← Quay lại trang sách

- 1 - MỘT TUẦN LỄ TRONG NGÔI NHÀ YÊN TĨNH

I. GIẤC NGỦ

Căn phòng ấy đóng kín mít. Trong phòng là bóng tối dày đặc, không có một kẽ hở nào để cho dù chỉ một chút ánh sáng lờ mờ bên ngoài có thể lọt được vào. Cái bóng tối ấy dày đặc đến mức giá ta có cảm giác là nhìn thấy một cái gì sang sáng, thì cái sang sáng đó chỉ ở trong tưởng tượng của ta mà thôi.

Tuy vậy, trong màn đêm ấy, vẫn có thể nhận ra được mọi biểu hiện nhỏ nhất của cuộc sống. Ta có cảm giác là trong phòng tràn ngập một bầu không khí đầy mùi dầu mỡ, mùi hỗn hợp thô tạp của các loại chất bốc hơi. Có thể ngửi thấy mùi gỗ thông, mùi mỡ bò, mỡ lợn, rồi lại còn có mùi gì như mùi mận khô, mùi hạt thìa là Ai Cập, thậm chí cả mùi rượu nặng, mùi tỏi, và nhiều thứ mùi khác nữa. Có thể nghe thấy cả tiếng đồng hồ chạy tích tắc. Cái đồng hồ này chắc hẳn phải là đồng hồ treo tường đã cũ, có tay lắc dài, ở phía cuối có một vòng tròn bằng tôn mỏng hơi bị vênh. Cái vòng tôn ấy hơi rung lên mỗi khi tay lắc ngừng chuyển động, và những khoảng khắc đều đặn ấy cứ lặp đi lặp lại đến đơn điệu.

Cùng với tất cả những cái đó, còn có thể nghe thấy tiếng thở của những người đang ngủ. Dứt khoát ở đây phải có mấy người đang ngủ. Những tiếng thở của họ trộn lẫn vào nhau, không tiếng nào giống tiếng nào. Có tiếng thở nhỏ nhẹ, có tiếng thở mạnh hơn, có tiếng thở ngắt quãng như tiếng tay lắc của đồng hồ, rồi phì phì gấp gáp.

Tự nhiên, cả cái đồng hồ cũng thở dài và cất tiếng điểm giờ, rồi sau đó, tiếng chuyển động của tay lắc như trở nên thầm thì hơn. Một trong những người đang ngủ trở mình và kéo chăn sột soạt; rồi có tiếng cọt kẹt của chiếc giường gỗ.

Đồng hồ lại điểm giờ, đánh hai tiếng vang cao, rồi ngay sau đó là hai tiếng vọng trầm hơn. Người ấy lại trở mình. Rồi có tiếng người ấy ngồi dậy, tiếng hất cái chăn, tiếng chân người ấy chạm vào thành giường - bây giờ chắc đã quờ được chiếc dép đi trong nhà - rồi đã xỏ được chân vào cả đôi dép. Người ấy đứng lên, thận trọng bước mấy bước rồi dừng lại, sau đó đưa tay lần lần trên sàn gỗ, bàn tay người ấy chạm phải cái gì sột soạt, chắc hẳn là bao diêm.

Người ấy quẹt diêm mấy lần, nhưng lần nào cũng chỉ thấy lóe lên một tia lửa, rồi que diêm bị gãy. Người ấy làu bàu, lại quẹt que diêm mới, lần này thì được. Ngọn lửa nhỏ chiếu vào một thân hình mặc quần áo ngủ. Que diêm cháy gần hết, nhưng bàn tay già nua gân guốc đã đưa nó đến gần chiếc cốc thủy tinh có chứa nước và dầu hỏa, rồi châm vào cái bấc gắn ở nút phao đang nổi trên đó. Ngọn lửa trên đầu bấc sáng lên như ngôi sao nhỏ, que diêm đã tàn được vất xuống sàn nhà. Ngôi sao nhỏ ấy từ từ lớn hơn, nó chiếu lên thân hình của người đang mặc áo ngủ. Đó là một người đàn bà đã có tuổi, bà ấy đang dụi mắt và ngáp ngắn ngáp dài.

Người đàn bà đứng bên cái bàn nhỏ kê sát bức vách bằng gỗ sơn màu tối. Bức vách gỗ đó ngăn căn phòng ra thành hai phần. Ánh sáng của ngọn đèn dầu chỉ đủ chiếu một góc phòng, đằng sau bức vách gỗ vẫn là bóng tối. Tuy vậy, không thể nhầm lẫn được, chỉ ngửi thôi cũng đủ thấy căn phòng này là kho hàng tạp hóa, chắc hẳn nó vừa là cửa hàng, vừa là phòng ở. Cửa hàng tạp hóa ấy có nhiều hàng dự trữ với những cái bao tải căng đầy xếp liền nhau, bên trên có đặt rổ rá cũng đầy hàng, trên tường treo đủ những bó hàng lớn nhỏ.

Người đàn bà rùng mình vì cái lạnh ban đêm. Bà lấy chiếc đèn từ trên bàn và mang đặt nó lên quầy hàng. Trên mặt quầy có xếp nhiều miếng bơ mới, phía bên trên quầy có cái cân treo, rồi vài chuỗi hành tỏi. Bà ngồi vào sau quầy, hai chân co lên, đầu gối chạm đến cằm. Sau đó, bà mở ngăn kéo, rút ra một cái hộp đầy các cuộn chỉ, một cái kéo và đủ các thứ linh tinh khác. Bà xếp mọi thứ sang một bên, dưới đáy hộp còn lại giấy tờ và mấy quyển sách. Bà không để ý gì đến các tờ giấy có ghi chép mà chỉ lấy ra một quyển sách. Đó là sách viết về các giấc mơ, gọi là “sách lớn”, hay là “sách giải mã giấc mơ lô đề”. Bà chăm chú lật các trang sách, rồi đọc, rồi ngáp, rồi lại đọc.

Bây giờ ở phía đằng sau tấm vách chỉ nghe thấy thở đều đều của một người vẫn đang ngủ; còn một người khác thì đã tỉnh giấc, có thể là do người ấy nghe thấy tiếng động, hoặc để ý thấy có ánh sáng. Người ấy cọ quậy trên giường.

“Cái gì thế hả?” Có tiếng làu bàu khàn khàn của một người đàn ông đã có tuổi.

Người đàn bà không trả lời.

“Bà làm sao thế?”

“Ông cứ ngủ đi, tôi không sao cả, chỉ rét thôi.” Người đàn bà nói, rồi ngáp.

“Thế bà làm cái gì ngoài ấy?”

“Tôi mơ thấy cha tôi, để đến sáng thì sợ quên mất. Chưa bao giờ lại có giấc mơ đẹp như thế. Ôi chao ơi là rét, tháng sáu rồi mà vẫn còn rét thế này!” Bà tiếp tục đọc và lắc đầu. Im lặng.

“Mấy giờ rồi?” Lại có tiếng hỏi khàn khàn từ phía sau tấm vách.

“2 giờ.”

Tiếng thở của người ngủ thứ ba bắt đầu trở nên không đều đặn. Tiếng nói chuyện to chắc đã đánh thức người ấy dậy.

“Thế nhanh lên rồi đi nằm, để cả nhà còn ngủ. Bà thì lúc nào cũng chỉ nghĩ đến lô đề thôi!”

“Ở nhà này chả có lúc nào được yên. Ông cứ ngủ đi, mặc tôi!”

Phía sau vách có tiếng thở dài; người thứ ba cũng đã tỉnh giấc. Tiếng người đàn ông có tuổi tiếp tục càu nhàu:

“Thằng con trai đi bia rượu đến gần nửa đêm mới về, gần về sáng thì mẹ nó lại lỉnh kỉnh làm tôi không ngủ được, sống thế này thì có khổ thân tôi không chứ!”

“Ông không để yên có phải không? Phải rồi, thân gái già này cứ vất vả mà chả ai biết cho! Được ông chồng thì lúc nào cũng cảu nhảu càu nhàu - giá mà ông dạy bảo thằng con ông thì có phải là được việc không! Còn tôi, tôi có làm gì thì cũng chẳng bận đến ai!”

“Thì bà dạy nó đi, nó cũng là con bà chứ, dạy bảo cái thằng rượu chè ấy đi!”

“Bố lại muốn cái gì đấy?” Có tiếng nói của một người đàn ông còn trẻ.

“Câm đi, mày chả có quyền gì mà nói!”

“Nhưng mà con không thể hiểu được là...”

