- I - I.- MỘT HÌNH THỨC THỦ TIÊU ĐẠI TÁ HỒ TẤN QUYỀN
Hai cái chết bí mật của Đại Tá Lê Quang Tung và Đại Tá Hồ Tấn Quyền đem đến nhiều nghi vấn sau Cách Mạng 1.11.63 thành công. Những cái chết này đều do bàn tay hành động của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng (Hội Đồng Tướng Lãnh thì đúng hơn) nhưng người Mỹ do Đại Sứ Lodge đại diện ở xứ này phải hoàn toàn chịu trách nhiệm với lịch sử về sau của Việt Nam trong khúc quanh lịch sử 1.11.63.
Số phận hai viên chức cấp Tá đứng đầu Hải Quân và Lực Lượng Đặc Biệt được ghi nhận bị giết trong ngày 1.11.63. Cố nhiên trong khung cảnh của một cuộc cách mạng, nhân sự ‘’phản bội’’ thì cái chết được xem như cỏ rác, và giới chức không thể đặt căn bản luật pháp để mở một cuộc điều tra. Đây là một sự sơ sót cho lịch sử cận đại khi bàn cập đến những nhân vật liên quan chung quanh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Điểm nhầm lẫn lần đi đến chính quyền tiếp nối chế độ Diệm và vô tình làm những sử gia phải đặt giả thuyết mơ hồ không chính xác. Đó là điểm tai hại sử liệu cho nước nhà.
.
Đại Tá Lê Quang Tung được nổi tiếng trong giới quân đội. Ông là vị sĩ quan trẻ, có tài và có đức. Cấp Tướng Tá thời bấy giờ rất nể nang ông Tung. Tuy nhiên Đại Tá Tung là vị sĩ quan cao cấp không mấy xuất hiện ở đàn ông. Vì thế các nhân viên cao cấp ở Trung Ương, các Quân Khu mới biết mặt và tiếng tăm của ông ta đang điều khiển một binh chủng được chế độ Ngô Đình Diệm tin dùng.
Đại Tá Tung vốn là người thân cận của ông Ngô Đình Cẩn, Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung. Ông Ngô Đình Cẩn đã giới thiệu Tung với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Lúc bấy giờ ông Tung đang mang cấp bậc Đại Úy. Ông Tung từ Huế vào Sài Gòn theo lệnh của ông Ngô Đình Nhu vào năm 1961, nghĩa là sau vụ đảo chánh hụt 11.11.60. Ông Nhu đưa ông Tung về trụ sở cơ quan mật vụ trên đường Phùng Khắc Khoan và Phan Đình Phùng để tổ chức Lực Lượng Đặc Biệt ra Bắc đang bành trướng mạnh.
Thời gian đó những nhân viên trong tổ chức này cho rằng ông Tung về cơ quan là chỉ bổ sung thêm nhân sự và họ coi ông Tung như trăm ngàn sĩ quan thân tín được ông Nhu chọn lựa giúp thêm uy thế cho chế độ mà thôi. Chính ông Tung cũng nghĩ như vậy. Cho nên khi đến Sài Gòn ông Tung đã đến trình diện ở cơ quan nầy và ông ta chờ đợi ngày hôm sau yết kiến ông Nhu và Tổng Thống Diệm.
Gặp ông Nhu trong vài câu chuyện hãy còn bỡ ngỡ với khung cảnh và văn phòng ông Cố Vấn trong Dinh Độc Lập. Khi ông Nhu chính thức bổ nhiệm ông Tung làm Tư Lệnh Đặc Biệt, thì ông Tung càng bỡ ngỡ thêm. Ông Tung không biết gì hơn, chỉ biết cười, cám ơn và sẵn sàng nhận chức vụ mới (Nguyên ông Tung là cựu Giáo Sư và Phụ Tá Giám Đốc Công An Cảnh Sát Trung Phần). Sau đó ông Nhu cho nhân viên hướng dẫn ông Tung ra mắt Tổng Thống Diệm. Tổng Thống Diệm rất bằng lòng cốt cách của ông Tung. Ông Diệm có lối coi mặt mà bắt hình dong. Sau những câu hỏi han thường lệ về gia đình của những nhân viên cộng sự với mình. Tổng Thống Diệm căn dặn ông Tung chăm chỉ làm việc, đừng ham chơi. Ông Tung chỉ lo việc ‘’vâng dạ’’ trước Tổng Thống mà thôi.
