← Quay lại trang sách

- 2 - HAI NGƯỜI TÌNH ĐỊCH

I.

Thật là nực cười, nếu tôi nghi ngờ là trong số độc giả của tôi có người không biết quán U Štajniců ở Malá Strana. Đó là một quán ăn thượng hạng. Nó ở trong ngôi nhà thứ nhất phía bên tay trái, đằng sau tháp Mostecká[12], ở góc đường Mostecká và Lázeňská, với cửa sổ lớn và cửa ra vào rộng bằng kính. Đó là quán ăn duy nhất đứng mạnh dạn ở con phố nhiều người qua lại nhất, lại còn có cửa mở ngay ra vỉa hè nữa. Tất cả các cửa hàng ăn khác, với cái khiêm tốn thực sự của khu Malá Strana, đều hoặc ở các phố nhỏ bên cạnh, hoặc có lối vào qua nhà, hoặc ít ra có vòm hiên phía trước. Bởi vậy mà dân Malá Strana thực thụ, sống ở các đường phố yên tĩnh, kín đáo với nhiều ngõ ngách thơ mộng, thì không đi quán U Štajniců. Khách của quán vì vậy thường chỉ là các công chức cấp cao, các giáo sư và các sĩ quan. Họ tình cờ tới đó, rồi lại đi. Thêm vào đó, cũng còn cả mấy người đã về hưu, một số ông chủ nhà già giàu có đã chuyển tay nghề cho người khác từ lâu, chỉ thế thôi. Tức là khách của quán toàn là hạng công chức, quý tộc.

Ngay từ trước đây, khi tôi còn là cậu học sinh trung học, khách của quán U Štajniců đã thuộc hạng đặc biệt như vậy, nhưng dầu sao thì về mặt nào đó, nó cũng có cái khác. Nói cho ngắn gọn thì quán là đỉnh Olympus của Malá Strana, là nơi gặp gỡ của các vị thần của Malá Strana. Đó là bằng chứng lịch sử chứng minh sự thật là các vị thần đều xuất thân trực tiếp từ dân chúng. Đấng Jehovah là vị thần cau có, hung dữ và hay thù oán, tàn nhẫn và khát máu. Các vị thần Hy Lạp đều tao nhã, có tinh thần, đẹp đẽ và vui vẻ, hoàn toàn mang tính cách Hellen. Còn các vị thần Slovan... xin lỗi, người Slovan chúng ta đã không có đủ sức mạnh dẻo dai để thành lập các nhà nước lớn, để sáng tạo ra các vị thần cụ thể. Ngày nay, mặc dù có những hình ảnh trong các tác phẩm của Erben và Kostomarov[13], nhưng các vị thần trước đây của chúng ta vẫn chỉ là một nhóm mờ mờ, mềm yếu, không rõ ràng. Có thể là một lúc nào đó tôi sẽ viết riêng một bài, tất nhiên là cố ý khôi hài, về sự so sánh cái quan hệ giữa thần và người ấy. Nhưng bây giờ, tôi chỉ muốn nói rằng các vị thần ở quán U Štajniců là những vị thần Malá Strana thực sự mà không phải nghi ngờ gì cả. Nói về nhà cửa và cư dân thì Malá Strana có một cái gì đó yên tĩnh, trang nghiêm, cổ kính, cả một chút hơi ngái ngủ nữa. Và trong “cái gì đó”, cả trong cái “ngái ngủ” ấy cũng có cả các vị thần ấy. Tất nhiên, họ cũng là các công chức, sĩ quan, giáo sư và người hưu trí như ngày nay, nhưng hồi đó vẫn chưa có chuyện luôn chuyển đổi công sở và quân đội từ chỗ này sang chỗ khác, ông bố đưa con trai đến học ở Praha, rồi giúp con vào công sở nào đó, rồi bao che giữ nó ở đấy suốt. Vì vậy, ai đi qua quán thấy khách cùng đứng với nhau ở ngoài vỉa hè cũng chào, bởi vì ai cũng biết họ.

Nhưng đối với lũ học sinh trung học chúng tôi, đỉnh Olympus ở quán U Štajniců còn Olympus gấp bội, bởi vì ở đó cũng có tất cả các thầy giáo già của chúng tôi. Già! Mà sao lại gọi là già nhỉ! Tôi biết rõ các thầy, những vị thần của Malá Strana thân yêu của chúng tôi, và tôi luôn luôn có cảm giác là không một ai trong các thầy đã từng trẻ trung, mà họ có vẻ đã có tuổi như vậy ngay từ khi còn là trẻ em, chỉ có điều là họ đã chỉ hơi nhỏ hơn một chút thôi.

