← Quay lại trang sách

- II - (tt)

Đại Tá Quyền là người trung thành và tha thiết với chế độ Ngô Đình Diệm, chính đơn vị ông đã hạ được chiếc máy bay của Phi Công Phạm Phú Quốc bỏ bom Dinh Độc Lập với mục đích giết trọn gia đình họ Ngô.

Ngày 27.2.62 Hải Quân bắn hạ máy bay của hai Phi Công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử oanh tạc Dinh Độc Lập. Đại Tá Hồ Tấn Quyền được Tổng Thống Diệm gọi vào Dinh với những lời khen ngợi không ngớt. Tổng Thống chỉ thị cho Tướng Khánh hợp tác với Đại Tá Quyền gấp rút tổ chức ngày ‘’Quân dân đoàn kết’’. Địa điểm hành lễ tại Bến Bạch Đằng trước mặt Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Tổng Thống Diệm nhấn mạnh với Tướng Khánh và Đại Tá Quyền lấy Quân Chủng Hải Quân làm nòng cốt trong buổi lễ ấy. Đó là một vinh dự cho Đại Tá Hồ Tấn Quyền Tư Lệnh Hải Quân trước mặt Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Từ đó song song với việc tối tân hóa kỹ thuật Không Quân Tổng Thống Diệm ra lệnh cho ông Nguyễn Đình Thuần Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng phải đưa Hải Quân ngang hàng Không Quân trong lãnh vực đó.

Ngày 26.10.62 lần đầu tiên Lễ Quốc Khánh tổ chức tại Bến Bạch Đằng. Tổng Thống Diệm duyệt Bộ Binh, Không Quân sau đó lên thủy động cơ duyệt tàu Hải Quân bỏ neo hàng một giữa sông Sài Gòn. Đây là lần đầu tiên Tổng Thống Diệm đi tàu thủy duyệt binh các chiến hạm trong Lễ Quốc Khánh đã được tổ chức kể từ khi ông ngồi ghế Tổng Thống.

Đại Tá Hồ Tấn Quyền hãnh diện đã tạo được uy thế Hải Quân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và dần dần ông đã đưa Quân Chủng này nòng cốt tin dùng của chế độ. Sự thật đúng hẳn như vậy. Kể từ ngày Hải Quân hạ được máy bay ‘’phản loạn’’ Phạm Phú Quốc. Tổng Thống Diệm mới thấy hiệu năng của Hải Quân bên cạnh chế độ.

Từ trước, Tổng Thống Diệm tin tưởng vô năng Binh Chủng Dù, Lực Lượng Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ. Nhưng vụ đảo chánh hụt 11.11.60 xẩy ra, Tổng Thống Diệm khá chán nản tìm lực được coi là căn bản vững chắc của chế độ.

Bằng chứng trong vụ đảo chánh đó một số đơn vị Dù tấn công Phủ Tổng Thống. Ngược lại Liên Binh Phòng Vệ chống cự yếu đuối. Tổng Thống Diệm suýt từ chức giao quyền lại cho những người cầm đầu vụ 11.11.60 lãnh đạo chính phủ. Đến ngày 27.2.62 Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ với hàng cao xạ phòng không, với thiết giáp, thiết vận xa phòng không mà không bắn hạ được hai chiếc Skyraider của Phi Công Phạm Phú Quốc và Phi Công Nguyễn Văn Cử.

Hai chiếc máy bay bỏ bom Dinh Độc lập bay độ thấp làm vang dội nền trời Thủ Đô Sài Gòn. Hai chiếc máy bay đó quàng đi quàng lại gần 4 vòng, thế mà Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ không bắn hạ được.

Máy bay bỏ bom xuống Dinh Độc Lập làm sập cánh trái (nơi cư ngụ gia đình ông Ngô Đình Nhu) 2 quả không nổ rơi ngay phòng khách lớn và góc sân Dinh Độc Lập.

Trong vòng bay thứ 4 của Phi Công Phạm Phú Quốc đã bị Hải Quân của Đại Tá Hồ Tấn Quyền bắn trúng. Phi cơ của Phạm Phú Quốc với số giờ bay kinh nghiệm, đã điều khiển phi cơ đáp xuống vùng đồng ruộng xa lộ Biên Hòa. Trước khi hạ cánh Phi Công Phạm Phú Quốc đã thả mấy quả rocket còn lại xuống đồng cỏ sình lầy. Máy bay đáp xuống cánh đồng lúa Phi Công Phạm Phú Quốc nhảy ra khỏi phòng lái.

Trong khi đó nhân viên Anh Ninh Quân Đội, Quân Cảnh theo dõi máy bay bị đạn. Nên Phạm Phú Quốc bị bắt ngay trong lúc, Phi Công Phạm Phú Quốc không hề tỏ thái độ nao núng. Ông hiên ngang đứng đợi sẵn những gì sẽ xẩy ra. Quân Cảnh tước khí giới Phạm Phú Quốc nhưng bị ông ta phản ứng quyết liệt. Tuy nhiên với số đông nhân viên quân lực, Phi Công Phạm Phú Quốc phải thất thủ chịu trận. Khí giới của Phạm Phú Quốc gồm hai khẩu súng lục và một con dao găm. Phạn Phú Quốc bị giải về An Ninh Quân Đội và giam tại đó để điều tra và lấy khẩu cung.

Riêng Phi Công Nguyễn Văn Cử thấy Phạm Phú Quốc bị bắt hạ liền cất cánh bay qua Kampuchia tỵ nạn chính trị. Mãi đến đảo chánh 1.11.63 thành công, Phi Công Nguyễn Văn Cử mới từ Kampuchia trở về Nam Việt Nam phục vụ Quân Chủng Không Quân như ngày xưa.

Chiếc máy bay Nguyễn Văn Cử cũng bị đạn cao xạ của Hải Quân và Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ khá nặng. Nên khi đến Phi Trường Nam Vang máy bay của Nguyễn Văn Cử đáp bằng bụng trước sự hãi hùng của nhân viên và Không Lực Kampuchia.

Chiếc máy bay của Phi Công Nguyễn Văn Cử gần một năm sau chính quyền Ngô Đình Diệm mới được chính phủ Sihanouk cho phép thâu hồi.

Việc thâu hồi chiếc máy bay đó rất ly kỳ. Vào thời đó giữa Kampuchia và Việt Nam Cộng Hòa tình trạng ngoại giao bế tắc qua những vụ tranh chấp biên giới. Đồng thời chính quyền Sihanouk đòi Sài Gòn phải trao trả một vài Tỉnh mà Kampuchia có rằng trước kia thuộc lãnh thổ quốc gia nầy.

Chính quyền Kampuchia còn phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm đã cải địa danh những tỉnh miền Nam như Sađéc, Sóc Trăng với mục đích xóa tan đất đại của tổ tiên xứ nầy trước kia.

Những sự tranh chấp kéo dài và thêm vào đó cộng sản mượn đất Kampuchia tấn công Việt Nam Cộng Hòa nên tình bang giao giữa hai nước đến độ cắt đứt.

Vì thế việc thâu hồi chiếc máy bay Skyraider của Nguyễn Văn Cử gặp khó khăn. Trong thời gian nầy Hoa Kỳ thay mặt Việt Nam Cộng Hòa bảo đảm kiều bào và tài sản Việt Nam Cộng Hòa ở Kampuchia. Nhờ đó mà có mối liên lạc với chính phủ Kampuchia trong vấn đề Việt Nam Cộng Hòa xin mang chiếc máy bay đó về nước.

Chính phủ Kampuchia đã ngâm tôm lời đề nghị nầy cho tháng ngày trôi qua. Đến lúc Kampuchia đồng ý theo một công hàm gởi cho Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Nam Vang chuyển cho Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa là nước họ thỏa thuận cho phép Việt Nam Cộng Hòa đưa chiếc máy bay đó về nước, đồng thời cũng chấp thận thêm cho phép chiếc máy bay Dakota do cuộc đảo chánh hụt 11.11.60 về nước luôn thể. Song chính phủ Kampuchia nhấn mạnh rằng chỉ chấp thuận 3 nhân viên 3 phi công của Việt Nam Cộng Hòa đến Phi Trường Nam Vang thâu nhận 2 chiếc máy bay đó mà thôi. Những đồ nghề, khí cụ mang theo sửa chữa máy bay cũng bị chánh phủ Kampuchia giới hạn trong 2 túi khá lớn mà thôi.

Việt Nam Cộng Hòa được loan báo như vậy thì mở ngay cuộc đi Kampuchia để thâu hồi 2 chiếc máy bay đó đúng theo thể lệ của quốc gia nầy.

