được mở rộng cùng một lúc trên toàn quốc.

Sau hai vụ đó, đa số các sĩ phu và tín đồ Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo đã từ bỏ Mặt Trận Việt Minh và Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam. Nhưng các tăng sĩ Phật Giáo vẫn còn tiếp tục ở lại trong tổ chức Hội Phật Giáo Cứu Quốc như chúng tôi đã trình bày ở Chương II.

Diệt xong hầu hết các thành phần được coi là phản động trong các tôn giáo và đảng phái, Hồ Chí Minh quay lại ve vãn tín đồ các tôn giáo để thu hút họ tham gia Mặt Trận Việt Minh. Nghị Quyết của Hội Nghị Trung ương Mở Rộng của Đảng Cộng Sản Đông Dương họp từ 15 - 17.1.1948, có ghi rõ về chính sách tôn giáo vận của Đảng như sau:

"Phải đi sâu vào các tầng lớp quần chúng Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, gây cơ sở tổ chức, đặt những hình thức tổ chức thấp như "hội cầu nguyện cho các chiến sĩ", "hội cầu nguyện cho nước độc lập", v.v. Cải thiện đời sống cho đồng bào có đạo, kéo họ khỏi ảnh hưởng chính trị của bọn đội lốt tôn giáo làm bậy."

"Về tuyên truyền nên dựa vào những điều dạy trong thánh kinh mà cổ động nhiệm vụ cứu nước, phải phát hành một cuốn sách gồm những tài liệu, tranh ảnh, nêu sự tàn phá của giặc Pháp đối với đồng bào có đạo. Vạch cho giáo dân thấy rõ kháng chiến thì sống, khuất phục thì chết, tham gia tổ chức là có quyền lợi thực tế. Đặc biệt chú ý không đụng chạm đến tôn giáo tín ngưỡng của giáo dân.

"Trong số cha cố, tu sĩ cũng có nhiều tầng lớp, nhiều xu hướng khác nhau. Chú ý lớp tông đồ hay kẻ giảng (cathéchiste) đời sống thường khổ sở, có thể gần gũi và đào tạo thành cán bộ tốt. Đối với những cha cố có tinh thần yêu nước hay trung lập, nên đưa vào Ban Chấp Hành Liên - Việt, "Hội ủng hộ kháng chiến". Đối với những phần tử phản động, chính sách đoàn kết một chiều là sai, phải thẳng tay trừng trị những hành động quấy rối và chia rẽ giáo dân, chia rẽ dân tộc."(2)

Nhưng sau khi cướp được chính quyền rồi, Đảng Cộng Sản Việt Nam trở mặt ngay, quay lại đàn áp thẳng tay các tôn giáo. Hà Nội đã gởi khoảng 200 công an qua Tiệp Khắc học về cách thức khống chế các tôn giáo và cho ấn hành cuốn Chủ Nghĩa Vô Thần Khoa Học do một số giáo sư biên soạn để làm kim chỉ nam cho các cán bộ và công an cách thức khống chế các tôn giáo.

Vì thế, Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo không đứng chung hàng ngũ với Cộng Sản.

TƯƠNG QUAN GIỮA CÔNG GIÁO VÀ CỘNG SẢN VIỆT NAM

XÁC ĐỊNH DANH TỪ

Lục soát trong các cuốn tự điển cũng như niên giám bằng ngoại ngữ trên thế giới hiện nay chúng ta không thấy có tôn giáo nào có tên là "Thiên Chúa Giáo" hay "đạo Thiên Chúa". Những người theo đạo Chúa Jesus Christ được gọi là Chrétien (Pháp) hay Christian

Chữ Christus (Latin), Le Christ (Pháp) hay Jesus Christ (Anh), nghĩa là Chúa Cứu Thế hay Chúa Giêsu thành Nazareth. Chữ Christus trong tiếng Latin được người Tàu phiên âm ra chữ Hán là 耶穌. Nếu đọc đúng giọng Tàu là Ki-tô, nhưng nếu đọc theo lối Hán Việt thì thành Gia-Tô. Cũng vậy, chữ Buddha khi phiên âm ra chữ Hán là 佛陀 người Tàu vẫn đọc là Bu-đa, nhưng người Việt đọc thành Phật Đà. Ngày nay, người Công Giáo phiên âm thẳng từ tiếng Latin, không qua lối Hán Việt, nên gọi là Ki-tô

Giáo Hội La Mã được người Việt Nam gọi là Giáo Hội Công Giáo, vì dịch ở chữ Ecclesia Catholica trong tiếng Latin. Nhiều người lầm tưởng rằng "công giáo" là đạo nhà nước hay quốc giáo. Sự thật chữ Catholic gốc tiếng Hy Lạp là Katholikos, có nghĩa là hoàn toàn, tất cả và tiếng Latin là Catholicus, có nghĩa là phổ biến (universal), chung (general). Chữ Ecclesia Catholica trước tiên lấy trong Kinh Tin Kính do các Tông Đồ của Chúa Giêsu đặt ra trước khi lên đường đi rao giảng tin mừng để có sự thống nhất về các điều buộc phải tin mới được chịu phép rửa. Trong kinh này có câu: "Credo in Spiritum Sanctum, Santam Ecelesiam Catholicam... "(I believe in the Holy Spirit, the Holy Catholic Church), có nghĩa là "Tôi tin Đức Chúa Thánh Thần, tin có một Giáo Hội Thánh thiện và Công Giáo (hay phổ biến)". Kinh Tin Kính này được gọi là Kinh Tin Kính của các Tông Đồ (Apostles' Creed).

Năm 325, một Đại Công Đồng (Great Council) đã được tổ chức tại thành Nicaea từ ngày 20.5.325, gồm tất cả các Giám Mục trên thế giới. Sau hơn một tháng thảo luận, Đại Công Đồng đã đưa ra một Kinh Tin Kính thứ hai, gọi là Kinh Tin Kính Công Đồng Nicaea (Nicene Creed), trong đó có câu: "Et unam, sanctam, catholicam et apostolicam Ecclesiam" (We believe in one, holy, catholic and apostolic Church), có nghĩa là "Chúng tôi tin có một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền ". Kinh Tin Kính này được đọc hàng ngày trong thánh lễ của Giáo Hội Công Giáo.

Nguồn gốc của chữ Ecclelica Catholica phát xuất từ hai Kinh Tin Kính này và có nghĩa là một Giáo Hội phổ biến (universal), một Giáo Hội chung (general) cho mọi người (chứ không phải chỉ là đạo dân tộc). Sở dĩ các linh mục thừa sai đã dịch chữ "Catholicus" là "Công Giáo" vì trong chữ Hán chữ CÔNG có nghĩa là "việc chung", "mọi người" (xem Tự Điển Hán Việt của Đào Duy Anh). Dùng chữ CÔNG để dịch chữ Catholicus trong tiếng Latin vừa sát nghĩa, vừa vắn gọn, và chữ Ecclesia Catholica đã được dịch là Giáo Hội Công Giáo. Nếu dùng chữ "Thiên Chúa Giáo", khi dịch ra tiếng Latin, tiếng Anh hay tiếng Pháp, không có chữ tương đương. Tuy nhiên, những người Việt Nam ngoài Công Giáo quen dùng chữ "Thiên Chúa Giáo" để chỉ những người theo đạo Chúa Giêsu Kitô, nên một đôi khi chúng tôi cũng tạm dùng theo thói quen này.