Tuy nhiên Tổng Thống Diệm đang vui vẻ, bỗng ông đăm chiêu nhìn thẳng vào cổ áo ông Tung. Lối nhìn của Tổng Thống Diệm rất sắc làm cho ông Tung lo sợ mà không biết truyện gì lại có sự ‘’quái đảm’’ đó. Chợt ông Diệm gật đầu rồi nói với ông Tung: ‘’Đại Úy lon nhỏ quá làm Tư Lệnh coi răng được. Thôi anh mang Thiếu Tá thực thụ đi’’. Ông Tung cười mà không nói năng gì cả.
Tổng Thống Diệm nói thêm: ‘’Anh mang Đại Úy chắc lâu rồi hỉ. Lon cũ lắm rồi’’. Ông Tung đáp lại: ‘’Dạ thưa cụ cũng ngoài 2 năm mấy’’. Tổng Thống Diệm cười: ‘’Thôi được, anh sẽ là Thiếu Tá thực thụ và thêm Trung Tá nhiệm chức để làm việc cho dễ dàng’’.
Thế là sau khi cáo từ Tổng Thống Diệm ông Tung vội vàng ra phố mua hai bông mai bạc gắn cổ áo và chính thức giữ chức Tư Lệnh Đặc Biệt. Khi ông Tung về sở mật vụ, trá hình ở đường Phùng Khắc Khoan thì nhân viên ở đây ngạc nhiên vô cùng. Vì mới ngày hôm qua ông ta mới là Đại Úy nay thăng lên Trung Tá.
Sau nầy họ mới biết ông Tung được thăng chức do đặc cách của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Từ đó ông Tung giữ chức Tư Lệnh Đặc Biệt và binh chủng nầy hoạt động công khai như một binh chủng bộ binh. Một năm sau Trung Tá Tung lại được thăng chức Đại Tá và ông chuyển Bộ Tư Lệnh về bên cạnh Nghĩa Trang Bắc Việt và Sân Vận Động Quân Đội cho đến khi đảo chánh 1.11.63 bùng nổ tại Sài Gòn. Rồi cuối cùng ông từ tạ binh chủng nầy không một lời nói để đi vào cõi thiên thu trong ngày chính biến quân đội.
Trường hợp sự thăng quan tiến chức cùng cái chết Đại Tá Tung đều âm thầm, bí mật, ít ai biết đến bề trái của nó. Có thể nói rằng dưới chế độ Ngô Đình Diệm, Đại Tá Tung là người bước vào danh vọng rất đặc biệt, có một không hai.
Và sự đặc biệt đó, Đại Tá Tung đã trả lại cái chết xứng đáng là người ‘’ăn cây nào rào cây ấy’’. Đó là một điều vinh dự, bất khuất của một sĩ quan vậy.
Theo những cựu nhân viên làm việc dưới quyền Đại Tá Tung đều cho rằng ông ta là một người tốt, một sĩ quan gương mẫu và có tài chỉ huy. Ông Tung mẫu người đứng đắn khiêm nhượng, được lòng các sĩ quan và nhân viên trong Lực Lượng Đặc Biệt.
Theo ông Nguyễn Thiện Dzai, cựu Đại Úy, nguyên nhân viên tình báo cao cấp trông coi Trại Lê Văn Duyệt (nơi giam cầm các sư sãi trong Cách Mạng 1.11.63) thì Đại Tá Tung ít có bạn bè. Người bạn duy nhất của ông là Tướng Tôn Thất Đính Tư Lệnh Quân Đoàn II.
