- 5 - CHUYỆN PHIẾM BAN ĐÊM
Đó là một đêm tháng sáu đẹp đẽ và ấm áp. Trời đầy sao lung linh, ánh trăng sáng như bạc tràn ngập cả không gian. Tôi nghĩ ánh trăng rạng rỡ tưng bừng nhất là ánh trăng trên các mái nhà ở phố Ostruhová, nhất là ở trên mái nhà yên tĩnh của hai ngôi nhà kề giáp nhau; ngôi nhà thứ nhất mang tên Hai mặt trời[18], ngôi thứ hai mang tên Tầng hầm sâu. Đó là hai mái nhà lạ lùng, ta có thể leo dễ dàng từ mái này sang mái kia, trên đó toàn là ngóc ngách và máng xối. Ngôi nhà Hai mặt trời có mái nhà bố trí đặc biệt, gọi là mái nhà kiểu yên ngựa có hai nóc, với hai đầu hồi nhìn ra đường và hai đầu hồi ngoảnh vào sân. Nằm giữa hai nóc nhà là cái máng xối rộng, ở khoảng giữa máng có lối đi nhỏ dẫn xuống gác xép dưới mái nhà. Tất nhiên là bên trên lối xuống gác xép còn có một cái mái che nhỏ. Giống như toàn bộ mái nhà, cái mái nhỏ ấy được lợp bằng ngói kiểu sóng. Các đường sọc của ngói tạo thành hàng trăm máng xối nhỏ trên cả mái nhà. Lối đi nhỏ ấy dẫn đến hai cái cửa sổ lớn nhìn ra máng xối rộng. Cái máng xối chạy dọc suốt nhà, giống như đường ngôi chải rẽ ở giữa mái đầu của một người Praha thanh lịch.
Đột nhiên, như có tiếng chuột chít chít ở đâu đấy gần cửa sổ.
Rồi lại thế. Đồng thời, một cái đầu và cái ngực nam giới hiện ra ở cửa sổ hướng về phía vườn. Người ấy nhẹ nhàng nhảy ra ngoài và đứng ở máng xối. Đó là chàng trai khoảng hai mươi tuổi với khuôn mặt xương xương, nước da rám nắng, mái tóc đen, một chút lông tơ trên mép, cái mũ cao kết tủa đội trên đầu và cái tẩu có cán đen cầm trong tay. Cậu ấy mặc cái áo khoác ngắn màu xám, áo vét màu xám và cái quần cũng màu xám. Xin thưa, đó là Jan Hovora, sinh viên ngành triết học.
“Mình giả chuột gọi, vậy mà ở đây vẫn chưa có ai,” cậu lầu bầu. Rồi cậu đi đến tận ống khói. Có một nửa tờ giấy được dán ở đó. Hovora dụi mắt ghé gần lại nhìn.
“Có ai đã ở đây, có ai đã đổi...”, cậu lại lầu bầu, “không... không đổi, đây vẫn là mảnh giấy của mình. Nhưng mà...”, cậu nhìn sát lại hơn nữa, rồi đập tay lên trán. “Mặt trời hút mất bài thơ của mình. Tội nghiệp Kupka, ngày mai là ngày tên thánh của cậu ấy, thế mà hôm nay chẳng được ai chúc mừng. Thế mà mình đã có sáng kiến tuyệt vời như vậy, chính Đức Thánh Antonín đã gợi ý cho mình!” Cậu giật mảnh giấy, vo viên rồi ném qua mái nhà.
Cậu ngồi xuống, nhồi tẩu và châm lửa hút rồi nằm ngả người trên lớp ngói còn ấm, tựa chân vào máng xối.
Lại có tiếng chút chít giả tiếng chuột, Hovora chút chít đáp lại, nhưng không ngoảnh đầu lại. Một thanh niên xuất hiện trên máng xối. Đó là một chàng trai có vóc dáng nhỏ bé, da nhợt, tóc sáng màu, đầu đội cái mũ màu xanh của quân đoàn sinh viên năm 1848, trên người mặc áo khoác, quần sáng màu, miệng ngậm điếu xì gà đang cháy.
“Chào Hovora!”
“Chào Kupka!”
“Cậu làm gì vậy?” Kỹ sư tương lai Kupka chậm rãi ngả người xuống bên cạnh Hovora.
“Làm gì đâu. Tớ vừa ăn khoai tây nghiền, bây giờ nằm chờ xem lúc nào bắt đầu cảm thấy ấm ách đây. Còn cậu, đã ăn chiều với gì?”