Tôi như thấy các vị thần ở ngay trước mắt mình, giống ngày hôm nay! Trước nhất, đó là ông ủy viên kháng cáo. Ông là một người cao, gầy gò và vô cùng trang nghiêm. Ông vẫn còn đi làm ở công sở, nhưng chưa bao giờ tôi đoán được ông làm việc gì. Khi chúng tôi tan học lúc 10 giờ sáng thì ông mới bắt đầu ra khỏi nhà mình ở phố Karmelitánská, rồi trịnh trọng đi sang phố Ostruhová, vào quán rượu Čarda. Vào buổi chiều ngày thứ năm, khi chúng tôi được nghỉ học và thường đùa nghịch với nhau ở tường thành Marian thì ông đi dạo vườn ở đó. Lúc 5 giờ chiều ông đã đến quán U Štajniců. Tôi cương quyết tự nhủ rằng tôi cũng sẽ trở thành ủy viên kháng cáo như ông, nhưng rồi sau đó không biết thế nào mà tôi quên mất chuyện đó.

Một người nữa là ngài bá tước chột mắt. Ở Malá Strana bao giờ cũng có bá tước, nhưng có lẽ ngài bá tước chột mắt này là người duy nhất đi ăn quán, ít ra là hồi đó. Ông ấy cao lớn, người xương xương, da dẻ hồng hào, tóc trắng cắt ngắn, mắt trái đeo băng đen. Ông ấy thường đứng trước quán U Štajniců có khi hàng hai tiếng đồng hồ, và khi phải đi qua chỗ ấy, tôi đã hay đi vòng. Trời phú cho các nhà quý tộc cái gọi là vóc dáng quý tộc, nó làm họ trở nên rất giống các loài chim dữ. Quả thật tôi thấy ông ấy giống một con chim ưng, ngày ngày cứ vào mười hai giờ trưa là tha con chim bồ câu đã bắt được, bay lên đậu trên tháp của nhà thờ Thánh Mikuláš, để rồi giằng xé con mồi một cách vô cùng tàn nhẫn, đến mức lông bồ câu bay xuống tận quảng trường. Vì thế mà tôi tránh xa ông ấy, tôi sợ rằng ông ấy sẽ mổ vào đầu tôi.

Tiếp theo là ông bác sĩ quân y, mặc dù chưa quá già, nhưng đã về hưu. Người ta kể rằng khi có một quan chức rất cao đến kiểm tra bệnh viện ở Praha và khiển trách rất nhiều, thì bác sĩ đã bảo viên quan chức ấy rằng ông ta chẳng hiểu gì cả. Thế là bác sĩ phải về hưu, nhưng đồng thời ông chiếm được cảm tình của chúng tôi, bởi vì lũ con trai chúng tôi coi ông bác sĩ béo ấy như là một nhà cách mạng thực sự. Ông ấy là người thân thiện và nhanh nhảu. Khi gặp một đứa con trai nào mà ông mến - cũng có thể là một đứa con gái - ông dừng lại, vuốt má nó rồi bảo: “Cho bác gửi lời chào bố,” cho dù không biết bố nó là ai.

Rồi nữa... nhưng mà thôi! Tất cả mọi người già bỗng già đi nhiều hơn, rồi mất đi, nhưng thôi, đừng gọi bóng đen ra khỏi mồ làm gì. Tôi sung sướng nhớ lại những khoảng khắc đáng tự hào tôi đã trải qua cùng họ, nhớ lại cái cảm giác độc lập, cái sức trai tráng, vâng, cái vĩ đại khi tôi, lúc đó đã là sinh viên đại học, lần đầu tiên vào quán U Štajniců mà không thấy sợ các giáo sư của mình, để ngồi giữa những người cao siêu ấy. Họ không để ý nhiều đến tôi, thật vậy. Tôi nghĩ là hầu như họ không để ý đến tôi. Chỉ có một lần, sau mấy tuần, có xảy ra một việc. Ông bác sĩ quân y rời bàn để về, khi qua bàn tôi ngồi đã nói về phía tôi: “Vâng, thế đấy, anh bạn trẻ ạ, mặc cho bọn kia nói gì thì nói, chứ bia hôm nay uống không ra cái gì cả!” Vừa nói, ông vừa khinh bỉ hất đầu ngược về phía những người ông vừa ngồi cùng bàn. Một Brutus thật sự! Tôi dám quả quyết rằng ông có đủ can đảm nói thẳng vào mặt cả chính hoàng đế Caesar rằng hoàng đế không có am hiểu gì về bia.

