← Quay lại trang sách

Chương IV ( tt) CUỘC THÁNH CHIẾN THỨ BA : NỘI CHIẾN DÀNH QUYỀN ĐẠI DIỆN VÀ LÃNH ĐẠO PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Trước khi Hoa Kỳ lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Phật Giáo Việt Nam có rất nhiều tổ chức khác nhau đã hoạt động một cách hợp pháp. Mỗi tổ chức có một lối sinh hoạt riêng. Từ năm 1951, đã có nhiều nỗ lực nhắm tiến tới thống nhất Phật Giáo, nhưng vấn đề không giản dị. Đạo Phật có đến 84 ngàn Pháp môn và lấy Tâm làm bản thể nên không tông phái nào có thể buộc tông phái khác phải theo Pháp môn, cách tổ chức và truyền thống của tông phái mình. Một sự thống nhất chặt chẽ như Công Giáo, Cao Đài hay Phật Giáo Hòa Hảo là một hiện tượng chưa hề thấy trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Nhưng muốn lợi dụng Phật Giáo để thực hiện những mưu đồ chính trị, cần phải đặt Phật Giáo Việt Nam dưới một mô thức thống nhất chặt chẽ. Để thực hiện mục tiêu đó, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã hành động ra sao và kết quả như thế nào?

Trong thời gian tranh đấu chống chế độ Ngô Đình Diệm, nội bộ Phật Giáo cũng chia năm xẻ bảy, nên bị chính quyền khai thác. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị Hoa Kỳ lật đổ, tình hình của khối Phật Giáo trở nên phức tạp hơn. Lúc đầu, một số Giáo Phái và Hội Đoàn đã đồng ý thống nhất với nhau trên căn bản "điều hợp" để thành một Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Mới thành lập xong, Giáo Hội này đã mở ngay một cuộc thánh chiến với chính quyền để đòi một "quy chế đặc biệt" cho riêng Giáo Hội, bất chấp tình trạng của các tông phái và các tôn giáo khác. Đây là một nỗ lực dành quyền đại diện Phật Giáo Việt Nam. Không am tường về luật pháp và say men chiến thắng, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã bị đẩy vào một tình trạng pháp lý rắc rối với những hậu quả không lường được.

Sau khi dành được một "quy chế đặc biệt", nhóm tăng sĩ chùa Từ Đàm ở Huế do Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường lãnh đạo đã thao túng Giáo Hội, đưa Giáo Hội vào một cuộc phiêu lưu chính trị mới nhằm cướp chính quyền. Cuộc thánh chiến thứ hai này đã đưa nội bộ của Giáo Hội đến chỗ rạn nứt, các phe quay lại chống nhau, Giáo Hội bị vỡ ra làm hai mảnh, một phần theo phe Việt Nam Quốc Tự do Thượng Tọa Thích Tâm Châu lãnh đạo, còn phần kia theo phe Ấn Quang do Thượng Tọa Thích Trí Quang lãnh đạo. Phe Việt Nam Quốc Tự đã chiếm được ưu thế về phương tiện pháp lý, còn phe Ấn Quang bị thua cuộc đã quay về sinh hoạt với một Hiến Chương đã bị hủy bỏ, trở thành một tổ chức nằm ngoài vòng luật pháp.

Phe Phật Giáo Ấn Quang không phải chỉ chống phe Việt Nam Quốc Tự mà còn chống tất cả các giáo hội Phật Giáo khác đã hoặc đang hình thành, nhưng không chấp nhận đặt dưới quyền điều khiển của Giáo Hội Ấn Quang. Nhóm Phật giáo cực đoan miền Trung quan niệm rằng chỉ có Phật Giáo Ấn Quang mới là Phật Giáo chính thống, nắm đa số tín đồ và có quyền đại diện duy nhất cho Phật Giáo Việt Nam. Trong khi đó, các tông phái nằm ngoài Giáo Hội Ấn Quang vẫn tiếp tục sinh hoạt riêng hay hình thành những tổ chức mới. Những tổ chức Phật Giáo hoạt động riêng rẽ này bị coi là "tay sai của chính quyền" hay có "âm mưu chia rẽ Phật Giáo" nên bị tấn công liên tục. Nhưng rồi những phe nhóm trong Giáo Hội Ấn Quang cũng đã quay lại chống nhau để dành quyền lãnh đạo Giáo Hội. Các cuộc nội chiến này đã gây nhiều hậu quả nghiêm trọng cho Phật Giáo và đã bị Việt Cộng khai thác. Tiến trình của cuộc nội chiến này cũng rất bi thảm. Chúng ta hãy lược qua những nỗ lực thống nhất Phật Giáo trước khi đề cập đến các cuộc nội chiến này.

VÀI NÉT VỀ THỐNG NHẤT PHẬT GiÁO QUA LỊCH SỬ: THỐNG NHẤT BẰNG CÁCH TRỞ THÀNH GIÁO HỘI NHÀ NƯỚC

Trong thời kỳ hưng thịnh nhất của Phật Giáo dưới đời Nhà Trần, cũng đã có sự thống nhất Phật Giáo. Vua Trần Thái Tông (1225 - 1258) và Tuệ Trung Thượng Sĩ đã kết hợp ba thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đương thành một thiền phái lớn là Thiền phái Yên Tử. Gọi là Thiền phái Yên Tử vì Thiền phái này do Thiền sư Hiện Quang khai sáng ở núi Yên Tử. Thời đại đó được coi là thời đại Phật Giáo Nhất Tông. Thiền sư Viên Chứng, hiệu là Trúc Lâm, đã kế nghiệp Thiền sư Hiệu Quang và được tôn làm Quốc Sư. Vì vậy ông được gọi là Trúc Lâm Quốc Sư. Ông là thầy dạy thiền cho vua Trần Thái Tông nên những tông phái Phật Giáo nằm trong Thiền phái Yên Tử được nhà vua cũng như triều đình trân trọng và nâng đỡ.

Đến đời vua Trần Anh Tông (1298 - 1314), một Thiền phái thứ hai tập hợp được nhiều thiền phái khác lại thành Thiền phái Trúc Lâm. Thiền Phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông, thân phụ của vua Trần Anh Tông, lập ra sau khi đã xuất gia nên được triều đình ban cho nhiều đặc quyền đặc lợi và được coi là Giáo Hội Nhà Nước. Các chùa của Giáo Hội Trúc Lâm được Nhà Nước cấp ruộng. Chùa Quỳnh Lâm được cấp 1.000 mẫu ruộng và nhà nước chỉ định một ngàn canh phu đến cày các ruộng đó. Sau này, các chùa lập chế độ Tam Bảo Nô lo canh tác ruộng cho nhà chùa để các tăng sĩ rảnh rang lo Phật sự. Vì có sự ưu đãi của triều đình, số tăng sĩ của Giáo Hội Trúc Lâm lên đến 15.000 người, có sổ bộ như công lại nhà nước và mỗi người đều được cấp Diệp Độ, tức chứng minh thư.

Các tăng sĩ không thuộc Giáo Hội Yên Tử hay Giáo Hội Trúc Lâm không được triều đình giúp đỡ nên phải tự túc lấy. Họ phải lo canh tác để sinh sống. Họ không có sổ bộ như những tăng ni theo tông phái Trúc Lâm, nhưng rất đông, có khi gấp hai ba lần số tăng ni của tông phái Trúc Lâm. Chùa do họ tự xây lấy hay dân chúng dâng cúng. Trương Hán Siêu, một Hàn Lâm Học Sĩ của nhà Trần, cho biết tài sản quốc gia có ba phần thì nhà chùa chiếm mất một phần ba.

Tuy hai Thiền phái Yên Tử và Trúc Lâm được nhà nước ưu đãi nhưng không thấy các thiền phái hay tôn giáo khác đứng lên tranh đấu đòi được đối xử bình đẳng hay tranh dành đặc quyền đặc lợi như Phật Giáo dưới thời đệ nhất và đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa. Cuối đời Nhà Trần, Phật Giáo trở nên suy đồi.

