← Quay lại trang sách

Chương IV ( tt) CUỘC THÁNH CHIẾN THỨ HAI: ĐÒI NỢ MÁU, DIỆT THIÊN CHÚA GIÁO, NGỤY HOÀ VÀ CƯỚP CHÍNH QUYỀN

Thời kỳ ba năm sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị cơ quan tình báo CIA tổ chức lật đổ, từ 1964 - 1966, thường được gọi là "ba năm xáo trộn", ba năm kinh hoàng của miền Nam Việt Nam. Trong thời kỳ này có lúc gần như không còn là chính quyền nữa, nhóm Phật Giáo miền Trung phát xuất từ chùa Từ Đàm ở Huế, hành động dưới danh nghĩa Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, rồi Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, đã đứng trên và đứng ngoài luật pháp, nắm quyền sinh sát trong tay, muốn bắt ai cứ bắt, muốn phá chỗ nào cứ phá, muốn đốt nơi nào cứ đốt, muốn giết ai cứ ám sát, tự tung tự tác trong cơ quan công quyền, nơi trường học, trên các đường phố... Tổ chức này đã bắt cả Tỉnh Trưởng Quảng Nam và Quận Trưởng Hòa Vang đem đi giam vì không chịu theo phe của họ.

Nhóm Phật Giáo miền Trung này tin tưởng rằng một khi họ đã lật đổ được Chế độ Ngô Đình Diệm, một chế độ đang vững mạnh tại miền Nam, thì họ có thể làm bất cứ cái gì họ muốn và không một chính quyền nào dám cưỡng lại họ. Say men chiến thắng, nhóm này đã đưa ra nhiều yêu sách buộc chính quyền phải thực hiện ngay. Trước hết là đòi một "quy chế đặc biệt" cho Phật Giáo, rồi đến đòi "diệt dư đảng Cần Lao Thiên Chúa Giáo", đòi đưa các nhân vật Phật Giáo lên nắm chính quyền, đòi cả những điều mà Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vẫn nhai đi nhai lại trên đài phát thanh hàng ngày: Quân đội miền Nam và Hoa kỳ phải đơn phương ngưng chiến, Mỹ rút, thành lập chính phủ liên hiệp, trung lập và không liên kết, v.v. Khi những đòi hỏi phiêu lưu đó không được thỏa mãn, họ phát động thánh chiến vừa bằng chiến tranh chính trị, vừa bằng bạo động và quân sự để cướp chính quyền. Cuộc thánh chiến này dữ dội gấp 10 lần cuộc thánh chiến chống chính phủ Ngô Đình Diệm, đưa tới những hậu quả bi thảm cho cả Phật Giáo lẫn đất nước đến nỗi các "sử gia" Phật Giáo ít ai dám mô tả lại đầy đủ. Tất cả chỉ lẩn quẩn xung quanh cuộc thánh chiến thứ nhất. Sau đây là một số diễn biến của cuộc thánh chiến bi thảm này. Riêng phần thánh chiến để đòi một "quy chế đặc biệt" cho Phật Giáo, chúng tôi sẽ đề cập trong phần nói về cuộc nội chiến.

MỘT BIẾN CỐ BẤT NGỜ

Khi tiếng reo mừng chiến thắng của Phật Giáo về biến cố ngày 1.11.1963 chưa dứt thì bỗng nhiên một biến cố mới đã xẩy ra. Tướng Nguyễn Chánh Thi, lúc đó là Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I, đã kể lại rằng, sau một thời gian sắp đặt kỹ lưỡng, ngày 29.1.1964 ông cùng với Tướng Nguyễn Khánh, Tư Lệnh Quân Đoàn I và Bộ Tham Mưu Quân Đoàn I vào Saigòn hợp với Thiếu Tướng Dương Văn Đức làm cuộc "chỉnh lý" lật đổ nhóm tướng lãnh đã làm cuộc đảo chính ngày 1.11.1963. Cuộc "chỉnh lý" thành công một cách quá dễ dàng, không tốn một viên đạn nào. Tướng Thi nhận định rằng phải có sự ủng hộ của Hoa Kỳ, Tướng Khánh mới dám hành động như vậy. Ông cho biết chính Lucien Conein đã bay ra Huế gặp Tướng Nguyễn Khánh trước lễ Giáng Sinh năm 1963.

Tướng Nguyễn Khánh đã lên đài phát thanh tuyên bố lý do của cuộc "chỉnh lý" như sau:

"Từ ba tháng nay, tình hình suy sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực và phản cách mạng, một số người chạy theo thực dân và Cộng Sản, nên một lần nữa Quân Đội lại phải can thiệp".

Các nhà bình luận nhận xét rằng Hoa Kỳ đã để cho Tướng Nguyễn Khánh làm cuộc đảo chánh thứ hai này vì các lý do sau đây:

Lý do thứ nhất là các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 chỉ có khả năng loại trừ chế độ Ngô Đình Diệm chứ không có khả năng cầm quyền. Lý do thứ hai, Hoa Kỳ lo sợ nhóm Phật Giáo miền Trung là một nhóm có lập trường chính trị không rõ ràng, có nhiều tham vọng và bị Cộng Sản lũng đoạn, có thể dựa vào các tướng lãnh thân họ để gây rối loạn và đưa miền Nam vào một hướng đi khác. Vậy cần phải loại bỏ các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 và giao quyền hành lại cho một nhóm khác có khả năm cầm quyền và có thái độ thân Mỹ hơn. Tài liệu do Ngũ Giác Đài công bố cho biết sau khi cuộc "chỉnh lý" hoàn tất, Đại Sứ Cabot Lodge đã gởi về Washington một bản báo cáo nói rằng khuynh hướng theo chủ trương trung lập của hai tướng Lê Văn Kim và Trần Văn Đôn chưa rõ rệt, nhưng một khi họ đã củng cố được một chính phủ vững mạnh, có lẽ họ sẽ tán thành thành giải pháp trung lập của Pháp. Đại Sứ Cabot Lodge cho biết chính Đại Sứ Ý Di Orlandi, một người sáng suốt nhất ở đây, đã lưu ý hai Tướng Đôn và Kim vẫn còn giữ quốc tịch Pháp, từng là phụ tá của Thống Chế De Lattre và hoạt động đắc lực cho Sở Mật Thám (Service Secret) của Pháp trong quá khứ, cho nên dư luận về chủ trương trung lập hóa miền Nam Việt Nam có thể đúng. Ông viết tiếp:

"Sau hết, tại nước này hiện nay, ít khi có chuyện một cuộc bầu cử là một phương cách hữu hiệu, thích hợp để hoàn tất một vấn đề quan trọng. Để làm những chuyện quan trọng ở đây, phương pháp truyền thống là xử dụng sức mạnh có kế hoạch, có suy nghĩ kỹ càng. Điều mà Tướng Khánh đã làm không làm cho người Việt Nam ngạc nhiên... Tuy nhiên, một số người Việt Nam đã nói với các nhân viên trong bộ tham mưu của tôi rằng ông Minh là người tốt, thay thế ông ta là tội nghiệp."

"Vấn đề thiết thực phải đặt ra là Tướng Khánh có khả năng không? Liệu ông ta có đáp ứng được một số hành động góp phần vào nỗ lực chống cộng hay không? Cho đến nay, có bằng chứng cho thấy ông ta có khả năng, ông ta không cho một sự chậm trễ nào...

"Nếu Tướng Khánh có khả năng thì việc ông lên cầm quyền có thể đem lại cho đất nước này một Bộ Tư Lệnh chỉ có một người duy nhất thay vì một Hội Đồng Quân Nhân. Chúng ta đã có những điều chúng ta cần ở Việt Nam."

Hành động của cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã làm nhiều chính khách và nhân viên chính phủ Hoa Kỳ ngạc nhiên. Họ tỏ ra nghi ngờ những lời tố giác của Tướng Khánh. Nhưng trong tháng 3 năm 1964, Tổng Thống Johnson đã gởi cho Đại Sứ Cabot Lodge một chỉ thị nói rõ "Phải đánh đổ ý tưởng trung lập hóa ở bất cứ nơi nào nó thò cái đầu dơ dáy của nó ra." Ông yêu cầu Đại Sứ Lodge chuyển mối quan tâm đó đến Tướng Khánh và hỏi ý kiến Tướng Khánh về một kế hoạch chung để chấm dứt ý tưởng trung lập hóa này tại Saigon cũng như ở Washington và Paris.