“Ấy, anh ấy không thể hiểu được!” Ông già cười nhạo báng, “đồ vô lại!”

“Nhưng mà...”

“Này, có im đi không?”

“Nó lại còn cãi giả nữa chứ! Ông với tôi có con trai đâu mà ngoan thế, sung sướng quá nhỉ!” Bà già nói, rồi lại ngáp.

“Con với cái gì nó! Nó làm khổ, nó cướp sức khỏe của bà với tôi thì có!”

“Nhưng mà đang ngủ thì con làm sao mà cướp được!”

“Này, cái thằng mất dạy kia, im đi!”

“Thật là quý tử!”

“Đồ vô lại thì có!”

“Đúng thế, đồ vô lại!”

Người con trai huýt sáo một điệu nhạc.

“Bà thấy chưa, nó còn nhạo báng mình nữa kìa!”

“Nhưng trời không tha nó đâu,” bà già vừa nói vừa lấy cục phấn viết lên bức vách gỗ các con số 16, 23 và số 8. “Tôi với ông thể nào cũng phải chứng kiến ngày ấy, nhưng rồi thì cũng cầu trời đừng để cho tôi sống thêm nữa làm gì.” Bà ấy xếp cái hộp lại, thổi tắt ngọn đèn và quay trở lại giường của mình. “Nó sẽ phải ăn năn hối lỗi, nhưng mà lúc ấy thì đã muộn rồi. Này, có im đi không hả thằng kia?”

Người con trai ngừng huýt sáo.

“Chả nhờ vả gì được mày đâu, chúng tao mà có chết thì mày cũng chẳng lo ma chay gì đâu!”

“Thôi, thôi, xin bà đừng nói nữa, ngủ đi, tôi buồn ngủ lắm rồi!”

“Tội ấy đổ lên đầu tôi là cái chắc. Ối trời ơi là trời, sao trời làm tôi khổ đến thế này!”

“Này, bà có im đi không, tôi phát điên lên vì các người đây!”

“Vâng, vì chúng tôi, vì chúng tôi!”

“Vào ban đêm ai cũng dữ tợn,” người con trai nói.

“Nó bảo cái gì thế?”

“Tôi không biết! Nó thì chuyện gì cũng xen vào, cái thằng quỷ tha ma bắt ấy!”

“Đẩy cái tủ kia vào nó, hay là đuổi nó đi, tống cổ nó đi ngay bây giờ đi!”

“Thôi, thôi, tôi xin ông, cả ông cũng để cho tôi yên đi! Thật là địa ngục trần gian!”

Ông già hầm hừ, bà già gầm gừ như đáp lời, người con trai im lặng.

Tiếng hầm hừ gầm gừ còn kéo dài thêm một lúc nữa, rồi tiếng khạc nhổ, rồi tất cả mọi tiếng cứ nhỏ dần, nhỏ dần; bà già ngủ thiếp đi, ông già còn trở mình một lần nữa và cũng ngủ tiếp. Người con trai lại huýt sáo, nhưng chưa hết được câu đầu thì cũng lại chìm vào trong giấc ngủ.

Trong bầu không khí đầy dầu mỡ lại vang tiếng lạch cạch của tay lắc đồng hồ như trước. Thêm vào đó là tiếng thở của ba người đang ngủ. Tiếng thở của họ trộn lẫn vào nhau, nhưng không một lúc nào trùng nhịp với nhau.

II. BUỔI SÁNG

Mặt trời buổi sáng của một ngày tháng sáu đã chiếu xuống sân từ khá lâu rồi, mọi người trong nhà mới bắt đầu thức giấc. Tiếng chân bước mạnh vang lên ở hành lang, át cả tiếng động của các loại xe đang lăn bánh từ ngoài đường vọng vào. Đó là tiếng chân bước của những người đàn bà lần lượt đi ra từ các căn hộ, như thể người này chờ người kia đi qua rồi mới mở cửa để ra khỏi phòng. Họ chỉ có mấy người, và ai ngủ dậy cũng mang cái vẻ luộm thuộm giống như những người giúp việc. Có người để xõa mái tóc còn chưa chải, có người kéo khăn quàng trùm xuống đến dưới trán, che đôi mắt ngái ngủ trước ánh sáng mặt trời. Váy áo của họ không được cài thắt cẩn thận, giày dép thì kéo lê lệt sệt. Họ cầm trong tay những cái bình hoặc còn trống không, hoặc đã đầy sữa.

Các căn hộ trong nhà cũng từ từ tỉnh giấc. Những tấm rèm trắng ở các cửa sổ được kéo sang bên, nhiều cửa sổ được mở ra. Có người đứng bên cửa sổ, nhìn ra ngoài trời, nhìn sang đồi Petřín[1], rồi quay vào nói với ai đó trong phòng về ban mai đẹp. Mọi người gặp nhau ở cầu thang và ngoài hành lang, họ chúc nhau một buổi sáng tốt đẹp.

Bên cửa sổ ngoài cùng trên tầng hai, ở phía nhìn ra đường, có một người đàn ông cao lớn với mái tóc bạc rối bù và khuôn mặt đỏ đầy mụn nhọt. Ông nặng nề tì tay vào bậu cửa và nghiêng hẳn người ra ngoài. Cái áo ông phanh ra, làm lộ cả bộ ngực vạm vỡ. Trời tháng sáu rồi mà ông vẫn còn mặc áo vải flanen. Ông nhìn sang cửa sổ còn đóng bên cạnh, rồi đứng thẳng người và nói về phía trong phòng: “Vẫn còn chưa đến 7 giờ.”

Vừa lúc ấy, có tiếng động lớn ở cửa sổ phòng bên, rồi cửa sổ ấy được mở toang ra. Một người đàn ông khác đứng ở đó, cũng vóc dáng cao lớn, nhưng trẻ hơn. Tóc ông màu đen, được chải thành nếp cẩn thận, chỉ nhìn cũng thấy ngay là ngày nào cũng được chải như thế. Khuôn mặt ông tròn trặn, râu cạo nhẵn nhụi, xem ra không có vẻ gì là đặc biệt. Ông mặc một cái áo khoác trong nhà màu xám trang nhã, và đang lau kính bằng một chiếc khăn lụa màu vàng. Ông hà hơi vào mắt kính một lần nữa và lại lấy cái khăn đó lau, rồi đeo kính lên mắt, sau đó nhìn xuống đường. Với chiếc kính trên mặt, khuôn mặt không lấy gì làm đặc biệt của ông trở nên rõ ràng hơn, đó là cái thường thấy ở những người cận thị. Khuôn mặt ấy trông phúc hậu, đôi mắt hiền từ và vui vẻ, nhưng không còn trẻ nữa; đó là khuôn mặt của một người đã ngoài tuổi bốn mươi. Và nếu nhìn kĩ hơn đó bằng con mắt có kinh nghiệm thì chắc chắn thấy đó là khuôn mặt của người đàn ông chưa vợ. Linh mục và người đàn ông chưa vợ bao giờ cũng có khuôn mặt rất dễ nhận ra.

Người đàn ông chưa vợ ấy đứng tì tay vào cái gối trắng thêu đẹp đẽ đặt trên bậu cửa sổ. Ông nhìn lên bầu trời xanh, nhìn sang đồi Petřín tươi sáng đầy cây xanh, và mỉm cười. “Trời đẹp quá - từ mai mình sẽ phải dậy sớm hơn,” ông tự nhủ. Ngay sau đó, ông đưa mắt nhìn sang cửa sổ trên tầng ba ở phía sau của ngôi nhà. Sau tấm kính cửa trong suốt còn đóng, thoáng qua một bóng người mặc váy. “Phải rồi, tất nhiên đó là Josefinka, cô ấy đang ở trong bếp,” ông lại tự nói thầm với mình. Vừa nói, ông vừa nhấc bàn tay phải, trên ngón tay mập mạp có đeo một chiếc nhẫn kim cương. Tia sáng lấp lánh từ chiếc nhẫn làm ông lại nghĩ đến mình. Ông quay quay chiếc nhẫn một chút, để cho mặt kim cương nằm đúng mặt trên của ngón tay, hơi kéo tay áo lên rồi thích thú ngắm bàn tay mập mạp trắng trẻo của mình. “Có sạm nắng một chút cũng chẳng sao, càng khỏe,” ông lại tự nhủ, rồi giơ bàn tay phải lên cao, như là để kiểm tra cái khỏe khoắn ngày càng khỏe ra của mình.