“Tớ đã ăn chiều như ông trời.”
“Thế ông trời ăn chiều với gì?”
“Chẳng với gì.”
“À vậy! Mà sao cậu cứ ngó ngoáy mãi thế?”
“Ấy, tớ muốn cởi giày. Chúng mình cần có cái đón giày ở đây. Ít ra thì phải có đồ vật đó.”
“Cái đón giày không phải là đồ vật, nó là thành viên trong gia đình!” Hovora lười biếng quay đầu sang phía Kupka. “Ôi trời,” Hovora tiếp tục, “cậu hút cái gì thế hả? Thuốc rẻ tiền hả? Hay là chính cậu còn rẻ hơn nó đấy?”
“Dù sao thì tớ cũng rất thích cái không gian này của chúng mình... nó thật là đẹp.” Kupka nói.
“Lại rẻ nữa!”
“Ừ, phòng càng lớn thì càng rẻ. Ông trời có không gian lớn nhất thành ra không phải trả gì cả.”
“Này, trước ngày ăn mừng lễ tên thánh, xem ra cậu có vẻ ngoan đạo đấy.”
“Mái nhà, mái nhà... tình yêu của tôi!” Kupka nói và vung cái tẩu trong không khí. “Giá mà thợ thông ống khói không nhìn cuộc sống bằng cái nhìn một chiều màu đen thì chắc là tớ phải phát ghen với họ.”
Xen giữa những lúc im lặng, hai người cứ thầm thì nói chuyện bâng quơ như thế. Thật là lạ, khi ở trong rừng sâu, trên núi cao, hay lúc có một mình, người ta thường tự nhiên nói bằng giọng thầm thì như vậy.
“Đêm hôm nay tuyệt quá,” Kupka lại khen. “Im ắng vô cùng!... Chỉ có tiếng nước ào ào chảy qua đập dưới sông và tiếng chim họa mi thánh thót vui vẻ trên đồi Petřín! Cậu có nghe thấy không?”
“Ờ, ba ngày nữa là hết nửa đầu tháng sáu, hết cả tiếng họa mi. - Chúng hót mới hay làm sao! - Có các vàng thì tớ cũng chẳng thèm ở bên Thành phố Cổ!”[19]
“Đúng thế! Ở bên ấy có đi hàng dặm đường cũng chẳng gặp được con chim nào. Giá mà thỉnh thoảng không mua đùi ngỗng quay ở chợ thì chắc chẳng ai biết con chim có hình dáng thế nào.”
“Đến bây giờ mà mới chỉ có hai người thôi ư?” Có tiếng nói giọng nam trung vang lên ở bên cửa sổ.
“A, anh Novomlýnský... xin chào anh!” Kupka và Hovora đồng thanh.
Novomlýnský, người đàn ông ngoài ba mươi tuổi, từ từ bò ra khỏi cửa sổ đến máng xối.
“Quỷ tha ma bắt các cậu!” Người ấy chậm chạp đứng lên và lầu bầu, “trèo leo cái kiểu này tớ chịu, không quen được.” Novomlýnský là người khá béo có tầm cao trên trung bình, có khuôn mặt rám nắng tròn trặn, đôi mắt xanh luôn cười cười và bộ râu rậm. Anh mặc chiếc áo khoác màu đen, cái quần sáng màu, và cũng đội mũ tua.
“Này, tớ mặc áo khoác, không thể nằm lên mái ngói như các cậu được đâu... ngồi dậy cho tử tế đi!”
Kupka và Hovora ngồi dậy, họ nhoẻn cười và nhìn Novomlýnský một cách quý mến. Rõ ràng Novomlýnsky là người già dặn hơn và chỉ huy họ. Anh ngồi bên mái ngói đối diện với họ và đốt điếu xì gà.
“Các cậu đang làm gì vậy?”
“Em đang ca ngợi Malá Strana ạ,” Hovora trả lời.
“Còn em đang ngắm trăng,” Kupka nói, “ngắm người đàn ông đã chết với trái tim còn đập...”
“Bây giờ thì ai cũng mơ mộng ngắm trăng,” Novomlýnsky toe toét cười. “Cứ thử bắt các cậu đến công sở làm việc tính toán như tớ mà xem!” Trong tiếng nói vang của anh ấy hoàn toàn không có chút gì gượng ép, không có chút gì lo sợ. Giá có ở trong rừng sâu, nơi vắng vẻ hay trên núi thì chắc anh ấy cũng cứ sẽ nói bằng giọng thẳng thắn y hệt như vậy. “Thế nào, có gì mới không?... Này, nghe bảo hôm qua cậu Jakl suýt chết đuối ở gần guồng nước, có đúng không?” Trên khuôn mặt anh ấy lại rạng rỡ nụ cười.