Nhưng tôi thì để ý đến họ. Tôi không nghe được nhiều cái họ nói, nhưng quan sát được nhiều. Tôi chỉ coi mình là phiên bản nghèo khó của họ, thế nhưng bất kỳ cái gì cao thượng ở mình, tôi cũng có từ họ. Hơn hết cả, trong tâm trí của tôi có hai người tôi không thể nào quên được, họ đã khắc sâu trong tim tôi. Hai người ấy là ông Ryšánek và ông Schlegl.

Hai ông này rất ghét nhau. Nhưng tôi lại phải xin lỗi, tốt hơn hết tôi sẽ kể về họ bằng cách khác.

Nếu vào quán U Štajniců qua lối từ phố Mostecká thì ta thấy ở phòng lớn phía trước, nơi đặt bàn bi-da, có ba cái cửa sổ trông ra phố Lázeňská. Bên cạnh mỗi cửa sổ có kê một cái bàn nhỏ và một cái ghế dài hình móng ngựa. Ở mỗi bàn bao giờ cũng có ba người ngồi, một người ngồi quay lưng về cửa sổ, hai người còn lại ngồi ở hai đầu ghế đối diện nhau, hoặc nếu những người này cũng muốn ngồi quay lưng về cửa sổ thì họ đều hướng mặt về bàn bi-da và giải trí bằng cách xem người khác chơi bi-da.

Ngày nào ở cái bàn bên cạnh cửa sổ thứ ba phía bên phải cửa ra vào cũng có hai người công dân đáng kính trọng ngồi, đó là ông Ryšánek và ông Schlegl; bao giờ họ cũng ngồi ở đấy từ sáu giờ chiều đến tám giờ tối. Chỗ của họ bao giờ cũng để trống; không một người nào lại dám mạo muội ngồi vào chỗ ngồi quen của người khác, đây là một trong những điều mà cư dân thực sự đạo đức của Malá Strana coi là hoàn toàn không thể chấp nhận được, bởi lẽ, vâng, bởi lẽ đó là điều không thể tưởng tượng được. Chỗ ngồi cạnh cửa sổ thì bao giờ cũng trống, ông Schlegl ngồi ở đầu ghế móng ngựa gần cửa ra vào, còn ông Ryšánek ngồi đầu ghế phía đối diện, hai người cách nhau khoảng sáu mươi phân. Cả hai luôn ngồi quay lưng ra cửa sổ, tức là quay một nửa khỏi bàn và khỏi người thứ hai, và cùng xem chơi bi-da. Chỉ khi nào muốn uống, hoặc nhồi tẩu thì họ mới quay vào bàn. Đã mười một năm qua, ngày nào họ cũng ngồi như thế. Và suốt mười một năm trời, họ không hề nói với nhau một lời, thậm chí chẳng ai để ý đến ai.

Cả khu Malá Strana đều biết cái ác cảm ghê gớm của họ đối với nhau. Mối thù địch không đội trời chung giữa họ đã có từ lâu và nguyên nhân thì ai cũng biết. Nguồn gốc của mọi cái xấu xa ấy là người đàn bà. Cả hai cùng yêu một người. Đầu tiên, bà ấy cảm tình với ông Ryšánek, lúc đó ông đã là nhà kinh doanh tự lập từ lâu, sau đó không ngờ bà ta quay ngoắt và đột ngột rơi vào vòng tay ôm của ông Schlegl. Có thể là do ông Schlegl trẻ hơn gần chục tuổi. Thế là bà ta trở thành bà Schleglová.