LÝ DO NGƯỜI CÔNG GIÁO KHÔNG THEO CỘNG SẢN

1 - Giáo Hội Công Giáo đã lên án chủ nghĩa vô thần

Giáo Hội Công Giáo đã ban hành rất nhiều thông điệp phi bác chủ nghĩa vô thần, đặc biệt là Thông Điệp pini Redemtoris 19.3.1937 của Đức Giáo Hoàng Pio XI. Trong Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Giáo Hội Công Giáo xác định lại một lần nữa:

"Trung thành với Thiên Chúa cũng như với con người, Giáo Hội không thể không tiếp tục phi bác với nỗi đau buồn và với tất cả sự cương quyết, như đã từng phi bác, những chủ thuyết vô thần và những hành động nguy hại đi ngược lại lý tính và kinh nghiệm chung của con người cũng như làm cho con người mất đi sự cao cả bẩm sinh của mình. "

Hồ Chí Minh đã thấy rõ điều đó. Trong văn thư ngày 2.3.1947 phúc đáp thư đề ngày 17.2.1947 của Đức Giám Mục Lê Hữu Từ khiếu nại việc Việt Cộng bắt giam các tự vệ Công Giáo, Hồ Chí Minh đã viết:

"Tôi có nhận được một ít tài liệu. Sau khi nghiên cứu kỹ, thì thấy rõ ba điều:

1. Đồng bào công záo rất ghét thực zân Fáp, rất yêu nước.

2. Đồng bào công záo ghét cộng sản.

3. Một số đồng bào công záo nhẹ zạ, vì vậy có người đã lợi dụng chỗ đó mà gây mối chia rẽ. Bọn này nói: chính phủ là Việt Minh, Việt Minh là cộng sản.

Điểm 2, lý thuyết Zuy Thần và học thuyết Zuy Vật không hợp nhau, là lẽ tất nhiên... "(3)

Hồ Chí Minh không biết gì về ngữ học, đã nhiều lần cổ võ lối viết Việt ngữ như trên để biến dần di sản quốc ngữ mà các linh mục thừa sai đã hình thành, nhưng không ai hưởng ứng. Đây cũng là một nỗ lực chống Công Giáo của Hồ Chí Minh.

2.- Bộ Giáo Luật cấm người Công Giáo tham gia các hội bị Giáo Hội lên án

Bộ Giáo luật của Giáo Hội La Mã ban hành năm 1917 cấm giáo sĩ và giáo dân không được tham gia các hội kín, các hội đáng nghi ngờ, các tổ chức phiến loạn đã bị Giáo Hội lên án. Cũng không được tham gia vào các hội cố ý tách khỏi quyền kiểm soát của Giáo Hội (điều 684). Các giáo dân không được kết hôn với những người đã gia nhập vào các hội vô thần (điều 1060 và 1240). Điều 1374 của Bộ Giáo Luật năm 1983 dự liệu một cách tổng quát hơn, cấm người Công Giáo không được gia nhập vào các hội có âm mưu chống lại Giáo Hội. Ai gia nhập sẽ bị phạt xứng đáng. Ai cổ động hay điều khiển các hội đó sẽ bị phạt cấm chỉ (không cho phép lãnh nhận bí tích Thánh Thể).

Trong Thư Luân Lưu số 34 ngày 10.10.1948, Đức Giám Mục Lê Hữu Từ đã nhắc nhở người Công Giáo không được vi phạm các điều luật vừa kể. Ngày 9.11.1951, Hội Đồng Giám Mục Đông Dương đã dựa vào tinh thần của Thông Điệp pini Redemtoris nói trên, cho phổ biến một Thư Chung cấm người Công Giáo không được tham gia các tổ chức của Cộng Sản. Với những sự quy định chặt chẽ như vậy, ít người Công Giáo nào dám gia nhập hay đi theo Đảng Cộng Sản Việt Nam

3.- Hồ Chí Minh đã khai chiến với Công Giáo khi còn lưu vong chống Pháp

Trong thời kỳ lưu vong chống Pháp, Hồ Chí Minh đã viết vô số bài vu khống và mạ lỵ Thiên Chúa Giáo. Các tài liệu này đã được đăng lại trong bộ Hồ Chí Minh Toàn Tập do nhà xuất bản Sự Thật ở Hà Nội ấn hành. Những luận điệu mà Hồ Chí Minh đã đưa ra để phi bác Công Giáo đang được nhóm nấp sau lưng Đỗ Mậu, Lê Trọng Văn và Lý Khôi Việt lặp lại.

Vì những lý do trên, giáo sĩ và giáo dân Công Giáo Việt Nam tẩy chay các tổ chức của Việt Cộng.

NHỮNG NỖ LỰC ĐÀN ÁP CÔNG GIÁO CỦA VIỆT CỘNG

a) Khởi đầu bằng chính sách ve vãn Công Giáo

Như chúng tôi đã nói ở trên, khi mới cướp được chính quyền, Việt Minh bị đánh phá tứ phía nên Hồ Chí Minh đã ve vãn các tôn giáo để sống còn. Ông vuốt ve cả Phật Giáo lẫn Công Giáo.

Khi tình hình Công Giáo miền Bắc đang gặp khó khăn thì ngày 1.10.1945, Linh Mục Lê Hữu Từ được Tòa Thánh La Mã cử đến nhận chức Giám Mục Giáo Phận Phát Diệm. Ngày 29.10.1945, ngài được tấn phong tại đây. Nhân dịp này Hồ Chí Minh đã gởi một phái đoàn chính phủ tới tham dự và một thư chúc mừng:

"Thưa Ngài,

Mừng đồng bào Công Giáo, vì từ nay các bạn đã được một vị lãnh đạo rất xứng đáng.

Đồng thời mừng cho nước ta vì tôi chắc rằng Ngài sẽ lãnh đạo đồng bào Công Giáo noi gương hy sinh của Đức Chúa mà hy sinh phấn đấu để giữ gìn quyền Tự Do và Độc Lập của nước nhà.

Kính chúc Ngài được luôn luôn an mạnh"(4)

Mặc dầu có những lời ve vãn và chúc tụng của Hồ Chí Minh, Đức Giám Mục Lê Hữu Từ hiểu rằng cần phải chuẩn bị để ứng phó với tình thế mới. Ngài cho lập ngay những cơ cấu mới, trong đó có cả Ủy Ban Quân Chính, Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam và Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Phạm Văn Đồng đã phải về ở Phát Diệm một tuần để nghiên cứu theo dõi và xoa dịu tình hình. Ông Huỳnh Thúc Kháng, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ lúc đó đã ký Nghị Định số 52/BNV ngày 6.4.1946 cho phép thành lập Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam. Tổ chức Liên Đoàn lan rộng một cách nhanh chóng trên toàn quốc.

Ngày 25.1.1946, nhân lễ bế mạc tuần Tĩnh Tâm của Giáo phận Phát Diệm, Hồ Chí Minh xuất hiện, ra đứng trước đồng bào Công Giáo và hô to: "Đức Chúa muôn năm!" Sau đó Hồ Chí Minh tuyên bố mời Đức Giám Mục Lê Hữu Từ làm cố vấn cho chính phủ.

Trong "Đơn xin cứu xét nhiều việc" đề ngày 26.5.1992 gởi nhà cầm quyền Hà Nội, Hòa Thượng Thích Huyền Quang đã viết:

"Cụ Hồ lãnh đạo Kháng Chiến chống Pháp, nhưng mỗi lần lễ Noel đến, cụ Hồ không quên gởi Thông điệp chúc mừng Noel, thân thiện với Thiên Chúa Giáo. Năm rồi Đài Phát Thanh Hà Nội có dành hai giờ văn nghệ, để cúng dường Giáng Sinh. Trong lúc đó, lễ Phật đản chúng tôi, không được nhà nước nói đến một lời nào mà còn làm khó dễ đủ thứ trong việc tổ chức lễ Phật đản. Tôi nghĩ, và có lẽ tôi nghĩ không sai: Ai mạnh thì Nhà nước coi trọng, ai yếu thì nhà nước xem khinh..."

Đọc qua đoạn này, người ta thấy rằng Hòa Thượng Huyền Quang đã viết lá đơn nói trên trong tình trạng mất bình tĩnh và có tinh thần bài bác Thiên Chúa Giáo. Sự thật, như chúng tôi đã trình bày ở Chương II, mỗi lần lễ Giáng Sinh, lễ Phật Đản hay Rằm Tháng Bảy, Hồ Chí Minh đều có gởi Thông Điệp chúc mừng đến các tín đồ liên hệ. Chúng tôi đã trích một phần thông điệp đề ngày 15 tháng 7 âm lịch năm Bính Tuất (tức 11.8.1946) của Hồ Chí Minh gởi Hội Phật Tử Việt Nam ở Chương II để chứng minh điều đó.