Bộ Tư Lệnh Không Quân cử các chuyên viên máy bay hạng nhất và các phi công già tuổi bay đến Phi Trường Nam Vang quan sát hai chiếc máy bay đó.

Khi các chuyên viên đến nơi, chính phủ Kampuchia bấy giờ lại đưa điều kiện là hạn định sửa chữa trong một tuần lễ nếu quá ngày chuyên viên sẽ không được vào phi trường tiếp tục công việc nữa.

Sau khi quan sát, chuyên viên sửa chữa lo ngại với thời gian đó quá ngắn không thể cất cánh được. Chiếc Dakota cũ kỹ qua ngày tháng dầm mưa dãi nắng. Lòng phi cơ, phòng máy nhện giăng, ổ chuột ăn vào các đồng hồ giây điện...Sàn phi cơ mục nát đóng rỉ, khó khăn khi cất cánh.

Chiếc phi cơ của Nguyễn Văn Cử tệ hại hơn. Bụng phi cơ nằm lết trên khoảng đất trống. Bên ngoài lớp sơn đã tróc và còn in dấu vết những viên đạn bắn lủng do cao xạ Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ và Hải Quân Việt Nam trong ngày 27.2.1962.

Chuyên viên sửa chữa gồm 3 người bắt tay vào việc ngay từ sáng sớm đến Phi Trường Nam Vang. Đồ nghề sửa chữa thiếu sót rất nhiều, nhưng các chuyên viên tận tâm cố gắng để cướp thời gian quá eo hẹp.

Lúc đó, các chuyên viên nhờ sự giúp đỡ của các chuyên viên Hoa Kỳ cho mượn dụng cụ (chính phủ Kampuchia cấm những chuyên viên Hoa Kỳ lai vãng). Ngày đầu các chuyên viên nhờ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đánh điện về Việt Nam là họ gặp nhiều trở ngại khó khăn của chính quyền Kampuchia. Như vào cửa phi trường phải đúng giờ, bị kiểm soát gắt gao về giấy tờ, đồ nghề sửa chữa phi cơ...Sài Gòn trả lời với lời lẽ nâng cao tinh thần đám chuyên viên và ra lệnh dù thế nào đi nữa hai chiếc máy bay đó phải cất cánh vào ngày cuối tuần đúng thời hạn của chính phủ Kampuchia.

Đám chuyên viên tại Phi Trường Nam Vang lại tiếp tục công việc gấp rút đến nỗi các phi công cũng phải biến thành thợ máy cho các chuyên viên.

Ở Kampuchia buổi chiều, công chức, quân đội tan sở rất sớm. Cho nên đám chuyên viên làm việc đến 16 giờ 30 là phải ngừng tay ra về. Chính phủ Kampuchia không cho họ tiếp tục sửa chữa nữa, phải chờ đến sáng mai mới tiếp tục.

Làm việc khổ cực đến ngày thứ 2 thì chiếc Dakota sạch sẽ bên trong, máy móc được điểu chỉnh, sàn phi cơ được hàn gắn. Hai chiếc cánh và đuôi đã cử động được.

Trong lúc các chuyên viên Việt Nam sửa chữa, nhân viên Không Lực Kampuchia không mấy tin tưởng hai chiếc máy bay đó sẽ cất cánh đúng hạn kỳ. Và họ để lộ bộ mặt mỉa mai với các chuyên viên Việt Nam.

Sài Gòn rất quan tâm về vấn đề nầy. Bộ Ngoại Giao, Bộ Tư Lệnh Không Quân liên lạc với đám chuyên viên thường xuyên và khuyến khích cố vượt mọi nỗi khó khăn.

Qua ngày thứ 4, chuyên viên Việt Nam đánh điện về Sài Gòn qua Tòa Đại Sứ Mỹ là họ đã sửa xong chiếc Dakota, nhưng chưa nổ máy vì sợ sự phá hoại có thể xảy ra ở Phi Trường Nam Vang về chiếc máy bay đó.

Trọn chiều ngày thứ 4 chiếc Dakota được coi là hoàn tất. Đám chuyên viên và phi công sẽ cho nổ máy vào ngày mai và có thể được cất cánh ngay giờ phút đó.

Sài Gòn khá vững tâm chờ đợi ấy. Sài Gòn cũng không quên nhắn nhủ đám chuyên viên gấp rút sửa chữa Skyraider của Nguyễn Văn Cử để cất cánh cùng ngày cho tiện.

Ngày thứ 5 đã đến. Lúc đó vào khoảng 10 giờ sáng. Hai phi công lên buồng lái chiếc Dakota. Các chuyên viên được xe đổ nhiên liệu của Hoa Kỳ cung cấp. Viên truyền tin máy bay bắt đầu sử dụng máy trên Dakota. Nhưng máy truyền tin không hoạt động được. Hai phi công quyết định cho nổ máy mà không cần đến truyền tin.

Hầu như tất cả các nhân viên ngoại quốc. Kampuchia đều ngừng công việc để chứng kiến chiếc Dakota Việt Nam cất cánh.

Một động cơ chiếc Dalota bắt đầu quay. Quay được ít vòng, động cơ thiếu năng lực không đúng vòng. Chuyên viên phi công quyết định ngừng sửa chữa giây lát, đoạn mở máy tiếp tục. Một lần nữa chong chóng chuyển động. Từ độ chậm đến độ nhanh và rít lên bầu trời Phi Trường Nam Vang. Tiếp theo động cơ thứ 2 cũng thế. Đám chuyên viên reo mừng trong lòng. Nhưng mỗi người đều dấu kín những rực rỡ ấy.

Hai viên phi công quyết định cất cánh ngay. Cửa chiếc máy bay Dakota được mở, ba chuyên viên nhảy vào. Phi cơ chạy ra phi đạo, dừng lại lấy dưỡng khí. Đoạn chạy với tốc lực cất cánh lên cao trên bầu trời Nam Vang để lại đó những khổ sở cho những ngày qua.

Theo các chuyên viên sửa chữa, lúc phi cơ chạy ra phi đạo, qua cửa sổ phi cơ, họ thấy đông đảo nhân viên Kampuchia phục vụ tại Phi Trường Nam Vang đưa mắt theo dõi.

Đám chuyên viên lo âu vô cùng. Nhưng khi máy bay có độ cao tất cả mới yên chí. Chắc rằng người ngoại quốc, Không Lực Kampuchia hết lòng thán phục, vụ thâu hồi chiếc máy bay Dakota nầy.

Chiếc Dakota lượn quanh Phi Trường Nam Vang một vòng, đoạn đổi đường bay, trực chỉ Nam Việt Nam.

Trên phi cơ, hai phi công điều khiển rất thận trọng. Vì rằng những máy móc sửa chữa không mấy hoàn hảo. Máy truyền tin hư hỏng, nên không thể liên lạc được Sài Gòn. Cho nên Sài Gòn cũng không hay biết chiếc Dakota cất cánh và hạ cánh lúc mấy giờ.

Hai phi công điều khiển chiếc Dakota, kể từ khi trên không phận Kampuchia, không dám xếp bánh như thường lệ. Nghĩa là chân phi cơ vẫn duỗi ra ngoài không gian nên tốc độ giảm xuống rất nhiều.

Hai phi công cho biết, họ có thể xếp bánh, nhung e ngại khi đến Phi Trường Tân Sơn Nhất điều khiển hai bánh xe không ra thì sẽ hư hại, mất công đêm ngày sửa chữa ở Nam Vang. Cho nên cứ thế mà bay.

Chiếc Dakota vào không phận Nam Việt Nam thì bắt đầu trục trặc độ bay. Hai phi công quyết định không thể về Tân Sơn Nhất được. Họ cố gắng hướng dẫn phi cơ đến Biên Hòa. Đó là một điều trái với lòng mong mỏi của Bộ Tư Lệnh Không Quân lúc bấy giờ. Bộ Tư Lệnh muốn chiếc phi cơ ấy đến Tân Sơn Nhất để nở mặt với đông đảo người ngoại quốc tại đây. Và vang danh chuyên viên Không Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng chiếc máy bay Dakota với trở ngại kỹ thuật đủ sức đáp xuống Phi Trường Biên Hòa an lành.

Trước khi đáp xuống, chiếc Dakota bay hai vòng với độ cao ra hiệu. Phi Trường Biên Hòa cấm ngặt những vụ lưu thông trong giây lát. Xe chữa hỏa, xe cứu thương Hồng Thập Tự đậu sẵn ở phi trường, phòng ngừa tai nạn xẩy ra.

Chiếc Dakota trợt bánh xuống phi đạo an toàn trong những tiếng hò reo vang dội của các nhân viên, phi công Biên Hòa, đón chờ những ‘’người hùng’’ trở về từ Nam Vang.