NỖ LỰC THỐNG NHẤT PHẬT GIÁO DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC VÀ ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA: ĐI TỪNG BƯỚC DÒ DẪM

Trong thời Pháp thuộc, thực dân Pháp đã khuyến khích phong trào chấn hưng Phật Giáo nên mạnh tông phái nào, tông phái đó cứ lập hội hay giáo hội. Nhóm hoạt động mạnh nhất là nhóm An Nam Phật Học ở Huế, vì vừa được chính quyền thuộc địa khuyến khích, vừa được triều đình nhà Nguyễn giúp đỡ. Chính bà Từ Cung đã đỡ đầu cho hội này. Năm 1945, khi Việt Cộng mới cướp chính quyền, các tăng sĩ Phật Giáo thộc nhóm An Nam Phật Học lo vận động tham gia Hội Phật Giáo Cứu Quốc trong Mặt Trận Việt Minh nên không nghĩ gì đến Phật sự. Sau khi Việt Cộng rút vào chiến khu một số tăng sĩ rời bỏ hàng ngũ kháng chiến về sống ở thành thị mới bắt đầu nghĩ đến thống nhất Phật Giáo để phát triển và đại diện cho Phật Giáo Việt Nam tại các tổ chức Phật Giáo quốc tế.

Ngày 6.5.1951, một Hội Nghị Phật Giáo toàn quốc đã được tổ chức tại chùa Từ Đàm Huế, gồm 53 đại biểu của một số tông phái Tăng Già và cư sĩ, đã đi đến quyết định thống nhất Giáo Hội Việt Nam qua hai giai đoạn: Giai đoạn đầu thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam với một Ban Trị Sự Lâm Thời quy gồm 6 tập đoàn, 3 xuất gia và 3 tại gia. Giai đoạn hai sẽ xóa bỏ các tập đoàn và sát nhập thành một Tổng Hội Phật Giáo duy nhất. Hội Nghị cũng phê chuẩn việc đề cử Thượng Tọa Thích Tố Liên đại diện ký tên xin gia nhập Hội Phật Giáo Thế Giới. Năm 1956, một Đại Hội Phật Giáo thứ hai được triệu tập tại Saigon để bầu Ban Trị Sự thực thụ.

Tổng Hội đã có nhiều cố gắng để cải tổ các hoạt động của Phật Giáo Việt Nam, nhưng các sinh hoạt của các tông phái vẫn còn mang tính chất riêng rẽ. Trong cuộc tranh đấu lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, người ta thấy Phật Giáo cũng chưa có một tổ chức rộng lớn. Lúc đầu chỉ có mấy tông phái ở Huế và Trung Phần có trụ sở ở Huế đứng trong tổ chức tranh đấu. Về sau phải lập Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo để kết hợp đấu tranh.

Tuy đã tạo được mục tiêu đấu tranh hấp dẫn, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung vẫn chưa thu hút được tất cả các Giáo Phái và hiệp hội Phật Giáo đứng vào Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo. Nhiều giáo hội và hiệp hội đứng ngoài hay chống lại cuộc chiến Ủy Ban Liên Phái như Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn thuộc Tổ đình Giác Lâm, Giáo Hội Lục Hoà Tăng Trung Nguyên và Cao Nguyên Trung Phần, Hội Phật Giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam (nhóm ông Đoàn Trung Còn), v v đã đứng về phía chính phủ Ngô Đình Diệm. Một số tông phái khác đứng ngoài cuộc chiến.

Tính đến ngày 1.11.1963, tại miền Nam Việt Nam đã có trên 35 tổ chức Phật Giáo có giấy phép hoạt động hợp pháp. Các tổ chức hoạt động không xin giấy phép cũng rất nhiều. Sau đây là một số giáo hội và hội Phật Giáo được nhiều người biết đến:

° Các Giáo Hội: Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam, Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn (Nam), Sơn Môn Tăng Già Trung Phần, Giáo Hội Thiền Tịnh Đạo Tràng, Giáo Hội Lục Hòa Tăng Việt Nam, Sơn Môn Tăng Già Trung Phần, Giáo Hội Tăng Sĩ Théravada, Giáo Phái Théravada, Giáo Hội Cư Sĩ Phật Đường Nam Tông, v.v.

° Các hiệp hội: Hội Phật Giáo Nguyên Thủy, Hội Phật Giáo Thuyền Lữ (Trung), Hội Phật Giáo Việt Nam Trung Phần, Hội Việt Nam Phật Giáo (Bắc Việt tại miền Nam), Hội Phật Học Việt Nam, Hội Phật Giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam, Hội Phật Giáo Lục Hòa Tăng, Gia Đình Phật Tử, Phật Hội Pháp Hoa Việt Nam, Hội Phật Tử Việt Nam, Hội Tịnh Độ Cư Sĩ Việt Nam, v.v...

Với một số tông phái đông đảo như vậy, việc thống nhất cũng không phải dễ dàng. Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam thành lập năm 1951 cũng chỉ mới quy tụ được 6 tập đoàn và tuy đã gia nhập vào Tổng Hội, các tông phái này vẫn tiếp tục sinh hoạt riêng rẽ.

MƯU TÌM SỰ THỐNG LÃNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị cơ quan tình báo Hoa Kỳ thuê các tướng lãnh Việt Nam lật đổ, nhóm tăng sĩ Phật Giáo miền Trung đã nỗ lực vận động các thành viên trong Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo họp thành một Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất. Công việc này gặp khá nhiều khó khăn vì đa số các tông phái đều muốn sinh hoạt riêng theo truyền thống của tông phái mình, nhưng rồi cùng, tất cả 11 Giáo Phái và Hội Đoàn trong Ủy Ban Liên Phái cũng đồng ý hợp lại thành một Giáo Hội, đó là các Giáo Phái và Hội Đoàn sau đây:

- Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy,

- Giáo Hội Tăng Già Trung Phần,

- Giáo Hội Thiền Tịnh Đạo Tràng,

- Giáo Hội Tăng Già Nam Việt,

- Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt,

- Giáo Hội Tăng Sĩ Theravada,

- Hội Phật Giáo Nguyên Thủy,

- Hội Phật Học Nam Việt,

- Phái Đoàn Giáo Phái Theravada,

- Hội Phật Giáo Việt Nam Trung Phần,

- Hội Việt Nam Phật Giáo.

Một đại hội thống nhất Phật Giáo đã được tổ chức từ 30.12.1963 đến 4.1.1964 để biểu quyết bản dự thảo Hiến Chương của Giáo Hội. Trong cuốn Bạch Thư công bố 31.12.1993, Hoà Thượng Thích Tâm Châu đã tường thuật lại những diễn biến của cuộc đại hội này như sau:

"Bỗng nhiên vào buổi chiều của một hôm, Thượng Tọa Trí Quang, Thượng Tọa Thiện Minh mời tôi lên tư thất cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền. Tại đây, Quý Thượng Tọa yêu cầu tôi làm Trưởng Ban Tổ Chức, triệu tập Đại Hội 11 Giáo Phái, Hội Đoàn trong Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo hội họp để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Thượng Tọa Trí Quang trình bày sơ về tổ chức Giáo Hội Thống Nhất. Tôi trả lời quý Thượng Tọa rằng: "Quý Thượng Tọa cho tôi biết về việc tổ chức Đại Hội, tôi vui lòng ký giấy triệu tập Đại Hội. Nhưng tôi không dám nhận ngôi vị lãnh đạo đầu tiên của Giáo Hội mới, vì tôi nhận thấy rằng, tuổi tôi còn ít, tài đức thiếu, nhất là hoàn cảnh di cư từ Bắc vào Nam, thiếu thốn đủ mặt, hậu thuẫn của Tăng, tín đồ không có, làm sao đảm nhận ngôi vị quan trọng ấy được. Chức vị đó xin các vị miền Trung, miền Nam nhận lãnh". Tôi rất mực từ chối và chỉ nhận việc tổ chức đại hội mà thôi.

"Trở về chùa Xá Lợi, triệu tập 11 Giáo Phái, Hội Đoàn về họp tại Chùa Xá Lợi từ 30.12.1963 đến ngày 4.1.1964. Bản Hiến Chương Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất của Thượng Tọa Thích Trí Quang soạn thảo được chấp nhận, bản Hiến Chương của Thượng Tọa Đức Nhuận bị loại. Cụ Mai Thọ Truyền làm Chủ Tịch Ban Thảo Hiến.