Về phía Công Giáo, Hồ Chí Minh cũng làm tương tự như thế. Vào dịp lễ Giáng Sinh, Hồ Chí Minh cũng đã gởi đến đồng bào Công Giáo những Thông Điệp với giọng điệu như đã viết cho Phật tử. Sau đây là một đoạn trong Thông Điệp ngày 24.12.1946 gởi đồng bào nhân ngày lễ Giáng Sinh:

"Gần 20 thế kỷ trước, một vị thánh nhân đã ra đời. Cả đời người chỉ lo cứu độ dân, hy sinh cho tự do, bình đẳng.

"Trong lúc này, thực dân Pháp gây cuộc chiến tranh, chúng mong cướp nước ta lần nữa. Chúng làm trái hẳn với lòng bác ái của Đức Giêsu

Hồ Chí Minh còn đi xa hơn nữa trong trò ảo thuật ve vãn Công Giáo. Cuối năm 1947, Hồ Chí Minh ra lệnh tiêu thổ kháng chiến, nhưng đồng bào Công Giáo Phát Diệm và Bùi Chu không chịu tuân hành. Ngày 20. 12. 1947, Hồ Chí Minh về huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và mời Đức Giám Mục Lê Hữu Từ đến dùng cơm trưa với ông và các Bộ Trưởng trong chính phủ. Trong dịp này, Hồ Chí Minh đã xin chịu phép rửa tội! Đức Giám Mục Hữu Từ kể lại như sau:

"Cơm xong, họ mời tôi lại cái ghế phản (đi-văng) có đặt sẵn hai cái gối để tôi cùng ông Hồ nói chuyện nằm nghỉ trưa. Nằm sát bên nhau, ông Hồ nói chuyện rỉ rón thân mật hết sức. Bỗng nhiên ông nắm chặt tay tôi và bằng một giọng run run ông nói: "Xin cụ làm Báptêm (Rửa tội) cho tôi để tôi cùng làm con Đức Chúa.

" Nghe thế tôi phải hết sức cầm mình ở bình tĩnh cho khỏi phát cười và nói: "Thật là vô cùng quý giá và bất ngờ cho tôi, tôi rất lấy làm sung sướng, nhưng vì là việc rất can hệ, phải phải biết đủ các lẽ đạo và nhiều điều kiện phải dự bị trước, nên để sau sẽ tính."(6)

b) Đàn áp Công Giáo từ 1946 - 1954

Bên ngoài Hồ Chí Minh ve vãn Công Giáo như trên, nhưng bên trong Hồ Chí Minh chuẩn bị để thanh toán. Hồ Chí Minh biết Công Giáo và Cộng Sản không bao giờ dung hợp được. Sau biến cố đêm 27.6.1946 nói trên, Việt Minh bắt đầu cho công an bắt giữ hoặc bắt cóc những thành phần Công giáo hoạt động tích cực cho các tổ chức Công Giáo tại mỗi địa phương.

Trên toàn quốc, có ba vùng có đông giáo dân tập trung được Việt Minh chú ý là Nghệ An (137 giáo xứ), Nam Định 117 giáo xứ) và Ninh Bình (32 giáo xứ). Nghệ An thuộc Giáo Phận Vinh, nắm trong vùng kiểm soát của Việt Minh nên không thể võ trang tự vệ được. Các giáo xứ chỉ có thể đối kháng thụ động, không cho Việt Minh chi phối vào các hoạt động của giáo phận và các giáo xứ. Giáo Phận Bùi Chu ở Nam Định và Giáo Phận Phát Diệm ở Ninh Bình nằm trong vùng tranh chấp giữa hai bên nên Hồ Chí Minh tìm cách lôi kéo hai giáo phận này đi theo Việt Minh. Cả hai Giáo Phận đã phải đối phó một cách khôn khéo để sống còn. Khi không còn thuyết phục được, Hồ Chí Minh cho lệnh tấn công.

Từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1946, Việt Minh cho mở các cuộc hành quân vào một số giáo xứ thuộc Giáo Phận Phát Diệm gọi là cuộc hành quân "vây bắt côn đồ". Cuộc hành quân này đã mang đi khoảng 5.000 người, cả giáo sĩ lẫn giáo dân. Những người bị bắt được đưa về giam ở Huyện Nho Quan, đồn điền Ria và sau đó chuyển về trại giam Đầm Đùn ở Thanh Hóa, trong số người bị giam có Linh mục Trần Đức Lại, chánh xứ Nam Biên. Hồ Chí Minh cũng đã cho phục kích mưu sát "Đức Cha Cố Vấn" ba lần, nhưng Ngài đều thoát nạn.

Trước tình trạng này, đồng bào Công Giáo ở hai Giáo Phận Bùi Chu và Phát Diệm không thể làm cách nào khác hơn là thành lập các tổ chức tự vệ. Các tổ chức tự vệ này được đặt dưới quyền điều khiển của một Tổng Bộ Chỉ Huy Tự Vệ Bùi Chu - Phát Diệm do ông Bùi Công Nga làm Chủ Tịch.

Phát Diệm thành lập một khu an toàn để bảo vệ giáo dân và các cơ sở của Giáo Phận. Đa số giáo dân tập trung ở Huyện Kim Sơn đều phải trông nhờ vào sự bảo vệ và giúp đỡ của tổ chức tự vệ Phát Diệm. Huyện này có 40 xã, 32 giáo xứ gồm các tổng Hồi Thuần, Quy Hậu, Hướng Đạo, Như Tân và Phát Diệm với dân số khoảng 150.000 người. Khu An Toàn Phát Diệm được thành lập nằm trong một vị thế địa dư rất thuận lợi cho việc phòng thủ: ba mặt được bọc bởi ba con rạch ngăn cách các giáo xứ Phát Ngoại, Phú Vinh Trung và Lưu Phương. Tòa Giám Mục và Nhà Chung nằm ở giữa. Tính đến tháng 2 năm 1947 đã có khoảng 60.000 người tản cư về vùng Phát Diệm. Riêng thị xã Phát Diệm đã phải chứa khoảng 30.000 người. Giáo dân đùm bọc lấy nhau.

Tổ chức Công Giáo Cứu Quốc trở thành một lực lượng vũ trang chống cả Việt Minh lẫn Pháp. Tổ chức đã cho người vượt biên đi tìm mua vũ khí. Hai Giáo Phận Phát Diệm và Bùi Chu cũng đã liên lạc được với Hoà Thượng Thích Thiện Chiếu ở Thanh Hóa và Thượng Tọa Thích Tâm Châu ở Ninh Bình thành lập Mặt Trận Liên Tôn chống Cộng.

Pháp thuyết phục Đức Giám Mục Lê Hữu Từ để cho Pháp đem quân đến bảo vệ khu Phát Diệm, nhưng Đức Giám Mục không đồng ý. Ngày 22.11.1947, Pháp cho máy bay đến bắn phá khu Phát Diệm, bắn đạn vào cả Nhà Chung để uy hiếp tinh thần đồng bào Công Giáo. Trong khi đó Việt Minh cho bộ đội vây các xã Văn Hải, Phúc Nhạc và Mưỡu Giáp, bắt đi 596 người, trong đó có 13 người bị xử bắn ở núi Cánh Diều. Bị tấn công từ cả hai phía, khu tự vệ Phát Diệm vẫn đứng vững.

Ngày 29.2.1948, Chủ Tịch Mặt Trận Việt Minh Tỉnh Bộ Ninh Bình có triệu lập một buổi họp liên tôn để trấn an dư luận về những vụ bắt bớ vừa qua. Ông nói rằng Mặt Trận Việt Minh không chủ trương diệt tôn giáo và "có một vài hiểu lầm tại nơi nọ nơi kia là do hạ cấp làm"!