Riêng về chiếc Skyraider của Nguyễn Văn Cử quá hư hại và cũ kỹ nên không sửa chữa được. Theo nhóm chuyên viên đến Phi Trường Nam Vang thì chiếc Skyraider đó mục nát trầm trọng. Họ đã đề nghị với Chính Phủ thâu hồi xác phi cơ về sau cũng không muộn gì. Vì chiếc máy bay đó không thể nào tiếp tục sử dụng.

Chiếc máy bay Skyraider đã bị mất cắp nhiều bộ phận máy móc trước thời giờ chuyên viên Việt Nam đến Phi Trường Nam Vang.

Dưới thời Ngô Đình Diệm 2 loại máy bay phóng pháo T28 và Skyraider đều là loại phi cơ mới thích hợp với chiến trường Việt Nam. Việt cộng chưa nghiên cứu kỹ càng về tốc tốc, độ chúc xuống và cất cánh của hai loại phi cơ nầy. Vì thế chiếc Skyraider của phi công Nguyễn Văn Cử đáp xuống Phi Trường Nam Vang là mồi ngon cho việt cộng nghiên cứu qua sự trung gian của chánh phủ thân cộng Sihanouk.

Nguyên nhân đó, máy bay Skyraider của Phi Công Nguyễn Văn Cử đã bị đánh cắp nhiều bộ phận. Riêng chiếc Dakota thông dụng như máy bay dân sự, nên không mất mát gì, nên sự sửa chữa dễ dàng để thu hồi về Việt Nam.

Theo các chuyên viên Không Quân chiếc Skyraider có thể sửa chữa cất cánh được. Nhưng chính phủ Sihanouk quá làm khó dễ chuyên viên, dụng cụ, thời gian sửa chữa v.v...nên không tài nào thâu hồi chiếc máy bay đó được.

Như vậy biến cố 27.2.1962 chính quyền Ngô Đình Diệm mất 2 chiếc oanh tạc cơ, Dinh Độc Lập sụp đổ, Tổng Thống Diệm phải dời văn phòng, nơi ăn chốn ở về Dinh Gia Long.

Phi Công Nguyễn Văn Cử thoát khỏi tầm cao xạ của Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ và Hải Quân Việt Nam là nhờ sự mau mắn lẫn với kinh nghiệm nghề bay. Sau khi đã bỏ bom, bắn vài loạt đại liên, Phi Công Nguyễn Văn Cử báo động với Phi Công Phạm Phú Quốc tiếc rẻ 2 quả Rocket còn lại dưới đôi cánh bay chưa sử dụng và Dinh Độc Lập không mấy hoàn toàn sụp đổ. Nên Phạm Phú Quốc đảo lại vòng bay cuối cùng trút hết bom, rồi sẽ ra đi.

Vòng bay cuối cùng của Phạm Phú Quốc quá rộng lớn đối với chu vi trọng tâm Dinh Độc Lập. Phạm Phú Quốc điều khiển máy bay từ mạn sông Sài Gòn (giữa Thủ Thiêm và Bộ Tư Lệnh Hải Quân) vòng lên không phận đường phố Dinh Độc Lập. Rủi thay, khoảng không gian, khoảng thời gian đó đã bị Hải Quân của Đại Tá Hồ Tấn Quyền bắn trúng. Máy bay chồng chền, mất độ cao. Phi Công Phạm Phú Quốc vội đổi đường bay. Vì ông thấy phi cơ muốn đâm đầu vào thành phố. Kết quả máy bay Phạm Phú Quốc rơi ở ruộng lúa bên Xa Lộ Biên Hòa và ông ta đã bị bắt.

Phạm Phú Quốc bị giữ ở An Ninh Quân Đội. Suốt trong thời gian bị giam cầm. Tổng Thống Diệm đã ra lệnh ngầm phải đối đãi tử tế với phi công tuổi trẻ, tài ba Phạm Phú Quốc. Thân nhân ông Quốc vào ra thăm viếng đều đặn cho đến ngày đảo chánh 1.11.63 ông mới được Hội Đồng Tướng Lãnh phóng thích.

Biến cố Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử đã tạo môi trường thuận lợi trên con đường binh nghiệp và công danh của Đại Tá Tư Lịnh Hải Quân Hồ Tấn Quyền.

Đại Tá Quyền không những được Tổng Thống Diệm thương yêu và tin dùng mà ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu cũng quan tâm đến như vị Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt Lê Quang Tung.

Song Lực Lượng Hải Quân thời bấy giờ đang trên đường canh tân. Nên chủ lực hóa Hải Quân cho chế độ còn đòi hỏi thời gian. Đại Tá Hồ Tấn Quyền yêu cầu chính phủ gấp rút tuyển mộ binh sĩ, đào tạo sĩ quan. Cho xuất ngoại từ thủy thủ, hoa tiêu theo học ở Hoa Kỳ, đồng thời huấn luyện tại chỗ những lôi đỉnh chiến hạm của Hoa Kỳ chuyển giao cho Việt Nam, để thủy thủ và hoa tiêu vượt Thái Bình Dương về căn cứ Bạch Đằng.

Trong thời Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Hải Quân Việt Nam đã điều khiển chiến hạm vượt biển từ Hoa Kỳ về nước hai lần. Cuộc tiếp đóm của thân nhân sĩ quan và thủy thủ được tổ chức trọng thể ở Bến Bạch Đằng. Một vài phu nhân các Tướng lãnh có máu mặt trời bấy giờ đã được Đại Tá Hồ Tấn Quyền yêu cầu làm mẹ đỡ đầu cho các tầu chiến đó. Lễ đập chai Champagne ở mũi tàu trông chẳng khác gì Công Binh Xưởng Hải Quân đóng xong chiếc tàu đó và được hạ thủy.

Những buổi lễ được coi là ‘’hạ thủy’’ trông ngượng ngùng không thể tả được. Thế mà các phu nhân được vinh dự đập chai Champagne mặt mày hớn hở chưa từng thấy trong các buổi lễ, dù ở trong buổi lễ của bà Nhu tổ chức.

Chế độ Ngô Đình Diệm cố gắng đưa Quân Chủng Hải Quân vào thế mạnh, tối tân và hy vọng trở thành nòng cốt ủng hộ chế độ hiện tại và tương lai. Riêng Đại Tá Quyền phải là vị sĩ quan trung thành tuyệt đối bên cạnh chế độ Ngô Đình Diệm.

Hiệu năng của Hải Quân dưới quyền Tư Lệnh Đại Tá Hồ Tấn Quyền đã chứng minh cho Phủ Tổng Thống quan tâm, biệt đãi sau vụ hạ máy bay Phạm Phú Quốc ngày 27.2.1962.

Chính Đại Tá Hồ Tấn Quyền lấy làm hãnh diện đã bắn hạ máy bay đánh phá Dinh Độc Lập. Ông lên tinh thần khi được Tổng Thống Diệm khen tặng. Dù rằng Tổng Thống Diệm giận dữ đứng trước gạch tường đổ nát Dinh Độc Lập, nơi tượng trưng uy quyền của chế độ.

Tổng Thống Diệm khen tặng Đại Tá Quyền nhưng cũng than phiền thời gian hạ máy bay quá chậm. Chứng tỏ binh sĩ chưa thiện xạ đúng mức. Tình trạng như vậy, nếu bị địch tấn công Thủ Đô bằng Không Quân sẽ không phản ứng kịp và không tranh thủ được thời gian máy bay giặc đánh phá.

Hải Quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền được dịp trình bày non kém của Quân Chủng nầy vào thời bấy giờ. Tổng Thống Diệm liền ra lệnh cho Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng Nguyễn Đình Thuần lập trương trình cải tiến Hải Quân ngang hàng quân phí của Không Lực.

Từ đó Đại Tá Quyền hăng hái làm việc đến mức tối đa. Những cuộc bế giảng sinh viên sĩ quan Hải Quân Nha Trang. Đại Tá Quyền đệ đạt xin Tổng Thống chủ tọa. Và Tổng Thống Diệm đã làm vừa lòng Hải Quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền trong nhiều buổi lễ mãn khóa ấy. Cao vọng của Đại Tá Quyền nâng Hải Quân lên thành Quân Chủng nổi tiếng đã bị đứt gánh nửa chừng. Ông bị thảm sát trong biến cố 1.11.63.

Đại Tá Quyền chết, Hải Quân Việt Nam chưa đúng mức tối tân hóa trong cuộc chiến tranh canh giữ sông rạch, bờ bể, ngăn chặn các cuộc chuyển vận vũ khí của việt cộng bằng đường thủy. Và cao vọng của ông ấy trở thành một Đô Đốc không thành tựu. Tư Lệnh Hải Quân Hồ Tấn Quyền bị giết đầu tiên trong Lịch Sử Hải Quân quốc gia nầy. Cái chết của ông là vụ thảm sát mở đầu cho ngày đảo chánh 1.11.63; một cái chết âm thầm và rắc rối, bí mật nếu được khai phá tận gốc, tận rễ.