Mỗi lần Tướng Đính từ Quân Đoàn II về Sài Gòn đều cho Đại Tá Tung biết. Ngày hôm đó dù bận rộn công việc đến đâu, Đại Tá Tung cũng lên phi trường đón ông Đính. Nếu quá đa đoan hoặc sợ Tổng Thống Diệm gọi bất ngờ, Đại Tá Tung thường ở lại văn phòng đợi chờ Tướng Đính đến. Tướng Đính và Đại Tá Tung thường đi ăn uống với nhau.
Có khi ở nhà Đại Tá Tung và có lúc ở các nhà hàng nổi tiếng trong Thủ Đô. Ngoài ra Đại Tá Tung còn từ chối những buổi tiệc được hàng cấp Tướng, cấp Tá mời. Nguyên do có một lần Đại Tá Tung đi ăn tiệc, Tổng Thống Diệm gọi ông nhưng không gặp. Tổng Thống Diệm bực bội, cho rằng Đại Tá Tung lo ăn chơi, bỏ bê công việc. Hôm sau Tổng Thống Diệm la rầy Đại Tá Tung. Từ đó Đại Tá Tung không đi ăn tiệc nữa. Ông chỉ đi với người bạn thân là Tướng Đính mà thôi. Và trước khi đi đều cho người nhà và nhân viên biết địa điểm để phòng hờ khi Tổng Thống Diệm gọi thì đến báo cho ông ngay.
Tình hình Đại Tá Lê Quang Tung ôn hòa, nhỏ nhẹ. Ông làm việc rất chăm chỉ, có sáng kiến làm cho các cố vấn phải nể nang. Bản chất ít nói, nên lắm người cho Đại Tá Tung thâm thúy. Do đó khi đảo chánh 1.11.63 khởi sự, tất cả Tướng lãnh chọn mục tiêu thanh toán đầu tiên là Đại Tá Lê Quang Tung Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt.
Đối với Tổng Thống Diệm, ông Tung tỏ ra thái độ trung thành triệt để mỗi khi nói về Tổng Thống, ông Tung coi bộ kính trọng vượt mức. Sự trung thành, tôn kính đó đúng với lòng thật của ông ta chứ không phải đầu môi chót lưỡi để cầu danh lợi.
Riêng với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, Đại Tá Tung đặt mình vào cộng sự viên đắc lực. Đại Tá Tung thường đàm luận với ông Nhu trong việc chỉnh trang Lực Lượng Đặc Biệt đi đến như Lực Lượng Nhảy Dù nhưng phải tinh vi, khoa học hơn. Thường nhật Đại Tá Tung đều vào Dinh gặp ông Nhu mà không bỏ sót một ngày nào kể từ khi ông điều khiển Tư Lệnh Đặc Biệt và Quân Ủy Cần Lao trong Quân Đội.
Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu rất biệt đãi Đại Tá Tung trong đó có sự nể nang tình bạn hơn là một nhơn viên cấp dưới thừa hành công việc. Nhân viên Phủ Tổng Thống làm việc bên cạnh ông Nhu, bà Nhu rất lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông Nhu nói cười vui vẻ khi Đại Tá Tung vào gặp ông ta. Đó là điều hiếm có trong cuộc đời được gọi là cô đơn chính trị của ông Nhu.
Bà Nhu cũng như chồng, kính mến Đại Tá Tung. Có lẽ sự trầm tĩnh, chịu khó làm việc, học hỏi của ại Tá Tung đã hợp với tâm tình vợ chồng ông Nhu, nên mới được trọng dụng như vậy. Bà Nhu thường yêu cầu Đại Tá Tung giúp đỡ vài ba công chuyện trong Phong Trào Liên Đới Phụ Nữ hoặc hỏi han về sự tổ chức bán quân sự cho Thanh Nữ Cộng Hòa ở Thị Nghè, suối Lồ Ô. Có lần bà Nhu nhận được một bức thư của một phụ nữ với lời lẽ thống thiết. Bức thư đó than phiền đói khổ, không có công ăn việc làm, xin bà cố vấn kiếm cho một việc làm ra tiền giúp gia đình.