Quan điểm nêu trên của ông Cabot Lodge rất quan trọng, nó cho thấy quan niệm của Hoa Kỳ về một chính quyền cần có tại miền Nam Việt Nam. Chính quyền đó không có nơi tay các tướng lãnh làm cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 nên Hoa Kỳ đã đi tìm nơi một số tướng lãnh khác. Tướng Khánh là người được chọn trước tiên.

Trước biến cố bất ngờ ngày 30.1.1964 do Tướng Khánh tạo nên, các nhà lãnh tụ Phật Giáo đã đi từ ngơ ngác đến lo âu, không biết phải phản ứng như thế nào. Nhưng khi thấy thái độ hòa hoãn và mị dân của Tướng Khánh, họ lại tiếp tục lấn lên.

TIỄN ĐƯA MỘT "ÂN NHÂN"

Khi biến cố chỉnh lý" ngày 30.1.1964 chưa hết gây bàng hoàng trong hàng ngũ nhóm Phật Giáo đấu tranh thì họ lại phải tiễn đưa một người "ân nhân" của Phật Giáo ra đi. Không biết đây là điềm lành hay điềm không lành.

Ngày 23.6.1964 Đại Sứ Cabot Lodge tuyên bố từ chức. Ngày 28.6.1964, ông mặc áo gấm màu xanh có hình chữ Thọ và chít khăn xếp theo y phục cổ truyền Việt Nam, rời phi trường Tân Sơn Nhứt. Ra tiễn Đại Sứ, có cả hàng ngàn tăng ni và Phật tử cầm cờ Việt, Mỹ vừa vẫy vừa hoan hô náo nhiệt. Các tăng ni và Phật tử hôm đó không thể biết được rằng người mà họ đang hoan hô nồng nhiệt, sau này sẽ trở lại chỉ huy chôn vùi phong trào đấu tranh của Phật Giáo. Trước khi lên máy bay, Đại Sứ Cabot Lodge đã nói với các ký giả: "Khi từ giã Việt Nam, tôi chỉ ân hận có một điều là không cứu sống được ông Diệm". Không ai tin được câu nói đó của một nhà ngoại giao đầy thủ đoạn như ông. Tướng Dương Văn Minh đã kể lại rằng trước khi làm đảo chánh để lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, Đại Sứ Cabot Lodge đã nói với ông: "Nếu để ông Diệm lưu vong thì bất cứ một Đại Tá nào cũng có thể đảo hành để đưa ông Diệm về". Tuy nhiên, lời tuyên bố của Đại sứ Lodge trước khi rời Việt Nam đã làm nhóm Phật Giáo đấu tranh khó chịu. Sau này, nhật báo Chánh Đạo của Phật Giáo đã viện câu đó để chỉ trích chính sách của Hoa Kỳ trong việc để cho Tướng Nguyễn Cao Kỳ đánh tan cuộc nổi loạn của Phật Giáo miền Trung.

Tướng Maxwell D. Taylor đã được cử làm Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Hòa thay ông Cabot Lodge.

ĐÒI NỢ MÁU

Trong bộ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang, tức Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh, đã nhận xét về "Số phận không may của Tổng Thống và ông Cố Vấn " như sau:

"Sự hạ sát Tổng thống Diệm và ông cố vấn Nhu là một điều đáng tiếc trong cuộc Cách Mạng 1.11.1963. Dù có ra lệnh hay không ra lệnh, các tướng trong Hội Đồng Quân Lực cũng chịu trách nhiệm về không thực hành được lời hứa bảo đảm được tính mệnh hai người. Cái chết của họ đã kéo theo cái chết của hai vị thiếu tá Nhung và Nghĩa. Nhưng đã hết đâu. Oan oan tương báo, biết bao giờ cho sợi dây oan được cắt đứt?"(12)

Cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu không phải là "một điều đáng tiếc" như Hoà Thượng Nhất Hạnh đã viết. Đây mới chỉ màn đầu của chiến dịch đòi nợ máu. Nhóm Phật Giáo cực đoan và Thượng Tọa Thích Trí Quang bắn tiếng cho các tướng lãnh biết:

- Những người sau đây phải đền tội: Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông, Đặng Sĩ, Dương Văn Hiếu, Hoàng Trọng Bá, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Thái.

- Các "dư đảng Cần Lao" phải rời khỏi các chức vụ và các vị trí then chốt trong chính quyền. Dư đảng Cần Lao ở đây được hiểu là những người theo Thiên Chúa Giáo và khi nói "diệt dư đảng Cần Lao" thì phải hiểu là diệt Thiên Chúa Giáo và các phần tử không đồng chủ trương của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung.

- Các nhân vật Phật Giáo được mệnh danh là "các tướng cách mạng" (như Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu, Nguyễn Chánh Thi...) phải nắm các địa vị then chốt trong chính quyền, v.v...

Những đòi hỏi này được lặp đi lặp lại thường xuyên trên các báo chí Phật Giáo, trong các cuộc biểu tình và tuyên ngôn tuyên cáo của nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường. Nhưng Tướng Dương Văn Minh do dự. Ông hiểu rằng những chuyện đó không thể làm được. Sau vụ hành quyết một cách rất dã man Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu do lệnh trực tiếp của Lucien Conein truyền cho ông và Tướng Mai Hữu Xuân thi hành, đã có nhiều sự bất bình trong hàng ngũ của các tướng lãnh vì họ không được có tiếng nói trong biến cố quan trọng đó. Nhiều tướng đã coi việc hạ sát này là một hành động quá đáng và không cần thiết. Trung Tướng Trần Văn Đôn, người lãnh đạo quân đội trong cuộc đảo chánh, đã chỉ trích tướng Dương Văn Minh về việc không thông báo cho ông biết lệnh của Cabot Lodge và Lucien Conein. Do đó, Tướng Dương Văn Minh đã không dám đáp ứng các đòi hỏi của Thượng Tọa Thích Trí Quang.

Không may cho các nạn nhân là ngày 30.1.1964 Tướng Nguyễn Khánh đã làm một cuộc "chỉnh lý" lật đổ các tướng đảo chánh. Tướng Nguyễn Khánh vốn là một người được Tổng Thống Ngô Đình Diệm nâng đỡ đặc biệt và không tham gia vào cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 nên bị Phật Giáo liệt vào loại "Tướng Cần Lao". Sau khi nắm được chính quyền, ông đã tìm mọi cách chứng minh cho Phật Giáo thấy ông không bênh vực "dư đảng Cần Lao". Công việc đầu tiên mà ông nhận thấy cần phải làm là đưa các "dư đảng Cần Lao" ra xét xử.

Trước hết, Tướng Nguyễn Khánh đã chỉ thị cho ông Nguyễn Văn Mầu, Bộ Trưởng Tư Pháp, phải nghiên cứu cách nào để có thể tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn và những người liên hệ. Sau khi nghiên cứu, Bộ Tư Pháp thấy rằng nếu áp dụng bộ Hoàng Việt Hình Luật thì không thể tuyên án tử hình những tội vớ vẩn như bắt người trái phép, đả thương, bức tử, tống tiền v.v. Vậy chỉ còn một cách là làm một đạo luật mới quy một số hành vi của các nhân vật chế độ cũ vào các tội cố sát, lũng đoạn nền kinh tế quốc gia và dự liệu các quy định mới này có hiệu lực hồi tố (retroactive effect). Một nguyên tắc căn bản của hình luật là luật hình chỉ áp dụng cho các hành vi xẩy ra kể từ ngày ban hành luật chớ không áp dụng cho các hành vi xẩy ra trước ngày đó. Sự quy định như trên là trái với nguyên tắc căn bản của hình luật. Nhưng "cách mạng" không cần phải tuân theo một nguyên tắc nào cả! Bộ Tư Pháp đã làm đúng theo yêu cầu của Tướng Khánh. Sắc Luật số 4164 ngày 18.2.1964 thiết lập Tòa án Cách Mạng được ban hành, trong đó có điều khoản dự liệu luật này có hiệu lực hồi tố. Sau đó, Tướng Nguyễn Khánh đã ra lệnh bắt giữ và điều tra tất cả những người bị các Tỉnh Hội Phật Giáo tố cáo là "dư đảng Cần lao". Số người bị câu lưu lên đến 267 người. Tướng Khánh cho đưa ngay những người có tên trong danh sách mà Thượng Tọa Thích Trí Quang đòi nợ máu ra trước Tòa án Cách Mạng.