Sau khi Đại Hội chấp nhận Bản Hiến Chương Giáo Hội mới, Đại Hội suy tôn Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết lên ngôi vị Tăng Thống với nhiệm kỳ 4 năm thuộc Giáo Phái Bắc Tông. Và 4 năm kế tiếp, ngôi vị Tăng Thống thuộc về Giáo Hội Nam Tông. Bầu cử Viện Hóa Đạo 12 người, trong đó Đại Hội bầu tôi đảm trách chức vụ Viện Trưởng với nhiệm kỳ 2 năm. Trước sau tôi nhất mực từ chối, mà chỉ mong về tĩnh tu, dịch kinh. Nhưng, cho đến ngày 13.1.1964, Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tha thiết khuyên tôi đảm nhận chức vụ ấy, mãi mãi tôi mới vâng lời."

Về tên của Giáo Hội, Thượng Tọa Thích Thiện Dũng cho biết lúc đầu đa số các Giáo Phái định lấy tên là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, không có hai chữ "thống nhất" đằng sau. Riêng Thượng Tọa Thích Trí Quang nhất định đòi thêm hai chữ đó vào. Cuộc tranh luận này trở nên rất sôi nổi. Nhưng Thượng Tọa Thích Trí Quang đã thuyết phục được Hòa Thượng Thích Giới Nghiêm, Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Nguyên Thủy, nên Hòa Thượng này tuyên bố nếu không thêm hai chữ "thống nhất" vào, Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Nguyên Thủy sẽ rút tên ra. Để tránh tan rã, Đại Hội đã phải miễn cưỡng đồng ý thêm vào hai chữ đó.

Việc Thượng Tọa Thích Tâm Châu không chịu nhận chức Viện Trưởng Viện Hóa Đạo cũng có nhiều lý do, nhưng chính là có sự phản đối của nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang. Đa số các Giáo Phái và hội đoàn Phật Giáo không muốn bầu Thượng Tọa Thích Trí Quang làm Viện Trưởng vì Thượng Tọa Thích Trí Quang thuộc thành phần quá cực đoan, có thể dẫn Giáo Hội vào các cuộc phiêu lưu chính trị và gây chia rẽ trong Giáo Hội nên đã cố ép Thượng Thích Tâm Châu nhận chức. Trước tình trạng này, Thượng Tọa Thích Trí Quang đã nói thẳng rằng muốn được bầu làm Viện Trưởng phải là Thủ Lãnh của một Giáo Phái. Ông đưa ra điều kiện đó để loại Thượng Tọa Thích Tâm Châu, vì Thượng Tọa Thích Tâm Châu lúc đó không đứng đầu một Giáo Phái nào cả, còn ông đang là Hội Trưởng Hội Phật Học Trung Phần. Bất ngờ, hôm trước ngày bầu Viện Hóa Đạo, Hòa Thượng Thích Thanh Cát đã triệu tập một buổi họp tại chùa Giác Minh, tuyên bố từ chức Chủ Tịch Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt và suy tôn Thượng Tọa Thích Tâm Châu lên làm Chủ Tịch. Nhờ vậy, Thượng Tọa Thích Tâm Châu có đủ điều kiện để được bầu làm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo ngày 13.1.1964.

Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam do Thượng Tọa Thích Tâm Châu thành lập năm 1954 và là Chủ Tịch đầu tiên của hội này. Từ năm 1956 ông làm Phó Chủ Tịch Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.

Sự sắp xếp của Hoà Thượng Thích Thanh Cát đã làm Thượng Tọa Thích Trí Quang thất vọng, nhưng để tạo hoà khí, Đại Hội đã bầu Thượng Tọa Thích Trí Quang làm Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống. Về sau, Hòa Thượng Thích Giới Nghiêm, Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Nguyên Thủy, cứ hỏi đi hỏi lại các Giáo Phái tại sao không bỏ thăm cho Thượng Tọa Thích Trí Quang mà bỏ thăm cho Thượng Tọa Thích Tâm Châu!

THÁNH CHIẾN ĐÒI MỘT "QUY CHẾ ĐẶC BIỆT" ĐỂ ĐỘC QUYỀN ĐẠI DIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM

1- Đòi đi trước và đi trên luật pháp

Ngày 13.1.1964, Thượng Tọa Thích Tâm Châu, lấy tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo và Chủ Tọa Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo, đã gửi đến Trung Tướng Dương Văn Minh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, một văn thư mang số 0509-PT/CT có kèm theo bản Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và yêu cầu Chính Phủ công nhận Hiến Chương đó theo một "quy chế đặc biệt" dự liệu ban hành cho các tôn giáo tại Việt Nam.

Nhận được văn thư này, Tướng Dương Văn Minh liền chuyển qua cho Bộ Nội Vụ lúc đó do Trung Tướng Tôn Thất Đính làm Tổng Trưởng. Các chuyên viên của Bộ Nội Vụ và Bộ Tư Pháp sau khi nghiên cứu đã cho biết phải đợi có quy chế tôn giáo mới có thể giải quyết vấn đề này. Dụ số 10 ngày 6.8.1950 do Bảo Đại ban hành, được sửa đổi do Dụ số 24 ngày 19.11.1952 và Dụ số 7 ngày 3.4.1954, chỉ quy định việc thành lập các hiệp hội chớ không dự liệu việc thành lập các giáo hội. Bộ Nội Vụ liền viết công văn số 1041-B/BNV/KS ngày 29.1.1964 thông báo cho Thượng Tọa Thích Tâm Châu biết:

"Bộ Nội vụ chấp thuận tạm thời và trên nguyên tắc bản Hiến Chương của Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất, trong khi chờ đợi quy chế mới về đạo giáo được ban hành.

"Tuy nhiên, bản Hiến Chương nói trên sẽ được xem xét lại và chấp thuận khi có quy chế mới, để luật lệ chung được tôn trọng."

Công văn này do Trung Tướng Tôn Thất Đính ký tên.

Mặc dầu sự trả lời của Bộ Nội Vụ rất hợp lý, Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất không chấp nhận những lời giải đáp đó và đòi chính phủ phải công nhận ngay Hiến Chương ngày 4.1.1964 đã đệ trình.

Lúc đó các tài liệu của Ngũ Giác Đài về việc cơ quan tình báo Hoa Kỳ thuê các tướng lãnh Việt Nam làm đảo chánh chưa được công bố nên các nhà lãnh đạo Phật Giáo Ấn Quang tin rằng chính họ đã lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, nên thừa thắng xông lên, cương quyết tranh đấu cho bằng được. Khi ông Hà Thúc Ký được bổ nhiệm làm Tổng Trưởng Nội Vụ thay Tướng Tôn Thất Đính, Thượng Tọa Thích Tâm Châu lại gởi văn thư số 0344-VI/VP ngày 3.3.1964 yêu cầu Bộ Nội Vụ phải giải quyết ngay vấn đề Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Trước áp lực nặng nề của hai Thượng Tọa Trí Quang và Tâm Châu, Bộ Nội Vụ đã chiếu Dụ số 10, ban hành Nghị Định số 329-BNV/KS ngày 24.3.1964 cho phép Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hoạt động. Nội dung Nghị Định này gồm những điều khoản chính sau đây:

Điều 1.- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được phép thành lập trong khuôn khổ luật lệ hiện hành.

Điều 2.- Giáo Hội được phép hoạt động đúng theo bản Hiến Chương đề ngày 4.1.1964 đã được công nhận

Điều 3.- Kể từ ngày thành lập, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có tư cách pháp nhân và được quyền sở hữu, thụ đắc, tạo mãi, hoặc nhượng mãi, những bất động sản và động sản cần thiết để đạt mục đích của Giáo Hội.

Điều 4.- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sẽ điều chỉnh tình trạng khi quy chế mới về các giáo hội được ban hành.

Theo Nghị Định này, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất phải hoạt động theo quy chế hiệp hội quy định do Dụ số 10, vì lúc đó không có quy chế pháp lý nào khác.

Say men chiến thắng, Thượng Tọa Thích Trí Quang nhất định tiến tới. Ông đã viết một loạt bài dưới đầu đề "Phật Giáo và Chính Phủ", đả kích chính phủ không nghĩ đến xương máu và nguyện vọng của quảng đại quần chúng Phật Giáo và không giữ lời hứa thực hiện "bình đẳng giữa các tôn giáo".