Bà Nhu đã cho nhân viên mang bức thư đó qua Văn Phòng Đại Tá Tung và bà không quên viết vài dòng chữ trên tấm Carte với đại ý xin Đại Tá Tung tìm giúp công việc cho người phụ nữ đó trong cơ quan của ông.
Trong bức thư bà Nhu viết là bà không có quyền hạn tuyển nhân viên, văn phòng bà cũng đủ người. Chỉ có Đại Tá Tung mới thâu nhận nhân viên dân chính. Sự ngớ ngẩn của bà Nhu thấy rõ nhưng những nhân viên trung thành với chế độ như Đại Tá Tung thì cho việc làm của bà Nhu là một hành động đáng quý.
Câu chuyện tìm việc ở trên làm cho Đại Tá Tung mỉm cười. Ông đã đem bức thư của người phụ nữ tìm việc và bức thư của bà cố vấn cho nhân viên xem. Ai cũng bật cười và lạ lùng trước thái độ của bà Nhu.
Tuy làm việc ở Sài Gòn nhưng Đại Tá Tung cũng liên lạc thường xuyên với ông Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung Ngô Đình Cẩn. Thái độ của ông Tung đối với cậu Cẩn khác hẳn với ông Diệm, ông Nhu. Đại Tá Tung biết ông Cẩn là người thừa hưởng ‘’tháp ngà’’ để dung thân.
Đầu óc thủ cựu, thứ quan lại ‘’cha truyền con nối’’ đời sống du hú trong cảnh vườn, chậu kiểng nên Đại Tá Tung phải biết hòa mình với một người nhà quê có của, có tiền, học đòi thói văn minh thành thị. Thỉnh thoảng được dịp công tác tại Huế, Đại Tá Tung thường đến thăm ông Cẩn. Ông Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung hỏi han việc làm của Đại Tá Tung ở Sài Gòn.
Và ông Cẩn tránh vợ chồng ông Nhu khá nhiều trước mặt Đại Tá Tung. Đó là thời gian sau ngày hai Phi Công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom Dinh Độc Lập làm cho cánh trái sụp đổ, ông Cẩn cũng yêu cầu Đại Tá Tung thận trọng đừng đụng chạm đến nhân viên Mật Vụ miền Trung đang hoạt động tại Sài Gòn.
Đại Tá Tung trả lời là ông không thuộc vào lãnh vực đó nhưng sẽ căn dặn ‘’anh em’’ những lời của Cậu. Ông Cẩn nói với Đại Tá Tung như vậy vì có sự đụng chạm giữa mật vụ đặc biệt miền Trung và mật vụ của ông ở Sài Gòn. Chính Đại Tá Tung hiểu rõ điểm ấy vì ông đã nghe nhiều người nói rằng ông Cẩn rất giận ông về điều này.
Và câu chuyện đã đến tai Tổng Thống Diệm rồi mới giàn xếp êm đẹp. Cái êm đẹp này có vẻ bề ngoài mà thôi, còn bề trong ông Cẩn vẫn cứ chửi rủa suốt ngày khi nhận báo cáo của Mật Vụ Miền Trung hoạt động ở Sài Gòn bị hạn chế.
Người ta cho ông Tung làm việc cho đảng và vô tình khuyến khích các sĩ quan cao cấp tham gia chính trị. Đó là một điều tối kỵ đưa quân đội vào phe phái này, phe phái khác mà người ta thường gọi là gia nhập đảng.