Vụ Phan Quang Đông

Ngày 26.3.1964, Tòa án Cách Mạng họp ở Huế để xét xử Phan Quang Đông về các tội cố sát, bắt giam trái phép, sách thủ tiền tài và lũng đoạn kinh tế. Các tội phạm này liên hệ đến 19 nạn nhân trong thời gian từ 26.10.1955 đến 1.11.1963. Nhưng vụ quan trọng nhất là vụ khách sạn Morin ở Huế.

Năm 1957, Phan Quang Đông, nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị, đặc trách miền Trung, thấy ông Nguyễn Văn Yến, một tiểu thương và ông Nguyễn Phương, một nhà thầu khoán, không có tài sản bao nhiêu nhưng đã đứng ra mua lại toàn bộ khách sạn Morin của Pháp, một khách sạn lớn nhất nhì Huế lúc đó, liền cho mở cuộc điều tra. Vì các đương sự không chứng minh được nguồn gốc tài sản đã bỏ ra để mua khách sạn Morin, và có một số bằng chứng cho thấy các đương sự liên hệ đến các nhân viên tình báo của Pháp, nên Phan Quang Đông đã bắt để điều tra về tội hoạt động gián điệp Pháp. Khi cuộc điều tra đang tiến hành thì Nguyễn Phương nhảy lầu tự sát.

Đầu năm 1963, gia đình các nạn nhân làm đơn xin tái xét, nhờ Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục chuyển cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tổng Thống đã phê lên đơn ra lệnh cho Đại Tá Đỗ Mậu, Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội, điều tra lại nội vụ. Đại Tá Đỗ Mậu rất sợ Ngô Đình Cẩn, không dám đích thân ra Huế mở cuộc điều tra, nên đã bán cái cho đàn em là Đại úy Phạm Bá Thích, Trưởng Ty An Ninh Quân Đội ở Huế. Nhận được chỉ thị của Đại Tá Mậu, Đại úy Thích không biết phải thi hành cách nào, vì cấp bực và chức vụ của anh quá nhỏ, không đủ uy thế để điều tra vụ quan trọng này. Đại úy Thích tìm Đại úy Nguyễn Văn Minh, sĩ quan phụ trách về an ninh của ông Ngô Đình Cẩn, để nhờ giúp đỡ. Đại úy Minh dẫn Đại úy Thích vào gặp ông Ngô Đình Cẩn. Sau khi xem bút phê của Tổng Thống Diệm, ông Ngô Đình Cẩn bảo Đại úy Thích cứ mở cuộc điều tra một cách vô tư vì đây là lệnh của Tổng Thống. Ông cũng bảo Phan Quang Đông phải cung cấp tất cả những tài liệu mà Đại úy Thích cần. Chúng tôi không có cơ hội được xem phúc trình điều tra của Đại úy Thích, nhưng được biết bản phúc trình kết luận rằng việc bắt giam những người liên hệ đến vụ Morin là có căn cứ. Đại Tá Đỗ Mậu đã nhận được bản phúc trình và đệ trình lên Tổng Thống Diệm. Sau đó người ta không thấy phủ Tổng Thống nhắc đến vụ này nữa. Điều mà nhiều người đã phàn nàn là sự trốn tránh trách nhiệm của Đại Tá Đỗ Mậu trong việc điều tra nội vụ. Mặc dầu đã có bút phê của Tổng Thống, Đại Tá Đỗ Mậu đã cố tránh né trách nhiệm vì sợ phương hại đến địa vị của ông. Nếu ông đích thân lãnh trách nhiệm thì nội vụ sẽ sáng tỏ hơn.

Dầu sao, khi Tướng Nguyễn Khánh đã chỉ thị làm một đạo luật vi phạm nguyên tắc căn bản của hình luật để xử tử hình Phan Quang Đông và qua sự kết án Phan Quang Đông, xử tử hình Ngô Đình Cẩn để thỏa mãn đòi hỏi của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung, thì mọi sự tranh luận về pháp lý và bằng chứng của tội phạm đều vô ích. Ngày 28.3.1964 tòa đã tuyên án Phan Quang Đông tử hình, tịch thu tài sản và bồi thường cho các nạn nhân 18 triệu.

Vụ Ngô Đình Cẩn

Sáng thứ bảy, ngày 2.11.1963, sau khi nghe tin ông Diệm và ông Nhu đã bị giết, ông Ngô Đình Cẩn liền bí mật qua Dòng Chúa Cứu Thế để lánh nạn. Ông được sắp xếp cho ở một phòng nhỏ phía trên lầu. Ngoài những người thân cận ra, không ai biết chuyện này. Sáng Chúa Nhật 3.11.1963, Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn I, bay ra Huế và đi tìm Đại úy Nguyễn Văn Minh, phụ trách về an ninh của ông Ngô Đình Cẩn, yêu cầu Đại úy Minh thông báo cho ông Cẩn biết thế nào cũng sẽ có lục xét nhà, nếu còn tài sản gì cứ giao cho ông giữ giúp. Thiếu Tướng Trí bảo Đại úy Minh thưa với ông Cẩn rằng Cậu đừng lo lắng gì cả. Thiếu Tướng sẽ bảo đảm tính mệnh của Cậu, không đứa nào dám động đến Cậu đâu. Đại úy Minh đem nội vụ trình ông Ngô Đình Cẩn. Ông Ngô Đình Cẩn cho gọi Tướng Đỗ Cao Trí vào. Sau khi hai người nói chuyện chừng 15 phút thì ông Cẩn gọi Đại úy Minh và bảo về nhà lấy tất cả mọi thứ dưới sập giường đem đến ông. Đại úy Minh trở về nhà ông Cẩn và tìm dưới sập giường thì thấy một bao bố nặng chừng 8 ký, không biết là thứ gì, và một cái cặp nhỏ. Đại úy Minh đem tất cả đến cho ông Cẩn thì ông Cẩn giao ngay cho Tướng Đỗ Cao Trí. Chính Tướng Đỗ Cao Trí đã tự tay xách cái bao bố và chiếc cặp ra cất vào trong xe rồi quay lại hỏi Đại úy Minh muốn đi đơn vị nào. Đại úy Minh xin về Trường Võ Bị Đà Lạt như đã có Sự vụ Lệnh trước khi có cuộc đảo chánh. Tướng Trí nói rằng chưa thuận tiện vì tình hình đang lộn xộn. Sau đó Tướng Trí ra máy bay về Đà Nẵng. Ngày hôm sau, Đại úy Minh nhận được công điện phải vào Quân Đoàn I trình diện gấp trong 24 tiếng đồng hồ, nếu không trình diện sẽ bị báo cáo đào ngũ. Đại uý Minh định đi đường bộ vào Đà Nẵng, nhưng ông Mullen, Phó Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Huế, ngăn cản vì sợ Đại úy Minh có thể bị ám sát trên đường vào Đà Nẵng để thủ tiêu nhân chứng. Ông Muller đã cho một chiếc L.19 đến chở Đại úy Minh đi Đà Nẵng.

Khi hay tin ông Cẩn đang ở trong Dòng Chúa Cứu Thế, ông Elble, Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Huế, đã đề nghị ông Cẩn vào tỵ nạn trong Tòa Lãnh Sự Mỹ. Ông Elble nói rằng Hoa Kỳ có thể cho ông Cẩn tỵ nạn như đã cho Thích Trí Quang trước đây. Ông Cẩn trả lời rằng ông chỉ đi nếu Tòa Lãnh Sự cho mẹ già của ông cùng đi theo, nhưng ông Elble nói ông không được lệnh cho bà cụ trú ẩn. Ít ngày sau, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cho máy bay ra đưa ông Ngô Đình Cẩn vào giam ở khám Chí Hòa, Saigon.

Ngày 14.4.1964, Tòa án Cách Mạng họp tại Saigon để xét xử Ngô Đình Cẩn về các tội như đã truy tố Phan Quang Đông, trừ tội bức sát Nguyễn Phương, vì cho rằng ông Ngô Đình Cẩn đã ra lệnh cho Phan Quang Đông bắt vụ Morin. Ông Ngô Đình Cẩn khai trước tòa như sau: "Tôi quân sự không biết, hành chánh không biết, học tầm thường, làm sao ra lệnh cho ai?".

Trong khi Tòa án Cách Mạng xét xử ông Ngô Đình Cẩn, Tướng Nguyễn Khánh đã ra Huế gặp và xin được gặp Bà Nguyễn Văn Ấm, nhũ danh là Ngô Thị Nho, thân mẫu của Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận và là chị ruột của ông Ngô Đình Cẩn. Theo lời bà Nguyễn Văn Ấm kể lại cho một số linh mục và thân thuộc nghe thì Tướng Nguyễn Khánh đã đòi bà đưa cho ông ta 300 triệu đồng, ông ta sẽ tha ông Ngô Đình Cẩn. Bà Ấm trả lời rằng bà không làm gì có một số tiền to lớn như vậy.