Mở đầu đảo chánh 1.11.63, sĩ quan cao cấp Hồ Tấn Quyền bị thanh toán. Cách mạng đã vấy máu. Nhưng mức độ cách mạng không được hung hãn như vậy. Chứng tỏ giết Đại Tá Hồ Tấn Quyền chỉ nhằm vào việc chặt tay chân những nhân vật trung thành cá nhân Tổng Thống Diệm mà thôi.

Cái chết đó dù muốn, dù không đều liên can đến người Mỹ mà tiêu biểu là Đại Sứ Henry Cabot Lodge. Người Mỹ âm thầm hỗ trợ cho Hội Đồng Tướng Lãnh thì cuộc Cách Mạng 1.11.63 hủy hoại một binh sĩ đã hao tổn, huống hồ một vị Tư Lệnh bị giết.

Cái chết của Đại Tá Hồ Tấn Quyền gắn chặt vào ngày Cách Mạng 1.11.63 và nhiệm vụ của người Mỹ ở Nam Việt Nam. Đại Tá Hồ Tấn Quyền là người vô tội đối với cách mạng. Nếu có tội chăng nữa là do ở chế độ Ngô Đình Diệm tạo ra uy thế cá nhân ông.

Người chỉ huy hay một Quân Chủng bị giết như Đại Tá Hồ Tấn Quyền là không quang minh chính đại cho chính nghĩa cách mạng có thể đứng trong tương lai.

Chế độ Ngô Đình Diệm tạo ra Tư Lệnh Hải Quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền, nhưng ông đã làm được việc cho quân đội. Ông là tài nguyên nhân lực quốc gia. Ông đã du học, nghiên cứu ở Hoa Kỳ về Hải Quân thì cái chết đó lãng phí sự đóng góp của dân chúng xứ nầy.

Cái thế được lòng dân của Cách Mạng 1.11.63 thể hiện rõ ràng, thì cái sống hoặc cái chết của Đại Tá Hồ Tấn Quyền đáng ra không nên đặt vấn đề. Hội Đồng Tướng Lãnh và ngay cả người Mỹ khuyết điểm chính trị ở điều đó. Cái ương ngạch của ông ta trước giờ đảo chánh được ca ngợi hơn là kết tội. Ít ra một cấp sĩ quan truyền thống bất khuất quân đội phải tỏ tư thái như Đại Tá Hồ Tấn Quyền.

Người Mỹ phải chịu liên đới chủ mưu giết Đại Tá Quyền. Ông là một vị Tư Lệnh giữ vững thế đứng oai hùng của một quân nhân. Tư cách ấy cho riêng ông chứ không còn ở chế độ nữa. Trường hợp ấy có nhiều phương cách đối phó với ông hơn là giết với một hình thức thủ tiêu.

Cái chết của Đại Tá Hồ Tấn Quyền quá sớm sủa với tiếng súng đảo chánh 1.11.63. Hãy thử tưởng tượng, nếu cuộc Cách Mạng 1.11.63 thất bại, thì chế độ Ngô Đình Diệm sẽ phản đối mạnh mẽ với Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Đại Sứ Henry Cabot Lodge phải nhận lãnh những lời miệt thị của chế độ gán cho. Đồng thời ông Lodge có thể bị triệu hồi về Hoa Kỳ theo lời yêu cầu chính phủ Ngô Đình Diệm.

Lẽ dĩ nhiên chế độ Diệm sẽ thổi phồng hai cái chết anh hùng nhất nước của Đại Tá Hồ Tấn Quyền và Đại Tá Lê Quang Tung. Tướng lãnh, sĩ quan, công chức, ngoại giao đoàn tham dự hai đám táng đó. Và đại diện Hoa Kỳ vẫn có mặt tại chỗ ve vãn chế độ qua một tình thế mới.

Nhưng phản đảo chánh 1.11.63 của chế độ Diệm thất bại. Người Mỹ 1.11.63 của chế độ Diệm thất bại. Người Mỹ nhúng tay vào và chắc chắn tiên liệu đảo chánh thành công. Họ tiên liệu như thế để khỏi bị ràng buộc những điều kiện ở trên.

Tầm quan trọng như vậy, nên Hoa Kỳ phỏng định được nhiều cái chết của các nhân viên, sĩ quan cao cấp của chế độ Diệm. Người Mỹ dứt khoát lập trường hạ Tổng Thống Diệm nên làm ngơ những cái chết tầm thường trong đảo chánh nhưng hậu quả tai hại cho hậu đảo chánh.

Dù Đại Tá Quyền hay Đại Tá Tung làm mất lòng dân chúng Nam Việt Nam dưới thời chế độ Diệm, nhưng lòng người Việt Nam bao giờ cũng quảng đại, thương tâm đến vận số của người nằm xuống dù kẻ đó là thù nghịch lúc sinh tiền. Tâm lý quần chúng Việt Nam như thế, nên không gặp được ý nghĩ của người Mỹ. Người ta nói: ‘’Đông và Tây chẳng bao giờ gặp nhau’’ là thế đấy!

Người Mỹ không đặt tay trực tiếp nổ súng sát hại Đại Tá Quyền nhưng họ đã đứng ở hậu trường thúc đẩy. Họ đã đồng ý hợp lực cho Hội Đồng Tướng Lãnh làm đảo chánh với sự mơ màng quán xuyến tại Việt Nam thành một chế độ mới vững vàng tự do hơn chế độ Diệm. Nhưng hậu quả đã cho thấy, chế độ quân nhân trong những ngày đảo chánh 1.11.63 đã gẫy đổ mang đến nguy hại từ trong và ngoài cho tình hình Nam Việt Nam.

Đạp đổ cái cũ, xây dựng lại một cái cũ hơn, lầm lỗi hơn mà trong đó máu quân đội, sĩ quan cao cấp thấm mhòa trên tử thi là một chánh sách sai lầm to lớn. Nhưng người Mỹ đã tạo tấm bi cảnh, còn lịch sử xứ này mới diễn tả sự đau đớn dân tộc một thời.

Người Mỹ và Hội Đồng Tướng Lãnh giết Đại Tá Hồ Tấn Quyền. Ông là nạn nhân lôi cuốn về chính trị trong cuộc san bằng chế độ. Nhưng đối với những người ủng hộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, những người viết sử khách quan đều có cái chết của Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân đã đi vào trang sử Ngô triều.

Tổng Thống Diệm cũng bị giết như Đại Tá Quyền, dù thời gian khác nhau nhưng không gian là một, nên cái chết của ông Quyền diễn theo cái chết của vị Tổng Thống. Và đời đời khi nói đến đảo chánh 1.11.63 người ta không thể quên 2 vị Đại Tá sùng ái chế độ đả chết với vị Tổng Thống của họ.

Tuy Đại Tá Quyền không phải là vị chỉ huy duy nhất thực tài của Hải Quân Việt Nam, nhưng ông là vị Tư Lệnh đầu tiên của Quân Chủng này dưới chánh thể Cộng Hòa. Ông đã góp công lớn đưa Hải Quân đến chỗ hùng mạnh, dù thời gian còn dài mới thành quả giấc mộng đó. Nhưng ông quyền đặt vào đó một chí hướng tâm huyết đời binh nghiệm. Cho nên cái chết oan uổng của ông đã làm hao mòn nhân lực tài nguyên quân đội và quốc gia nói chung.

Cái chết của Đại Tá Quyền quá âm thầm, trôi dài chuỗi thời gian bao trùm lên đó; cái chết của ông đã lãng quên, trong đó người ta không lường được sự quan trọng chính trị bí ẩn. Cho nên ông Quyền trở về thiên thu mang đến sự tầm thường trước mắt dân chúng.

Sự thật cái chết của ông Quyền là kinh nghiệm quý báu cho những nhà quân sự rắp tâm bóp méo đời binh nghiệp để tham gia chính trị. Đại Tá Quyền phi chánh trị, ông là một vị Tư Lệnh thuần túy quân đội, nhưng vì chế độ Ngô Đình Diệm đã lôi cuốn quá mạnh mà ông không hay biết. Quan niệm chế độ Diệm coi quân đội như khí giới riêng tư để cầm quyền. Sự sai lầm khổng lồ ấy đã gây ảnh hưởng hầu hết cho các vị tư lệnh. Do đó trước đảo chánh, người Mỹ đã đặt vai trò của những cấp sĩ quan trung thành với chế độ Diệm: Chống đối phải bị thủ tiêu.