Tình trạng căng thẳng kéo dài đến ngày 16.10.1949, khi Pháp bất thần đem quân chiếm Phát Diệm.

Sau này, Linh mục Hoàng Quỳnh có viết trên tạp chí Đời Sống ngày 22.12.1953 cho biết rằng trong thời gian chiến đấu chống Cộng Sản, đã có khoảng 5 ngàn thanh niên Công Giáo bi Việt Minh bắt giam ở các trại Đầm Đùn, Yên Lai và Kim Tân.

Khu Phát Diệm có Pháp đóng nên Việt Minh gặp khó khăn khi mở cuộc tấn công vào các giáo xứ, Việt Minh quay qua tấn công ở các vùng khác, đặc biệt là trận Phú Ninh ở Bùi Chu vào tháng 11 năm 1949. Bộ đội và công an Việt Minh đã bắt hết các thanh niên trong giáo xứ, chiếm nhà thờ và nhà cha xứ, nhưng Linh mục Nguyễn Duy Tôn trốn được. Ngày 19.11.1949, Pháp mở một cuộc hành quân đi ngang qua vùng này, dân làng Phú Ninh mới được giải thoát.

Trong thời gian chống Việt Minh và chống Pháp, khu Phát Diệm cũng đã che chớ được nhiều nhân vật quan trọng, giúp họ thoát được sự sát hại của Việt Cộng. Đặc biệt là trường hợp của các ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Trần Văn Chương.

Khoảng tháng 6 năm 1946, khi Hồ Chí Minh ra lệnh tàn sát các lãnh tụ đảng phái quốc gia thì ông Ngô Đình Diệm đến ẩn nấp ở nhà Linh mục Độ, Chánh xứ Tuy Hòa. Việt Minh biết được nên đến giả vờ mời ông đi họp rồi đưa lên giam tại Tuyên Quang. Sợ ông Diệm cũng bị sát hại như trường hợp của ông Ngô Đình Khôi, nhiều người đã báo tin cho đức Giám Mục Lê Hữu Từ nhờ can thiệp gấp. Đức Giám Mục Lê Hữu Từ đã cùng Linh mục Phạm Quang Hàm và ông Ngô Tử Hạ (sau làm Bộ Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh của Việt Minh) đến gặp Hồ Chí Minh yêu cầu trả tự do cho ông Ngô Đình Diệm. Hồ Chí Minh giả vờ không biết gì chuyện bắt ông Diệm và hứa sẽ cho lệnh thả ra. Ít lâu sau, ông Diệm đưa đưa về Hà Nội gặp Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh mời ông Diệm làm cố vấn, nhưng ông Diệm từ chối, viện lý do xin về thăm gia đình rồi mới quyết định. Hồ Chí Minh chỉ thị trả tự do cho ông Diệm.

Ông Trần Văn Chương bị quản chế ở Yên Mô, đã tìm cách chạy thoát về khu an toàn Phát Diệm. Ông Chương đổi tên thành Tham Huệ và ở trong Trường Lý Đoán (Đại Chủng Viện) Phát Diệm còn bà Trần Văn Chương ở Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm. Một thời gian sau, Đức Giám Mục Hữu Từ cho người dẫn cả hai ông bà ra Hà Nội qua ngã Phủ Lý.

Ông Ngô Đình Nhu cũng đến tá túc ở Trường Lý đoán (Đại Chủng Viện) Phát Diệm khi bị Việt Minh lùng bắt. Nhân một đêm mưa gió, Bộ Chỉ Huy Phát Diệm đã dùng một chiếc xe tay che kín cho người kéo ông đi vào Thanh Hóa, nhà cha già Mai, Chánh xứ Tam Tổng. Đạp xe đạp đi kè kè một bên để dẫn đường cho người kéo xe và hộ tống ông Ngô Đình Nhu là một cậu thanh niên mặc áo tơi bằng lá và đội nón lá, đó là cậu Trần Kim Tuyến. Trần Kim Tuyến quê ở Tam Tổng nên rất rành đường sá ở khu này vì thế Bộ Chỉ Huy Phát Diệm đã giao cho cậu làm công việc dẫn đường và hộ tống ông Nhu. Cha già Mai đã nhờ Nguyễn Văn Châu, người Quảng Bình, đưa ông Nhu lên Bái Thượng và từ Bái Thượng đi theo tỉnh lộ 14 vượt rừng qua Lào. Khi hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu chấp chánh, Trần Kim Tuyến trở thành Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị, tức cơ quan mật vụ của ông Ngô Đình Nhu, còn Trung Tá Nguyễn Văn Châu làm Giám Đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.

Nhìn chung, trên toàn quốc, đa số các giáo xứ đều có thành lập các đơn vị tự vệ để chống sự xâm nhập hay tấn công của du kích Việt Minh.

c) Đàn áp Công Giáo từ 1954 đến 1975

1.- Ngăn cản và đàn áp đẫm máu cuộc di cư của người Công Giáo

Điều 14, đoạn b, của Hiệp Định Genève ngày 20.7.1954 quy định:

"Trong thời gian kể từ khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực đến ngày hoàn thành việc chuyển quân, nếu có những thường dân ở một khu thuộc quyền kiểm soát của bên này mà muốn sang ở vùng giao cho bên kia, thì nhà chức trách của khu trên phải cho phép và giúp đỡ sự di chuyển ấy.”

Trong Lời Tuyên Bố Cuối Cùng ngày 21.7.1954, ở đoạn 8 có nói:

"Phải triệt để thi hành những điều khoản trong hiệp định đình chỉ chiến sự nhằm mục đích bảo vệ tính mạng và tài sản của mọi người và nhất là phải để cho tất cả mọi người ở Việt Nam tự do lựa chọn vùng mình muốn sống."

Lúc đầu, Việt Cộng cho di cư khá dễ dàng. Người Công Giáo ý thức rằng không thể có tự do tôn giáo dưới chế độ cộng sản nên đa số quyết tâm ra đi. Về sau, số người bỏ làng mạc di cư vào Nam ngày càng đông, Việt Cộng thấy rằng nếu tình trạng này tiếp tục diễn ra, có thể làm suy yếu tiềm năng nhân lực và kinh tế của miền Bắc nên đã dùng nhiều biện pháp đàn áp dã man để ngăn chận. Nạn nhân chính của vụ đàn áp này đa số là người Công Giáo. Các ký giả Tây Phương đã viết khá nhiều về các cuộc đàn áp phong trào di cư với đầy đủ chi tiết. Sau đây là những vụ chính:

- Vụ Ba Làng: khoảng 8.000 giáo dân biểu tình trước nhà thờ Ba Làng đòi được quyền di cư, đã bị bộ đội và công an Việt Cộng xả súng bắn thẳng vào họ làm vô số người chết.

- Vụ Trà Lý: khoảng 2.000 giáo dân ra một cồn cát ở biển Trà Lý đợi tàu đến đón đi. Khi nước thủy triều dâng lên, mọi người bắt đầu xôn xao thì bộ đội ở trong bờ xả súng bắn ra khiến nhiều người bị chết trôi dạt trên sóng. Tiếng la kêu cứu vang cả một vùng trời. Tàu Le Capricieux và một vài tàu khác trông thấy đã đến cứu được 1445 người. Khoảng 600 người bị chìm dưới bể.

- Vụ Cửa Lò: Cửa Lò là vùng duyên hải nằm cách Hải Phòng chỉ khoảng 300 cây số, nhưng giáo dân không đi được vì bộ đội và công an canh gác rất kỹ. Em Mai Văn Thịnh, 12 tuổi, phải đánh lừa bằng cách tạo những đám cháy khắp nơi khiến bộ đội lo chữa cháy, nhờ đó 1156 dân làng xuôi thuyền đi được. Số phận em Mai Văn Thịnh không biết sau ra sao!

Kết quả: Đã có 860.206 người di cư được vào Nam, chia như sau:

- Thiên Chúa Giáo: 677.389 người (Công Giáo: 676.348 người, Tin Lành: 1.041 người)

- Phật Giáo: 182.817 người 2.