Phía bên kia của tầng ba, có tiếng kẹt cửa ở căn phòng bên hành lang, rồi một cô gái bước ra khỏi phòng. Đó là cô gái khoảng 18 tuổi, xinh đẹp như ánh sáng ban mai! Cô có vóc dáng thon thả và duyên dáng. Mái tóc đen xoăn xoăn rất dày rủ xuống đến vai, được buộc túm lại bằng một dải nhung giản dị. Khuôn mặt cô tròn trĩnh, cặp mắt xanh sáng và trung thực, đôi má hồng hào, làn da trắng mịn màng, cặp môi nhỏ đỏ thẫm. Có thể có người cho rằng gương mặt ấy không đều đặn như khuôn mặt người mẫu, nhưng mà nó rất dễ chịu. Cô có đôi tai nhỏ nhắn đáng yêu, cho dù chỉ đeo đôi khuyên nhỏ bằng bạc đơn giản. Ngoài đôi hoa tai bằng bạc, cô không mang một đồ trang sức nào khác. Trên cái cổ trắng ngần của cô có một sợi dây mảnh màu đen, có thể còn có mặt dây chuyền, nhưng nếu có, thì chắc nó được giấu kín giữa hai bầu vú đang lớn của người con gái. Cô mặc bộ váy áo sáng màu, có sọc dài và mảnh, cúc cài đến cổ, màu vải và kiểu váy áo may đơn giản, trông rất duyên dáng.

Cô gái bưng một cái bình màu nâu có nắp đậy.

“Chào cô Josefinka!”

“Dạ, xin chào luật sư ạ.” Josefinka trả lời, đưa mắt nhìn sang cửa sổ phía đối diện và mỉm cười thân thiện.

“Cô mang gì đi đâu vậy?”

“Dạ, cháu mang một tí xúp thịt bò xuống cho bà Žanýnka, cháu để dành cho bà ấy từ hôm qua. Bà ấy đang bị ốm ạ.”

“Bà Žanýnka bị ốm à? Mà không ốm thì mới lạ, phòng bà ấy cứ kín bưng như nhà tù ấy! Cả năm chẳng bao giờ mở cửa sổ, trong phòng lại còn có cả con chó xấu xí ấy nữa; hôm qua nó sủa cả đêm. Có lẽ chúng ta phải qui định chỉ được nuôi giống chó thuần chủng!”

“Lại còn thế nữa cơ,” cô Josefinka hơi bực mình, “nếu mà thế thì có lẽ bà Žanýnka phát điên lên mất!”

“Bà ấy ốm bệnh gì vậy?”

“Bệnh già ạ,” Josefinka buồn rầu trả lời và đi về phía cầu thang xoáy.

“Josefinka là cô bé tốt bụng!” Ông luật sư lẩm bẩm và đưa mắt nhìn theo cô.

Josefinka đi qua sân, đến trước căn phòng ở tầng một. Cô đặt tay vào tay nắm cửa, nhưng cửa khóa. Cô lay lay tay nắm cửa, rồi gõ cửa, nhưng không thấy trong nhà có động tĩnh gì. “Cô thử gõ vào cửa sổ xem sao!” Ông luật sư nói từ cửa sổ phòng mình.

“Không ăn thua gì đâu, phải đập cơ, chứ gõ không đủ đâu! Nhưng Josefinka không biết đập cửa. Để tôi đập cho!”, có tiếng nói từ bậc thang ở lối ra cổng. Chỉ nhảy hai bước từ cầu thang xuống sân, một nam thanh niên khoảng hai mươi tuổi đã đến bên cô Josefinka. Người thanh niên ấy mặc bộ quần áo mỏng mùa hè màu xám, đầu để trần không đội mũ. Tóc anh đen và quăn quăn, khuôn mặt vuông vắn, đôi mắt lanh lợi.

“Vâng, anh Václav ạ, xin anh giúp tôi với!” Josefinka nhờ.

“Nhưng trước hết phải xem có cái gì ở bên dưới nắp bình đã!” Václav đùa và đưa tay về phía Josefinka.

“Này... này,” ông luật sư lên tiếng dọa, nhưng thôi ngay, vì thấy cô Josefinka khéo léo tránh được bàn tay của chàng thanh niên.

“Thôi, tôi gõ lấy cũng được!”

Nhưng Václav đã đứng bên cửa sổ và gõ tay vào cửa kính. Bên trong nhà vang lên tiếng chó sủa chói tai, rồi lại im bặt. Cả hai đứng chờ một lúc. Khi vẫn không thấy ai lên tiếng, chàng thanh niên đi sang cửa sổ bên cạnh và hết sức đập vào nó. Trong nhà, con chó lại sủa dữ dội, một hồi lâu sau nó rít lên rồi ngừng sủa.

“Bà Žanýnka sẽ mắng cho đấy!”

“Ừ thì mắng, có sao!” Václav nói và lại đấm vào cửa, rồi áp tai vào cánh cửa lắng nghe. Bên trong phòng, chỉ có tiếng rít rền rĩ của con chó.

Tiếng động ồn ào đã đánh thức cả ngôi nhà. Ở cửa sổ cạnh phòng ông luật sư lại thấy người đàn ông cao lớn với khuôn mặt đầy mụn nhọt, cạnh ông ta là hai người phụ nữ, một người đã có tuổi và một người trẻ hơn. Trên tầng ba phía đối diện, mẹ của Josefinka bước ra hành lang. Bà có dáng người cao cao. Đi sau bà là cô con gái ốm yếu, người nhỏ bé, lưng khom khom, chị gái của Josefinka. Ở hành lang dưới tầng hai có ba người ra khỏi phòng. Người thứ nhất là một người đàn ông có tuổi, đầu hói. Người thứ hai là người đàn bà cũng ngang tuổi người đàn ông ấy. Cả hai đều còn mặc quần áo trong nhà. Người thứ ba là cô gái khoảng 20 tuổi, chỉ mặc váy áo lót, một cái khăn quàng vội trên vai, tóc còn đang quấn nhiều cặp quấn tóc bằng giấy. Từ cầu thang ở lối ra vào có hai người phụ nữ đi xuống, họ mặc váy áo rất đơn giản. Người thấp nhỏ hơn trong họ là một người đàn bà nhanh nhẹn, sống động, là bà chủ quán ăn. Bà ngoảnh lại bảo con gái mình ở trong phòng: “Márinka, con ra trông quầy, nhỡ có người vào!” Người đàn bà thứ hai có vóc dáng cao lớn hơn, đó là người đàn bà xem sách giải mã giấc mơ mà chúng ta đã biết từ đêm qua. Bà đội trên đầu chiếc mũ vải màu trắng sạch sẽ, rất hợp với bà. Ánh sáng mặt trời làm khuôn mặt bà dễ chịu và dịu hiền hơn. “Cái gì thế hở Václav?” Bà hỏi người thanh niên, con trai bà ấy.

“Bà Žanýnka chết rồi hay sao ấy mẹ ạ! Để con gõ cửa một lần nữa xem sao!” Rồi lại hết sức đập vào cửa.

“Thôi, không còn cách nào khác là phải đi tìm thợ khóa, cậu Václav ạ, cậu đi nhanh lên!” Ông luật sư nói từ tầng trên. “Tôi xuống đấy ngay bây giờ!”

Václav đi khỏi sân. Tiếng hỏi, tiếng trả lời của mọi người vọng lên từ mọi phía, đan vào nhau.

Ông luật sư ăn mặc chỉnh tề đi từ cầu thang xuống. Khi đi qua Josefinka đang căng thẳng lo lắng, ông bảo cô không phải giữ mãi cái bình trong tay. Vừa lúc đó, Václav dẫn thợ khóa đến. Khóa cửa được tháo, cánh cửa được mở ra. Lúc đầu, không ai muốn vào phòng. Václav lấy can đảm bước vào, ông luật sư đi theo, còn những người đàn bà thì chen nhau đứng ở trước cửa.

Căn phòng lớn tối tăm đến khủng khiếp. Cửa sổ trông ra sân và cả cửa sổ nhìn sang đồi Petřín đều kéo rèm kín mít, không một tia sáng nào lọt được vào phòng. Không khí trong phòng ngột ngạt, nặng mùi hôi hám mốc meo. Mạng nhện phủ đầy bụi đen đúa rủ xuống từ trần nhà. Trên các bức tường xám trống trơ có treo mấy bức tranh tối màu, xung quanh viền hoa giả đã rất cũ và phủ một lớp bụi dày cộp. Đồ đạc trong phòng tuy nhiều, nhưng đều đã quá cũ, hết thời, nhìn qua cũng thấy bao năm tháng qua chúng không được dùng vào việc gì. Trên chiếc giường thấp có tấm chăn màu vàng bẩn thỉu, thò ra ngoài tấm chắn là hai cánh tay khẳng khiu đến thảm hại và cái đầu gầy gò khô quắt không còn một sợi tóc nào. Thấy có người vào, con chó già đen xù, xấu xí và bất hạnh chạy đi chạy lại từ đầu giường đến cuối giường và sủa liên hồi một cách tuyệt vọng.