Trong buổi giao thời giữa chế độ mới và chế độ cũ, việc ám hại vị Tư Lệnh Hải Quân Hồ Tấn Quyền bị mờ nhạt. Sôi động của cách mạng trước tình hình đổi mới, dân chúng đặt tin tưởng có nhiều cải cách tiến bộ hơn chế độ cũ. Nên cái chết của Đại Tá Hồ Tấn Quyền không được đặt thành vấn đề qua sự thủ tiêu phi lý.

Nhưng Cách Mạng 1.11.63 thành công ở sự lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm mà thất bại xây dựng chế độ mới. Một chế độ mới, quân nhân cầm quyền, đi đến chỗ vô kỷ luật, gây thêm tình trạng xáo trộn trong nước. Đoàn thể Phật Giáo và Hội Đồng Tướng Lãnh hầu như tranh nhau về cái công to lớn hạ bệ chế độ Ngô Đình Diệm. Ở bên trong sự tranh chấp ngấm ngầm đó đã dẫn tới sự kiêu căng của Tướng lãnh và sư sãi. Cho nên giai đoạn lúc bấy giờ dân chúng có câu: ‘’Nhất Sư, nhì Tướng’’.

Tình hình hỗn độn kéo dài. Các tôn giáo hiềm khích nhau sau cái chết của anh em Tổng Thống Diệm. Công Giáo và Phật Giáo dường như đứng ra hai chiến tuyến gờm nhau từng lãnh vực. Những vụ xô xát giữa Công Giáo và Phật Giáo khởi sự ở Trường Nguyễn Bá Tòng, trước Nhà Thờ Đức Bà, Trường Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ...

Những nguyên cớ xung đột không ký do này, lan tràn đến các chánh quyền địa phương trên toàn quốc. Ở Đà Nẵng vụ làng Xuân Bồ bị đốt phá trầm trọng. Đó là hậu quả của Cách Mạng 1.11.63 dựa vào biến động của một tôn giáo để lật đổ một chế độ được coi là sáng lạn suốt 9 năm ở Nam Việt Nam.

Rối loạn liên tiếp, tình hình u tối đất nước đang đứng giữa tình trạng ‘’thuyền không lái, ngựa không cương’’. Nên những cái chết của những người bị chết trong cách mạng thật oan uổng dưới mắt quần chúng Việt Nam (Anh em Tổng Thống Diệm, Đại Tá Tung, Đại Tá Quyền, Đại Úy Bùi Ngươn Ngãi, các vụ tự thiêu, học sinh và sinh viên).

Đại Tá Hồ Tấn Quyền nằm trong bảng phong thần những người bị giết chết. Nhiều dư luận cho rằng ông Quyền bị bắn là do ở ông. Ông đã quá lời với các sĩ quan thân cận yêu cầu ông hợp tác với Hội Đồng Tướng Lãnh, Đại Tá Quyền quá tin tưởng sự vững mạnh của chế độ và uy lực riêng tư của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Điều đó dễ hiểu, ông là nhà quân sự nên không ý thức được tiềm lực cách mạng đang đợi ngày bùng nổ. Cho nên Đại Tá Hồ Tấn Quyền không uyển chuyển vấn đề trọng đại của các sĩ quan Hải Quân đòi hỏi ở ông.

Người ta bảo rằng Đại Tá Hồ Tấn Quyền bị ám ảnh ngày đảo chánh hụt 11.11.60 và ngày chính biến 27.2.62 máy bay bỏ bom Dinh Độc Lập. Hai ngày thất bại đó ăn sâu vào tâm khảm Đại Tá Tư Lệnh Hải Quân Hồ Tấn Quyền. Trong trí ông còn say sưa dư âm Hải Quân Việt Nam bắn hạ chiếc máy bay của Phi Công Phạm Phú Quốc đem đến lòng tin cậy cho Tổng Thống Diệm đối với Quân Chủng này.

Huy hoàng của những ngày qua vọng mãi trong đầu óc, từ chế độ cho đến Hải Quân nói riêng đã làm cho Đại Tá Hồ Tấn Quyền mù quáng trước tình hình mỗi lúc mỗi biến đổi. Ông không tiên liệu được lòng dân ước mong thay đổi bộ mặt của chế độ. một chế độ cũ mèm trong 9 năm trôi dài trên đất nước nầy. Họ muốn thay đổi cấp kỳ, mau chóng mà không nghĩ hậu quả sẽ xảy ra như thế nào?

Đại Tá Quyền đã được chế độ tin dùng. Đại Tá Quyền được Tổng Thống Diệm trò chuyện như người thân thích cho nên ý chí của ông một chiều. Một chiều đó là phụng sự chế độ mà ông coi đó là xả mình vì tổ quốc.

Không những Đại Tá Quyền có ý niệm đó mà hầu như các Tướng lãnh, sĩ quan cấp Tá ở Trung Ương, được Tổng Thống Diệm thương yêu đều không nghĩ khác biệt ông Quyền. Nguyên do đó Đại Tá Quyền không đặt trọng tâm ngày 1.11.63 là ngày đảo chánh của hầu các Tướng lãnh tham gia như lời các sĩ quan Hải Quân khuyến dụ ông.

Ông là vị Tư Lệnh, ông tự kiêu, hiểu biết hơn các sĩ quan phục vụ dưới quyền. Nên Đại Tá Hồ Tấn Quyền cho rằng có đảo chánh thì do các sĩ quan cấp Úy cầm đầu hoặc do các sĩ quan cấp Tá bất mãn tạo nên. Và chắc chắn sẽ đè bẹp ngay sau giờ đảo chánh để đi vào con đường đảo chánh hụt 11.11.60 do Trung Tá Vương Văn Đông cầm đầu.

Đại Tá Hồ Tấn Quyền giờ phút ở Xa Lộ Biên Hòa vẫn tự cho mình là vị chỉ huy của đám sĩ quan Hải Quân. Ông phản đối theo cách ra lệnh với cấp dưới. Nên ông bị bắn một cách lảng phí cuộc đời. Và cái chết của ông đi vào bóng tối, không một lời trăn trối cho những người đứng ngoài cuộc thủ tiêu nầy.

Khi tiếng loan từ cửa miệng dân chúng về cái chết của Đại Tá Tư Lệnh Hải Quân Hồ Tấn Quyền, người ta ngỡ ngàng vô cùng. Vì dưới thời Ngô Đình Diệm, Đại Tá Quyền không mấy được dân chúng trong nước để ý đến.

Trong vụ bắt bớ sư sãi, phong tỏa chùa chiền trong Thủ Đô Sài Gòn, Tư Lệnh Hải Quân hầu như không dính líu vào cuộc. Dù rằng Quân Chủng Hải Quân dưới sự chỉ huy của Đại Tá Quyền ứng chiến 100% chực chờ đối phó với tình thế quấy rối.

Cá nhân Đại Tá Quyền và Quân Chủng Hải Quân không hề làm mất lòng đoàn thể Phật tử. Trong vụ đấu tranh Phật Giáo, tên tuổi Đại Tá Hồ Tấn Quyền không được nêu lên trong mọi khía cạnh. Hơn nữa Hải Quân thời bấy giờ là một Quân Chủng yếu đuối không đáp ứng được những điều kiện mong muốn.

Cho nên được tin Đại Tá Quyền bị giết ở Xa Lộ Biên Hòa đã trở thành vẫn đề tìm hiểu vị Tư Lệnh Hải Quân đi vào lòng dân chúng. Thời bấy giờ dư luận cho rằng nếu Đại Tá Hồ Tấn Quyền không bị giết bất ngờ thì Thủy Quân Lục Chiến khó khăn hoàn hành mạn Sở Thú và Thành Cộng Hòa nơi chiếm cứ của Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ, Hải Quân sẽ theo lệnh Đại Tá Quyền nhổ neo các lôi đỉnh, chiến hạm ra giữa dòng sông Sài Gòn chống cự lại Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng để bảo vệ Dinh Gia Long. Đồng thời Hải Quân sẽ chận nút những đơn vị bộ binh từ xa lộ qua Vọng Ông Tố, vượt sông Sài Gòn vào Thủ Đô Sài Gòn. Hải Quân còn là mối chuyển quân cho Trường Bộ Binh Thủ Đức mà vị Chỉ Huy Trưởng Đại Tá Lam Sơn là người trung thành với chế độ. Ngoài ra Đại Tá Hồ Tấn Quyền dễ dàng đưa Tổng Thống Diệm vượt Dinh Gia Long xuống tàu biển đi lãnh nạn bí mật. Trong khi Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng quyết bắt cho kỳ được ông Diệm, ông Nhu.