Tôi không biết có phải bà Schleglová là người đẹp đặc biệt đến mức cái đó thanh minh được cho nỗi đau triền miên của ông Ryšánek, cũng như cho việc sau đó ông ở vậy suốt đời hay không. Bà ấy là người thiên cổ đã lâu rồi, bà mất ngay sau khi sinh lần đầu và để lại một cô con gái, cô Schleglová. Cô ấy giống mẹ như đúc. Vào thời điểm mà tôi nói đến thì cô Schleglová tròn 25 tuổi. Tôi biết cô Schleglová, vì cô ấy thường đến tầng bên trên căn hộ của chúng tôi để thăm cô Poldýnka, con gái ông đại đội trưởng, cái cô mà đi ngoài đường cứ được hai chục bước là lại một lần vấp. Người ta nói rằng cô Schleglová là người đẹp. Có thể như vậy, nhưng là đẹp đối với kiến trúc sư thôi, tất cả mọi thứ đều ở đúng chỗ, mọi kích thước đều rất đúng tầm cỡ và tất cả cái gì cũng rõ ràng. Nhưng đối với ai không phải là kiến trúc sư thì đó thật là điều tuyệt vọng. Mặt cô ấy ít cử động, quả giống như mặt tường ngoài của một cung điện. Mắt cô ấy sáng loáng như cửa sổ mới lau nhưng chẳng mang ý gì. Miệng cô ấy, xinh như nét trang trí kiểu arabesque[14], mở ra chậm chạp như cánh cổng để rồi cứ mở toang, hoặc là đóng lại cũng bằng một cách chậm chạp. Thêm vào đó, nước da cô ấy luôn trắng như tường mới quét vôi. Có thể là bây giờ, nếu còn sống, thì cô ấy không còn đẹp như thế nữa, mà duyên dáng hơn: tương tự như các ngôi nhà, chúng chỉ duyên dáng hơn khi đã cũ đi.

Đáng tiếc là tôi không thể kể được cho bạn đọc nghe về chuyện tại sao mà ông Ryšánek và ông Schlegl lại ngồi cùng nhau ở cái bàn cạnh cửa sổ thứ ba ấy. Lỗi lầm ở đây là sự tình cờ định mệnh đáng nguyền rủa nào đó, ngày này qua ngày khác muốn gây cay đắng cho hai ông già. Khi sự tình cờ lạ lùng ấy đã đưa họ đến ngồi ở đấy thì lần đầu họ ngồi chắc do sĩ diện đàn ông. Lần thứ hai có thể là bởi sự ngoan cố. Rồi sau đó họ ngồi để chứng tỏ mình cứng rắn và để không ai bàn tán vào được. Đã từ lâu rồi, ai ở quán U Štajniců cũng thấy là đối với cả hai ông thì việc đó đã trở thành vấn đề danh dự đàn ông và không một người nào có thể lùi bước được.

Họ đến quán vào lúc sáu giờ chiều, hôm nay người này đến sớm một phút, hôm sau thì người kia. Họ lịch sự cúi chào mọi phía và chào từng người, chỉ không chào nhau. Vào mùa hè, họ trao cho người hầu bàn mũ vành và ba toong, vào mùa đông thì mũ lông rậm và áo khoác ngoài, để người này treo lên đinh trên tường sau chỗ ngồi. Sau đó, họ lúc lắc nửa người trên như chim bồ câu - người già thường tỏ vẻ gật gù như vậy khi muốn ngồi xuống, rồi chống một tay xuống góc bàn của mình (ông Ryšánek chống tay trái còn ông Schlegl chống tay phải), họ chậm chạp ngồi xuống, lưng quay về cửa sổ, mặt hướng về bàn bi-da. Ông chủ quán, thường xuyên tươi cười và nói luôn mồm, tới bàn họ để mời họ liều thuốc lá bột đầu tiên, nhưng phải đến tận từng người, gõ vào vào hộp thuốc và nói là hôm nay đẹp trời. Còn người kia thì không lấy thuốc và cũng không nghe nói trời đẹp. Chưa bao giờ có ai có thể nói chuyện được với cả hai người cùng một lúc. Cho bằng bất kỳ giá nào họ cũng không bao giờ để ý đến nhau. Cái kẻ ngồi cùng bàn hoàn toàn bị coi như không tồn tại.

Người hầu bàn đặt trước mặt họ hai cốc bia. Sau một lúc - nhưng không bao giờ cùng một lúc, họ theo dõi nhau, bất chấp cả sự không quan tâm - họ quay mặt về bàn, rút từ túi ngực cái tẩu lớn bằng đá bọt biển có viền bạc, lôi từ túi bên một gói đựng thuốc lá rời, nhồi tẩu, châm lửa rồi lại xoay lưng về phía cửa sổ. Họ cứ ngồi như thế suốt hai tiếng đồng hồ, uống ba cốc bia, rồi đứng lên, một người hôm nay đứng dậy trước một phút, kẻ kia thì hôm sau. Họ nhét tẩu vào túi, cất bọc thuốc lá, người hầu bàn giúp từng người mặc áo khoác, mặc xong rồi thì chào chia tay với tất cả, chỉ không chào người đã ngồi cùng bàn với mình.