Tướng Khánh là một tay đánh xì phé chuyên nghiệp, mỗi lần đến đánh phé ở nhà ông Huỳnh Hữu Nghĩa, Bộ Trưởng Lao Động, thường mang theo khoảng 200.000$. Nguyễn Khánh biết Tướng Đỗ Cao Trí đã lấy của ông Cẩn khoảng 8 ký vàng và một ít tiền mặt, nhưng nghĩ rằng ông Cẩn trước khi ra đi thế nào cũng có gởi cho bà Ấm một số tài sản quan trọng nên định lùa ván chót. Bà Ấm thừa biết nếu có 300 triệu đưa ra thì Tướng Khánh vẫn ra lệnh giết Ngô Đình Cẩn, để củng cố địa vị chính trị của mình.

Mặc dầu không xuất trình được bằng chứng cho thấy ông Ngô Đình Cẩn đã chỉ thị cho Phan Quang Đông trong vụ Morin, ngày 22.4.1964 tòa vẫn theo lệnh của Tướng Khánh tuyên án tử hình Ngô Đình Cẩn, tịch thu tài sản và liên đới với Phan quang Đông bồi thường cho các nạn nhân.

Ngày 9.5.1964, Phan Quang Đông đã bị xử bắn tại sân vận động Huế giữa những tiếng reo hò của Phật tử. Sau đó đoàn người đi xem xử bắn biến thành đoàn biểu tình yêu cầu Tướng Nguyễn Khánh đưa Ngô Đình Cẩn ra xử bắn tại Huế như Phan Quang Đông. Đoàn biểu tình không hay biết rằng trong khi Phan Quang Đông bị xử bắn ở Huế thì Ngô Đình Cẩn cũng đã bị xử bắn tại khám Chí Hoà, Sai gon, cùng một ngày.

Vụ Đặng Sĩ

Ngày 2.6.1964, Tòa án Cách Mạng họp tại Sai gòn để xử vụ Thiếu Tá Đặng Sĩ, Phó Tỉnh Trưởng Nội An kiêm Tiểu Khu Trưởng Thừa Thiên, người đã được lệnh dẹp cuộc biểu tình của Phật tử tại Huế vào tối 8.5.1963. Thiếu Tá Đặng Sĩ bị tố cáo về tội cố sát. Luật Sư Nguyễn Khắc Tân, người biện hộ cho Đặng Sĩ, cho chúng tôi biết theo Bản Cáo Trạng của Công Tố Viện và hiện trạng hồ sơ, Đặng Sĩ không có tội gì cả (xem phần Thánh Chiến I). Tuy nhiên, đây là một vụ án chính trị, nếu không có một áp lực đối nghịch, Tướng Khánh sẽ ra lệnh cho tòa án tuyên án tử hình Đặng Sĩ và đem xử bắn như Phan Quang Đông. Chúng tôi liền cho phổ biến rộng rãi Bản Cáo Trạng trên báo chí với dụng ý cho mọi người thấy Thiếu Tá Đặng Sĩ không có trách nhiệm trong vụ gây ra những sự chết chóc trong đêm 8.5.1963. Hầu hết các báo đã đăng nguyên văn hay một phần bản cáo trạng, chỉ trừ các báo Phật Giáo là viết theo luận điệu của Thượng Tọa Thích Trí Quang và yêu cầu tòa tuyên một bản án "thích đáng".

Trước sự lộng hành của Thượng Tọa Thích Trí Quang và nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung cũng như sự nhượng bộ một cách phi lý của Tướng Nguyễn Khánh, Khối Công Dân Công Giáo đã được thành lập để đối phó. Ngày 7.6.1964 Khối Công Dân Công Giáo đã tổ chức một cuộc biểu tình lớn, có khoảng 100.000 người tham dự tại công trường Lam Sơn trước trụ sở Ouốc Hội ở Saigon. Đoàn biểu tình đứng kéo dài đến chợ Bến Thành. Trong cuộc biểu tình người ta thấy có các biểu ngữ: "Lột mặt nạ bọn lợi dụng Cách Mạng để đàn áp Công Giáo", "Mỵ dân là phản bội Dân Chủ", "ủng hộ cuộc đấu tranh của Công Giáo miền Trung"... Thỉnh thoảng có một vài biểu ngữ "Cabot Lodge cút đi" được đưa lên. Chính nhờ cuộc biểu tình này Đặng Sĩ mới được cứu thoát.

Vụ Nguyễn Văn Y

Cũng trong ngày 8.6.1964, sau khi tuyên án Đặng Sĩ, tòa xử vụ Đại Tá Nguyễn Văn Y, Đặc ủy Trung ương Tình Báo kiêm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia và 13 người khác liên quan đến sự mất tích của một số nhân vật đối lập dưới chế độ Ngô Đình Diệm. Tuy không tìm ra được bằng chứng buộc tội, ngày 18.6.1964, tòa đã tuyên án 4 người khổ sai chung thân và tha bổng 9 người.

Vụ Dương Văn Hiếu

Ngày 23.6.1964, Tòa án Cách Mạng tại Saigòn lại xét xử vụ Dương Văn Hiếu, Tư Lệnh Cảnh Sát Đặc Biệt và các cộng sự viên là Nguyễn Thiện Dzai, Nguyễn Tư Thái và Phan Khanh.

Ông Ngô Văn Hiếu là người phụ trách công tác phản gián để tìm bắt các cán bộ Cộng Sản nằm vùng tại miền Nam Việt Nam. Năm 1958, nhân một cuộc hành quân tại Quảng Ngãi, Trung Đoàn 4 của Sư Đoàn I đã phát hiện một thùng tài liệu bí mật của Việt Cộng chôn giấu, liền báo tin cho cơ quan mật vụ của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến biết. ông Dương Văn Hiếu được cử ra nghiên cứu thì thấy đây là một tài liệu ghi mật mã của Việt Cộng. ông Dương Văn Hiếu liền cho làm bản sao và sau đó đem chôn lại chỗ cũ rồi cho pháo binh bắn vào để phá các dấu vết đào bới. Nhờ vậy Việt Cộng không nghi ngờ các khóa mật mã của họ đã bị khám phá. Dùng các khoá mật mã bắt được, Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung của ông Dương Văn Hiếu đã giải mã hàng trăm văn kiện liên lạc giữa Việt Cộng và phát hiện được hàng trăm cán bộ cao cấp nằm vùng của Việt Cộng từ Quảng Trị đến Saigon. Trong các nhân viên cao cấp của Việt Cộng bị bắt, người ta thấy có Cao Đăng Chiếm, Huỳnh Văn Trọng, Trần Ngọc Hiền, v.v. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, các cán bộ cộng sản nằm vùng đã đưa nhiều hồ sơ cho Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường, tố cáo Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt giam người trái phép, trong đó có vụ lớn nhất là vụ Nguyễn Văn Đạt ở Huế. Các lãnh tụ Phật Giáo chùa Từ Đàm vẫn quả quyết Nguyễn Văn Đạt đã bị bắt oan, nhưng hồ sơ tình báo cho thấy Nguyễn Văn Đạt là Bí Thư Tỉnh ủy Thừa Thiên của Việt Cộng. Có nhiều các bộ hoạt động dưới quyền của Nguyễn Văn Đạt khi bị bắt cũng đã xác nhận vậy. Nguyễn Văn Đạt Đạt đã làm tờ tự thú và xin trở về với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Về sau, bệnh sốt rét của Nguyễn Văn Đạt tái phát nặng, cơ quan an ninh đã cho Nguyễn Văn Đạt trở về với gia đình và giúp cho phương tiện cứu chữa.

Mặc dầu có nhiều tài liệu dẫn chứng các hồ sơ do các tăng sĩ chùa Từ Đàm đưa ra tố cáo về việc bắt giam trái phép đều liên hệ đến các đặc công Cộng Sản nằm vùng, ngày 25.6.1964, tòa đã tuyên án Dương Văn Hiếu, Nguyễn Thiện Dzai, Nguyễn Tư Thái khổ sai chung thân và Phan Khanh 10 năm khổ sai.

Hậu quả của bản án này là các nhân viên an ninh ở miền Trung không dám bắt các cán bộ Việt Cộng nằm vùng hoạt động trong các tổ chức Phật Giáo nữa, nên tình hình miền Trung rối loạn liên tục. Đây là chủ đích mà Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường nhắm đạt tới.