Nguyên do ở trên, nên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và người Mỹ đã tiên liệu tầm quan trọng của Hải Quân do Đại Tá Hồ Tấn Quyền cầm đầu. Và quyết thanh toán cứ điểm nầy nếu Đại Tá Quyền không theo phe đảo chánh.

Luận cái chết của Đại Tá Quyền như vậy, nên những người ủng hộ chế độ Diệm rất lấy làm thương tâm cho ông Quyền. Họ cho rằng cái chết đó không ích lợi gì cho cuộc Cách Mạng 1.11.63 mà chỉ gieo tang tóc cho gia đình Đại Tá Quyền mà thôi. Nếu không giết ông Quyền đảo chánh 1.11.63 cũng không bị lộ mục tiêu, trước giờ đảo chánh (Đọc Những Bí Mật Cách Mạng 1.11.63 đã xuất bản).

Đại Tá Quyền bị bắt giam cầm lại một địa điểm nào đó, Hội Đồng Tướng Lãnh khỏi mang tiếng dẫm lên Cách Mạng đổ máu, hủy tiêu một vị Tư Lệnh mà bị viện lẽ là kẻ trung thành với chế độ.

Giết Đại Tá Tư lệnh Hải Quân Hồ Tấn Quyền nhằm vào chiến lược của quân đảo chánh hành quân vào Thủ Đô làm cho Quân Chủng Hải Quân bị chi phối do thành phần của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng len lõi vào Bộ Tư Lệnh Quân Chủng này.

Đứng về phần chiến lược, chiến thuật, giết Đại Tá Quyền rất có lý nhưng khách quan nhận định về đảo chánh 1.11.63 quá tầm thường không đi đến tuyệt đích cứng rắn của một cuộc cách mạng. Với phương cách đó sẽ đổ vỡ do nạn ‘’kiêu binh Tướng lãnh’’. Do đó cái chết của Đại Tá Quyền không làm thỏa mãn dân chúng. Vì đã hoang phí nhân sự và bước vào con đường vô nhân đạo đối với một sĩ quan cao cấp như Đại Tá Hồ Tấn Quyền.

Theo Nhật Ký Đỗ Thọ Sĩ Quan Tùy Viên của Tổng Thống Diệm thì trong lúc cô thế ở ngôi hầm bí mật trong Dinh Gia Long, nhiều ý kiến đưa ra yêu cầu ông Diệm dùng đường thủy đi Phước Tuy để lên Quân Đoàn II. Nhưng sáng kiến này không được chấp nhận. Có lẽ trong giờ phút ấy Tổng Thống Diệm nghĩ đến Đại Tá Hồ Tấn Quyền đã ra người thiên cổ. Và ông Diệm không còn tin cậy nhân vật nào ở Hải Quân giúp ích ông vượt ra ngoài vòng đai Sài Gòn.

Như vậy việc Hội Đồng Tướng Lãnh chận đứng được Đại Tá Hồ Tấn Quyền là cao kế, túc mưu, thành công ở chiến lược lẫn chiến thuật cắt đứt những nhân vật thân tình bên cạnh Tổng Thống Diệm.

Đại Tá Hồ Tấn Quyền chết đi người ta mới biết rõ ông là nhân vật được chế độ Diệm tin cậy. Vì Đại Tá Quyền là một nhân vật trầm lặng, một nhân vật trong quân đội không lấy sự trình diễn bên chế độ. Cho nên ông được chế độ Diệm cưng chìu mà chẳng ai biết đến.

Nhưng ngày biến cố 27.2.62 Đại Tá Quyền mới lộ chân tướng một phần nào. Tuy nhiên, riêng cá nhân ông cố gắng gói gém hào quang hạ máy bay Phạm Phú Quốc. Ông không bước trên con đường bóng nhoáng đó lộ hẳn bên ngoài. Nhưng Đại Tá Quyền là người có tầm thước bên trong nên ông hy vọng năm sắp tới sẽ thăng chức Đề Đốc. Và chắc rằng không một nhân vật sĩ quan Hải Quân nào tiếm vị Tư Lệnh của ông được.

Người Mỹ vô tình gây ra cái chết thương tâm của Đại Tá Hồ Tấn Quyền. Cá nhân Đại Tá Quyền nằm xuống không còn ưu tư về vấn đề nầy nhưng cái chết của ông gắn liền vào cuộc đảo chánh 1.11.63. Dù rằng Đại Tá Hồ Tấn Quyền bị hờ hững qua nhiều năm không mấy ai phanh phui ra vị Tư Lệnh quá cố Hải Quân dưới thời Ngô Đình Diệm.

Đại Tá Hồ Tấn Quyền lúc tại vị ông là một sĩ quan cao cấp dễ mến. Tính tình bặt thiệp, dễ cởi mở hơn Đại Tá quá cố Lê Quang Tung. Ông bị ganh tị khá nhiều trong Binh Chủng của ông chỉ huy và trong các hàng cấp Tá chung quanh Tổng Thống Diệm.

Khi Đại Tá Quyền được cất nhắc lên chức vụ Tư Lệnh Hải Quân đã bị nhiều lời lẽ đàm tiếu. Các sĩ quan trong Bộ Tư Lệnh Hải Quân cho rằng Đại Tá Quyền không đủ phong độ chỉ huy. Vì không đủ tài sức chuyên môn về Hải Quân. Những lời này đã đến tai Tổng Thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Song Tổng Thống Diệm không quan tâm đến vì ông nghĩ rằng, Đại Tá Quyền là sĩ quan chịu khó, chăm chỉ làm việc thì thành công sẽ đón chờ ở cuối đường.

Sự thật tài năng của Đại Tá Hồ Tấn Quyền không tệ hại như một số sĩ quan cao cấp đã nghĩ. Ông thuộc vào giới sĩ quan cao cấp trẻ tuổi vào hồi bấy giờ. Ông rất được Cố Vân Ngô Đình Nhu bằng lòng vì ông Nhu chủ trương, trẻ trung hóa quân đội. Ông Quyền là lớp người ông Nhu ưa thích. Vì ông Quyền rất khiêm nhượng trong vấn đề chỉ huy và làm việc.

Nguyên do này mà các sĩ quan trong Bộ Tư Lệnh Hải Quân cho rằng Đại Tá Quyền không được khâm phục mà cho rằng ông chỉ vì trung thành với ông Diệm, ông Nhu, nên được chọn giữ chức Tư Lệnh. Họ cho Đại Tá Quyền thuộc loại sĩ quan cờ đến tay phải phất và có lẽ sự nhận định đó không sai lầm. Đại Tá Quyền là người của chế độ Diệm, Tổng Thống Diệm đối với Đại Tá Quyền là thần tượng, ngoài ra là vị cha già của ông. Cho nên lúc nói chuyện với Tổng Thống Đại Tá Quyền xưng ‘’con’’ với Tổng Thống rất thân mật.

Trong đời làm Tư Lệnh Hải Quân của Đại Tá Hồ Tấn Quyền, ông làm việc rất chu toàn. Tổng Thống Diệm khen ngợi nhiều lần. Và khen ngợi nhiều nhất vào ngày Quốc Khánh 26.10.59 tổ chức tại Bến Bạch Đằng khi Tổng Thống duyệt Hải Quân trên sông Sài Gòn bằng thủy động cơ, ghé đến các chiến hạm bỏ neo hàng một đón chào.

Những nhân viên thân cận nhất của Đại Tá Quyền cho biết Đại Tá Quyền rất nhã nhặn đối với cấp dưới. Ông say sưa làm việc kể từ ngày Hải Quân bắn hạ chiếc máy bay Phạm Phú Quốc. Đại Tá Quyền ra lệnh chở chiếc máy bay đó về Bộ Tư Lệnh Hải Quân và coi đó là một chiến lợi phẩm.

Thái độ của Đại Tá Quyền đã làm cho vị sĩ quan xử lý thường vụ Tư Lệnh Không quân Huỳnh Hữu Hiền không mấy bằng lòng (thời gian nầy Tư Lệnh Không Quân Đại Tá Nguyễn Xuân Vinh công du Đài Loan).

Theo một số sĩ quan Hải Quân tiết lộ thì sau khi đem chiếc máy bay Phạm Phú Quốc về Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Đại Tá Hồ Tấn Quyền ra lệnh bắn thêm vào thân máy bay nhiều lỗ đạn để chứng tỏ với chính quyền Ngô Đình Diệm, Hải Quân đã bắn chính xác nhiều lần, trước khi hạ phi cơ. Dư luận đồn tải như vậy. Nhưng sự thật Đại Tá Quyền không đến nỗi hành động như thế. Có lẽ những cấp sĩ quan dưới sự chỉ huy của ông muốn tấn công cho chính mình hoặc gây niềm mâu thuẫn giữa Tư Lệnh Hải Quân và Tư Lệnh Không Quân.