Trong thời gian đảm nhận chức Đại Tá Tung giữ Quân Ủy Tung, mức tiến Cần Lao Quân Đội đã giảm khá lớn. Có nhiều sĩ quan đã Cần Lao mà không chịu sinh hoạt tập thể. Vì thế ông Nhu hằng ngày thúc đầy ông Tung phải hoạt động mạnh. Chính ông Tung luôn luôn theo lệnh đó, nhưng thất bại rõ rệt. Cần Lao hầu như hết hiệu nghiệm trong quân đội.
Dù rằng cũng có sĩ quan tham gia nhưng cốt ý làm vừa lòng ông Nhu để kiếm chức Tư Lệnh Sư Đoàn, Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng, mà không có một ý thức chính trị nào cả. Ung thối đó lan tràn mà Đại Tá Tung không thể ngăn chặn được. Vì Cần Lao dưới mắt Đại Tá Tung cần lượng hơn cần phẩm để báo cáo với ông Ngô Đình Nhu mà thôi.
Từ ngày chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt, Đại Tá Tung đã thành công được nhiều công tác bí mật. Như gửi quân ra Bắc, lập căn cứ du kích dọc theo biên giới Lào-Việt (mạn Thanh Hóa) và miền Trung Du Bắc Việt. Khi Đại Tá Tung trở về thiên thu thì những cơ sở này cũng theo gió nước mây ngàn chôn vùi. Đó là một điều làm cho cộng sản Bắc Việt mãn nguyện.
Đại Tá Tung đã thành công trong quân đội, nhưng ông đã nhầm lẫn thất bại trong việc gia nhập Đảng Cần Lao mà ông là Quân Ủy cuối cùng, vào những năm bệ rạc của chế độ Ngô Đình Diệm.
Ông Tung mắc kẹt ở chức vụ Quân Ủy của Đảng Cần Lao trong quân đội. Vì sa lầy vào Cần Lao, ông Tung đã trở thành công cụ của ông Ngô Đình Nhu. Những việc làm không tưởng của ông Nhu qua lãnh vực Cần Lao đã làm cho ông Tung bị vết xấu trong quân đội.
Vết hoen trong đời Đại Tá Tung là do ở chức vụ Quân Ủy Cần Lao. Vì Quân Ủy canh cánh bên mình, Đại Tá Tung phải gò bó trong khuôn khổ. Ông ngại ngùng giao dịch với cấp sĩ quan ngang hàng. Nhưng nhờ ở đức tính mềm dẻo, chứa đựng sự chịu khó bên trong, nên dù giữ chức Quân Ủy, dư luận quân đội vẫn cho ông là thứ Cần Lao hạng nhẹ. Nghĩa là ông đang hờ hững với Cần Lao.
Thật vậy, sau Cách Mạng 1.11.63 thành công, nhắc nhở đến Đại Tá Tung người ta chỉ đề cập đến chức vụ chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt có công lớn thả Biệt Kích ra Bắc mà thôi. Và việc ông gia nhập Cần Lao đến chức Quân Ủy chẳng qua vì cái thế trong một chế độ được coi là huy hoàng nhất ở Nam Việt Nam kể từ năm 1954 tới nay.
Hôm nay dù Đại Tá Tung chết (?) hoặc sống (?) bụi thời gian đã chôn vùi tháp ngà của một chế độ. Một chế độ mà Đại Tá Tung đã được tin dùng đến mức tối đa của lòng người thì thiên thu vĩnh viễn cũng thỏa mãn lắm rồi, dù ông để lại nỗi đau đớn lớn cho vợ con ở chỗ trần gian,
Cái chết của Đại Tá Tung thi hài mất biệt là một điều bí mật lạ lùng làm bội tăng sự thắc mắc. Vì dù sao cuộc Cách Mạng 1.11.63 dựa vào chính nghĩa Phật Giáo rất sáng sủa và thực tế thì cái chết kia không đúng nghĩa mà lại phải mây mù như thế.