“Azor, im đi, im đi nào!” Václav đe con chó, giọng nghẹn lại như sợ hít phải không khí trong phòng.

“Tôi nghĩ bà ấy mất rồi, không thì con chó đã chẳng rền rĩ như vậy.” Ông luật sư nói thầm.

“Vâng, bà ấy đi rồi! Xin Chúa tha tội cho bà ấy, cho tất cả chúng ta nữa. Xin Đức mẹ linh thiêng phù hộ cho chúng con!” Mẹ của Václav, bà Bavorová, lắp bắp cầu nguyện, giọt nước mắt lớn từ từ lăn trên má bà.

“Trong một nhà, khi có đám tang rồi sau đó không lâu có đám cưới thì cô dâu thường hạnh phúc.” Bà chủ quán ăn nói như vậy với Josefinka. Tội nghiệp cô bé, đang sợ tái mặt nhưng bất chợt mặt cô nóng rực lên, rồi lại trở lại nhợt nhạt. Cô quay mặt, không nói một lời nào và bỏ đi.

“Trước hết phải xua con chó đi, kẻo nó cắn, biết đâu răng nó đã dính cái độc hại từ người chết rồi.” Ông luật sư nói và lùi lại vài bước.

“Vâng, nó sẽ phải ra khỏi đây.” Václav nói và tiến gần đến con vật hung dữ đang canh bà chủ đã chết. Mặc dù tất cả mọi người trong phòng đều là người quen, con chó vẫn lồng lộn sủa, mỗi lúc một dữ dội hơn. Vừa sủa đinh tai, nó vừa lùi về phía đầu giường, trong khi Václav tiến gần đến nó. Cậu đi đến tận giường, đưa tay trái kéo cái chăn, và khi con chó nhảy đến giữ thì Václav tóm lấy gáy nó bằng tay phải, rồi nhấc nó lên cao. Con chó điên cuồng giãy giụa nhưng Václav giữ nó rất chặt.

“Mang nó đi đâu bây giờ?”

“Mẹ đưa cho con chìa khóa phòng để củi, con nhốt tạm nó vào đấy đã.” Václav mang con chó còn đang rền rĩ đi.

“Vậy là bà già đã chết rồi ư?” Có tiếng khàn khàn ở ngoài cửa. Đó là tiếng của người đàn ông hói đầu chúng ta đã trông thấy ở hành lang trên tầng hai. Đầu ông hói đúng đến chỗ chạm vào vòng mũ. Ông thường xuyên đội cái mũ chóp hình trụ cũ kĩ hết thời đã lâu. Những sợi tóc mềm đã bạc ở hai bên thái dương rủ đến tận mắt. Mặt ông đầy vết nhăn, khuôn mặt của người trước đây rất béo, sau bị gầy quắt đi. Hai bên má ông hóp lại, lõm sâu. Ông có dáng người xương xẩu, ngực lép, hai tay luôn luôn vung vẩy như không chủ động được.

“Vâng, bà ấy đi rồi!”

“Thế thì phải nhanh chóng đưa bà ấy ra nhà xác, để khỏi có người chết ở trong nhà, chứ để nằm đây lại phải có nhiều thanh toán lôi thôi!”

“Cái ấy thì khỏi phải lo, thưa ông chủ nhà,” ông luật sư nói. Lúc này, ông đang đọc các giấy tờ xếp đầy trong cái hộp để trên bàn bên cạnh giường. “Bà ấy đã thu xếp để thanh toán tất cả. Bà ấy đã chuẩn bị mọi hậu sự, có thể là ngày hôm qua bà ấy vẫn còn xem lại giấy tờ. Trong cái phong bì có niêm phong này tôi thấy một tờ giấy mang tên bà ấy, thành viên của hội thánh Haštal. Còn đây là sổ của hội tình thương Strahov. Bà ấy sẽ được thanh toán tiền tang lễ, còn buổi lễ cầu nguyện linh hồn thì cũng đã được trả tiền trước rồi.”

“Tội nghiệp bà ấy. Lương hưu cả năm của bà ấy chỉ có 80 zlatý.[2] Cứ ba tháng một lần, Václav nhà tôi lại điền phiếu nộp tiền hộ bà ấy!” Bà Bavorová cảm động nói. Bà Žanýnka đã đóng tiền hậu sự vào hai hội kể trên từ lâu rồi, ấy là từ lúc các hội đó còn xứng đáng với cái tên lịch sử của chúng, chứ không phải là cái đáng bị sỉ nhục như bây giờ.

“Họ sẽ trả hậu sự cho bà ấy khoảng 50 zlatý, một tấm quan tài và tấm bia thiếp vàng được vẩy nước thánh,” bà chủ quán ăn nói.

“Thế những tờ khác là giấy tờ gì?” Václav đã quay trở lại, tò mò hỏi.

“Chả có gì quan trọng. Một số thư từ riêng, từ hàng mấy chục năm rồi,” ông luật sư đọc rồi trả lời.

“Chú cho cháu mượn, thư từ của bà già không chồng chắc có nhiều cái hay. Cháu sẽ trèo lên mái nhà để đọc. Hôm nay là thứ hai, nhà nào cũng giặt quần áo, ở đâu cũng toàn mùi xà phòng, hơn nữa nhà nào cũng nấu đậu Hà Lan. Tốt hơn hết là trốn lên mái nhà. Cháu muốn trở thành nhà viết tiểu thuyết, và người viết tiểu thuyết thì cái gì cũng phải đọc. Cháu có nhiều thời gian, vì được công sở cho nghỉ phép đến tận thứ năm, có phải không ạ, thưa ông chủ nhà?”

“Nhưng không được làm mất tờ nào đấy, đọc xong thì đem hết về đây!”

“Bây giờ ai là người lo toan tất cả mọi thủ tục được đây?” Ông chủ nhà hỏi. “Có lẽ ông phải làm việc này thôi, ông luật sư ạ! Denn diese Leute kennenn’s nicht (đối với những người này không biết)!” Ông chủ nhà tỏ ra hiểu biết.

“Giá mà con trai tôi không thực tập ở công sở của ông thì tôi sẽ bảo cho ông biết rằng phải nói là kennes-nicht (bởi vì những người này không biết)!” Bà Bavorová lẩm bẩm một mình.

“Vâng, biết làm sao được!” Ông luật sư nhiệt tình đáp. “Tôi sẽ đến chỗ khai nhân khẩu, đến ban quản lý nghĩa trang và sang nhà xứ, còn cậu Václav thì phải đi ngay để mời bác sĩ đến chứng nhận. Khi bác sĩ ký giấy khai tử rồi thì cậu mang sang văn phòng cho tôi nhé!”

Václav nhanh nhẹn đi ra.

“Còn tôi với bà chủ quán sẽ tắm rửa rồi mặc váy áo cho bà Žanýnka. Nghĩa tử là nghĩa tận!”

“Vâng, các bà tốt quá!” Ông luật sư khen họ. “Thôi, tôi phải đi đây!”

“Để tôi đi cùng với ông.” Ông chủ nhà nói.

Rồi cả hai người đàn ông cùng đi.

“Bây giờ bà đang làm gì vậy?” Bà chủ quán hỏi bà Bavorová.

“Tôi đang nghĩ đến cả thế giới.”

“Bà lại mơ thấy cái gì thế?” Bà chủ quán hỏi tiếp. “Bà đã định kể về...”

“À, vâng! Giấc mơ ấy rất đẹp! Tôi mơ thấy cha tôi về, xin trời tha tội cho cha tôi, mồ yên mả đẹp cũng được hơn hai mươi năm nay rồi. Mẹ tôi bỏ đi trước, cha tôi nhớ thương ngày nào cũng ra mộ, rồi mất, nhưng ra đi rất nhẹ nhàng. Cha mẹ tôi thương yêu nhau lắm. Trong mơ, tôi nhìn thấy cha mẹ khóc thương chúng tôi, ngày ấy đang có chiến tranh Napoléon, chẳng có gì cho chúng tôi ăn cả.”