Tôi cố ý ngồi ở cái bàn gần lò sưởi. Từ đó tôi nhìn thẳng được tới mặt ông Ryšánek và ông Schlegl, và có thể theo dõi họ một cách thuận tiện, kín đáo.

Trước đây, ông Ryšánek bán hàng vải, còn ông Schlegl bán hàng sắt. Bây giờ cả hai đã giàu có và đã thôi buôn bán, nhưng khuôn mặt họ vẫn như còn gợi lại nghề xưa. Khuôn mặt ông Ryšánek luôn khiến tôi nghĩ đến tấm vải có sọc trắng đỏ, còn ông Schlegl thì tôi thấy giống một cái cối cũ. Ông Ryšánek cao hơn, gầy hơn và nhiều tuổi hơn. Ông không còn khỏe mạnh nữa, thường hay mỏi mệt, hàm dưới đã trễ xuống. Đôi mắt xám có đeo kính gọng đen. Đầu ông mang một bộ tóc giả sáng màu và theo cặp lông mày còn chưa xám hẳn có thể đoán trước đây ông là người tóc trắng. Đôi má sâu hoắm của ông nhợt nhạt tới mức mà cái mũi dài trở nên đỏ như son, ở đầu mũi thường có giọt nước mũi chảy ra. Tôi phải nói rằng có lúc ông Ryšánek không kịp lau, khi nhớ ra thì nước mũi ông đã nhỏ giọt xuống đùi. Ông Schlegl là người béo mập, tôi nghĩ là ông ấy không có cổ. Cái đầu ông giống như đầu cọp; mái tóc đen đã bạc nhiều; mặt ông chỗ nào đã cạo râu thì có màu xanh đen, chỗ nào không có râu thì hồng hào, chỗ sáng chỗ tối giống như bức chân dung tối tăm của Rembrandt[15].

Tôi rất kính trọng hai người anh hùng ấy, vâng, tôi khâm phục họ. Bởi cách họ ngồi ở đây, ngày này qua ngày khác trong cuộc chiến vĩ đại và gay gắt dữ dội. Họ chiến đấu với nhau bằng vũ khí của mình, đó là sự im lặng độc địa và khinh bỉ cực kỳ. Và cuộc chiến ấy luôn luôn không phân thắng bại. Nhưng cuối cùng thì nào biết ai thắng ai! Ông Schlegl khỏe mạnh hơn, cái gì ở ông ấy cũng ngắn gọn, cộc lốc, khi ông nói thì nghe như tiếng sấm vậy. Ông Ryšánek thì nói năng nhẹ nhàng, chậm rãi; tuy ốm yếu, nhưng ông im lặng và căm thù một cách dũng cảm.

II.

Có một việc đã xảy ra.

Hôm thứ tư, trước ngày chủ nhật thứ ba sau lễ Phục sinh, ông Schlegl đến quán và ngồi vào chỗ mình. Ông ấy ngồi xuống, nhồi tẩu rồi nhả khói, hệt như đám khói bốc từ đống lửa. Ông chủ quán vào và đến thẳng chỗ ông Schlegl. Ông gõ vào hộp đựng thuốc lá bột và đưa cho ông Schlegl một liều. Khi đóng hộp lại rồi lắc lắc, ông chủ quán nhìn ra phía cửa và bảo:

“Vậy là hôm nay ông Ryšánek không đến được.”

Ông Schlegl không trả lời, chỉ nhìn về phía trước, thờ ơ và lạnh như tiền. Ông chủ quán đứng quay lưng về phía cửa ra vào và nói tiếp:

“Bác sĩ quân y đã bảo,” ông ngoảnh lại nhìn qua mặt ông Schlegl “buổi sáng, ông ấy dậy như thường ngày, nhưng tự nhiên thấy rét quá, thành ra lại phải vào giường, thế là phải vội đi gọi bác sĩ. Sưng phổi mà. Hôm nay bác sĩ đã đến đấy ba lần rồi. Ờ, tuổi già, nhưng may là có bác sĩ tốt. Chắc là khỏi thôi.”