Trong vụ 27.2.62 Tư Lệnh Không Quân Nguyễn Xuân Vinh bị mất uy tín nhưng Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền lại bị gánh trọng trách qua biến cố. Những năm cuối của chế độ Diệm Không Lực Việt Nam gặp nhiều điều xui xẻo. Đại Tá Nguyễn Xuân Vinh bị quở trách đầu tiên là vụ đảo chánh hụt 11.11.60.

Ngày đó Không Quân mất một chiếc Dakota bay sang Cambodge chở luôn cả Tướng Thái Quang Hoàng. Kế tiếp đó là vụ dội bom Dinh Độc Lập 27.2.62 Đại Tá Tư Lệnh Không Quân Nguyễn Xuân Vinh bị cách chức, Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền lên thay.

Quân Chủng Không Quân với Tư Lệnh Đại Tá Nguyễn Xuân Vinh trên đường mất lòng tin chế độ Diệm. Cơ hồ như Hải Quân thay thế vào chỗ trống đó.

Được chế độ tin dùng, trong thâm tâm Đại Tá Hồ Tấn Quyền thừa dịp vươn lên, bằng cách làm vang dội tiếng tăm của Hải Quân đã bị chìm đắm trong những ngày tháng qua. Đại Tá Quyền đã thành công lớn trong điểm này, sau khi tổ chức hoàn hảo ngày ‘’Quân dân đoàn kết’’.

Tàn tích đổ nát Dinh Độc Lập nơi uy quyền quốc gia đã ám ảnh theo ngày tháng Tổng Thống Diệm. ‘’Ngày quân dân đoàn kết’’ được giao cho Tướng Nguyễn Khánh gấp rút ra mắt nhưng người tổ chức là Đại Tá Hồ Tấn Quyền. Tổng Thống muốn trình diễn buổi lễ thật long trọng hầu xóa đi dư âm của ngày 27.2.62 trong lòng ông và cả ngay quần chúng Sài Gòn cùng các tỉnh lỵ trên toàn quốc.

Tổng Thống Diệm và ông Nhu tổ chức ngày này còn nhắm vào tâm lý quân đội, trong đó có sự củng cố hàng ngũ và thể hiện uy tín của ông còn chinh phục được quân đội.

Cũng vì thế cái lễ ‘’Quân dân đoàn kết’’ nầy người ta mới bắt đầu thấy Đại Tá Hồ Tấn Quyền là một trong những sĩ quan cao cấp then chốt của chế độ.

Tuy nhiên trong cuộc đảo chánh 1.11.63 (đọc Những Bí Mật Cách Mạng 1.11.63 đã xuất bản) lực lượng đảo chánh gạt đơn vị Hải Quân ra ngoài vòng trở ngại. Như vậy, những nhân vật lãnh đạo cuộc đảo chánh chỉ lo sợ Đại Tá Quyền tiết lộ bí mật với chế độ mà thôi. Còn uy lực Hải Quân đã do Thủy Quân Lục Chiến chế ngự.

Cái chết của Đại Tá Quyền quá sáng sủa do ở nguyên nhân ấy mà ra, theo một vài nhân vật tham gia đảo chánh cho biết là cái chết của Đại Tá Quyền là trường hợp bất khả kháng. Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chịu liên đới trách nhiệm mà không chủ tân thủ tiêu.

Một số sĩ quan Hải Quân giết ông Quyền trên xa lộ xảy ra nhiều nguyên nhân. Trong những nguyên nhân đó bao gồm chính trị và hiềm khích cá nhân, địa vị. Dựa vào biến cố, số sĩ quan Hải Quân đó đã giết Đại Tá Quyền mà không sợ mang hậu quả tai hại cho chính bản thân từng sĩ quan ấy.

Đại Tá Quyền đã mơ ước người của chế độ Ngô Đình Diệm (vào thời ấy sĩ quan nào cũng thế) giấc mộng đó đã thành sự thật mà ông thấy rõ và cầm bằng trong tay sau ngày 27.2.62. Ông Quyền bước váo lãnh vực ‘’con cái trong nhà’’ Ngô Đình Diệm. Từ đó Đại Tá Quyền thấy cái uy to lớn của chế độ mà ông nghĩ rằng những ngày tháng trong tương lai sẽ vững bền mãi. Có thể nói rằng ông Quyền mù quáng, ông như một tín đồ sùng ái một tôn giáo nào đó đến mức mê tín dị đoan.

Cho nên khi đã nằm trong chiếc máy của đảo chánh thanh trừng Đại Tá Quyền vẫn hiên ngang chống lại. Đại Tá Quyền tự tin ở uy thế mình trước các sĩ quan Hải Quân cấp dưới. Ông không dám nghĩ rằng họ dám giết ông. Vì ông đã xả thân cho Hải Quân. Ông không có một tội nào đáng giết được. Nhưng Đại Tá Quyền đã quên rằng nổi lửa cách mạng đã nung đốt đám sĩ quan đó từ mấy tuần qua. Họ muốn thay đổi bộ mặt của Hải Quân, của quân đội chế độ...mà Đại Tá Quyền ý thức non kém về chính trị không phỏng độ được.

Điều này không phải lỗi ở Đại Tá Quyền. Ông là quân nhân phi chánh trị. Chính trị không đòi hỏi ở sự dũng mãnh của một quân nhân. Chính trị chứa đựng nhiều mặt trái của nó mà binh sĩ quân nhân bao giờ cũng lấy sự kỹ thuật, theo đúng chỉ huy rõ ràng, chính xác thói quen như mặt trời bao giờ cũng mọc về phương Đông và lặng về phương Tây.

Đại Tá Quyền thiếu óc tình báo, trinh thám. Ông chứa đựng một trí não cứng đờ như khúc gỗ. Ông không noi gương Hàn Tín luồn trôn kẻ hàng thịt để đợi ngày hiển vinh. Cho nên ông đã bị giết. Chết một cách bỡ ngỡ, oan uổng cho cuộc đời ông và vợ con.

Máu đã đổ trên nệm xe, Đại Tá Quyền ngừng nói theo nhịp tim yếu ớt rồi dứt hẳn. Vị Tư Lệnh Hải Quân dưới thời Ngô Đình Diệm đã ra người thiên cổ. Một cái chết trầm lặng trên Xa Lộ Biên Hòa, dù mấy phát súng khua động chát chúa nhưng không đủ sức vang dội, trong cảnh tịch mịch, hoang vắng trời cao, đồng vắng, gió thổi ở vùng xa lộ.

Thi thể Đại Tá Quyền để lại đó. Đám sĩ quan Hải Quân trở về. Cố nhiên sự trở về này là một hình thức trốn chạy. Trốn chạy với người chết hơn là gấp rút thành quả của một vụ giết người. Người sống trong chốc lát vĩnh viễn ra đi, không bao giờ trở lại. Người giết dù mang trái tim sắt cũng bồi hồi xúc động sau giờ phút giết người. Dù kẻ đó lúc còn sống là địch thủ của mình. Nhưng việc đã rồi, cần phải dấu kín tâm tư. Dấu kín mọi vấn đề. Nên cái chết của Đại Tá Quyền được mô tả sai lệch do cửa miệng các sĩ quan Hải Quân để chôn vùi tang chứng của một vụ thủ tiêu.

Cái chết của Đại Tá Hồ Tấn Quyền được mô tả quá đơn sơ sau ngày Cách Mạng 1.11.63 thành công. Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cơ hồ như không để ý đến. Các Tướng lãnh cho rằng chết là hết chuyện. Thật ra nó không đơn giản như quan niệm đó.

Vinh quang của một chiến thắng. Hăng say trong việc phân quyền chức cao, thế lực mạnh và quên đi những cái chết quan trọng tức tưởi của hai sĩ quan cao cấp Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung. Ngay những Tướng lãnh then chốt cuộc đảo chánh cũng không biết rõ ràng chi tiết 2 cuộc thủ tiêu đó. Chứng tỏ những vụ giết Đại Tá Hồ Tấn Quyền và Đại Tá Lê Quang Tung đi vào sự hiềm tì cá nhân khá nặng.

Đại Tá Hồ Tấn Quyền chết đi, mang theo nhiều bí mật giữa cá nhân ông với chế độ Ngô Đình Diệm. Giữa cá nhân ông với cá nhân sự đảo chánh do các sĩ quan cao cấp dưới đã ra tay hạ sát ông.