“Cụ ông tên là gì?”

“Cha tôi tên là Nepomucký, vì ngày lễ tên thánh của cha tôi là ngày 16, vậy sẽ là số 16. Tự nhiên tôi thấy cha tôi, cả người trắng bệch, đứng trước mặt tôi ở trong cửa hàng. Tôi định hỏi, ‘Bố đi đâu mà ở đây?’, cha tôi đưa cho tôi cả một ôm đầy bánh nướng - tức là số hai mươi ba, con số may mắn - rồi bảo tôi: ‘Người ta chiêu lính, bố phải đi!’ Mục chiêu lính có con số tám, nghĩa là sự vui vẻ. Sau đó bố tôi quay ngược ra ngoài và đi mất.”

“Thế thì phải là số sáu mươi mốt, chứ không phải mười sáu, khi mà ông cụ quay ngược ra!”

“Ừ nhỉ, thế mà tôi không nghĩ ra! Vậy thì các con số sẽ là 61, 23 và 8.”

“Giấc mơ rõ ràng như thế thì ta mua số đề cả năm mươi krejcar[3] nhỉ?”

“Ừ, cũng được.”

“Chúng ta sẽ trúng giải, sẽ được nhiều tiền, tốt quá. Cậu Václav nhà bà và Márinka của tôi, chúng nó thích nhau - trúng được giải thì tốt quá!”

III. GIA ĐÌNH ÔNG CHỦ NHÀ

Đã đến lúc tôi nên nói qua về địa điểm và các nhân vật của chuyện tôi muốn kể. Về nhân vật mà nói thì điều đó phụ thuộc rất nhiều vào sự ngẫu nhiên, tùy theo việc họ có những hành động gì nổi bật trong ngày nào đó. Còn về địa điểm thì tôi có thể nói ngay được rằng đó là một trong những ngôi nhà yên tĩnh nhất của khu Malá Strana[4] yên tĩnh. Nhà được xây rất khác lạ, là một trong những ngôi nhà khác lạ tương tự ở cái dốc cao nhất của phố Ostruhová[5]. Cái nhà ấy rất sâu, mặt tiền đơn giản của nó hướng ra phố Ostruhová, mặt hậu nhìn ra phố Svatojánská sâu thăm thẳm và ít người qua lại. Vì nằm trên dốc nên tuy nhìn từ phía sau nhà có ba tầng, nhưng lại thấy thấp hơn phía trước, mặc dù ở đó chỉ nhìn thấy hai tầng. Không thể đi từ phía trước nhà đến phía sau nhà qua sân được, vì tường của các nhà bên cạnh đứng chắn ngang. Ở mặt tiền nhìn từ đường vào, phía tay trái là cửa hàng tạp hóa, bên phải là quán ăn. Muốn đi lên tầng hai ở phần phía trước nhà thì không đi theo cầu thang từ lối qua cổng được, mà phải đi lên cầu thang ở ngoài sân, từ đó rẽ sang tay phải, đi qua một hành lang ngắn, tới cầu thang xoáy, rồi từ đó lại đi qua một hành lang ngắn nữa. Cả tầng hai là căn hộ của một công chức trước làm việc ở Sở Kinh tế, nay đã về hưu. Ông ấy sống ở đây cùng với vợ và cô con gái của họ. Ông luật sư tên là Josef Loukota, đúng ra chỉ là luật sư phụ tá, chưa có học vị tiến sĩ, đang ở trọ trong một căn phòng của gia đình này. Muốn đi vào phòng mình, ông luật sư phải đi qua bếp của gia đình.

Theo cầu thang xoáy còn có thể đi lên cao hơn nữa, đến tận tầng nóc nhà.

Phía dưới, ở bên phải và bên trái của cầu thang, là các ngăn chứa củi của các gia đình. Căn hộ của bà Žanýnka ở tầng một nhà phía sau. Bên cạnh căn hộ đó là các bậc thang dẫn xuống tầng hầm, liền các bậc thang đó là cầu thang xoáy dẫn lên hai tầng trên, tầng nào cũng có hành lang rất dài. Căn hộ của gia đình Josefinka nằm ở tầng ba. Nói cho đúng thì nó chiếm cả tầng, nhưng là tầng không rộng. Căn hộ ấy có cửa sổ trông ra sân và cửa sổ trông ra đồi Petřín. Josefinka sống cùng mẹ và chị gái. Mẹ cô là bà quả phụ của một viên chức trước đây làm việc cho một nhà quý tộc, chị gái cô là một cô gái ốm đau luôn.

Ở tầng hai phía sau nhà là căn hộ của gia đình ông chủ nhà. Chúng ta đã thấy gia đình ấy ở hành lang rồi, giờ thì ta có thể vào thăm họ.

Trước khi bước vào phòng thứ nhất, phải đi qua phòng bếp. Lúc này bà Bavorová, người giúp việc cho gia đình ông chủ nhà, đang giặt quần áo. Đồ đạc trong căn phòng thứ nhất rất đơn giản và không hiện đại. Phía tay trái là cái giường có trải chăn đệm, được phủ bằng tấm phủ giường đan bằng len. Phía tay phải là cái hòm và chiếc tủ cao đựng quần áo, rồi một cái bàn tròn có trải khăn bàn hơi bị sờn và bạc màu, xung quanh bàn là mấy chiếc ghế. Ở bên một cửa sổ có kê cái máy khâu, ở cửa sổ bên cạnh có chiếc ghế bành. Trên tường giữa hai cửa sổ có treo một tấm gương lớn, còn các bức tường sơn xanh khác đều để trống, không treo gì. Bụi phủ trên mặt hòm và ở khung gương; nhưng cái đó không quan trọng, vì phòng thứ hai tiếp theo mới là phòng lớn, cũng vì thế mà bà Bavorová chỉ gọi phòng thứ nhất là “tiền sảnh” thôi. Ở phòng thứ hai, tức là ở phòng lớn, có một số tranh minh họa sách cổ in litô, đồ đạc gồm một cái đàn piano, một ghế sofa, một bàn, sáu ghế được phủ vải trắng xếp vòng quanh bàn, và một cái giường. Cô con gái nhỏ của ông bà chủ nhà vẫn còn đang nằm ở đó. Phòng thứ ba là phòng của vợ chồng ông chủ nhà.

Bà chủ nhà đang ngồi bên cửa sổ, cô con gái lớn ngồi bên cửa sổ thứ hai. Bà mẹ mặc váy áo trong nhà, còn cô con gái thì vẫn chỉ mặc váy áo lót, mặc dù lúc đó đã là 11 giờ trưa rồi.

Bà chủ nhà là người đàn bà có đường nét sắc cạnh, khuôn mặt cứng cỏi và cái cằm nhọn. Bà đeo kính và đang chăm chú khâu cái gì đó bằng vải thô. Trên vải có in những vết đen, vậy đó đúng là vải may quân phục. Con gái bà là một cô gái tóc vàng thuộc loại rất bình thường, không hấp dẫn một chút nào. Cô rất giống mẹ, nhưng được cái đường nét có vẻ mềm mại hơn một chút, cái cằm tuy nhọn nhưng cũng có nét duyên dáng nào đó của tuổi trẻ. Mắt cô xanh sáng, mái tóc có vẻ không dày lắm, lúc này còn đang quấn trong cặp quấn bằng giấy. Điều rõ ràng thấy ngay được là cô đã ngoài tuổi hai mươi khá lâu rồi.

Cái làn đựng đồ khâu được đặt trên bậu cửa sổ, một cái áo lót mỏng đặt trên ghế cạnh cô gái, bên trên áo có cuộn chỉ đỏ. Có thể cô gái đã bắt đầu thêu tên mình lên áo, hoặc sẽ thêu. Trên cái bàn nhỏ cập kênh, cứ động vào là lại ngất ngưỡng, có một lọ mực, cạnh nó là quyển sổ lưu niệm đang mở với các trang đã viết, trước mặt cô là tờ giấy trắng đặt trên tờ báo cũ, trên bậu cửa sổ là quyển vở mở với các trang vở chép các vần thơ bằng tiếng Đức. Chắc hẳn cô muốn chép lại một đoạn thơ lên tờ giấy trắng, nhưng chưa chuẩn bị xong bút viết. Cô viết thử ra góc tờ báo, thử đủ kiểu bút, đôi môi cô nhuốm đen vì mực.

Bà mẹ ngẩng lên nhìn con gái rồi lắc đầu:

“Gớm, viết lách thế mà cũng cứ viết!”