Đại Tá Lê Quang Tung chết hay sống, tất cả mờ ám, bí mật cho thân nhân vị Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt nầy. Chết hoặc sống của Đại Tá Tung chính những nhân vật then chốt làm Cách Mạng 1.11.63 cũng không biết rõ từng chi tiết. Cố nhiên Đại Tá Tung là người của chế độ cũ phải thanh trừng trong một cuộc cách mạng. Nhưng giết Đại Tá Tung là sai lầm lớn lao.
Ông Tung là người của chế độ Ngô Đình Diệm nhưng tư cách của ông phụng sự quân đội, đất nước. Ông Tung đáng bị cầm tù hơn là thủ tiêu âm thầm như thế. Đại Tá Tung mất đi để lại một Lực Lượng Đặc Biệt quan trọng ở miền Nam cũng như trên đất Bắc cộng sản.
Khi nghe ông bị giết, một lính Bắc Bình (Biệt Kích đi Bắc) đào ngũ hoặc kéo nhau vào rừng ly khai. Nhưng dưới thời Nguyễn Khánh một số đơn vị nầy trở về hợp tác với chính phủ và được lệnh khoan hồng. Và cũng kể từ đó binh chủng của nguyên Đại Tá Lê Quang Tung không được đặc ân như dưới thời Ngô Đình Diệm.
Ngoài ra những cơ sở trên đất Bắc của Lực Lượng Đặc Biệt tan rã. Một số gián điệp Biệt Kích ra đầu thú với chính quyển cộng sản Hà Nội. Một số vượt biên giới qua Lào qua Thái Lan. Một số chết trong rừng thiêng nước độc. Nguyên do, họ đã mấy lòng tin, vì vị chỉ huy của họ, Đại Tá tung bị giết.
Cái chết của Đại Tá Tung đúng giữa ngày Cách Mạng 1.11.63. Người Mỹ đã dự trù một cuộc đảo chánh đó để hạ bệ chế độ Ngô Đình Diệm đang đi ngược chính sách Mỹ qua đầu óc ‘’chính trị tháp ngà cô đơn’’ của Ngô Đình Nhu. Người Mỹ xấu xí Henry Cabot Lodge hỗ trợ cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng mà không tiên liệu đến những cái chết đem tai hại cho đất nước nầy.
Đối với những viên chức cao cấp, đáng ra người Mỹ phải tiên liệu các nhân sự ‘’điên cuồng cách mạng’’ làm tiêu tan tài nguyên quốc gia mà trong đó bao quát cả về nhân lực. Đại Tá Tung là một nhân lực đáng kể. Nhưng số phận ông hẩm hiu hơn các viên chức cao cấp khác của chế độ Ngô Đình Diệm.
Những nhân vật chế độ cũ đáng chết thì người Mỹ và Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng lại tha thứ. Việc làm tắc trách đó đã vô tình đẩy lùi cuộc cách mạng. Và cuộc cách mạng đó đã làm cho Tướng Trần Văn Đôn gần đây đã tuyên bố: ‘’1.11.63 là một ngày biến động’’.
Một trong những lãnh tụ Cách Mạng 1.11.63 đã thốt lên như vậy thì những cái chết trong cách mạng đó quả là phí vậy.
Nếu đúng 1.11.63 là biến động lịch sử thì Đại Tá Tung bị giết là do ở sự ganh tị, bè phái.
Lực Lượng Đặc Biệt được thành lập là do sáng kiến của Hoa Kỳ. Ngân sách đài thọ do CIA cung cấp. Mặt trận gián điệp, du kích trên đất Bắc do Lực Lượng Đặc Biệt thực hiện. Ông Ngô Đình Nhu chấp nhận mặt trận đó hầu thu ngắn thời gian giải phóng đất Bắc đem lại vinh quang cho chế độ Ngô Đình Diệm. Ông Nhu đồng ý trên nguyên tắc những cơ cấu tổ chức do những cố vấn Hoa Kỳ đã từng được CIA huấn luyện vạch ra.