Các nhân viên tình báo cao cấp nói rằng Thượng Tọa Thích Trí Quang cương quyết loại trừ tất cả những nhân chứng biết rõ và nắm trong tay hồ sơ hoạt động cho cộng sản của ông và của nhóm đặc công Việt Cộng nằm vùng ở miền Trung. Những người có tên trong danh sách đòi nợ máu của ông đều là những nhân chứng về sự liên hệ giữa ông với Việt Cộng, trong đó Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông là hai người biết nhiều chi tiết nhất. Tuy nhân chứng bị sát hại, cơ quan tình báo Việt Nam Cộng Hòa và CIA đã lưu trữ đầy đủ hồ sơ hoạt động của nhóm này.

Chủ trương đòi nợ máu và "diệt dư đảng Cần Lao" là chủ trương của Đảng Cộng Sản đưa ra nhắm loại trừ các phần tử chống Cộng, Thượng Toạ Thích Trí Quang chỉ là người thừa hành. Chúng ta hãy nghe Việt Cộng viết về chiến dịch này:

"Hoạt động của ta từ sau hồi Diệm đổ diễn ra mạnh mẽ, đã kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng trên cả ba vùng, từ rừng núi đến đồng bằng, thành phố, tới giới tuyến giáp ranh vùng sâu."

"Trên cơ sở phong trào đấu tranh quần chúng, công tác xây dựng thực lực cách mạng cũng phát triển mạnh: ở Thừa Thiên cơ sở chính trị đã tăng 40% so với năm 1962, phong trào thanh niên ra vùng giải phóng tham gia cách mạng ngày một nhiều.

"Phong trào đấu tranh chính trị phát triển mạnh, nổi lên là những cuộc đấu tranh của sinh viên, học sinh và nhân dân lao động đòi trừng trị những tên ác ôn đầu sỏ có nợ máu như tên Đỗ Cao Trí, đòi hạ bệ tên Nguyễn Quang Trung, tỉnh trưởng Quảng Trị. Cuộc đấu tranh đòi xử tội tên Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông có tới 5 vạn người tham gia. Nguyễn Khánh ra Huế bị quần chúng la ó, ném guốc, dép phải bỏ về Saigòn".(13)

Đây là những thành quả mà Việt Cộng coi là đã thu hoạch được tại Quảng Trị, Huế và Thừa Thiên.

Sau khi vụ Phật Giáo miền Trung bị dẹp tan vào tháng 6 năm 1966, uy lực của Thượng Tọa Thích Trí Quang không còn nữa, chính phủ đã ký Sắc Lệnh ngày 31.10.1966 giảm án khổ sai của các đương sự xuống còn 5 năm khổ sai rồi qua năm 1967 trả tự do tất cả.

THANH TOÁN CÔNG GIÁO VÀ CÁC ĐẢNG PHÁI CHỐNG CỘNG DƯỚI DANH NGHĨA DIỆT TRỪ "DƯ ĐẢNG CẦN LAO"

Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Thượng Tọa Thích Trí Quang cho lập ngay Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, phát xuất từ Huế, để tiếp tục cuộc đấu tranh. Như chúng tôi đã nói ở nước, mục tiêu chiến lược của ông không phải là chống đàn áp Phật Giáo. Chống đàn áp Phật Giáo chỉ là mục tiêu chiến thuật. Do đó, khi mục tiêu chiến thuật này được thỏa mãn, ông tạo mục tiêu mới ngay để xách động Phật tử đấu tranh. Mục tiêu chiến thuật mới đó là "diệt dư đảng Cần Lao". Được coi là "dư đảng Cần Lao" tất cả mọi người theo Thiên Chúa Giáo và các tổ chức chống hay không đồng quan điểm với ông. Về sau, các khẩu hiệu của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã ghi rõ "diệt dư đảng Cần Lao Thiên Chúa Giáo." Phải diệt xong Công Giáo và các đảng phái quốc gia chống Cộng mới có thể cướp chính quyền, vì đây là hai đối thủ có thể ngăn cản hoặc phá vỡ kế hoạch tiến công của ông. Vì thế, mới ra quân, ông và Võ Đình Cường đã chỉ thị cho Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc chĩa mũi dùi thẳng vào Công Giáo và các đảng phái quốc gia. Thượng Tọa Thích Trí Quang không lường trước được phản ứng của phía Công Giáo, các đảng phái quốc gia và các Phật tử chân chính, nhất là các tông phái miền Bắc hay miền Nam.

Tạo lý do mới

Để tạo lý do xách động Phật tử đứng lên diệt "dư đảng Cần Lao Thiên Chúa Giáo", ngày 3.8.1964 Thượng Tọa Thích thiện Minh dẫn một phái đoàn Phật tử đến gặp Tướng Nguyễn Khánh, đưa hồ sơ tố cáo tại các địa phương "dư đảng Cần Lao" đang đàn áp Phật Giáo ở Quảng Nam và Đà Nẵng: Bắt bớ Phật tử ở Duy Xuyên, đốt nhà ở Tuy Phước, sát hại Phật tử ở An Thạch v.v. Sau khi điều tra, ban điều tra thấy rằng những người bị bắt đều là cán bộ cộng sản nằm vùng tổ chức phá rối.

Đánh phá các cơ sở Công Giáo

Áp đảo được các chính quyền địa phương, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tại miền Trung quay mũi dùi tấn công thẳng vào Công Giáo. Các nhân viên Công Giáo trong các cơ quan công quyền bị phân biệt đối xử. Nhiều người bị bắt, bị cất chức hay bị đổi đi xa. Các giáo xứ thường bị khiêu khích và đe đoạ. Khi nhận thấy nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung quá lộng hành, các giáo xứ đã liên kết để tìm cách đối phó.

Ngày 26.8.1964, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc bất thần cho lệnh tấn công hai giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi ở Đà Nẵng, đốt sạch nhà cửa, giết 11 người và gây thương tích cho 42 người. Khi tôi ra Đà Nẵng quan sát tại chỗ thì thấy quang cảnh giống như một bãi tha ma. Nhà thờ và tượng ảnh bị đập nát, những cột nhà đen nám chơ vơ giữa đống tro tàn... Tướng Nguyễn Chánh Thi tuyên bố chỉ cứu trợ chứ không chịu bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân, viện lý do vụ thiệt hại đó không phải lỗi của chính quyền. ông cho điều tra qua loa về nguyên nhân xẩy ra nội vụ, không quy trách hay truy tố ai, rồi cho xếp luôn hồ sơ. Người điều khiển cuộc đốt phá này là Hà Xuân Kỳ và Phan Xuân Huy. Nhờ vụ chỉ huy đốt phá này, về sau Phan Xuân Huy được Phật Giáo đưa ra làm Dân Biểu đơn vị Đà Nẵng. Cũng trong ngày đó, các giáo xứ tại Quy nhơn cũng bị đánh phá nặng nề, nhưng các tự vệ Công Giáo đã kháng cự được.

Được tin cầu cứu từ Đà Nẵng và Quy Nhơn, ngày 27.8.1964, khoảng 2.000 giáo dân các giáo xứ di cư đã đến bao vây Bộ Tổng Tham Mưu ở Saigòn đòi gặp Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng, yêu cầu giải quyết vụ Đà Nẵng và Quy Nhơn, đòi phải có biện pháp đối với các tổ chức thân Cộng đang gây rối. Cuộc xô xát với binh sĩ xẩy ra, có 4 người bị bắn chết và 11 người bị thương. Một toán khác đến đài phát thanh Saigòn yêu cầu đọc bản Tuyên Ngôn chống Cộng và chống trung lập. Tại đây lại có một cuộc xô xát với học sinh trường Nguyễn Trường Tộ. Tòa Tổng Giám Mục Saigòn và Viện Hóa Đạo phải ra thông cáo yêu cầu các tín đồ giữ bình tĩnh và giữ hòa khí.

Ngày 28.8.1964, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc vây trường Công Giáo Nguyễn Bá Tòng, vào đập phá nhà in của trường, đốt phá tòa báo Xây Dựng do linh mục Nguyễn Quang Lãm làm chủ nhiệm. Thanh niên các xứ Bùi Phát, Nghĩa Hòa, Tân Sa Châu và Xóm mới hay tin kéo đến giải vây. Cuộc xô xát giữa hai bên rất ác liệt. Lực lượng Nhảy dù được huy động tới để giải vây đã phải nổ súng. Kết quả có 2 người chết và 48 người bị thương phải vào bệnh viện. Hai xác thanh niên bị chết do tấn công vào trường Công Giáo Nguyễn Bá Tòng được đem về quàn tại Viện Hóa Đạo để làm lễ cầu siêu!