Giáo Hội Công Giáo miền Bắc từ 1954 - 1975

Sau cuộc di cư năm 1954, số giáo dân còn lại ở miền Bắc khoảng 750.000 người với 254 linh mục và 7 Giám Mục, chia làm 10 Giáo Phận. Ngoài ra, Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Jean Dooley cũng đã quyết định ở lại với Giáo Hội miền Bắc.

Việt Cộng đã ban hành nhiều biện pháp rất tinh vi để khống chế Giáo Hội Công Giáo. Trước hết, nhà cầm quyền quyết định cho ban hành một quy chế tôn giáo để giới hạn hoạt động của Giáo Hội Công Giáo. Để chuẩn bị dư luận cho việc công bố quy chế này Hà Nội đã mời một phái đoàn Công Giáo quốc doanh từ Ba Lan đến miền Bắc vào dịp lễ Phục Sinh năm 1955 để phối hợp với nhóm "Công Giáo cấp tiến" miền Bắc tuyên truyền về "tự do tôn giáo" tại các nước cộng sản. Phái đoàn đi gặp các Giám Mục Việt Nam và cho biết Ba Lan tuy theo chủ nghĩa xã hội nhưng Công Giáo vẫn được sinh hoạt bình thường.

° Sắc lệnh về tôn giáo

Ngày 14.6.1955 Hồ Chính Minh ban hành Sắc Lệnh số 234/SL về tôn giáo. Tuy đã chuẩn bị dư luận trước, nhưng khi Sắc Lệnh này vừa được công bố trên Nhật báo Nhân Dân số 488 ngày 15.8.1955 thì đã gặp ngay phản ứng mạnh mẽ của Giáo Hội Công Giáo miền Bắc vì các quyền tự do sống đạo và truyền đạo trong khoảng 100 năm qua không còn nữa. Sắc Lệnh quy định:

- Không được giảng đạo ngoài phạm vi nhà thờ. Cấm nói về tôn giáo trong các hội quán. Khi thuyết giảng trong các nhà thờ, giáo sĩ phải giảng về lòng yêu nước, nghĩa vụ công dân, sự phục tùng chính phủ và các đạo luật ban hành, ngay cả các đạo luật bài tôn giáo.

- Cho phép tôn giáo mở trường tư thục, nhưng phải dạy theo chương trình của chính phủ. Chỉ có thể dạy thêm giáo lý cho các học sinh muốn học.

- Tài sản của Giáo Hội do nhà nước quản lý. Các giáo sĩ chỉ được cấp một ít đất đai để sinh sống.

Để làm dịu bớt dư luận, Hà Nội lại cho mời phái đoàn Công Giáo quốc doanh Tiệp Khắc qua thăm Giáo Hội miền Bắc. Phái đoàn do ông Rostielov Petra cầm đầu đã đi thăm khắp các giáo phận miền Bắc. Ông nói rằng khi người Công Giáo thực hiện các kế hoạch của Nhà Nước và Mặt Trận Tổ Quốc là thực hiện "lý tưởng Công Giáo". Đức Giám Mục Trịnh Như Khuê không cho phép các linh mục trong phái đoàn làm lễ cho giáo dân mà chỉ cho phép làm lễ riêng ở nhà thờ Cửa Bắc. Thái độ này đã làm nhà cầm quyền Hà Nội tức giận.

Vào dịp lễ Giáng Sinh năm 19(?), chính phủ bắt phải đọc trong các nhà thờ thông điệp của Hồ Chí Minh nguyền rủa đế quốc

° Thành lập tổ chức Công Giáo quốc doanh

Linh mục Nguyễn Bá Trực tham gia kháng chiến từ 1945, được chọn làm đại biểu Quốc Hội đầu tiên của Việt Minh và là ủy Viên Thường Trực của Quốc Hội. Khi Pháp chiếm Bắc Việt, ông theo Việt Minh vào chiến khu và được cử làm Quốc Vụ Khanh của chính phủ, có nhiệm vụ liên lạc giữa chính phủ và Công Giáo. Ông đã nhiều lần được Hồ Chí Minh giao cho tiếp xúc với Đức Giám Mục Lê Hữu Từ ở Phát Diệm để giải quyết những vấn đề liên hệ đến khu tự trị này. Nhưng ông không đủ uy thế để thương lượng nên nhiều lần Hồ Chí Minh phải đích thân đến. Sau Linh mục Nguyễn Bá Trực, còn có hai linh mục nổi tiếng khác đã cộng tác với Cộng Sản, đó là Linh mục Vũ Xuân Kỹ và Linh mục Nguyễn Thế Vịnh. Linh mục Nguyễn Thế Vịnh sinh năm 1909 ở xứ Văn Hải, Phát Diệm, chịu chức linh mục năm 1936. Đầu tiên ông được bổ nhiệm coi sóc giáo xứ Hướng Đạo, rồi đến Phương Thượng và Quảng Phúc thuộc Giáo Phận Phát Diệm. Năm 1947, khi Việt Minh rút vào chiến khu, ông đã đi theo tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông được Hồ Chí Minh giao cho phụ trách công tác Công Giáo vận ở trong cũng như ngoài nước.

Sau khi chiếm được miền Bắc, Hồ Chí Minh cũng muốn biến Giáo Hội Công Giáo miền Bắc thành một Giáo Hội Công Giáo Tự Trị như ở Trung Quốc, nhưng sau nhiều lần thăm dò, Hồ Chí Minh thấy rằng miền Bắc vẫn còn có một Khâm Sứ Tòa Thánh, 7 Giám Mục, 254 linh mục và 750.000 giáo dân. Đa số giáo dân ở vào những khu tập trung, được tổ chức rất chặt chẽ, có tinh thần chống Cộng mạnh nên việc đối phó không dễ dàng như Phật Giáo. Kinh nghiệm của khu tự trị Phát Diệm trong thời kỳ kháng chiến bắt buộc Hồ Chính Minh phải thận trọng. Vì thế, Hồ Chí Minh quyết định chỉ lập một tổ chức song hành để quấy phá Giáo Hội Công Giáo.

Vào đầu năm 1955, Mặt Trận Tổ Quốc, hậu thân của Mặt Trận Liên Việt, đã quyết định cho triệu tập một Đại Hội Đại Biểu Công Giáo vào ngày 11.3.1955 tại Hà Nội để thành lập một tổ chức liên kết người Công Giáo miền Bắc. Các đại biểu tham dự đại hội đều do Mặt Trận Tổ Quốc chỉ định. Các linh mục Nguyễn Bá Trực, Nguyễn Thế Vịnh, Vũ Xuân Kỹ, Hồ thành Biên (miền Nam tập kết) và ông Ngô Tử Hạ đã vận động tích cực cho việc tổ chức Đại Hội. Sau hai ngày thảo luận, Đại Hội đã quyết định thành lập "ủy Ban Liên Lạc Công Giáo Yêu Tổ Quốc và Hòa Bình" và bầu linh mục quốc doanh Vũ Xuân Kỷ làm Chủ Tịch, linh mục quốc doanh Hồ Thành Biên làm Phó Chủ Tịch. Ba linh mục quốc doanh khác là Nguyễn Thế Vịnh, Phạm Quang Phước và Võ Thành Trinh làm ủy Viên Trung ương của ủy Ban. Nhiệm vụ chính của ủy Ban là hô hào giáo dân tham gia tích cực vào việc thực hiện các kế hoạch của chính phủ. Tuy được Nhà Nước yểm trợ nhưng ủy Ban không làm được việc gì quan trọng vì giáo dân tẩy chay.

Sau khi lập xong tổ chức Công Giáo quốc doanh nói trên, nhà cầm quyền coi các Giám Mục miền Bắc như không nữa, họ tiếp xúc thẳng với từng linh mục và kết hợp hoạt động qua ủy Ban Liên Lạc Công Giáo. Năm 1960, linh mục Phạm Hân Quynh đã lên tiếng chỉ trích các hành động gây chia rẽ trong nội bộ Giáo Hội Công Giáo của ủy Ban nên bị công an bắt đi cải tạo và quản thúc trong suốt 30 năm.