2.- Sự đánh tráo của nhà cầm quyền

Tướng Nguyễn Khánh được Tổng Thống Ngô Đình Diệm trọng dụng trước đây nên sau khi làm cuộc "chỉnh lý" để cướp chính quyền ngày 30.1.1964, đã cố gắng tìm mọi cách chứng minh ông không phải là "dư đảng Cần Lao" bằng cách thẳng tay với tàn dư chế độ Ngô Đình Diệm và ve vãn Phật Giáo. Khi bị Thượng Tọa Thích Trí Quang tấn công, ông đã yêu cầu Bộ Nội Vụ phối hợp với Bộ Tư Pháp tìm cách giải quyết gấp vụ Hiến Chương Phật Giáo. Kết quả, Tướng Nguyễn Khánh, với tư cách là Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng kiêm Thủ Tướng Chính Phủ, đã ký Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14.5.1964 giải quyết những đòi hỏi của Phật Giáo Ấn Quang như sau:

Điều 1.- Nay công nhận Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cùng bản Hiến Chương ngày 4 tháng 1 năm 1964.

Điều 2.- Kể từ ngày thành lập, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có trọn vẹn tư cách pháp nhân, và được quyền sở hữu, thủ đắc, tạo mãi hoặc chuyển nhượng những động sản cùng bất động sản cần thiết để đạt mục đích của Giáo Hội.

Những bất động sản cần thiết là các tự viện (chùa) và các cơ sở hoạt động về văn hóa xã hội.

Điều 3.- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có quyền thâu nhận những tài sản sinh tặng hoặc di tặng bởi các thể nhân hay bởi các pháp nhân.

Điều 4.- Riêng về điều 27 của Hiến Chương ngày 4 tháng 1 năm 1964, quyền giám hộ và bảo vệ của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đối với các loại tự viện mà điều ấy đã ghi, cốt nhằm mục đích giám hộ và bảo vệ phương diện tinh thần giáo lý và thờ phượng, để tránh những phương hại cho Phật Pháp.

Quyền tư hữu và quản trị về vật chất của các loại tự viện vẫn thuộc sở hữu chủ, ngoại trừ trường hợp hiến cúng hoặc chuyển nhượng.

Điều 5.- Dụ số 10 ngày 6 tháng 8 năm 1950, cùng các luật lệ trái với Sắc Luật này, không áp dụng đối với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đã ăn mừng chiến thắng khi nhận được Sắc Luật này. Trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử, Thượng Tọa Thích Tuệ Giác đã viết:

"Đây là một thắng lợi hết sức vẻ vang của toàn thể Phật Giáo đồ trong cuộc vận động cho 5 nguyện vọng của Phật Giáo dưới triều đại Ngô Đình và cuộc vận động của Giáo Hội sau ngày cách mạng 1.11.1963"(19)

Nhưng các luật gia sau khi đọc Sắc Luật này đã cười một cách thích thú. Chúng tôi gọi điện thoại khen ngợi những người đã soạn thảo ra Sắc Luật đó.

Quả thật, hiệu lực và hậu quả pháp lý của Sắc Luật này không khác gì Nghị Định số 329-BNV/KS ngày 24.3.1964 mà Bộ Nội Vụ đã ban hành trước đó. Nhà cầm quyền chỉ đánh tráo hai chữ Nghị Định bằng hai chữ Sắc Luật mà thôi. Nhưng Sắc luật này sẽ gây nhiều hậu quả rắc rối cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất về phương diện pháp lý mà các tăng sĩ trong Giáo Hội không thấy được.

Nghị Định ngày 24.3.1964 hay Sắc Luật ngày 14.5.191 đều cấp cho Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang một tư cách pháp nhân có những hậu quả pháp lý giống nhau, nhưng Sắc Luật ngày 14.5.1964 đã đặt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra ngoài Dụ số 10 ấn định quy chế hiệp hội trong khi quy chế tôn giáo chưa được ban hành, nên khi có những khó khăn trong lúc áp dụng hay có tranh chấp, không biết sẽ căn cứ vào luật lệ nào để giải quyết.

- Hiến Chương vốn là một bản văn ấn định các vấn đề nội bộ của một tổ chức, nên việc duyệt y Hiến Chương bằng một đạo luật sẽ gây khó khăn cho việc sửa đổi Hiến Chương sau này, nhất là khi đã có Quốc Hội, mọi đạo luật đều phải được lưỡng viện Quốc Hội thông qua. Đó là chưa nói đến việc chính quyền lợi dụng những thế kẹt của Giáo Hội để lũng đoạn.

Vì "thắng lợi hết sức vẻ vang" này, chỉ một thời gian sau đó Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề.

Hiến Chương áp dụng được hơn một năm thì Viện Hóa Đạo đã phải tu chính lại. Việc tu chính này hoàn tất vào ngày 14.5.1965 và lại phải đệ trình lên Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia xin chuẩn y lần thứ hai. Hơn bảy tháng sau,Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đã ban hành Sắc Luật số 005/66 ngày 26.2.1966 chuẩn y Hiến Chương mới. Đến lần tu chính Hiến Chương tiếp theo thì xẩy ra những sự bất đồng trong Giáo Hội, phe Thượng Tọa Tâm Châu nắm được ưu thế về pháp lý nên phe Thượng Tọa Trí Quang đành hoạt động ngoài vòng luật pháp. Đây là vấn đề sẽ được đề cập trong đoạn sau.

3. Gạt bỏ âm mưu chiếm đoạt tài sản

của các làng xã và các tông phái khác.

Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất chỉ là một hiệp hội tư nhân, quy tụ được 11 tông phái, thế mà điều 27 Hiến Chương của Giáo Hội lại quy định như sau:

"Các quốc tự, các ngôi chùa làng, các ngôi tổ đình, các ngôi chùa xây dựng bởi:

a) Các vị Tăng sĩ

b) Các hội đoàn Phật Giáo cũ

được coi là Tự viện của GHVNTN và GHVNTN có nhiệm vụ giám hộ và bảo vệ với sự nhìn nhận quyền tư hữu của các Tự viện đó."

Quốc tự, chùa làng và các ngôi tổ đình thường là tài sản của quốc gia hay của làng xã. Các ngôi tổ đình được dùng thờ Thành Hoàng, không phải để thờ Phật. Các chùa do tăng sĩ hay các hội đoàn Phật Giáo xây cất là tài sản riêng cá nhân hay tổ chức đó. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không có bất cứ một thứ quyền gì trên các tài sản đó, tại sao Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất dám "coi là tự viện của GHVNTN và GHVNTN có nhiệm vụ giám hộ và bảo vệ" được? Giáo Hội chỉ có thể quy gồm các tài sản chung của 11 tông phái ký tên gia nhập vào Giáo Hội để "quản lý và bảo vệ", chứ không có quyền đụng đến tài sản riêng của từng đơn vị trong 11 tông phái đã ký tên, đừng nói đụng đến tài sản của các tổ chức đứng ngoài Giáo Hội.

Rõ ràng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã coi Hiến Chương của Giáo Hội có giá trị pháp lý như một đạo luật của chính quyền. Quy định trên không khác gì quy định trong Sắc Lệnh ngày 14.6.1955 của nhà cầm quyền Hà Nội ban hành quy chế tôn giáo tại miền Bắc. Sắc Lệnh này đã đặt tất cả tài sản của các tôn giáo dưới quyền quản lý của nhà nước. Cộng Sản chưa chiếm được miền Nam mà các nhà soạn thảo Hiến Chương ngày 4.1.1963 đã tỏ ra thành thạo phương châm "nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" của chế độ cộng sản và đem phương châm đó vào ngay trong Hiến Chương của Giáo Hội: Giáo Hội "nhìn nhận quyền tư hữu" nhưng dành quyền "quản lý và bảo vệ"!

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã tiến lên "xã hội chủ nghĩa" trước khi cướp được chính quyền. Nếu có được chính quyền, có lẽ Giáo Hội sẽ ban hành luật tước đoạt quyền tư hữu luôn!