Trong cuốn Bạch Thư công bố ngày 31.12.1993, Hoà Thượng Thích Tâm Châu nói: "Trong khi đang tiến hành các việc, bỗng nhiên, Tướng Nguyễn Khánh cho tín đồ Thiên Chúa Giáo vùng Saigon Biên Hòa biểu tình vào Saigon, suýt xẩy ra cuộc tàn sát đẫm máu." Đây là một nhân định hoàn toàn sai lầm. Khối Công Dân Công Giáo đã ra lệnh biểu tình và phản ứng mạnh là do được điện cầu cứu từ Đà Nẵng cho biết hai giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi đã bị Hội Đồng Nhân Dân Cứu quốc thiêu rụi và sau đó Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc lại đập phá trường Nguyễn Bá Tòng và đốt tòa báo Xây Dựng của Linh mục Nguyễn Quang Lãm ở Saigon. Trong lúc chính quyền tỏ ra bất lực, không cách gì hơn là cho Hội Đồng Nhân Dân cứu Quốc một bài học để đừng tự tung tự tác nữa.

Ngày 29.8.1964 Viện Hóa Đạo tại Saigòn ra thông cáo tuyên bố từ nay không chịu trách nhiệm về các vụ bạo động. Nguyện vọng của Phật Giáo đã được thỏa mãn, các cuộc vận động chấm dứt. Thông cáo của Thượng Tọa Thích Tâm Châu bị Thượng Tọa Thích Trí Quang và các Phật tử ở Huế phản ứng mạnh mẽ, nên ngày 1.9.1964, Thượng Tọa Thích Tâm châu lại ra một thông cáo khác yêu cầu chính phủ phải dứt hoạt với "các nhóm người phá hoại của chế độ cũ". Yêu cầu chính phủ đừng chụp mũ các Phật tử tranh đấu là du đãng để bắt bớ. Thượng Tọa dọa nếu đến ngày 27.10.1964 không giải quyết, sẽ cho lệnh bãi thị và bãi khóa.

Để đáp lại, ngày 8.9.1964, Linh mục Hoàng Quỳnh, Chủ tịch Khối Công Dân Công Giáo, gởi cho Tướng Nguyễn Khánh một thư ngỏ yêu cầu chính phủ quan tâm đến các vụ tấn công các cơ sở Công Giáo trong những ngày vừa qua, yêu cầu điều tra và giải quyết một cách vô tư các vụ tấn công các giáo xứ ở Đà Nẵng và Quy Nhơn. Nếu chính phủ không vãn hồi được an ninh thì các giáo xứ Công Giáo bắt buộc phải tổ chức tự vệ và không chịu trách nhiệm về những hậu quả.

Ngày 21.9.1964 Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc cho lệnh tấn công đài phát thanh Quy Nhơn và lùng bắt dư đảng Cần Lao. Ngày 27.9.1964, Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường ra lệnh mở các cuộc lùng bắt dư đảng Cần Lao tại Huế và các tỉnh Trung Phần.

Ngày 25.9.1964, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tại Sàigòn hô hoán lên rằng dư đảng Cần Lao đang thuê lò rèn Lâm Hiệp Thành ở Xóm Củi rèn hàng ngàn con dao để chống cách mạng. Nhưng sau đó, Phái Đoàn Viện Trợ Hoa Kỳ ra thông cáo nói rõ số dao đó do Phái Đoàn đặt để cung cấp cho Phủ Bình Định và Phát Triển phát cho nông dân chớ không phải của dư đảng Cần Lao!

Khi các giáo xứ Công Giáo tại miền Trung và chung quanh Saigòn đã tự động võ trang tự vệ và sẵn sàng ứng chiến thì Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc không thể lộng hành như trước được.

Qua các trận đối đầu trên, người Công Giáo thấy rằng với sự lộng hành của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung, không thể chờ đợi chính quyền, phải phản ứng mạnh mẽ, không tương nhượng, mới có thể tồn tại được. Tương nhượng trong trường hợp này sẽ bị hiểu lầm là khiếp sợ và khuyến khích thêm sự lộng hành. Nhóm thân Cộng như Lý Chánh Trung, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Văn Trung, Trương Bá Cần... đã phản đối chủ trương đó, nhưng nếu nghe họ chắc chắn đã bị thảm bại.

Vụ Linh mục Cao Văn Luận

Đối với Thượng Tọa Thích Trí Quang, có một cái gai ông muốn nhổ ngay từ đầu, đó là Linh mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, nhưng không dám nhổ ngay vì Linh mục Cao Văn Luận có công rất lớn trong việc xây dựng Viện Đại Học Huế, ông lại được hầu hết các giáo sư và sinh viên Đại Học Huế yêu chuộng vì tính tình hòa nhã, có tinh thần phục vụ tích cực và bất vụ lợi... Trong thời gian Phật Giáo chống chế độ Ngô Đình Diệm, ông không đứng về chính phủ. Nhưng sự hiện diện của ông lúc này gây trở ngại cho cuộc đấu tranh cướp chính quyền mà Thượng Tọa Thích trí Quang đang phát động, vì ông không bằng lòng cho đưa chính trị vào đại học. Ngoài ra, Thượng Tọa Thích Trí Quang không muốn có một người Công Giáo nắm địa vị quan trọng trong Viện Đại Học Huế, nhất là khi người đó là một linh mục. Viện Đại Học Huế phải trở thành của Phật Giáo. Vì thế, khi đã làm chủ được tình hình ở Huế và đa số các tỉnh miền Trung, Thượng Tọa Thích Trí Quang liền ra lệnh cho các giáo sư thuộc phe ông trong Viện Đại Học Huế dứt điểm vụ này. Trước hết, nhóm này cho xuất bản tờ tuần báo Lập trường để triển khai chủ trương của nhóm, cổ võ cho đường lối của Thượng Tọa Thích Trí Quang và công khai chống chính phủ.

Ngày 18.9.1964, một số giáo sư và sinh viên họp tại Viện Đại Học Huế, yêu cầu Linh mục Cao Văn Luận từ chức để khỏi trở ngại cho chiến dịch bài trừ Cần Lao của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc. Giáo sư Lý Chánh Trung đã mô tả và nhận xét về vụ này trong bài "Loạn để trị" đăng trong tạp chí Tìm Hiểu số 2 tháng 10 năm 1964. Giáo sư Lý Chánh Trung là một phần tử thân Cộng đã ủng hộ Phật Giáo trong cuộc tranh đấu chống chính phủ Ngô Đình Diệm, nhưng nay thấy cảnh trái mắt nói trên, ông đã viết như sau:

"Một nhóm Giáo chức Đại Học họp lại, đánh điện tín là ông Viện Trưởng phải từ chức, vì sự hiện diện của ông "không cần thiết nữa." Rồi người ta thấy Bộ Giáo Dục chấp nhận ngay sự từ chức đó, rồi ông Thủ Tướng bổ dụng ngay chính ông Tổng Trưởng Giáo Dục kiêm nhiệm chức Hiệu Trưởng viện Đại Học Huế. Ôi, con rùa hành chánh sao bỗng nhưng lại đi nhanh thế!"

Các sinh viên Đại Học Huế không đồng ý quan điểm của một số giáo sư nói trên, đã làm kiến nghị phản đối. Một giáo sư đại diện cho phe Phật Giáo đấu tranh đã trả lời rằng Cha Luận giống như một "ung thư" phải cắt đi để khỏi làm tê liệt thân thể. Giáo sư Lý Chánh Trung đã nói về cái "ung thư" đó như sau:

"Cái "ung thư" Cao văn Luận đã mọc từ trong bào thai của viện Đại Học Huế. Nó đã khai sinh và làm cho trưởng thành bào thai đó. Cái "ung thư" đó đã lê cái thân già đi khắp cùng trái đất, xin tiền, kiếm người, khẩn khoản mới mọc từng người về giúp Viện Đại Học Huế, không phân biệt chính kiến, địa phương, tôn giáo. Và kết quả sau 7 năm trời xem cũng "được" lắm chứ. Cái trường Y Khoa của Bác Sĩ Quyến, nếu không có niềm tin tưởng, cái gan lì và công vận động của Cha Luận, làm sao thành hình?"