° Xiết chặt vòng kiểm soát

Cũng trong năm 1955, nhà cầm quyền cho triệu tập một Hội Nghị Công Giáo Toàn Quốc thứ hai tại Hà Nội, trong có 16 linh mục bị chỉ định phải đến tham dự. Trong hội nghị này, Mặt Trận Tổ Quốc đã đưa ra một thỉnh nguyện thư gửi Đức Giáo Hoàng yêu cầu "trừng trị bọn lợi dụng tôn giáo phục vụ đế quốc. " Thỉnh nguyện thư này mở màn cho việc đàn áp các giáo sĩ và giáo dân có tư tưởng đối kháng với chính sách tôn giáo của chính phủ và bị lên án là "tay sai đế quốc".

Trước hết, Việt Cộng hạn chế sự di chuyển của linh mục nên những giáo xứ không có linh mục thường không có nghi lễ tôn giáo cho giáo dân. Giáo dân nào muốn dự thánh lễ phải đi rất xa, có khi phải nghỉ lại đêm. Các giáo xứ ở Quảng Yên, Hòn Gay và Cẩm Phả có khoảng 40.000 giáo dân nhưng không có linh mục nào. Suốt năm này qua năm khác, giáo dân không được dự thánh lễ, kể cả các ngày lễ lớn như lễ Giáng Sinh hay lễ Phục Sinh.

Tại những nơi có linh mục, Việt Cộng cố tình sắp xếp các giờ lao động hay hội họp trùng với các giờ kinh hay giờ lễ để giáo dân không tham dự được.

Năm 1956, Nhà cầm quyền miền Bắc bắt đầu trục xuất dần các linh mục thừa sai ngoại quốc. Sau 1954, có khoảng 20 linh mục thừa sai đã tình nguyện ở lại với giáo dân miền Bắc, trong đó có Đức Khâm Sứ Jean Dooley. Số linh mục này lần lượt bị gọi đến và ra lệnh phải rời Việt Nam. Đầu năm 1959, Đức Khâm Sứ Jean Dooley đang đau nặng, cũng đã bị trục xuất qua ngả Nam Vang. Đến năm 1960, việc trục xuất các linh mục thừa sai coi như đã hoàn tất. Sự thiếu thốn linh mục càng trở nên trầm trọng hơn.

Đến giai đoạn thứ hai, Việt Cộng bắt đầu thanh toán các trường Công Giáo. Bỗng dưng các học sinh không công giáo từ các vùng kế cận đến ghi tên học trường Công Giáo rất đông. Nhiều trường rất mừng khi thấy hiện tượng này, không ngờ đó là một âm mưu thâm độc của nhà cầm quyền Cộng Sản. Sau khi dồn được một số đông học sinh không công giáo vào trường Công Giáo, công an hướng dẫn cho những học sinh này đứng ra tố cáo linh mục hiệu trưởng và nổi loạn. Chinh phủ lấy lý do ổn định học đường, đã đứng ra quản lý trường Công Giáo. Vụ gay cấn nhất là vụ trường Dũng Lạc ở Hà Nội do Linh mục Nguyễn Văn Vinh làm hiệu trưởng. Khi nhà cầm quyền tuyên bố quản lý trường này, Linh Mục Nguyễn Văn Vinh đã gởi một văn thư phản đối đi khắp nơi. Thư này cũng được đọc trong các nhà thờ ở Hà Nội. Sau vụ này, Linh mục Nguyễn Văn Vinh bị đưa đi học tập cải tạo ở lại Quyết Tiến (còn gọi là trại Cổng Trời) thuộc tỉnh Hoàng Liên sơn, sát biên giới Trung quốc, phải sống chung với các tội nhân hình sự có án nặng và chết tại đây.

Xong vụ các trường tư thục Công Giáo, nhà cầm quyền miền Bắc từ từ chiếm đoạt các tài sản của Giáo Hội, kể cả các nơi thờ tự. Khi đang bị giam ở Thanh Hoá, tôi được gặp một ông chánh trương của một giáo xứ ở Nam Định cùng bị giam chung một trại với tôi. Ông có kể lại cho tôi nghe rằng khi muốn lấy nhà thờ giáo xứ của ông làm kho lúa, bọn cán bộ đã cho làm cạnh nhà thờ một kho lúa lợp sơ sài. Một hôm trời mưa to gió lớn, mái kho lúa bị trốc, cán bộ xin cha xứ cho tạm gởi lúa vào phần nửa dưới của nhà thờ trong khi chờ đợi sửa kho lúa lại. Linh mục chánh xứ đã đánh chuông kêu giáo dân tới giúp đưa lúa vào nhà thờ. Nhưng khi đưa lúa vào nhà thờ xong, bọn cán bộ đã cho chận phân nửa nhà thờ làm luôn kho lúa và dẹp kho lúa của họ. Bằng những thủ đoạn tinh vi tương tự, nhà cầm quyền miền Bắc cướp dần các tài sản còn lại của Giáo Hội.

Sau phần tước đoạt tài sản, nhà cầm quyền miền Bắc tiến tới chỗ phân tán các giáo xứ đông đảo, bằng cách buộc đi xây dựng các nông trường tập thể. Thời gian ở nông trường kéo dài năm này qua năm khác khiến giáo dân phải xin làm nhà tại nông trường và đưa gia đình đến ở luôn. Đặc biệt, nhà cầm quyền chú ý đến các thành phần ưu tú trong giáo xứ, họ tìm mọi cách để đưa các thành phần này ra khỏi giáo xứ, kể cả cho những công ăn việc làm tốt. Một ông chánh trương khác mà tôi được gặp khi đi lao động ngoài trại cho biết trường hợp gia đình ông bị đưa lên miền núi như sau: Trước đây gia đình ông ở một giáo xứ gần biển tại Thanh Hóa. Một hôm, có người quen ở làng kế cận đến rủ con trai của ông đi làm ăn. Chuyến đầu, cậu con trai đem tiền lời về khá nhiều. Hỏi ra, thì cháu đi buôn thuốc lá. Chuyến thứ hai bình an vô sự. Nhưng đến chuyến thứ ba thì bị bắt. Cán bộ xã đã gọi ông lên và bảo nếu chịu dời gia đình lên huyện Cẩm Thủy ở vùng núi canh tác thì họ tha cho, còn nếu gia đình không chấp nhận, con trai ông sẽ phải đi cải tạo lâu dài về tội buôn bán trái phép. Khi biết thằng con trai ông bị gài bẫy, ông đành chấp nhận giải pháp do công an xã đưa ra. Bằng những hình thức như thế, nhà cầm quyền đã làm các giáo xứ miền Bắc mất đi các thành phần có khả năng lãnh đạo giáo xứ.

° Quỳnh Lưu nổi dậy

Trong thời gian Pháp chiếm đóng Việt Nam, các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nằm trong vùng Việt Minh kiểm soát nên các giáo xứ thuộc các tỉnh này bị kìm kẹp gắt gao. Sau khi hiệp định Genève được ký kết, giáo dân các giáo xứ trong vùng Việt Cộng kiểm soát không thể di cư được. Bị xiết chặt quá lâu, vào đầu năm 1956, các giáo dân thuộc các giáo xứ Vạn Kim, Quang Trung, Minh Châu, Tân Nho, Diễm Tân, Diễm Đức, Diễm Đông, Diễm Nguyên, Yên Trung, Đức Vinh, Hồng Thăng và Đại Gia ở Nghệ An đã triệu tập một đại hội, có mời đại diện chính quyền đến tham dự. Trong đại hội này, giáo dân đã bất thần đưa ra một bản kiến nghị gồm 4 điểm sau đây:

1. Trả lại tất cả các linh mục đang bị bắt bớ giam cầm.

2. Trả lại xác các linh mục đã bị hành quyết hay thủ tiêu.

3. Trả lại các tài sản của Giáo Phận, giáo xứ và đền Đức Mẹ đã bị chính phủ tịch thu.

4. Đền bù xứng đáng danh dự của các giáo sĩ và giáo dân bị nhục mạ và phỉ báng.