“Nhưng con thích viết!”

“Này Matylda ạ, sáng nay lúc anh Loukota lại nhìn sang bên này thì con đang ở trong bếp phải không? Sáng nào anh ấy cũng nhìn sang đây!”

“Thì đã sao, cứ để ông ấy nhìn!” Matylda trả lời với giọng chói tai.

“Con ạ, mẹ luôn có cảm giác là anh ấy dễ chịu hơn ông thượng úy!”

“Con thì không thấy thế!”

“Anh ấy cũng trẻ hơn thượng úy, lại hiền nữa con ạ. Bố mẹ biết anh ấy lâu rồi. Chắc chắn anh ấy phải để dành được rất nhiều tiền đấy!”

“Ôi giời, sao mẹ buồn cười thế!”

“Còn mày thì sao mà ngu thế!”

“Con có phải là trẻ con nữa đâu mà mẹ muốn bảo làm gì cũng được? Để mặc con muốn làm gì thì làm!”

“Thì mặc mày, tao chẳng bận xác làm gì!” Bà mẹ bực dọc đặt đồ khâu xuống rồi đi ra bếp.

Còn cô con gái xem ra cũng chẳng bực làm gì cho bận xác. Cô bình thản đặt trước mặt quyển vở có chép thơ, chấm bút vào lọ mực một lần nữa và bắt đầu viết từng chữ lên tờ giấy trắng. Cô viết một cách chậm chạp khó khăn. Nhưng cuối cùng thì câu thơ đầu tiên đã được viết xong, rồi câu thứ hai, thứ ba. Sau nửa tiếng đồng hồ vật lộn vất vả, cô đã chép lại được khổ thơ này:

Hồng kia hoa đã tàn

Hương đào này đã héo

Tình ta vẫn như xưa

Em đã đi về đâu

Để anh cô đơn vậy?

Cô Matylda hài lòng ngắm nghía công trình sao chép của mình. Cô đọc to hai lần cả khổ thơ và ngắt giọng một cách rất cảm động. Rồi cô bắt đầu ký tên. Cô viết xong chữ “M” và khi viết đến một nửa chữ “a” thì bút hết mực. Cô chấm mực một lần nữa, đặt bút xuống ký tiếp. Đúng lúc ấy, một giọt mực to tướng nhỏ xuống bên cạnh chữ “a” đang viết dở. Cô nâng tờ giấy lên và liếm một nhát sạch giọt mực.

Chắc hẳn giọt mực không làm nhòa chữ nào, và vì thế cô không phải viết lại từ đầu. Cô cầm tờ giấy, đưa nó ra ánh sáng để chờ cho ráo mực. Vừa lúc ấy, mẹ cô vội vàng đi từ bếp vào phòng.

“Mẹ con bà Baurová đang đến nhà mình đấy! Thế mà con vẫn còn chưa mặc quần áo,” bà mẹ gọi từ cửa. “Mặc cái gì vào đi, nhanh lên!”

“Mấy con cú ấy lại muốn gì vậy?” Cô Matylda càu nhàu và cất tờ giấy viết dở vào cặp giấy. Cô đứng dậy, đi về phía giường, nơi có cái áo trắng mặc trong nhà của cô. Trong lúc ấy, bà mẹ vội vàng mang đống quần áo đang may, mở cửa quẳng vào phòng thứ hai. Bà nói với đứa con gái nhỏ đang nằm trên giường: “Valinka cứ nằm, đừng dậy bây giờ con nhé, đang có khách đến.” Đoạn đóng cửa lại.

Ở ngoài bếp, đã có tiếng đàn bà đang nói. Cô Matylda chạy về chỗ ngồi của mình và cầm lấy cuộn chỉ đỏ, bà chủ nhà cũng đi vội đến cửa sổ và làm như đang lục tìm gì đó trong cái làn đựng đồ khâu.

Có tiếng gõ cửa.

“Ai đấy?” Bà chủ nhà hỏi.

Cửa mở ra, đứng trước cửa là hai người đàn bà đang có vẻ lúng túng, không biết có nên bước vào phòng hay không.

“A, bà Baurová... Matylda ơi, xem này con ơi, xem ai đến nhà mình này!”

“Ôi, mừng quá!” Cô Matylda vui vẻ vỗ tay. “Chị Marie, chào chị, lâu lắm rồi không gặp chị!” Rồi ôm hôn người trẻ hơn trong hai người phụ nữ.

“Chúng tôi chỉ rẽ vào đây một lúc thôi, bà Eberová ạ,” người đàn bà có tuổi giải thích. “Tôi với cháu đến gặp ông chú là mục sư ở trên kia, nhưng Marie nói là dứt khoát phải rẽ vào chào chị Matylda. Sao ông bà lâu rồi không đến nhà tôi chơi? Đấy, thế là đủ thấy ai nghĩ đến ai nhé! Chúng tôi đến đây nhiều hơn, nhưng hôm nay quả thực chỉ rẽ vào một tí thôi. Tôi bảo cháu là có lẽ bây giờ vào bà không tiện, vì hôm nay là thứ hai, là ngày giặt giũ...”

“Thì có sao đâu bà,” bà chủ nhà gạt đi, “giặt giũ thì ở trong bếp chứ cản trở gì ở đây! Xin bà và cô ngồi chơi một lát chứ! Bà xem kìa, hai cô ấy cứ quấn lấy nhau, quý hóa quá! Matylda ơi, nhẹ nhàng thôi, kẻo làm cô Marie nghẹn thở đấy!”

Bà chủ nhà đưa ghế ở gần cửa sổ cho hai người khách. Bà mẹ của Marie là người đàn bà trạc năm mươi tuổi, ăn mặc rất lịch sự. Cô Marie khoảng ba mươi tuổi, có khuôn mặt giống mẹ. Mặc dù đang mỉm cười lịch sự tỏ ra vui vẻ nhưng trên khuôn mặt gầy gò của cô ấy đã có biểu hiện của sự mệt mỏi khó tả. Chỉ có đôi mắt của cô là có một vẻ gì soi mói, tìm tòi khi nhìn mọi thứ xung quanh.

Họ ngồi nói chuyện, lúc thì nói bằng tiếng Séc, lúc nói bằng tiếng Đức, tùy theo câu chuyện nói về chủ đề gì.

“Hình như cửa để ngỏ có gió lùa hay sao ấy bà nhỉ, răng tôi đang đau vì phong thấp,” bà Baurová nói. “Hôm nay trời đẹp quá nên chúng tôi đi chơi, Matylda ơi, cháu có thấy hôm nay trời đẹp không?”

“Dạ, có ạ, trời hôm nay quả là đẹp, đẹp tuyệt vời.”

“Vâng, tuyệt vời,” cô Marie tán thành.

“Mới sáng ra mà bà đã may vá rồi ư?” Bà Baurová hỏi và nhặt một mẩu vải từ sàn nhà. “Ơ, vải này là... là vải may quân phục, phải không bà?”

“Vâng, nó là... nó là vải may quân phục ạ,” bà chủ nhà gượng gạo. “Người giúp việc của chúng tôi là người nghèo, bà ấy may quần áo cho quân đội. Khi bà ấy giặt quần áo cho chúng tôi thì tôi khâu giúp bà ấy. Tội nghiệp, kim châm nát tay mà cả tuần mới kiếm được khoảng năm chục krejcar! Dân nghèo phải lam lũ thế đấy!”

“Vâng, họ khổ quá!”

“Còn chị đang làm gì vậy, hả chị Matylda? A, chị thêu tên vào áo à? Cho em xem với nào, xem chị thêu chữ gì nào!” Cô Marie gợi chuyện. “M-K ư? À, em nhớ ra rồi, em nghe nói chị sắp làm cô dâu, vậy em phải chúc mừng chị chứ nhỉ! Nghe bảo chú rể là thượng úy Kořínek, phải không ạ? Có lần em đã gặp thượng úy ở nhà chú em nên cũng biết một chút. Em hỏi thật nhé, chị có yêu ông ấy không?”

Cô Matylda chẳng hề đỏ mặt, mà việc gì phải đỏ mặt với bạn gái.

“Em đã quyết định rồi! Vả lại, còn mong chờ cái gì! Anh ấy hiền lành và yêu em, nên em cũng chẳng chê bai gì.”

“Em không để ý kĩ lắm, nhưng em nghĩ ông... à anh ấy có tóc sáng màu thì phải, hay là tóc đã bạc rồi?” Cô Marie giả bộ ngây thơ nói, tay vẫn lật từng trang quyển sổ lưu niệm.