Các chuyên viên của Bộ Nội Vụ và Bộ Tư Pháp đã phát hiện ra âm mưu chiếm dụng tài sản của kẻ khác này nên đã ngăn chặn bằng điều 4 của Sắc Luật. Điều này chỉ cho phép Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất "giám hộ và bảo vệ" về phương diện giáo lý và thờ phụng mà thôi. Nhưng ngay cả sự cho phép đó cũng đã xâm phạm vào vấn đề nội bộ của các tông phái Phật Giáo. Đạo Phật có đến 84.000 Pháp môn, ai muốn theo Pháp môn nào tùy ý. Mỗi tông phái có một lối tu riêng và có những truyền thống riêng, nhà cầm quyền lấy tư cách gì để giao cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất "quản lý và bảo vệ" cái Tâm của những người khác, nhất là đối với các tông phái không gia nhập Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất?

Trong trường hợp nói trên, để nhượng bộ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đang thừa thắng xông lên, nhà cầm quyền đã vi phạm nguyên tắc căn bản của luật pháp: Cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cái mà nhà cầm quyền không có. Quyền sống đạo và hành đạo là quyền của mỗi công dân và của mỗi tổ chức tôn giáo. Nhà cầm quyền chưa hề ban hành văn kiện pháp lý nào để tước đoạt các quyền tự do sinh hoạt này và đem về cho Nhà nước như Cộng Sản thường làm. Vậy nhà cầm quyền lấy cái gì để trao cho Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất "quản lý và bảo vệ"? Một sự trao quyền như thế vi phạm nguyên tắc căn bản "Nemo dat quod non habet", tức không ai có thể cho cái mình không có.

Trong thực tế, điều 27 của Hiến Chương và điều 4 của Sắc Luật chỉ là một điều khoản hư văn, vì không một tông phái hay hiệp hội nào để cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đụng đến tài sản hay sinh hoạt của họ. Nhưng những quy định của điều 27 Hiến Chương ngày 4.1.1964 đã để lộ tham vọng không chính đáng của những người soạn thảo Hiến Chương.

4- Tác hại của những tham vọng

Khi tranh đấu đòi nhà cầm quyền dành riêng cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất một "quy chế đặc biệt," Giáo hội này chỉ nghĩ đến quyền lợi của Giáo Hội mình, không nghĩ đến quyền lợi của các tông phái hay tôn giáo khác. Trong khi chống đối chế độ Ngô Đình Diệm, Phật Giáo đã đả kích nặng nề những khuyết điểm trong Dụ số 10 ngày 6.8.1950 do Bảo Đại ban hành, nhưng khi mới nắm được ưu thế, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã vội vàng đi vào ngay những khuyết điểm mà Phật Giáo chỉ trích và đòi thay đổi. Thay vì tranh đấu cho một quy chế tôn giáo áp dụng chung cho tất cả mọi giáo hội tại Việt Nam, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã tính chuyện làm ăn riêng để thâu tóm mọi mọi quyền hành của các tông phái Phật Giáo khác. Điều này đã đưa đến những kết quả rất tai hại: Chính quyền thấy để tình trạng mập mờ không quy chế dễ lũng đoạn các tôn giáo hơn nên bỏ qua việc soạn thảo một quy chế chung cho các tôn giáo và dùng quyền duyệt y Hiến Chương của các Giáo Hội bằng một đạo luật để chi phối hoạt động của các tôn giáo.

NHỮNG TRANH CHẤP TRONG NỘI BỘ

Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được phê chuẩn xong thì đã xẩy ra ngay các cuộc tranh chấp trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Thượng Tọa Thích Tâm Châu đã kể lại chuyện này như sau:

"Tôi là một vị Tăng miền Bắc cùng sống trong Viện Hóa Đạo gồm có 12 vị. Tôi không khác một con ếch bỏ trong giỏ cua. Tôi tận lực làm việc không mong một chút danh lợi nào, nhưng tôi bị chèn ép đủ mọi mặt, đến nỗi nhiệm kỳ 2 năm, tôi phải xin nghỉ 7 lần, cuối cùng Hòa Thượng Tăng Thống khuyên tôi, tôi lại phải vâng lời. Ngoài sự chèn ép, còn một nỗi khó khăn bởi Hiến Chương do Thượng Tọa Thích Trí Quang chủ trương áp đặt. Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhât chủ trương xóa bỏ các Giáo Phái, Hội đoàn, mà chỉ cần giám hộ các chùa, thu nạp Tăng Ni, Phật tử vào trong khuôn khổ Giáo Hội của mình và đặt dưới sự điều hành của Viện Hóa Đạo gồm 12 nhân vật mà thôi. Do đó, khi tôi đảm nhận trọng trách thực hiện Hiến Chương thì Thượng Tọa Giới Nghiêm, Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam viết thư cho tôi, mạt sát thậm tệ và quyết định không gia nhập. Các vị Thủ Lãnh của các Giáo Phái viết thư cho tôi, trực diện chỉ trích hai chữ "Thống Nhất" và cho là "Nhất Thống". Các vị rút ra khỏi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất."

Ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Chủ Tịch Hội Phật Học Nam Việt, được bầu làm Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo nhiệm kỳ đầu tiên, nhưng ông chỉ giữ chức này được một tháng rồi tuyên bố rút ra khỏi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau khi phản đối chính sách tập quyền và lộng quyền của nhóm tăng sĩ chùa Từ Đàm trong Giáo Hội và việc đưa tôn giáo vào các cuộc phiêu lưu chính trị. Đây là một mất mát lớn lao cho Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất, vì sự ra đi của ông, một người có uy tín lớn trong tổ chức Phật Giáo, đã làm nhiều tông phái Phật Giáo khác quyết định không gia nhập Giáo Hội.

Trong đoạn trích dẫn nói trên, Hòa Thượng Thích Tâm Châu có cho biết Hòa Thượng Thích Giới Nghiêm, Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Nguyên Thủy "mạt sát thậm tệ và quyết định không gia nhập" Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, nhưng thật sự Giáo Hội này đã gia nhập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ngay từ đầu và Hoà Thượng Thích Giới Nghiêm đã đứng về phe Thượng Tọa Thích Trí Quang. Nhưng về sau thấy nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang lộng hành quá, ngày 1.1.1967, Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Nguyên Thủy đã chính thức tuyên bố rút ra khỏi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Trong cuộc họp báo được tổ chức vào ngày 2.1.1967, Thượng Tọa Thích Tối Thắng, Phó Tăng Thống của Giáo Hội công bố quyết định nói trên và cho biết trong thời gian gia nhập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy chẳng những không được hưởng quyền lợi gì mà còn bị lợi dụng triệt để. Các tăng sĩ của Giáo Hội đã bị huy động tối đa vào các cuộc tranh đấu cho những mục tiêu không rõ rệt. Trong các cuộc biểu tình, các tăng sĩ của Giáo Hội thường bị ép buộc phải đi đầu... Vì vậy, Giáo Hội đã quyết định rút lui để trở về lo Phật sự.

CHỐNG ĐỐI SỰ HIỆN DIỆN HAY XUẤT HIỆN CỦA CÁC GIÁO HỘI PHẬT GIÁO KHÁC.

Với chủ đích quy các tông phái Phật Giáo về một mối để thâu tóm quyền hành, một số thành phần Phật Giáo miền Trung trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không muốn có sự hiện diện hay xuất hiện của một Giáo Hội Phật Giáo nào khác. Để ngăn chặn sự hình thành của các giáo hội Phật Giáo khác, nhóm Phật Giáo miền Trung nói trên không từ chối xử dụng bất cứ phương tiện gì, kể cả bạo lực.

1.- Những sự đối đầu dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà

Đến năm 1963, khi Phật Giáo mở cuộc đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm, thì tại Việt Nam Phật Giáo đã có 35 tông phái và hiệp hội hoạt động hợp pháp, tức có giấy phép của chính quyền. Các tông phái hoạt động không cần giấy phép rất nhiều. Vì vậy, chính phủ có thể thuyết phục được một số tông phái Phật Giáo đứng về phe chính quyền, chống lại phe tranh đấu.