Kiến nghị này được lập thành 5 bản gởi cho Tòa Thánh Vatican, Hồ Chí Minh, Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến và Chính quyền miền Nam.

Đến ngày 9.11.1956, khi hay tin ủy Hội Quốc Tế sắp đi qua Cầu Giát, hàng ngàn giáo dân kéo ra nằm ở trên quốc lộ 1, đưa hàng bao bố đơn thỉnh nguyện xin được di cư. Sau đó họ tập trung tại làng Cẩm Trường mở hội nghị. Bộ đội và công an kéo đến giải tán, hai bên xô xát nhau, chết khá nhiều.

Sáng ngày 13.11.1956, giáo dân thành lập những toán nghĩa quân võ trang tập họp tại Quỳnh Lưu, kéo đi biểu tình biểu dương lực lượng. Khoảng 3.000 thanh niên ở Ba Làng, Do Xuyên và Nông Cống ở Thanh Hóa bí mật kéo vào yểm trợ. Thanh niên các vùng khác cũng kéo tới cứu viện. Trước tình thế này, Hồ Chí Minh ra lệnh cho Văn Tiến Dũng huy động các lực lượng quân sự ở Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Đồng Hới vây đánh và Quỳnh Lưu ngập chìm trong máu lửa. Nghĩa quân không kháng cự nổi phải chạy vào rừng. Bộ đội tiến vào làng bắt cả đàn bà và trẻ con dẫn đi để tra khảo từng người xem ai chủ xướng vụ nổi loạn này. Các linh mục bị đưa về giam tại Hà Nội.

° Những ngày đen tối

Năm 1970, khi Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa mở cuộc hành quân qua Cambodia, nhà cầm quyền miền Bắc sợ Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa có thể bất thần tấn công miền Bắc nên đã ra lệnh cho công an đưa đi cải tạo gần hết các giáo sĩ và giáo dân có khả năng lãnh đạo của Công Giáo. Năm 1976, khi chúng tôi được chuyển từ trại Long Thành ra trại Thanh Cẩm ở Thanh Hóa, chúng tôi được gặp khoảng 160 tu sĩ và giáo dân thuộc các vùng Thái Bình, Bùi Chu, Phát Diệm, Thanh Hóa... đang bị giam giữ tại đây. Những người này được tập trung vào một khu riêng. ọỌ cho chúng tôi biết họ đã bị tập trung từ 1970. Đến năm 1978 họ bị chuyển qua lập trại Thanh Phong, cũng ở Thanh Hóa. Phải đến năm 1986 họ mới được thả về. Ở các trại khác cũng có những thành phần như vậy bị giam giữ, nhưng chúng tôi không tìm hiểu được. Một thanh niên Công Giáo ở Thái Bình đã kể lại cho tôi nghe trường hợp anh bị bắt như sau: Một hôm nhà cầm quyền cho biết Đức Giám Mục Đinh Đức Trụ sẽ về thăm các giáo xứ trong vùng. Các cán bộ thông tin đã giúp đỡ phương tiện cho các giáo xứ tổ chức đón tiếp Đức Giám Mục rất trọng thể. Ai cũng tưởng chính phủ có chính sách tôn giáo mới. Nhưng sau khi Đức Cha Trụ đi được một tuần, những thành phần đứng ra tổ chức tiếp đón Đức Cha, từ anh giúp lễ, hát thánh ca đến những người tổ chức đám rước đều bị gọi đi học tập cải tạo. Người thanh niên Thái Bình kể chuyện này cho tôi vào năm 1978 khi anh mới 26 tuổi và đã ở tù được 7 năm. Nhà cầm quyền miền Bắc đã tạo ra rất nhiều cái bẫy khác nhau để các phần tử tích cực của các giáo xứ xuất đầu lộ diện rồi bắt. Phải đến năm 1986 họ mới được trả tự do hết, nghĩa là sau 16 năm giam giữ.

Phật Giáo không hề bị những vụ "pháp nạn" này.

Kết quả, sau 20 năm đàn áp, số giáo dân miền Bắc vẫn tăng đều theo nhịp tăng của dân số. Tới ngày 30.4.1975, người ta được biết số giáo dân Công Giáo tại miền Bắc có khoảng 1.158.000 người với khoảng 600 giáo xứ, nhưng số linh mục không còn bao nhiêu, đa số từ 60 tuổi trở lên. Có Giáo Phận như Giáo Phận Hải Phòng có 145.000 giáo dân mà chỉ có 7 linh mục từ 62 tuổi trở lên. Giáo Phận Phát Diệm có 95.000 giáo dân cũng chỉ có 15 linh mục. Trung bình cứ 4.000 giáo dân mới có một linh mục. Nhà cầm quyền miền Bắc tính rằng chỉ trong vòng 15 năm nữa, số linh mục già sẽ qua đời, giáo dân không ai coi sóc, Giáo Hội Công Giáo sẽ tan rã!

Nhưng Việt Cộng đã lầm. Sau khi tìm hiểu tình hình Giáo Hội miền Bắc, các giáo sĩ và giáo dân miền Nam đã ngạc nhiên khi nhận ra rằng đức tin của giáo dân miền Bắc còn vững vàng hơn giáo dân ở miền Nam vì đức tin của họ đã được tôi luyện trong đau khổ, đúng như Ralph Waldo Enerson đã nói:

"Trên sự đổ nát của giáo hội và tôn giáo, Thượng Đế đã xây đền thờ trong lòng cơn người".

Một số linh mục "chui" đã được phong chức để đi làm mục vụ cho giáo dân. Nhiều thầy giảng đã được huấn luyện bí mật để hướng dẫn các giáo xứ không có linh mục. Cha mẹ dạy đạo cho con v.v. Bằng những hình thức đó, Giáo Hội vẫn tồn tại.

d) Tình hình Giáo Hội Công Giáo sau 30.4.1975

Sau 30.4.1975, nhà cầm quyền Hà Nội cho áp dụng tại miền Nam các biện pháp đàn áp Công Giáo đã áp dụng ở miền bắc.

1.- Dùng Công Giáo khống chế Công Giáo

Công việc đầu tiên mà Việt Cộng nhận thấy phải làm ngay sau khi chiếm được miền Nam là trục xuất Đức Khâm Sứ Tòa Thánh, giam giữ các các Giám Mục, linh mục và giáo dân được xếp vào loại "phản động", có thể lãnh đạo chống chế độ. Nguyễn Đình Đầu, một cán bộ Việt Cộng nội tuyến trong hàng ngũ Công Giáo, ở trong nhóm Sống Đạo, đã đúng sau sắp xếp và tổ chức các trận đánh phá này.

° Trục xuất Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre

Để yểm trợ cho quyết định của chính phủ trong việc trục xuất Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre, nhà cầm quyền giao cho hai linh mục Huỳnh Công Minh và Trương Bá Cần, là hai linh mục họ đã móc nối được trong thời gian hai ông này được Giáo Hội cho đi du học ở Pháp, đứng ra tổ chức "phong trào quần chúng" yêu cầu trục xuất Đức Khâm Sứ. Phong trào này gồm có 7 tổ chức sau đây: Thanh Niên Công Giáo Đại Học, Công Giáo Xây Dựng Hòa Bình, Thanh Lao Công, Liên Đoàn Sinh Viên Công Giáo, Công Giáo và Dân Tộc, Tổng Đoàn Thanh Niên Công Giáo, Nhóm Liên Tu Trẻ và Đoàn Sinh Viên Dự Tập Dòng Chúa Cứu Thế. Đa số tổ chức này mới được thành lập, mỗi tổ chức chỉ có vài người.