“Ồ không, anh Kořínek đâu đã già!” Cô Matylda hơi đỏ mặt. “Anh ấy chỉ... anh ấy kể là trước đây anh ấy đã ở trong một căn hộ không tốt, có giường nằm quay đầu về phía tường bị ẩm. Anh ấy quả thực chưa già đâu!”

“Thế ra người ấy chỉ cố tỏ ra là già thôi à, sao tếu thế! Không thể tin được cái gì ở đám đàn ông!”

“Vâng, anh ấy láu lỉnh lắm! Hôm qua anh ấy làm em rất buồn cười! Em đã đùa, chê anh ấy hút nhiều thuốc lá và hỏi vì sao hút nhiều thế. Anh ấy trả lời là phải luyện đôi môi hút cho quen, để chuẩn bị đến lúc hôn thật! Chị bảo thế có buồn cười không? Der ist witzig[6].”

Cô Marie bật cười, tỏ ra đồng ý với nhận xét về cái hóm hỉnh của ông Kořínek, tuy còn hỏi thêm:

“Thế nhưng tại sao lại chuyển từ trung đoàn chính quy sang bên hậu cần may quân phục, nếu mà vẫn còn đủ sức?”

“Người ta muốn điều anh ấy đi đến tận Dalmatia cơ, nhưng anh ấy xin chuyển vì bị giảm trí nhớ...”

“À, ra vậy! Đi xa thế mà bị giảm trí nhớ thì có thể quên mất đường về nhà, tội nghiệp!” Cô Marie tỏ ra thông cảm.

“Người đàn ông nào cũng có cái thiếu sót của mình, nhưng anh Kořínek có tiền!” Cô Matylda nói nhanh. “Bố anh ấy kiếm được nhiều tiền trong cuộc chiến tranh Pháp.”

“Vâng, em cũng nghe nói là hồi ấy ông cụ bị gãy chân hay sao ấy... nhưng mà đàn bà con gái chúng mình không hiểu được chuyện ấy!” Cô Marie nói hoàn toàn thành thực. “Ái chà chà, thượng úy viết lưu niệm cho chị hay quá!” Và cô ấy đọc hơi to các câu thơ viết trong sổ.

Ở trang sổ có bài thơ thế này:

Ôi phẩm hạnh của mĩ nhân

Anh yêu em vì trái tim chung thủy

Em yêu quý hãy đừng quên

Hãy cho anh ở bên em mãi mãi.

Thượng úy W. Korzineck

“Vì sao lại không ký cả tên, chứ ai mà biết được chữ “W” là cái gì?”

“Ờ... anh ấy tên là Václav, nhưng anh ấy không thích cái tên ấy. Anh ấy bảo là bao giờ đi lễ ở nhà thờ anh ấy cũng muốn xin đổi ra cái tên khác!”

“A, chị có cả một quyển vở có chép thơ!”

“Anh Kořínek cho em mượn đấy!”

“À, chắc là để chị chép lại vài bài cho ông ấy! Thơ mộng quá nhỉ! Ơ, mẹ ơi, ta đi chứ?”

Hai bà mẹ lúc này đang nói với nhau về chuyện nội trợ gia đình. “Ừ, phải đấy, ta đi thôi! Đáng tiếc là không gặp được ông nhà, biết làm sao được, khi mà ông nhà phải đến công sở! Nhưng mà Valinka, thiên thần của tôi đâu rồi, cháu không có nhà ư?”

“Có ạ, cháu có ở nhà, nhưng còn đang ngủ. Tôi cho cháu nằm lâu một chút vào buổi sáng, nghe bảo làm thế rất tốt cho giọng hát! Cháu sẽ là ca sĩ, vâng, tuy là mọi người lấy đó làm ngạc nhiên. Nó mê nhạc lắm, cứ ngồi vào chơi piano là không lôi nó ra được!”

“Nhưng tôi phải ôm hôn thiên thần của tôi mới được, chứ đi về mà chưa thơm nó được một cái thì buồn lắm. Cháu đang phòng bên cạnh, phải không bà?” Và bà Baurová tiến đến cửa căn phòng thứ hai.

“Nhưng mà ở trong ấy bừa bãi lắm bà ạ, chăn gối đã xếp lại được đâu!” Bà chủ nhà chống cự.

“Thưa bà, chỗ chị em với nhau mà! Ở nhà tôi cũng vậy thôi!” Chưa nói dứt, bà ấy đã đứng trước cửa phòng.

Không còn cách nào khác, mọi người đành phải đi theo bà Baurová. Khi nhìn thấy đống quân phục ở dưới sàn nhà, trên khuôn mặt gầy gò của bà Baurová thoáng một nụ cười, nhưng bà ấy không nói lời nào mà bước nhanh đến giường.

“Ứ, mặc cháu... cháu không thích đâu!” Valinka cố tránh vòng tay ôm của bà khách.

“Valinka hư nhé, con làm cái gì vậy?” Bà chủ nhà mắng con. “À, tôi nghĩ ra rồi! Tối thứ năm này chúng tôi tổ chức ở nhà một buổi ca nhạc nhỏ, xin mời bà đến đây dự nhé! Matylda, con hẹn với cô Marie đi, để thế nào cô ấy cũng đến nhé!”

“Vâng, chúng tôi sẽ đến, chúng tôi sẽ đến để hâm mộ thiên thần bé nhỏ của chúng ta,” bà Baurová hứa thật tình.

Căn phòng thứ hai rộng bằng cả phòng bếp và phòng thứ nhất gộp lại, và có hai cửa sổ trông ra sân. Hai cô bạn gái nắm tay nhau bước đến bên cửa sổ. Họ nhìn thấy Václav đang đi ra từ căn hộ của bà Žanýnka, trong tay cầm một mớ giấy tờ và vội vàng đi về phía cầu thang xoáy.

“Ai thế hả chị?” Cô Marie hỏi.

“À Sáo xanh! Con trai của bà bán hàng tạp hóa, bà giúp việc của nhà em ấy mà! Nhưng mà cậu ấy kiêu căng lắm!”

“Sao lại gọi là Sáo xanh? Tên là thế à?”

“Không phải thế, tên cậu ấy là Václav, nhưng cả nhà em gọi cậu ấy là Sáo xanh. Có một lần, con chim sáo xanh nhà em sổ lồng, ba em nghĩ là trông thấy nó ở trên mái nhà, nhưng khi ba em leo lên đấy thì thấy đó không phải là con sáo, mà là đuôi cái áo khoác của Václav. Cậu ấy thường ngồi học ở trên mái nhà, bây giờ chắc lại lên đó, chị nhìn kìa!”

“Cậu ấy đang đi học à?”

“Không, thôi rồi! Bây giờ cậu ấy đang thực tập ở công sở, ở chỗ của ba em. Nhưng ba em bảo là cậu ấy sẽ chẳng làm được gì nên hồn, rằng tốt hơn hết cậu ấy nên nhảy cầu xuống sông!”

“Các cô ơi, các cô ơi, hai chị em chia tay nhau đi chứ - ta phải đi thôi con ạ!” Bà Baurová gọi con.

Hai cô gái ôm nhau. Phải mất một thời gian dài, họ mới đủ để trao những cái hôn cho nhau, mới đủ để khen ngợi nhau, để đi qua phòng, đi qua bếp, cho đến tận cầu thang.

Bà chủ nhà và cô Matylda dừng lại ở ngoài hành lang.

“Con có thấy bà ta sợ gió lùa vì bị phong thấp không?” Bà chủ nhà hỏi con gái, khi mà hai mẹ con bà Baurová đã đi từ cầu thang xuống đến sân. “Nhưng mẹ nghĩ là bà ấy chẳng còn một cái răng thật nào!”

“Con cũng nghĩ thế. Ở nhà ấy chắc là cứ sau bữa cơm trưa thì con bé giúp việc lại vừa rửa bát đĩa, vừa rửa cả bộ răng giả cho bà ấy, hi hi!”

Bà Baurová dừng lại trước cổng, quay lại vẫy tay chào thân mật. Cô Marie gửi cho cô Matylda mấy nụ hôn gió nữa. Rồi hai mẹ con đi ra cổng.

“Có trời biết cô nàng Matylda đã bao nhiêu lần thêu tên chú rể tương lai nào đó vào áo để rồi lại tháo ra,” cô Marie vừa nói vừa chỉnh lại cái khăn quàng trên vai. “Chắc là nó cả đời chỉ thêu rồi lại tháo!”