Đại Tá Lê Quang Tung được chỉ huy lực lượng nầy trên danh nghĩa. Nhưng ông đã đóng góp tài sức ngang hàng với người Hoa Kỳ mặc dầu ông Tung chưa hề xuất thân từ một trường điệp báo nào ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
Ông là một nhà quân sự hành chánh, nhưng nhờ ở thông minh, tinh vi học hỏi. Chẳng bao lâu ông Tung lại điều khiển các Cố Vấn Hoa Kỳ trong các chương trình hoạt động gián điệp khắp cả Bắc-Trung-Nam. Từ hững hờ đến trọng dụng Đại Tá Tung. Ông Tung cũng là người đầu tiên nhìn thấy chiếc máy bay gián điệp U2 có người lái và không người lái. Người Hoa Kỳ đã đưa ông Tung ra Hạm Đội thứ 7 bỏ neo ở Thái Bình Dương dọc theo bờ bể Việt Nam để quan sát loại máy bay nầy. Ông Tung đã dự nhiều buổi thuyết trình ở đó và nhìn tận mắt những hình ả nh do máy bay U2 chụp được các cơ quan quân sự của cộng sản Hà Nội trên đất Bắc.
Đại Tá Tung hết sức thán phục loại máy bay gián điệp này. Các nhân viên tình báo ở đó cho ông Tung biết, những hình ảnh rõ ràng nầy là do máy bay chụp ở cao độ mà mắt trần không trông thấy.
Nhờ ở U2 những cuộc thả lính Biệt Kích (Dân sự chiến đấu) không bị phát giác. Mọi công tác thành công mỹ mãn do công lớn ở con chim sắt gián điệp U2.
Người Hoa Kỳ tín nhiệm, tin tưởng ở Đại Tá Tung như thế. Ông đã nhìn thấy được U2 một khí giới mới lạ nhất của Hoa Kỳ trong chiến tranh gián điệp mà thế giới cộng sản không khám phá bất ngờ được.
Đại Tá Tung đã làm phúc trình căn kẽ lên Tổng Thống Diệm và Ngô Đình Nhu trong cuộc viếng thăm Hạm Đội thứ 7. Ông mô tả U2 rất cặn kẽ làm cho ông Nhu, ông Diệm tin tưởng vô biên. Vì vậy trong thời gian nầy lính Biệt Kích gởi ra Bắc liên tiếp, không ngừng.
Đại Tá Tung, một sĩ quan tình báo quan trọng như vậy mà vẫn không được bảo đảm khi tiếng súng Cách Mạng 1.11.63 khai hỏa trong Thủ Đô Sài Gòn. Dù rằng người Mỹ lo sợ Đại Tá Tung tiết lộ giờ đảo chánh với ông Nhu. Người Mỹ phải tiêu diệt được số mạng của ông để khỏi dang dở chương trình hoạt động của Lực Lượng Đặc Biệt. Nhất là những đường dây gián điệp đang trú ngụ bên kia vĩ tuyến 17.
Giờ thứ 25 với mức độ đảo chánh đến độ quyết liệt như thế nào đi nữa người Mỹ vẫn có thể bảo đảm được số phận của Đại Tá Tung. Nhưng ông đã bị bỏ rơi. Bỏ rơi một cách oan uổng đến độ mất tích, chết sống trong bí mật. Cho nên phải nói rằng làm việc với người Mỹ không có nghĩa được họ bảo trợ. Lối vắt chanh bỏ vỏ đối với người Mỹ là điều thường tình. Người ý thức chính trị phải tiên liệu điều đó để bảo đảm cho chế độ, cho chính cá nhân mình.
Phân tích như thế để khai sáng trường hợp Đại Tá Tung và không lấy gì băn khoăn thái độ người Mỹ nhất là lối làm việc tập đoàn của họ. Đại Tá Tung không còn trên cõi đời nầy, chết giữa tiếng súng cách mạng là con tốt thí cho chế độ Ngô Đình Diệm vậy.