Ngày 20.6.1963, Phật Giáo Cổ Sơn Môn đã họp đại hội tại Tổ Đình Giác Lâm, Chợ Lớn, gồm 785 đại diện, tôn Hòa Thượng Thích Huệ Tâm (ở chùa Trung Nghĩa, Sađec) làm Tăng Thống. Giáo Hội này lên án những người nhân danh Phật Giáo để gây rối loạn chính trị. Ngày 31.5.1963, Phật Giáo Lục Hòa Tăng (thuộc Cổ Sơn Môn) Trung Nguyên và Cao Nguyên Trung Phần họp tại Nha Trang cũng đã ra một kiến nghị tương tự như vậy. Kiến nghị do các Hòa Thượng Bích Lâm, Huệ Minh, Huệ Quang và Cư sĩ Chơn Tâm ký tên. Ngày 20.8.1963, nhà cầm quyền thuyết phục được một số tăng sĩ đứng ra thành lập Ủy Ban Liên Hiệp bảo vệ Phật Giáo Thuần Túy do Thượng Tọa Thích Nhật Minh lãnh đạo. Ủy Ban này lên án việc lợi dụng danh nghĩa Phật Giáo để xách động quần chúng, phá hoại nền Phật Giáo chân chính. Ngày 22.8.1963, Phật Giáo Tịnh Độ Tông ra tuyên ngôn tuyên bố không tán đồng những hoạt động chống chính quyền của Tổng Hội Phật Giáo và Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo, vạch mặt những kẻ lợi dụng tôn giáo để mưu đồ chính trị, bắt tay với Cộng Sản và phiến loạn để gây rối và khuynh đảo chính phủ. Tuyên ngôn do ông Hội Trướng Đoàn Trung Còn ký tên.

Các tổ chức trên đã bị nhóm Phật Giáo đấu tranh lên án là tay sai của chính quyền và âm mưu chia rẽ Phật Giáo.

2- Những sự đối đầu dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa

Nhận thấy nhóm tăng sĩ chùa Từ Đàm trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã đi quá xa ra ngoài phạm vi tôn giáo và có nhiều mưu đồ chính trị, một số tổ chức Giáo Hội và hiệp hội Phật Giáo cũ tách ra để sinh hoạt hoạt động riêng, như Hội Phật Học Việt Nam và Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy. Trong khi đó một số tông phái thành lập những Giáo Hội hay hiệp hội mới để hoạt động ngoài phạm vi của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Một giáo hội xuất hiện đầu tiên là Giáo Hội Thiền Tông Việt Nam. Giáo Hội này được phép thành lập do Nghị Định số 1488-BNV/KS ngày 23.11.1964 của Bộ Nội Vụ. Giáo Hội Thiền Tông Việt Nam do hai ông Dương Văn Thinh và Phạm Văn Tài đứng tên xin phép và đặt trụ sở ở số 10 đường Nguyễn Duy, Gia Định.

Kế đến, Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã được liên phái Phật Giáo sau đây quyết định thành lập:

- Phật Bửu Tự: Hòa Thượng Thích Minh Trực.

- Bửu Lâm Tự: Hòa Thượng Thích Thiện Trường.

- Bình Hoà Tự: Hòa Thượng Thích Hoàng Đức.

- Long Quang Tự: Hòa Thượng Thích Đạt Thanh.

- Chơn Đức Tự: Hòa Thượng Thích Từ Quang.

- Giác Lâm Tự Hòa Thượng Thích Thiện Thuận.

Trụ sở của Giáo Hội đặt tại số 80-A đường Cao Thắng, Saigon.

Giáo Hội đã soạn một Hiến Chương và trình lên Thượng Hội Đồng Quốc Gia xin duyệt y bằng một đạo luật như Hiến Chương của Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất. Ngày 8.2.1964, Thượng Hội Đồng Quốc Gia ban hành Luật số 001/64 thừa nhận Hiến Chương của Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Theo Hiến Chương này, Tổng Giáo Hội có ba Viện: Viện Chưởng Giáo, Viện Hoằng Pháp và Viện Hộ Đạo.

Sự xuất hiện của Tổng Giáo Hội Việt Nam đã gây ra những sự chống đối mạnh mẽ của Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất. Đạo luật duyệt y Hiến Chương của Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam mới được ban hành thì nhóm Phật Giáo miền Trung trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã lên tiếng tố cáo đây là một âm mưu chia rẽ Phật Giáo của chính phủ Trần Văn Hương và Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam bị coi là tay sai của chính quyền. Ngày 21.12.1964, Hòa Thượng Thích Từ Quang, Viện Trưởng Viện Hoằng Pháp của Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, đã bị bốn thanh niên tới hành hung ngay tại Chơn Đức Tu Viện ở Gia Định. Cơ quan an ninh đã được yêu cầu đến bảo vệ các chức sắc của Tổng Giáo Hội.

Sau đó, có thêm nhiều Giáo Hội và tổ chức Phật Giáo khác ra đời như Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ (1966), Giáo Hội Đạo Tràng Thiền Học (1968), Phật Hội Pháp Hoa Việt Nam(1965), Phật Hội Lục Phương Tông (1965), Hội Phật Giáo Phụng Sự Xã Hội (1967), Việt Hàn Phật Giáo Tương Trợ Hội (1967), v.v. Tính đến ngày 30.4.1975 đã có 16 giáo hội và 29 hiệp hội của Phật Giáo hoạt động hợp pháp.

Tháng 9 năm 1965, các tôn giáo lớn tại Việt Nam đã hội lại và thành lập Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo, ra thông cáo đồng xác nhận ý chí đoàn kết giữa các tôn giáo và kêu gọi các tôn giáo tham gia Hội Đồng Tôn Giáo. Ngày 22.9.1965, Viện Hóa Đạo cho phổ biến một thông cáo nói rõ: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sẽ không tham gia Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo và Hội Đồng Tôn Giáo nếu trong hai tổ chức này còn có Tổng Giáo Hội Phật Giáo thành lập dưới thời chính phủ Trần Văn Hương.

Sự tách rời của Hội Phật Học Nam Việt ra khỏi Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất là một mất mát khá lớn lao. Năm 1966, khi hội này không chịu tham gia vào các cuộc nổi loạn, Thượng Tọa Thích Trí Quang đã cho tấn công vào chùa Xá Lợi nên ngày 3.6.1966, ông Mai Thọ Truyền, Hội Trưởng của hội này, phải viết văn thư yêu cầu Tòa Đô Chánh Saigon cho nhân viên công lực đến bảo vệ chùa.

Những sự tách rời nói trên đã làm Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ngày càng yếu đi. Nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung càng tìm cách đối phó lại càng tạo thêm nhiều mâu thuẫn trầm trọng hơn.

NỘI CHIẾN TRANH QUYỀN ĐẠI DIỆN GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

Trong thời gian đang tranh đấu để cướp chính quyền từ 1964 - 1966, nhiều sự nứt rạn trầm trọng đã xẩy ra trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, vì nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã đưa ra những mục tiêu phiêu lưu và áp dụng những chiến thuật gây nội loạn của Việt Cộng để đấu tranh. Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường đã hành động bất chấp các quyết định của Viện Hóa Đạo và Thượng Tọa Thích Tâm Châu. Khi cuộc đấu tranh vừa bị chính quyền dẹp tan thì nội bộ của Giáo Hội Phật Giáo Nam Thống Nhất cũng đi đến chỗ tan vỡ.

1- Cuộc chiến giữa Thích Tâm Châu và Thích Trí Quang.

Ngay từ khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mới hình thành, đã có sự bất hòa giữa Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thượng Tọa Thích Tâm Châu. Việc tranh giành chức Viện Trưởng Viện Hóa Đạo đã tạo nên những sự căng thẳng. Thượng Tọa Thích Trí Quang tuy đã được bầu là Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống và nắm thực quyền trong Viện này, vì chức vị Tăng Thống của Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết trong thực tế chỉ là một hư vị, nhưng vì Viện Tăng Thống chỉ chuyên trách về giới luật cho các tăng ni và "cố vấn về đạo pháp" cho Viện Hóa Đạo nên quyền hành rất giới hạn. Thực quyền nằm ở Viện Hoá Đạo, một cơ quan điều hành tất cả mọi ngành hoạt động của Giáo Hội, lại rơi vào tay Thượng Tọa Thích Tâm Châu. Thượng Tọa Thích Trí Quang lúc nào cũng muốn can thiệp vào các sinh hoạt của Viện Hoá Đạo, khiến Thượng Tọa Thích Tâm Châu rất bực mình. Hai bên đã nhiều lần lớn tiếng cãi qua cãi lại nên những bàn tán về bất hòa trong Giáo Hội ngày càng lan rộng.