“Thế còn anh Kořínek thì sao? Có lần chú đã nói chuyện với con về anh ấy rồi nhỉ?... Thế con bảo sao?”

“Ờ... chẳng bảo sao cả!” Cô Marie ậm ừ và bước ra đường.

IV. LỜI ĐỘC THOẠI TRỮ TÌNH

Buổi sáng đã qua đi, chiều tối của ngày thứ nhất đã đến. Xung quanh, mọi cảnh vật giống như trong một bài hát Nga cổ điển “trên trời có trăng và trong phòng có trăng”. Mặt trăng tròn sáng đến mức làm lu mờ tất cả các ngôi sao quanh nó, chỉ các vì sao ở rất xa mới nhấp nháy sáng một cách rụt rè. Ánh trăng vàng tỏa xuống như tấm áo choàng kiêu hãnh phủ lên mặt đất, lung linh trên các dòng sông và các bờ xanh, lướt qua làng mạc và thành phố, qua các quảng trường và các con đường, đến từng mái nhà, nhẹ nhàng soi qua những cửa sổ đang mở để vào từng căn phòng.

Ánh trăng vàng cũng tràn vào căn phòng gọn gàng, sạch sẽ và thanh lịch của ông luật sư. Các đóa hoa trên chiếc bàn nhỏ sáng lên như được phủ lớp sương lấp lánh, chăn đệm trắng trên giường như trắng hơn. Ánh trăng ngả thoải mái trong chiếc ghế sofa, chiếu sáng lên bút mực và các vật dụng khác trên bàn viết, trải dài trên tấm thảm dưới sàn nhà.

Mặt trăng ngự trị một mình như thế trong căn phòng. Mãi đến khuya mới có tiếng cạch tay nắm cửa, tiếng cánh cửa phòng mở cọt kẹt như người ngái ngủ, ông luật sư bước vào phòng.

Ông ấy dựa chiếc ba toong vào giá treo áo ở gần cửa, đặt cái mũ nan lên giá, rồi xoa tay và lẩm bẩm một mình: “Ái chà chà, nhà ta có khách! Xin chào chị Hằng Nga ạ! Trên cung trăng có gì mới không chị? Ối, cái đầu gối của tôi!” Ông càu nhàu, rồi cúi xuống xoa xoa đầu gối. Khuôn mặt cúi nghiêng của ông trong ánh trăng có vẻ như đang bực bội, cũng có vẻ như đang cười cười.

Ông đứng thẳng lên và cởi áo khoác ngoài. Khi mở tủ để treo áo, ông lại lẩm bẩm, nhưng lần này thì hát một điệu trong một vở opera: “Bartolo[7]... Bác sĩ Bartolo... lolo - ờ, nốt Mi, hay Fa nhỉ?... À, nốt Fa mới phải... Bartolo...” Ông với chiếc áo mặc trong nhà, khoác lên người, buộc cái dây lưng lụa màu đỏ rồi vừa hát “lolo” vừa bước tới cửa sổ.

“Josefinka chắc đã ngủ rồi - chúc em ngủ ngon và có giấc mơ đẹp nhé! Em Josefinka bé nhỏ dễ thương, lại hiền hậu đến thế!” Bất giác, ông lại cúi xuống xoa đầu gối, nhưng không càu nhàu như trước nữa. Ông ngả người tựa vào bậu cửa sổ và tính toán: “Căn hộ bên nhà Josefinka rất rộng, ở không hết. Chúng ta sẽ ở đó - chỉ cần mua thêm một ít đồ đạc mới! Rồi thì... rồi chúng ta sẽ yêu thương bà mẹ và chị Katuška ốm đau, cả hai đều hiền lành. Nhưng Josefinka không có ai,... à phải rồi, người anh họ của cô ấy sẽ đứng ra đảm nhiệm mọi việc. Tất nhiên rồi, Josefinka mà đi lấy chồng thì phải có người đứng ra lo tổ chức cho chứ, cái đó là tất nhiên rồi! Đám cưới của chúng ta sẽ được tổ chức thật kín đáo... Bartololo... không biết vì sao mà hôm nay mình cứ hát hoài về Bartolo, sao vậy nhỉ? Mình vẫn chưa già, vẫn còn sung sức, khá sung sức mà! Mình vẫn chưa đến tuổi phải lo vì quá muộn, vì sẽ quá muộn để lấy vợ. Mình chưa phải sợ ý nghĩ “cả đời sẽ không còn lúc nào đẹp như bây giờ”. Đời sống vợ chồng sẽ là cuộc sống mới của mình, mình sẽ hài lòng. Và khi hài lòng thì con người ta trẻ ra”. Ông luật sư nhìn lên vầng trăng tròn. “Không biết em yêu của tôi có ngủ mơ thấy gì không! Có lẽ là không, một cô bé con như thế thường ngủ say... Giá mà được nói thầm vào tai em thì mình sẽ nói để em ấy nên mơ về cái gì!”

Ông quay lại, đến chỗ bàn để hoa rồi lấy chiếc đàn ghi-ta đang treo trên tường xuống. Ông mang nó đến bên cửa sổ và thử vài hợp âm. Từ dưới sân vọng lên tiếng chó rên rỉ.

“A, con Azor của bà Žanýnka lại sổng ra rồi!” Ông luật sư nói và nghiêng người ra ngoài cửa sổ. “Suỵt... Azor! Ngoan nào, im đi chứ!” Con chó im bặt. “Mình không được khiêu khích nó, tội nghiệp con chó!” Ông tự nhủ rồi treo đàn lên tường, đóng cửa sổ và kéo rèm. Ông đi đến bàn viết, thắp ngọn nến và ngồi vào ghế. Khi có một mình, bao giờ ông luật sư cũng nói nhỏ với chính mình. Bây giờ ông lại tiếp tục điều còn nói dở.

“Mình đủ già dặn để không còn quá ngu ngốc nữa. Ở tuổi của mình thì việc lấy vợ là việc phải giải quyết cho nhanh, nhưng cũng không được quá nhanh, không được kém thơ mộng. Kế hoạch của mình là... ái chà, cái đầu gối phải gió này, mình đã bị vập mạnh quá!” Ông vén áo khoác mặc trong nhà để nhìn quần tất và thấy nó bị xước ở chỗ đầu gối bên phải.

“Thế là lại phải mua quần tất mới rồi!” Ông rầu rĩ ca thán. “Chỉ tại vì mình nhường nhịn quá! Hai đứa ấy đứng ngay giữa đường - chắc chắn là Václav và Márinka, chứ còn ai khác nữa - mình tránh sang một bên, thế là va phải bánh xe! Cái cậu Václav trời đánh ấy! Mình phải gàn cậu ấy mới được, chứ mới là thực tập sinh mà đã yêu với đương thì còn làm được trò trống gì! Kể ra thì cũng đáng tiếc cho cậu ấy, phải công nhận là cậu ấy có tài năng đấy. Giá cậu ấy được học hành đến nơi đến chốn là tốt nhất, nhưng mà gia đình cậu ấy không có tiền thì biết làm sao được! Mình cũng phải gàn cậu ấy chuyện làm thơ, vì thơ ca cũng chẳng nên tích sự gì, tốt hơn cả là hãy cố làm việc ở công sở, một khi đã vào được đó rồi! Khi nào cậu ấy đến đây để hỏi ý kiến của mình về thơ cậu ấy viết, mình sẽ bảo cậu ấy nên quẳng cả đi, vì chẳng có bài nào ra hồn.”

Ông luật sư lấy từ bàn một quyển vở dày và mở trang có đánh dấu đầu tiên. “Mình đã tính rồi,” ông tiếp tục nói một mình, “mình cần mấy bài thơ, mình không biết làm thơ và những bài này của cậu ấy rất thích hợp cho mình. Nếu mình không lấy những bài này, thì mình cũng lấy những bài khác của người khác, có vấn đề gì đâu. Josefinka không biết được điều đó, cậu ấy cũng sẽ không biết về điều đó, vì cậu ấy sẽ nghe lời mình mà vứt các bài thơ này đi. Vậy thì ngày mai mình gửi cho cô ấy bài đầu tiên, tạm thời gửi nặc danh, nhưng chắc cô ấy đoán ra được ai gửi!... Phải đấy, bài này sẽ là bài đầu tiên!”

Ông đọc từ quyển vở:

Em như núi rừng

Đẹp thay mùa xuân mới!

Tóc em - cánh rừng sâu

Mắt em - dòng suối mát

Lời em - họa mi ca