Tuy nhiên tầm quan trọng ở cái chết của vị Sĩ Quan Tư Lệnh Hải Quân bên ven Xa Lộ Biên Hòa vẫn liên quan đến người Mỹ xấu xí trong hậu trường chính trị Nam Việt Nam hay nói rõ hơn là bề trái cuộc đảo chánh hạ bệ chính quyền Ngô Đình Diệm 1.11.63.

Một vị Tư Lệnh như Đại Tá Hồ Tấn Quyền vì liên can với một chế độ mà bị giết. Người ta (Mỹ lẫn Tướng lãnh) không đặt vấn đề khung cảnh, thời thế Ngô Đình Diệm mà kết tội ông Hồ Tấn Quyền. Nếu ông Quyền có tội thì ngay ở căn bản Hội Đồng Tướng Lãnh phải cùng chung số phận như ông. Vì những sao đeo trên cổ, những hoa mai đeo trên vai các Tướng lãnh đều chớm nở dưới bầu trời chế độ Diệm.

Người Mỹ đã thúc đẩy, hậu thuẫn cho Tướng Tá làm đảo chánh thì người Mỹ chính là động cơ giết hại vị Đại Tá cao cấp Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung.

Trường hợp của Đại Tá Hồ Tấn Quyền, gia đình ông được trông thấy thi hài để âm thầm chôn liệm. Trong nghĩa trang bùi hiu, người đàn bà đệ nhất phu nhân Hải Quân tiễn chân chồng đến nơi an nghỉ cuối cùng. Những đau buồn thấm thía ấy biết lấy gì đo lường cho được. Gia đình Đại Tá Quyền khổ sở bao nhiêu thì Tướng lãnh tổ chức liên hoan ăn mừng chiến thắng. Người Mỹ Henry Cabot Lodge dạo phố Sài Gòn, một hình thức bình dân ra mắt công chúng.

Cá nhân bé nhỏ của Đại Tá Quyền thật không đáng đề cập. Ông liệt vào phần tử thân chế độ Diệm và làm cản trở quân đảo chánh một phần nào. Tuy nhiên điều đáng nói là ông giữ chức Tư Lệnh một Quân Chủng, cái chết của ông phải được phổ biến rõ ràng. Dù trong bản phổ biến đề cập đến tội trạng quá sự bóp méo sự thật.

Cách mạng bùng nổ không ai chịu trách nhiệm, về những cái chết. Nhưng những cái chết phải có nhiều lẽ. Người Mỹ nhúng tay vào đảo chánh 1.11.63. Cái chết của Đại Tá Hồ Tấn Quyền nằm trong bộ máy ấy thì trọng trách người Mỹ qua cái chết đó phải như thế nào? Người Mỹ đã coi những bộ óc nhân lực của quốc gia địa phương quá thấp. Họ quan niệm sẽ đào tạo cấp chỉ huy khác dễ dàng hơn là những bộ óc thiên phú chống lại họ như Tổng Thống Ngô Đình Diệm với các cận thần của ông.

Nhưng sau Cách Mạng 1.11.63, trên chiến trường Nam Việt Nam, người Mỹ Cabot Lodge đã thất bại. Người Mỹ trầm lặng nắn bót những lãnh tụ bị gãy đổ ngay từ đầu. Từ Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát, Trần Văn Hương lần lượt cách biệt quần chúng. Và nạn khan hiếm nhà lãnh đạo Nam Việt càng ngày càng thấy rõ.

Người Mỹ đã coi nhân sự (ngay cả cấp lãnh đạo) quá rẻ. Họ đã đặt nặng chánh sách vạch từ Hoa Thịnh Đốn để thi hành tại các quốc gia địa phương. Như chánh sách ở Việt Nam, được nằm trong chính sách Đông Nam Á của Hoa Kỳ.

Cho nên người Mỹ không nghĩ đến hậu quả cái chết của Đại Tá Hồ Tấn Quyền. Vì Hải Quân có nhiều người cáng đáng lãnh nhiệm vụ thay thế Đại Tá Quyền miễn rằng nằm trong hệ thống tổ chức theo lối người Mỹ.

Cố nhiên Nam Việt Nam không phải chỉ có một Hồ Tấn Quyền. Hải Quân Việt Nam còn vô số Hồ Tấn Quyền kế tiếp. Vấn đề thay thế người chỉ huy một Quân Chủng không phải khó. Nam Việt Nam đầy đủ nhân sự đứng sau lưng Đại Tá Hồ Tấn Quyền để tiếp tục nhiệm vụ của Hải Quân. Nhưng phải đặt vấn đề người thay thế rồi có bị người Mỹ vô cùng âm mưu để trở thành một Đại Tá Quyền thứ hai trong lịch sử quân đội Nam Việt Nam nữa không?

Biến cố 1.11.63 một phần nào phơi trần được người Mỹ xấu xí qua hậu trường chính trị. Cái chết của Đại Tá Hồ Tấn Quyền và Đại Tá Lê Quang Tung đã hiển nhiên chứng minh điều ấy.

Lỗ thủng chính trị lớn lao khi chế độ Ngô Đình Diệm cáo chung, người ta mới thấy ở sự vô lý của người Mỹ xấu xí. Đồng thời những cái chết phi tang như Đại Tá Tung, Đại Tá Quyền mới thấy uất ức. Đồng thời Tổng Thống Diệm, ông Ngô Đình Nhu cũng chết tàn nhẫn.

Về phía quân đảo chánh, anh hùng Đại Úy Bùi Ngươn Ngãi hy sinh khi tấn công Dinh Gia Long (xem anh hùng cách mạng Bùi Ngươn trong chương sau). Và nhiều chiến sĩ vô danh thiệt mạng trong cuộc chính biến đó. Cuối cùng những diễn biến khủng hoảng chính trị tiếp nối cho đến khi Đại Tá Phạm Ngọc Thảo bị chết trong vòng bí mật nhất.

Đổ lỗi vào người Mỹ chuyên viên đảo chánh Henry Cabot Lodge không phải là điều mơ hồ. Ông Lodge đã tạo cho Nam Việt Nam một thời dài rối loạn. Ông Lodge đã từng tuyên bố: ‘’Ông thất bại trong việc cứu sống Tổng Thống Diệm’’ Đại Sứ Lodge không muốn nói trắng ra, ông thất bại rõ ràng việc hạ bệ chế độ Ngô Đình Diệm.

Tổng Thống Nixon đã từng tuyên bố, người Hoa Kỳ nhầm lẫn khi lật đổ chế độ Diệm ở Nam Việt Nam để gây tình hình xáo trộn tại quốc gia nầy mà phải đòi hỏi thời gian dài mới hàn gắn khủng hoảng chính trị đó.

Đại Tá Hồ Tấn Quyền một đơn vị nhân sự chỉ huy của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông chết trong ngày đảo chánh và được gắn liền với chế độ đến giờ hấp hối. Lịch sử Nam Việt Nam sau nầy khi nói đến cái chết của Tổng Thống Diệm chắc rằng, không quên đề cập tên tuổi Đại Tá Lê Quang Tung Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt.

Đại Tá Hồ Tấn Quyền chết công khai nhưng các chi tiết đều âm thầm dấu kín. Lúc đầu người ta tưởng ông bị bắt ở tư thất rồi bị bắn ở bộ Tư Lệnh Hải Quân rồi ở đây đoạn vất xác ông ra Xa Lộ Biên Hòa. Nhưng những người thân tín của Đại Tá Hồ Tấn Quyền. Nhưng tuyệt nhiên không nói đến danh tánh của người cầm súng hạ sát Đại Tá Hồ Tấn Quyền.

Nhưng thời gian qua cái chết của Đại Tá Quyền đã được nói tới khi những loại bài của báo chí khơi động lại chế độ 9 năm Ngô Đình Diệm, nổi danh một thời ở Nam Việt Nam.

Đại Tá Quyền và Đại Tá Tung hai nhân vật của chế độ bị giết âm thầm, bao trùm bí mật đã lộ diện dưới ánh sáng mặt trời một phần lớn, dù chưa được thất triệt khúc mắc của một vụ thủ tiêu tàn nhẫn trong lịch sử cận đại nầy.

Cái chết nầy những nhà viết sử chạy theo tìm tòi về một chế độ đã bị tàn phá và phanh phui những cái chết trong ngày 1.11.63 trong vòng bí mật.

Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu bị giết đã trở thành huyền thoại. So với cái chết nhỏ bé của Đại Tá Quyền quá nhỏ nhoi. Song đặt vấn đề, những cái chết đó liên quan đến người Mỹ nên nó có tầm quan trọng trong lịch sử quốc gia Nam Việt Nam.

Người ta nghĩ rằng, nếu Đại Sứ Lodge không chủ trương hạ bệ chế độ Diệm thì cái chết của Đại Tá quyền chẳng bao giờ xẩy r