Trong cuốn Bạch Thư đề ngày 31.12.1993, Hòa Thượng Thích Tâm Châu có kể lại:

"Đầu tháng 6/1966, tôi đáp máy bay sang Colombo, thủ đô nước Tích Lan, cùng đại biểu Tăng Già các nước soạn thảo Hiến Chương và thành lập Giáo Hội Tăng Già Thế Giới vào ngày 6.6.1966, và tôi đảm trách chức vụ Phó Chủ Tịch.

Từ Tích Lan trở về, tôi ghé thăm Malaisia và Singapore để cám ơn sự hỗ trợ tinh thần trong cuộc tranh đấu 1963 vừa qua.

Vào khoảng tháng 7/1966, tôi đã về tới Saigon, được tin đang có biểu tình trong thành phố Saigon và một số nơi khác tại miền Trung. Tôi không hiểu, khi tôi đi vắng, ở nhà có Thượng Tọa Thích Trí Quang, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, do đâu lại phát động lại phong trào tranh đấu?

Tôi về tới Việt Nam Quốc Tự, bước chân vào cửa văn phòng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo của tôi thì có biểu ngữ nền vàng chữ đỏ ghi: "MUỐN QUẦN CHÚNG TUÂN THEO KỶ LUẬT THÌ PHẢI THEO QUẦN CHÚNG". Tôi vào tới bàn giấy của tôi thì có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư: "YÊU CẦU CÁC THUỢNG TỌA TRONG VIỆN HÓA ĐẠO, KHÔNG ĐƯỢC THEO THUỢNG TỌA TÂM CHÂU".

Tôi định lên chánh điện Việt Nam Quốc Tự lễ Phật, tại đây có mấy vị Tăng thanh niên không cho tôi vào chánh điện Việt Nam Quốc Tự và hăm dọa, ai muốn vào chùa hãy bước qua xác chết của họ.

Tôi vô cùng chán nản, không biết cách nào vãn hồi trật tự. Tôi trở về chùa Từ Quang. Chùa Từ Quang cũng có một đĩa máu và một huyết thư "CẤM TÔI KHÔNG ĐƯỢC HOẠT ĐỘNG NỮA". Và, người trong chùa cho biết là họ hăm dọa sẽ đốt xe, ám sát. Và, chính các vị Tăng thanh niên đang tụ tập tại Niệm Phật Đường Quảng Đức (chợ Vườn Chuối) định sang Chùa Từ Quang giết tôi. May có Sư Cô Vân biết được, cấp báo cho tôi biết. Tôi trốn thoát.

Từ đó, tôi phải đi nghỉ, nay tại nhà này mai tại nhà khác, nay tại Viện Nhu Đạo Quang Trung, mai tại Nha Tuyên Uý Phật Giáo".

Về ngày tháng xẩy ra sự kiện ở trên, sau khi phối kiểm chúng tôi nhận thấy có lẽ đã có một sự lầm lẫn. Đại Hội Phật Giáo Thế Giới được tổ chức tại Tích Lan vào ngày 9.5.1966. Ngày 12.5.1966, Đại Hội đã quyết định thành lập Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Thế Giới và bầu Thượng Tọa Thích Tâm Châu làm Phó Chủ Tịch. Ngày 25.5.1966, khi nghe tin các vụ biến động lớn đang xẩy ra ở Đà Nẵng, Huế và Saigon, Thượng Tọa Thích Tâm Châu đang ở Bangkok đã đánh một điện văn về Viện Hóa Đạo kêu gọi tăng ni Phật tử ngừng các vụ xáo trộn và yêu cầu Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ rút quân khỏi Đà Nẵng. Ngày 30.5.1966 Thượng Tọa Thích Tâm Châu lại ra tuyên cáo yêu cầu các tăng ni Phật tử chấm dứt các vụ tự thiêu và biểu tình, đồng thời cũng đòi các tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ trao quyền cho một chính phủ chuyển tiếp. Ngày 31.5.1966, Thượng Tọa Thích Tâm Châu đã hướng dẫn một phái đoàn Phật Giáo gồm 6 Thượng Toạ đến Dinh Gia Long họp với Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia để tìm giải pháp chấm dứt tình hình rối loạn hiện tại. Như vậy Thượng Tọa Thích Tâm Châu đã đi dự Hội Nghị Phật Giáo Thế Giới đầu tháng 5/1966 chứ không phải đầu tháng 6/1966 và ông đã trở về Việt Nam trong khoảng từ 25 đến 30.5.1966 chớ không phải khoảng tháng 7/1966. Thời gian Thượng Toạ Thích Tâm Châu đang ở ngoại quốc là thời gian có cuộc khủng hoảng lớn lao nhất đối với Phật Giáo Việt Nam: Hai tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan đã ra lệnh cho quân đội và Cảnh Sát Dã Chiến dẹp các lực lượng Phật Giáo đang gây rối loạn tại miền Trung, tái chiếm Đà Nẵng, sau đó tiến quân ra Huế. Khi Thượng Tọa Thích Tâm Châu trở lại Saigon thì cuộc tái chiến ở Đà Nẵng chưa hoàn tất.

Trong hai ngày mồng 1 và 3.6.1966, Thượng Tọa Thích Trí Quang đã tổ chức các cuộc biểu tình lên án công khai chính sách ôn hòa của Thượng Tọa Thích Tâm Châu. Hai Thượng Tọa Thích Tâm Châu và Thích Hộ Giác tuyên bố từ chức. Nhưng ngày 7.6.1966, Thượng Tọa Thích Tâm Châu quay về Viện Hóa Đạo tuyên bố vẫn tiếp tục giữ chức Viện Trưởng, ra lệnh giải tán Lực Lượng Phật Tử, chống bạo động và lập Ủy Ban Bảo Vệ Phật Giáo để tranh đấu bất bạo động. Ngày 13.6.1966, Thượng Tọa Thích Tâm Châu đọc một thông bạch trên đài phát thanh Saigon yêu cầu rước bàn thờ về chùa và nhà. Sau đó ông lánh ra Vũng Tàu vì sợ bị ám sát.

Ngày 17.6.1966, Thượng Tọa Thích Tâm Châu gởi cho báo chí một văn thư lên án Thượng Tọa Thích Trí Quang lạm quyền, không chịu tuân hành các quyết định của Viện Hóa Đạo và xác nhận ông vẫn còn là Viện Trưởng Viện Hóa Đạo. Ngày 11.7.1966, Hội Đồng Viện Hóa Đạo do nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang triệu tập đã họp tại chùa Ấn Quang, nhưng Thượng Tọa Thích Tâm Châu không về dự. Ngày hôm sau, Viện Hóa Đạo ra thông cáo yêu cầu Thượng Tọa Thích Tâm Châu phải về họp trong vòng 24 tiếng đồng hồ, nếu không phải chịu trách nhiệm trước Giáo Hội và tín đồ. Để đáp lại, ngày 13.7.1966 Thượng Tọa Thích Tâm Châu đã gởi cho Viện Hóa Đạo một văn thư nói Viện không có quyền cất chức Viện Trưởng Viện Hóa Đạo của ông. Ông đi dưỡng bệnh 2 tháng. Ông phải lánh mặt vì có âm mưu ám sát ông. Ông hoàn toàn không chịu trách nhiệm về tất cả các chuyện xẩy ra tại Viện Hóa Đạo trong thời gian ông vắng mặt. Một nguồn tin cho biết Thượng Tọa Thích Tâm Châu đã đến ẩn náu ở Trung Tâm Nhu Đạo Quang Trung để tránh bị ám sát.

Sau khi chính quyền dẹp xong nhóm tranh đấu chiếm đóng trong Viện Hóa Đạo, Thượng Tọa Thích Tâm Châu trở về làm việc, nhưng các tăng sĩ trong nhóm tranh đấu nhất định không chịu về. Họ cho rằng Thượng Tọa Thích Tâm Châu thân chính quyền và chính phủ đã xúc phạm đến tôn giáo. Hòa Thượng Thích Tâm Châu cho biết thêm:

"Tại miền Trung, Thượng Tọa Thích Trí Quang đã tuyên bố rằng: "Mỹ mua đứt Tâm Châu với 3 triệu Mỹ kim và cho tôi là cậu của tướng Nguyễn Cao Kỳ, đem quân đội ra tàn sát Phật tử miền Trung v.v..."