Ông Shclegl mím môi ậm ừ. Không nói lấy một câu, không chuyển hướng nhìn. Ông chủ quán đi sang bàn bên cạnh. Tôi chăm chú nhìn mặt ông Schlegl. Nó không hề tỏ ra xúc động, chỉ có đôi môi mở ra để nhả khói thuốc, cái cán tẩu thỉnh thoảng được chuyển từ mép bên này sang mép bên kia. Có một người quen đi đến chỗ ông và nói chuyện gì đó. Ông Schlegl mấy lần cất tiếng cười to. Tôi thấy khó chịu vì tiếng cười ấy của ông.

Hôm nay ông Schlegl xử sự hoàn toàn khác mọi khi. Thường thường thì ông ấy ngồi dính ở chỗ mình, giống như người lính canh đứng ở chòi canh vậy, nhưng hôm nay ông ấy đứng ngồi không yên, lăng xăng chỗ này chỗ kia. Ông ấy còn chơi bi-da với ông lái buôn Kohler. Lượt chơi nào ông ấy cũng gặp may, và thú thật, tôi mong cho ông ấy không kết thúc được ván chơi nào để cho ông Kohler có thể theo kịp.

Sau đó, ông Schlegl lại ngồi xuống, lại uống và hút thuốc. Khi có người nào đi đến thì ông ấy lại nói to hơn, nói câu dài hơn so với mọi khi. Tôi nhận thấy cả thay đổi nhỏ nhất của ông ấy, tôi thấy rõ ràng ông ấy đang khoái cảm trong lòng, ông ấy không hề có lấy một chút thương cảm bình thường nhất đối với kẻ thù đang bị ốm của mình, và với tôi, ông ấy trở nên đáng ghét. Vài lần, ông ấy liếc nhanh về phía tủ đựng chén, nơi ông bác sĩ quân y đang ngồi. Chắc chắn là ông ấy sẽ bắt tay bác sĩ, nếu bác sĩ tỏ ra không cố gắng bận bịu nhiều với ông Ryšánek. Ông Schlegl thật là một con người độc ác, rất độc ác.

Lúc tám giờ, ông bác sĩ quân y đứng lên đi về. Ông ấy dừng lại ở bàn thứ ba.

“Chúc ông ngủ ngon nhé,” bác sĩ chào, “bây giờ tôi còn phải đến ông Ryšánek một lần nữa. Cần phải thận trọng để ý ông ấy.”

“Chúc ông ngủ ngon,” ông Schlege lạnh nhạt đáp lời.

Hôm nay ông Schlegl uống bốn cốc bia và ở quán cho đến tám rưỡi.

Nhiều ngày qua đi, nhiều tuần qua đi. Tháng tư lạnh giá ít nắng cũng qua đi, tháng năm ấm áp đã tới, năm ấy mùa xuân đẹp tuyệt vời. Vào tháng năm, khi trời đẹp thì Malá Strana là thiên đường. Hoa nở phủ trắng đồi Petřín như sữa chảy, cả khu Malá Strana chìm trong hương thơm ngây ngất của hoa cơm cháy. Ông Ryšánek đã qua cơn nguy kịch. Mùa xuân như mang nhựa dưỡng đến cho ông. Tôi đã gặp ông đi dạo trong công viên. Ông chống gậy, đi lại chậm chạp. Vốn đã gầy gò, bây giờ ông còn gầy hơn nữa, hàm dưới của ông vẫn xệ xuống. Ông đã đến mức để người ta quấn khăn dưới cằm, vuốt đôi mắt lờ đờ rồi đặt vào quan tài. Vậy mà ông đã dần dần bình phục, chỉ không thấy ông đến quán U Štajniců. Thế là ông Schlegl cứ làm vương làm tướng một mình ở cái bàn thứ ba, muốn quay đi quay lại và ngồi thế nào cũng được.

Nhưng cuối tháng sáu, vào ngày lễ các Thánh Peter và Pavel, tôi bỗng thấy ông Ryšánek và ông Schlegl lại ngồi cùng nhau. Ông Schlegl lại ngồi đóng đinh ở chỗ của mình và cả hai đều ngồi xoay lưng về phía cửa sổ. Khách ở các bàn lân cận và người quen đến bắt tay ông Ryšánek. Mọi người chào đón ông rất thật lòng, ông run run vì xúc động, mỉm cười, nói rất nhẹ nhàng, và rưng rưng cảm động. Ông Schlegl ngồi hút thuốc và nhìn chăm chăm vào bàn bi-da.