Sau khi nói về những bất mãn của nhiều giới, giáo sư Lý Chánh Trung viết tiếp:

"Thật ra các anh đã "cách chức" Cha Luận vì Cha không đồng ý với các anh về mặt chính trị. Như vậy Viện Đại Học Huế đã biến thành một đảng chính trị rồi đó. Và ai không đồng ý với các anh đều là "ung thư" phải mổ phăng đi cho..."dễ làm việc" có phải vậy không?"

"Các anh đòi hỏi dân chủ. Đòi hỏi dân chủ bằng cách bắt đầu độc tài, độc đoán; bắt đầu khệnh khạng, huênh hoang; bắt đầu làm chủ nhân chân lý, "xếp sòng cách mạng".(14)

Tại Saigòn, ngày 27.9.1964, "Lực Lượng Sinh Viên Học Sinh bảo vệ Giáo Dục thuần túy" tập họp và biểu tình trước Viện Hóa Đạo yêu cầu "đưa chính trị ra khỏi học đường". Hội Đồng Chỉ Đạo Sinh Viên Học Sinh Saigòn họp ra quyết nghị chống việc các tổ chức chính trị xen lấn vào học đường và lôi cuốn sinh viên học sinh vào các cuộc phiêu lưu chính trị. Các tổ chức này đều bị phe tranh đấu tố cáo là tay sai của "dư đảng Cần Lao".

Đánh tất cả những ai không đồng chủ trương.

Sau khi Tướng Nguyễn Chánh Thi bị cất chức Tư lệnh Vùng I vì dung dưỡng các phong trào ngụy hòa và sự lộng hành của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung, Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường thấy thế dựa bị mất, đã mở cuộc phản công Hội Đồng Quân Lực và tiến tới cướp chính quyền. Trong cuộc chiến này, Thượng Tọa Thích Trí Quang không dung tha bất cứ tổ chức nào mà ông coi là "phản động", không đứng về phe của ông.

Về phía các đảng phái, người ta thấy chỉ có nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng thuộc hệ phái Nguyễn Tường Tam do Nguyễn Tường Hiếu lãnh đạo đã theo phe Phật Giáo cực đoan Miền Trung, còn đa số các đảng phái khác hoặc đứng ngoài cuộc chiến hoặc chống lại. Về phía báo chí, ngoại trừ một vài tờ báo của Phật Giáo, hầu hết các báo không đồng ý với đường lối của Thích Trí Quang. Các tông phái Phật Giáo miền Nam rút ra khỏi phe tranh đấu như Hội Phật Học Nam Việt, Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam... Ngay cả các tăng sĩ miền Bắc trong Viện Hóa Đạo cũng thường xuyên phản kháng các quyết định của ông. Trước tình trạng này, Thượng Tọa Thích Trí Quang không những không xét lại đường lối mà còn ra lệnh mở cuộc tấn công vào bất cứ tổ chức hay cơ quan nào không chấp nhận chủ trương của ông.

Ngày 6.4.1966, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đến đập phá tòa soạn nhật báo Sống của Chu Tử, đốt mấy chiếc xe đậu phía trước và tố cáo báo này là tay sai của dư đảng Cần Lao. Ngày 8.4.1966 Nghiệp Đoàn Ký Giả ra thông cáo phản đối việc đốt phá tòa báo Sống.

Ngày 9.4.1966, Việt Nam Quốc Dân Đảng Đà Nẵng đã ra thông cáo tố cáo Lực Lượng đã phá trụ sở của họ và bắt đi các đảng viên.

Ngày 10.4.1966, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng Đà Nẵng có trang bị súng tiểu liên và lựu đạn đã đến vây đánh giáo xứ Tam Tòa, nhưng bị phản công mãnh liệt nên đành rút lui. Ngày 28.4.1966, Lực Lượng ném lựu đạn vào nhà cha sở xứ Tam Tòa.

Ngày 16.4.1966, vào sáng sớm, ông Chu Tử tức Chu Văn Bình, chủ bút nhật báo Sống, vừa ra khỏi nhà thì bị mấy người đi xe gắn máy bắn nhiều phát. Ngày 17.4.1966, nhiều tổ chức và đoàn thể lên án vụ ám sát Chu Tử, trong số này người ta thấy các giáo sư và sinh viên trường Đại Học Luật khoa Saigòn, Tổng Hội Sinh Viên Saigòn và Đà Lạt, các luật sư, các nhà văn và nhà báo, v.v.

Ngày 21.4.1966, Việt Nam Quốc Dân Đảng họp tại Toà Đô Chánh Saigòn tố cáo các vụ đàn áp các đảng viên tại Đà Nẵng, chê trách chính quyền bất lực và quyết định tự vệ bằng võ lực. Cũng trong ngày này Quốc Dân Đảng Quảng Ngãi biểu tình chống khủng bố và bạo động.

Ngày 22.4.1966, Tỉnh Bộ Đại Việt Quảng Trị lên tiếng phản đối Lực Lượng đã khủng bố các đảng viên của họ.

Ngày 24.4.1966, giáo dân Công Giáo tại Saigòn, Thủ Đức và Đà Nẵng biểu tình chống khủng bố và bạo động, tố cáo chính phủ nhu nhược và đả đảo Cabot Lodge.

Ngày 27.4.1966, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ám sát ông Phan Thuyết, Bí Thư Quốc Dân Đảng Đà Nẵng. Giáo dân Đà Nẵng lại tập trung biểu tình ở Thanh Bình phản đối các vụ khủng bố và bạo động của Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng.

Ngày 2.5.1966, trong khi các đảng viên Quốc Dân Đảng và thanh niên làm lễ truy điệu ông Phan Thuyết bị ám sát thì tại Đà Nẵng, đám tang của ông Phan Thuyết bị các thành phần của Lực Lượng đi xe jeep xả súng bắn làm cho 2 người bị thương nặng. Đồng bào Công Giáo ở Quy Nhơn và Hóc Môn biểu tình chống Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng.

Ngày 7.5.1966 Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ra lệnh cấm bán ở Huế và Đà Nẵng các nhật báo Chính Luận, Tự Do, Thời Luận và Tiền Tuyến vì cho rằng các báo này là của dư đảng Cần Lao. Ký giả Hà Thế Ruyệt của báo Quật Khởi đến săn tin trước Viện Hóa Đạo đã bị rượt đánh bị thương.

Ngày 14.5.1966 tại Saigòn, Lực Lượng Tranh Thủ Cách mạng đã ám sát ông Nguyễn Chữ, một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, người đã lên tiếng tố cáo các vụ bắt bớ đảng viên và phá trụ sở của Đảng tại Đà Nẵng.

Ngày 26.5.1966, Sinh Viên Tô Lai Chánh, Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Saigòn bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng bắt cóc. Sinh viên Tô Lai Chánh và Tổng Hội Sinh Viên quyết định không tham gia vào cuộc nổi loạn của Phật Giáo miền Trung nên bị Thượng Tọa Thích Thiện Minh tố cáo đã ăn tiền của chính phủ. Sinh viên Tô Lai Chánh và một số sinh viên đã tuyệt thực phản đối và yêu cầu Thượng Tọa Thích Thiện Minh chứng minh điều ông đã tuyên bố. Sau đó sinh viên Tô Lai Chánh đã bị bắt cóc. Các sinh viên và nhiều đoàn thể lên tiếng phản đối vụ bắt cóc này. Đến ngày 30.5.1966 sinh viên TÔ Lai Chánh mới được thả ra.

Đến giai đoạn này, Thượng Tọa Thích Trí Quang đã khai chiến với các tông phái Phật Giáo khác không đi theo đường lối và chủ trương của ông. Ngày 29.5.1966, ông Mai Thọ Truyền, Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt, phải viết văn thư yêu cầu Tòa Đô Chánh Saigòn cho nhân viên công lực đến bảo vệ chùa Xá Lợi. Ngày 2.4.1966, trong cuộc biểu tình trước đài phát thanh Saigòn, Lực Lượng của Thích Trí Quang hô to "Đả đảo Thích Tâm Châu" và "Hoan hô Hồ Chí Minh". Ngày 3.6.1966, Thượng Tọa Thích Trí Quang công khai lên án Chính sách ôn hòa của Thượng Tọa Thích Tâm Châu khiến Thượng Tọa này và Thượng Tọa Thích Hộ Giác tức giận tuyên bố từ bỏ các chức trong Viện Hóa Đạo. Thượng Tọa Thích Tâm Châu đã phải ra Vũng Tàu hay vào Trung Tâm Nhu Đạo ở Quang Trung trốn vì sợ bị ám sát.