Trước hết, họ cho phổ biến một bức tâm thư tố cáo Tổng Giám Mục Henri Lemaitre trước đây đã yểm trợ cho chính sách thực dân mới của Hoa Kỳ và cho chính quyền sai Nguyễn Văn Thiệu, tố cáo các Khâm Sứ Tòa Thánh đã can thiệp quá nhiều vào vấn đề nội bộ của Giáo Hội Việt Nam và tuyên bố "Giải thoát các Giám Mục miền Nam Việt Nam khỏi áp lực xâm lấn của Khâm Sứ Tòa Thánh là giúp Giáo Hội Việt Nam được trưởng thành. " Ngày 2.5.1975 họ biểu tình đòi Đức Khâm Sứ Tòa Thánh phải ra đi. Ngày 14.5.1975, một đoàn biểu tình do Đoàn Phú Khánh đứng đầu, đã xâm nhập Tòa Khâm Sứ ở đường Hai Bà Trưng, trèo lên nóc nhà hạ cờ Tòa Thánh xuống và căng biểu ngữ đòi Khâm Sứ Tòa Thánh phải cút đi. Họ đẩy Đức Khâm Sứ, một linh mục phụ tá người Ba Lan và linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ ra khỏi Tòa Khâm Sứ. Linh mục Huỳnh Công Minh chụp hình còn Linh mục Thanh Lãng phát bản cáo trạng tố cáo năm đời Khâm Sứ Tòa Thánh can dự vào vấn đề nội bộ của Việt Nam.

Trong thời gian từ 5.5.1975 - 4.6.1975, các nhóm trên đã tiếp xúc với Đức Khâm Sứ Tòa Thánh để đe dọa và nói nếu không rời Việt Nam, họ sẽ có những "biện pháp đáng tiếc."

Ngày 3.6.1975, các nhóm nói trên đến quấy phá Tòa Khâm Sứ một lân nữa, họ quấy phá cả vào lúc ban đêm. Nghe tin này các thanh niên giáo xứ Bùi Phát kéo tới định can thiệp, nhưng khi mới kéo tới cầu Trương Minh Giảng thì bị bộ đội xả súng bắn thẳng vào, một người bị chết và nhiều người bị thương. Linh mục Vũ Bình Định, phó xứ Bùi Phát, bị bắt sau đó.

Ngày 4.6.1975, Bộ Ngoại Giao Chính Phủ Lâm Thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã mời Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre tới, yêu cầu Ngài phải lánh khỏi Việt nam một thời gian càng sớm càng tốt. Ngày hôm sau, Đức Khâm Sứ đã phải rời Việt Nam.

° Trục xuất Đức Tổng Giám Giám Mục Nguyễn Văn Thuận

Trước 30.4.1975, theo đề nghị của Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre, ngày 25.4.1975, Tòa Thánh Vatican đã bổ nhiệm Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, đang là Giám Mục Nha Trang, làm Tổng Giám Mục hiệu tòa Vadesitana, Phụ Tá Tổng Giám Mục Saigon với năng quyền kế vị Tổng Giám Mục Saigon. Ngày 12.5.1975, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình cho phổ biến thông cáo thông báo sự bổ nhiệm nói trên. Được tin này, một số linh mục đã đến bao vây Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình và Đức Phó Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận đang có mặt tại Chủng Viện Tháp Giuse ở đường Cường Để để chất vấn và yêu cầu Đức Phó Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận từ chức. Nhóm linh mục này gồm có các Linh mục Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ, Thanh Lãng, Nguyễn Quang Lãm và Hoàng Kim.

Trước đó, ngày 8.5.1975, nhóm linh mục nói trên đã gửi Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình một văn thư yêu cầu hoãn công bố việc bổ nhiệm Đức Phó Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận. Ký tên trong văn thư này còn có các Linh mục Huỳnh Công Minh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Đinh Bình Định, Nguyễn Thiện Toàn, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Nghị.

Ngày 13.5.1975, một toán sinh viên Công Giáo nằm trong tổ chức đòi trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre đã xâm nhập Tòa Tổng Giám Mục Saigon, căng lên ba biểu ngữ như sau: "Nguyễn Văn Thuận, Giám Mục của ai?", "Vì quyền lợi của Giáo Hội Việt Nam, yêu cầu Nguyễn Văn Thuận từ chức", "Không có hòa giải, Nguyễn Văn Thuận phải rút lui. "

Ngoài ra, nhóm này cũng gởi lên Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaire, người mà họ đang yêu cầu "cút đi", một thỉnh nguyện thư tố cáo Giám Mục Nguyễn Văn Thuận là một Giám Mục chống Cộng, thuộc dòng dõi chống Cộng cực đoan, đã tổ chức Phong Trào Công Lý và Hòa Bình để huấn luyện cán bộ chống Cộng và góp phần thành lập đảng Nhân Xã, hậu thân của Đảng Cần Lao. Họ lên án Giám Mục Nguyễn Văn Thuận là thành phần chống Cộng thâm tín nhất, quy mô nhất và hữu hiệu nhất... Theo họ, trong tinh thần hòa hợp hiện nay, khi "Mỹ Thiệu và tay sai đã dẫm lên nhau chạy trôn, sự bổ nhiệm một Giám Mục chống Cộng tại Saigon là một điều nguy hiểm không những cho Giáo Hội mà còn cho cả dân tộc Việt Nam" Họ đòi Đức Phó Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận phải từ chức để "tránh cho Giáo Hội và dân tộc Việt Nam những phiêu lưu vô vọng và nguy hiểm."

Sau khi hội kiến với nhóm chống đối để thông cảm không thành công, ngày 7.6.1975, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã gởi thư thông báo cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân cho biết:

"Tôi đã hết sức ôn hòa, lắng nghe và thông cảm đồng thời giải thích trực tiếp hoặc gián tiếp cho những ai muốn đối thoại với tôi về những sự việc trên. Nhưng tình trạng ấy chưa khả quan hơn."

Sau đó, Ngài kêu gọi như sau:

"Tôi kêu gọi tất cả quý cha, các tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân sẵn sàng tuân phục hoàn toàn quyết định của Tòa Thánh La Mã"

Ngày 8.6.1975, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình cũng gởi cho Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Ủy Ban Trung ương Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam yêu cầu ba điểm sau đây:

1 Triệt để thi hành Sắc Lệnh Tự Do Tín Ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ để gây tin tưởng và phấn khởi của toàn dân đối với chính phủ.

2. Chấm dứt chiến dịch tuyên truyền bôi nhọ, vu cáo các chức sắc của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

3. Chận đứng ngay chiến dịch vận động phi pháp trục xuất Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, vì việc trục xuất phi pháp này vi phạm trầm trọng Sắc Lệnh Tự Do Tín Ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ, sẽ gây nguy hại cực kỳ lớn lao không lường được, về đối nội cũng như đối ngoại, cho Quốc Gia Dân Tộc.

Nhưng câu chuyện cãi qua cãi lại này rồi cũng phải kết thúc. Chiều ngày 15.8.1975, tại Nhà Hát Thành Phố (trụ sở Hạ Nghị Viện cũ), Ủy Ban Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức cuộc họp gồm 350 đại diện các dòng tu nam nữ và giáo xứ để nghe trình bày về trường hợp Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận. Ông Mai Chí Thọ tuyên bố chính quyền Cách Mạng quyết định đưa Giám Mục Nguyễn Văn Thuận về lại Nha Trang, nơi đương sự cư trú trước ngày giải phóng với lý do sự hiện diện của Giám Mục Nguyễn Văn Thuận gây trở ngại cho sự đoàn kết dân tộc.

Cũng trong ngày 15.8.1975, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận đã bị công an bắt, nhưng không phải đưa về Nha Trang như Mai Chí Thọ đã tuyên bố mà đưa đi biệt giam nhiều nơi ở Saigon. Ngày 8.12.1976, tôi bị Việt Cộng giải ra Bắc và tôi đã gặp Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận cũng bị giải đi trên một chuyến tàu với tôi, nhưng khi đến Hải Phòng, Ngài bị đưa ra trại Vĩnh Ph?