Vào những lúc không có người đến, ông Ryšánek lại nhìn sang tủ cốc chén, nơi bác sĩ của ông đang ngồi. Thật là một tấm lòng biết ơn. Khi ông Ryšánek hướng mắt sang phía đó, ông Schlegel nghiêng đầu rất nhanh sang một bên. Ông chậm rãi nhìn từ chân ông Ryšánek nhìn lên, qua hai đầu gối nhọn hoắt đến bàn tay chỉ còn da bọc xương đang nằm ở góc bàn; ông quan sát bàn tay ấy một lúc, sau đó ngước lên tận cái hàm trễ, liếc nhìn khuôn mặt tàn tạ ấy, rồi vội vàng đảo mắt đi và giữ thẳng đầu lại như trước.

“A, ông đã khỏe rồi, mừng quá!” Ông chủ quán vừa ở bếp hay ở tầng hầm ra, trông thấy ông Ryšánek, bèn vội vàng đến: “Thế là nhờ trời ông lại khỏe rồi, lại đến với chúng tôi rồi.”

“Vâng, nhờ trời, nhờ trời,” ông Ryšánek cười, “lần này tôi thoát chết đấy. Tôi cảm thấy khoan khoái rồi.”

“Nhưng thấy ông không hút, hay là vẫn chưa thèm thuốc?”

“Ấy, hôm nay là ngày đầu tiên tôi thấy thèm đấy, tôi sẽ hút.”

“Có thế chứ, vậy là tốt rồi,” ông chủ quán đóng hộp thuốc lá bột, lắc lắc, rồi lại đưa một liều cho ông Schlegl, nói một câu gì đó và đi.

Ông Ryšánek rút tẩu ra, lần vào túi áo để lấy gói thuốc sợi. Ông lắc đầu, thọc tay vào túi lần thứ hai, lần thứ ba, rồi gọi cậu hầu bàn lại: “Cháu chạy sang bác, có biết nhà bác ở đâu không? Ừ, ở góc đường này. Cháu bảo người nhà đưa cho bác cái túi thuốc, chắc nó phải ở trên bàn.” Cậu hầu bàn chạy đi.

Lúc ấy ông Schlegl hơi động đậy. Ông ấy chậm chạp giơ tay phải với lấy túi thuốc đang mở và đẩy dịch nó lại gần trước mặt ông Ryšánek. “Cứ tự nhiên - Ba vua màu đỏ đấy!” Ông ấy nói cộc lốc như thường lệ rồi hầm hừ trong miệng. Ông Ryšánek không trả lời. Cũng không nhìn sang. Đầu ông vẫn ngoảnh đi, thờ ơ lạnh lùng như mười một năm đã qua. Mấy lần, tay ông run lên, miệng ông mím chặt. Bàn tay phải của ông Schlegl như bị dính trên túi thuốc, mắt dán xuống đất, ông ấy hít một hơi thuốc, rồi hầm hừ trong họng.

Nhưng cậu hầu bàn đã quay trở lại.

“Cám ơn, túi thuốc của tôi đây rồi,” mãi bấy giờ ông Ryšánek mới cảm ơn ông Schlegl, nhưng không quay lại. Một lúc sau ông nói thêm, tựa như cảm thấy phải nói thêm cái gì đó: “Tôi cũng hút thuốc Ba vua màu đỏ.” Ông Ryšánek nhồi thuốc, châm lửa và bập bập hút.

“Ngon không?” Ông Schlegl hỏi, cộc lốc gấp trăm lần lúc bình thường.

“Ngon,... nhờ trời.”

“Ờ, nhờ trời,” ông Schlegl nhắc lại. Xung quanh mép ông ấy hằn vết nhăn như các tia chớp trên bầu trời đen, ông ấy nói nhanh: “Chúng tôi ở đây đã lo lắng về ông.”

Mãi lúc này, ông Ryšánek mới chậm chạp quay đầu sang phía ông Schlegl. Ánh mắt họ gặp nhau.

Từ đấy, ở cái bàn thứ ba ấy, hai ông nói chuyện với nhau.

BÌNH SLAVICKÁ dịch