Về phương thức chống đối, chúng ta thấy nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã đi từ chụp mũ "dư đảng Cần lao" đến tố cáo là "tay sai chính quyền", rồi khủng bố, bắt giam, bắt cóc, ám sát, chiếm cơ quan công quyền, v.v. Không một phương tiện nào có thể xử dụng được mà nhóm này không xử dụng. Nhưng rồi cuộc đấu tranh của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung ngày càng bị dân chúng chán ghét và lên án. Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Thượng Tọa Thích Trí Quang trở nên rối loạn, không còn kiểm soát được, đã mở đường cho chính quyền thanh toán.

CƯỚP CHÍNH QUYỀN

Sau khi đã thỏa mãn tiếng kêu đòi nợ máu của nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường, Tướng Nguyễn Khánh nghĩ đến việc củng cố địa vị.

Hiến chương Vũng Tàu

Vốn là một quân nhân thuần túy, Tướng Nguyễn Khánh không có kinh nghiệm về chính trị và nhất là không biết gì đến thủ đoạn và chiêu bài của Cộng Sản, nên lầm tưởng rằng đưa những người mà Thích Trí Quang đòi nợ máu ra xử bắn hay phạt tù nặng là có thể lấy được lòng của nhóm Phật giáo miền Trung. Tướng Khánh không hiểu rằng "diệt dư đảng Cần Lao" chỉ là một mục tiêu biểu kiến, một chiêu bài để kích động quần chúng. Mục tiêu tối hậu vẫn là cướp chính quyền tại miền Nam Việt Nam. Vì thế, sau khi đưa Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông ra xử bắn và tuyên phạt khổ sai các thành phần bị đòi nợ máu trong danh sách của Thượng Tọa Thích Trí Quang, ông tưởng rằng ông đã được Phật Giáo ủng hộ nên thừa thắng xông lên và kết quả thật thật là thảm hại.

Ngày 16.8.1966, Tướng Nguyễn Khánh cho triệu tập Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng tại Vũng Tàu để công bố một bản Hiến Chương mới. Theo Hiến Chương này, sẽ có một Quốc Hội Lâm Thời gồm 100 hội viên dân sự và 50 hội viên quân sự do Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng chỉ định. Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng vẫn là cơ quan quyền lực tối cao. Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng cũng đã chỉ định Tướng Nguyễn Khánh làm Chủ Tịch Việt Nam Cộng Hòa.

Nhiều người vẫn tin rằng tác giả của bản Hiến Chương nói trên là Luật sư Nghiêm Xuân Hồng, Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng của chính phủ Nguyễn Khánh. ông Nghiêm Xuân Hồng là một luật sư có tư cách đàng hoàng, được nhiều người yêu mến, nhưng về phương diện chính trị, ông được xếp vào loại những nhà lập thuyết, hoạch định đường lối và chính sách theo "luận" chứ không theo các sự kiện thực tế nên không thực hiện được. Nhiều người đọc cách hành văn và ý tưởng trong bản tuyên bố do Tướng Nguyễn Khánh đọc tại California năm 1990 đều tin rằng bài đó cũng do Luật sư Nghiêm Xuân Hồng soạn. Đồng bào khó biết được người soạn và người đọc bản tuyên bố đó muốn nói cái gì, vì nó mang màu sắc của một triết thuyết mờ mờ ảo ảo hơn là một đường lối chính trị.

Hiến Chương vừa được công bố thì tất cả mọi giới trong nước đều lên tiếng chống đối. Các đảng Đại Việt (Nguyễn Tôn Hoàn), Dân Chủ Xã Hội (Trương Bảo Sơn) và Quốc Dân Đảng (biệt bộ Nguyễn Tường Tam) lên tiếng công kích trước nhất, sau đó là Tổng Hội Sinh Viên Saigòn và khối Công Giáo. Tướng Nguyễn Khánh nhìn lại nhóm Phật Giáo đấu tranh ở miền Trung thì nhóm này cũng chống đối luôn. Sinh viên Saigòn là giới làm áp lực mạnh nhất đòi Tướng Nguyễn Khánh phải thu hồi Hiến Chương và thành lập một chế độ dân chủ.

Ngày 26.8.1964, nghĩa là chỉ 10 ngày sau ngày ban hành Hiến Chương Vũng Tàu, Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng phải tuyên bố thu hồi Hiến Chương và thiết lập các cơ chế dân chủ. Quân đội trở về cương vị quân sự. Tạm thời thành lập Ban Lãnh Đạo Lâm Thời Quốc Gia và Quân Lực gồm Tam Đầu Chế: Dương Văn Minh - Trần Thiện Khiêm - Nguyễn Khánh. Chính phủ Nguyễn Khánh tiếp tục đảm nhiệm chức vụ nhưng phải tổ chức Quốc Dân Đại Hội vòng 2 tháng.

Không còn chính phủ

Lợi dụng cơ hội này, Thượng Tọa Thích Trí Quang tuyên bố không chấp nhận cơ chế tạm thời nói trên và hô hào loại bỏ Chế độ độc tài quân phiệt. Các cuộc bạo động trở nên dữ dội hơn. Miền Trung gần như không còn chính phủ nữa. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc do Thượng Tọa Thích Trí Quang điều động đã nổi loạn khắp nơi và làm chủ tình thế ở các tỉnh miền Trung, thay chính quyền cai trị. Ngày 3.9.1964, Tướng Dương Văn Minh và Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh phải bay ra Huế trấn an phong trào Phật Giáo. Lúc đó Lý Chánh Trung đã viết bài "Loạn để Trị" đăng trên tờ Tìm Hiểu số 2 tháng 10 năm 1964 mô tả giai đoạn này như sau:

"Vì rằng từ mấy tháng nay, nhất là từ cái ngày Hiến Chương Ô Cấp "thành tích duy nhất của ông Khánh sau ngày chỉnh lý" bị đập đổ, người dân miền Nam đã nếm được cái thú vị của tự do. Tự do xuống đường, tự do đập lộn, chém giết, nói láo, bêu xấu. Muốn gì cứ việc xuống đường. Xuống đường là thắng Hoan hô dân chủ. Thật không có cái chính quyền nào nhiều "thiện chí" bằng cái chính quyền này: xun xoe chạy từ nhóm này đến khối kia, vuốt ve hứa hẹn để làm vừa lòng tất cả mọi người.

"Nhưng tội thay, không làm vừa lòng ai cả.

"Nhưng còn chính quyền nữa đâu mà nói! Ai cầm quyền hiện nay tại miền Nam? Người Mỹ trả lời: ông Nguyễn Khánh, rồi "Ban Lãnh Đạo Lâm Thời Quốc Gia và Quân Lực". Dưới Ban Lãnh Đạo Lâm Thời có một chính phủ "xử lý thường vụ" trong hai tháng (chỉ còn một). Trong chính phủ này, có một ông Phó Thủ Tướng đã bôn đào, 2 ông Tổng trưởng đã chấp nhận từ chức. Dưới nữa ta có các Tổng Giám Đốc, Giám Đốc, Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng v.v... Tất cả guồng máy hành chánh vẫn nằm đó, công chức cuối tháng vẫn lãnh lương đều đều. Nhưng chính quyền, ôi chính quyền, mi ở nơi nao?

"Ở Huế có cái Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng (rồi cứu quốc) mà thành phần chủ yếu là một số giáo sư đại học. Hội đồng này đã cực lực phủ nhận tam đầu chế Minh-Khánh-Khiêm. Thế rồi người ta thấy ông Minh và ông Oánh lẽo đẽo ra Huế để "thỉnh ý" Hội Đồng đó. Hội Đồng thương thuyết tay ngang với Chính Phủ. Tại nhiều Tỉnh miền Trung, những Hội Đồng tương tự được thiết lập và người ta đã chứng kiến những tấn bi hài kịch của những người "dư đảng Cần Lao", đến đầu thú nơi ông Tỉnh thì được ông Tỉnh gởi qua Hội Đồng, đến Hội Đồng thì được trả về ông Tỉnh.

"Thế thì ai cầm quyền trên đất nước này? Và dựa vào đâu những cái Hội Đồng đó dám tự xưng là "nhân dân"? Dân nào mà cử các ông ấy?"(15)

Chính trong thời gian khủng hoảng nói trên, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc do Thượng Tọa Thích Trí Quang điều động đã thiêu rụi hai giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi ở miền Trung, tấn công các cơ sở ấn loát và báo chí của Công Giáo tại Saigòn. Nếu không có sự đối kháng của Khối Công Dân Công Giáo và các tổ chức Công Giáo tự v?