"Đó là chỗ nẩy sinh ra sự mâu thuẫn giữa tôi với các vị đấu tranh. Từ chỗ mâu thuẫn ấy, tại Saigon, Thượng Tọa Thích Trí Quang và nhóm tranh đấu vu khống cho tôi là người Mỹ cho tôi 1 triệu Mỹ kim và trả lương cho tôi mỗi tháng là 20.000 Mỹ kim. Thực ra, tôi chưa được một dollar của Mỹ, chứ nói chi đến vạn, đến triệu".

2.- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hết thống nhất

Ngày 21.10.1966, một Đại Hội Phật Giáo đã được triệu tập tại Việt Nam Quốc Tự để bầu lại Viện Hóa Đạo. Trong Đại Hội, đại diện của Miền Vĩnh Nghiêm (Bắc tông), Giáo Phái Theravada và Tỉnh Hội Phật Giáo Gia Định cho rằng việc bầu lại Viện Hóa Đạo chưa cần thiết. Thượng Tọa Thích Tâm Châu yêu cầu Đại Hội phải xét công tội, nếu không ông sẽ không từ chức Viện Trưởng Viện Hóa Đạo. Nhiều ý kiến bất đồng đã đưa đến những vụ lộn xộn, có cả xô xát và tiếng súng nổ. Cảnh sát được mời tới can thiệp.

Ngày 22.10.1966, nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thích Quảng Liên quay về chùa Ấn Quang họp và bầu Thượng Tọa Thích Thiện Hoa làm Viện Trưởng Viện Hoá Đạo. Thượng Tọa Thích Trí Quang từ chức Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống và trao lại chức này cho Thượng Tọa Thích trí Tịnh. Kể từ ngày hôm nay, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không thống nhất nữa và chia thành hai Giáo hội: Giáo Hội Việt Nam Quốc Tự do Thượng Tọa Thích Tâm Châu làm Viện Trưởng còn Giáo Hội Ấn Quang do Thượng Tọa Thích Thiện Hoa làm Viện Trưởng.

Nghe tin trên, ngày 23.10.1966, hơn một ngàn người biểu tình từ Việt Nam Quốc Tự kéo tới chùa Ấn Quang phản đối hai Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thích Quảng Liên gây chia rẽ Phật Giáo.

Về giai đoạn này, trong cuốn Bạch Thư ngày 31.12.1993, Hòa Thượng Thích Tâm Châu đã viết như sau:

"Tôi vẫn nhẫn nại làm việc và tuân theo lời dạy của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, tôi triệu tập Đại Hội Giáo Hội tại Việt Nam Quốc Tự vào ngày 22.10.1966.

Buổi chiều ngày 20.10.1966, làm lễ khai mạc Đại Hội. Sau khi tôi đọc diễn văn khai mạc, Đại Hội duyệt xét chương trình nghị sự rồi nghỉ, và quyết định sáng mai sẽ họp tiếp.

Bất ngờ, 3 giờ sáng ngày 23.10.1966, tại chùa Ấn Quang một số Thượng Tọa đã lén lút thành lập Hội Đồng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhât và cử Thượng Tọa Thích Thiện Hoa làm Viện Trưởng, coi như lật đổ tôi. Từ đó có ra Viện Hóa Đạo Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Ấn Quang".

Trước tình trạng có hai ban lãnh đạo Giáo Hội cùng một lúc, ngày 24.10.1966, Thượng Tọa Thích Tâm Châu ra thông cáo xác nhận ông vẫn là Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, một chức vụ mà ông đã được các đại diện của các tông phái trong Giáo Hội bầu ra. Ông tuyên bố việc bầu bán tại chùa Ấn Quang ngày 23.10.1966 là bất hợp lệ.

Ngày 25.10.1966, các tông phái Phật Giáo miền Vĩnh Nghiêm, Théravada, Hội Việt Nam Phật Giáo (Bắc Việt tại miền Nam) ra tuyên bố không công nhận cuộc bầu cử ở chùa Ấn Quang vì bất hợp lệ. Sự rạn nứt đi tới gian đoạn khó có thể hàn gắn được.

Ngày 24.12.1966, trong một buổi thuyết pháp, Thượng Toạ Thích Tâm Châu nói rằng Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất phải được sửa chữa lại cho phù hợp với tình thế mới. Phật Giáo phải trở về lại với các sinh hoạt tôn giáo thuần túy, không có xuống đường đấu tranh nữa. Sau đó một Hiến Chương tu chính đã được 5 tông phái biểu quyết vào ngày 14.3.1967, không có sự tham dự của các tông phái theo phe Ấn Quang. Những Tông Phái đã ký tên vào Hiến Chương mới là:

- Giáo Hội Nguyên Thủy Việt Nam.

- Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam.

- Tăng Sĩ Giáo Phái Phật Giáo Theravada.

- Cư Sĩ Giáo Phái Phật Giáo Théravada.

- Hội Việt Nam Phật Giáo.

Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đã ban hành Sắc Luật 023/67 ngày 18.7.1967 chuẩn y Hiến Chương ngày 14.3.1967 do Thượng Tọa Thích Tâm Châu đệ trình.

Ngày 12.8.1967, một cuộc họp bầu cử Hội Đồng Tăng Thống và Hội Đồng Viện Hóa Đạo đã được tổ chức tại Việt Nam Quốc Tự. Thượng Tọa Thích Tâm Châu xin từ chức Viện Trưởng Viện Hóa Đạo. Kết quả cuộc bầu cử như sau: Tăng Thống: Lục Cả Lâm Em thay Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết. Viện Trướng Viện Hóa Đạo: Thượng Tọa Thích Thiện Tường thay Thượng Tọa Thích Tâm Châu. Những biến cố xẩy ra sau vụ sửa đổi Hiến Chương này rất là nghiêm trọng. Hòa Thượng Thích Tâm Châu viết trong Bạch Thư:

"Sau khi rút khỏi Viện Hóa Đạo, tôi trở ra chùa Từ Quang Vũng Tàu của tôi, vui cùng cảnh vật thiên nhiên, cho vơi bớt những sự ưu tư, vất vả.

"Tại Saigon, Giáo Hội Thống Nhất Ấn Quang lại phát động phong trào tranh đấu, đòi hỏi không được tu chính Hiến Chương. (Thực vô lý, Ấn Quang chỉ có 3 Giáo Phái, Hội Đoàn, mặc dù tăng ni Phật tử đông. Việt Nam Quốc Tự có 8 Giáo Phái, Hội Đoàn - dù rằng Phật tử ít - vẫn có quyền tu chính Hiến Chương, chứ không phải hủy bỏ Hiến Chương).

"Đùng một cái, một hôm vào khoảng 7 giờ tối, một số Tăng tại chùa Ấn Quang, được sự hỗ trợ của các dân biểu thân Ấn Quang có súng, như Kiều Mộng Thu v.v.. đột nhập vào Việt Nam Quốc Tự bắt Thượng Tọa Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Thích Thiện Tường, cùng với rất đông chư Tăng, đem về nhốt tại chùa Ấn Quang. Ngày hôm sau, Nha Tuyên úy Phật Giáo can thiệp, mời các vị Ấn Quang ra khỏi Việt Nam Quốc Tự. Sau đó Giáo Hội Thống Nhất tại Việt Nam Quốc Tự lại phải đề cử Thượng Tọa Thích Minh Thành (người Nam) lên làm Viện Trưởng.

"Vẫn chưa yên. Lại một hôm khác, vào chập tối, phe Ấn Quang lại đem người, đem khí giới, tái chiếm Việt Nam Quốc Tự một lần nữa. Lần này họ bắt hết Tăng chúng, lấy hết đồ đạc, nhiều máy may của Việt Nam Quốc Tự và đốt cháy một dãy nhà phía tay trái Quốc Tự. Nha Tuyên úy Phật Giáo lại phải can thiệp để vãn hồi trật tự.

Sau biến cố này, Giáo Hội Thống Nhất tại Việt Nam Quốc Tự phải đề cử Thượng Tọa Thích Tâm Giác, Giám Đốc Nha Tuyên úy Phật Giáo, kiêm nhiệm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo mới yên".

Về sau, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Quốc Tự đã quy tụ được 17 Giáo phái, trong số này có 5 G