“Đúng thế,” Hovora gật đầu cười, “nó bơi nặng nề như bị cột đá ở chân. Vừa đến gần chỗ em thì nó bị trượt xuống,... nước ùng ục ghê lắm, rồi nổi bọt... chúng mình đã phải kéo nó lên, Kupka nhỉ! Em hỏi nó đã nghĩ gì khi bị chìm xuống nước, nó bảo là nó đã bật cười, vì thế mà có tiếng nước ùng ục.”
Cả ba cùng cười, tiếng cười của Novomlýnský vang như tiếng chuông.
“Thế hôm nay có gì ồn ào ở nhà bà giáo đấy?” Novomlýnský lại hỏi. “Cậu đã ở đó, phải không Hovora?”
“Chuyện rất thú vị,” Hovora nói và nhoẻn cười. “Cô giáo phát hiện ra là chồng cổ có một bức thư giấu trong ngăn kéo bàn. Một bức thư đầy tình yêu nồng nhiệt do chính tay cô viết. Cô đã gửi cách đây hai chục năm, vậy mà hôm nay cô tìm thấy nó vẫn còn niêm phong chưa mở. Anh thử tưởng tượng xem cô đã tự ái đến mức nào!”
“Vở hài kịch một màn,” Novomlýnský bật cười. Anh duỗi chân ra rồi gọi Kupka. Trong khi Novomlýnský nói chuyện với Hovora thì Kupka đi ra đến cuối máng xối, hơi nghiêng người để nhìn xuống chỗ nào đó dưới sân. Bây giờ thì cậu ấy trở về chỗ ngồi, có vẻ hài lòng về chuyến đi thám hiểm của mình.
“Ma lực nào cứ kéo cậu ra chỗ ấy, hả? Cậu nhìn cái gì ở dưới đó? Không khéo rồi lại ngã xuống lần nữa cho mà xem!”
“Nhìn cái gì ư? Em nhìn ông thợ sách. Anh không biết thôi, chứ ông ấy đã hai chục năm nay tối nào cũng ngồi đọc tiểu sử của ông Jan Hus[20], lần nào cũng vừa đọc vừa khóc. Em ra đấy xem tối nay ông ấy đã khóc chưa, nhưng ông ấy vẫn chưa khóc!”.
“Rõ dở hơi, giá mà các cậu để ý đến cái gì khác ông thợ sách.” Novomlýnský búng ngón tay. “Các cậu đã thấy cô vú em mới ở bên nhà ông thợ gốm chưa? Rất trẻ trung tươi mát nhé! Nhưng mà cô ấy thì cũng như con bướm, đậu rồi lại bay thôi.”
“Anh Novomlýnský giống như bà nội trợ đảm đang, cái lo lắng lớn nhất là lo lắng về các cô giúp việc.”
“Ừ, lo lắng chứ, thậm chí còn thiếu ngủ nữa. Buổi sáng mới 5 giờ đã phải ra phố rồi, những cô giúp việc xinh đẹp nhất đều đi lấy nước rất sớm, để không ai trông thấy họ xách nước.”
“Các cậu im đi. Tớ dễ ngủ nên dậy sớm được. Vả lại,” Novomlýnský chậm rãi gạt tàn xì gà vào mái ngói và khoe khoang, “qua rồi, cái thời ấy qua rồi! Nhưng trước đây tớ là người hết sức lịch thiệp. Ừ, quả thật đến bây giờ, vấn đề của tớ là tớ luôn luôn gặp may ở lũ con gái. Tớ rất đẹp trai, nhưng cái đó đâu phải là lỗi của tớ? Giá mà lũ chó con các cậu được nhìn thấy tớ như thế nào! Khi mà tớ tỏ tình thì trông tớ rất ghê. Nhưng mà thôi,” anh ấy nói nhanh hơn, “các cậu làm cái gì cho tớ vui đi! Hôm nay đến lượt ai đưa ra chủ đề?”
“Cậu Jakl ạ.”
“Thế thì cậu ấy chắc sẽ không đến,” Novomlýnský nói một cách chắc chắn. “Một dạo, chúng tớ có một hội thường đi ăn chiều cùng nhau, mỗi bữa một người trả tiền. Nhưng có một cậu khi đến lượt trả tiền thì không bao giờ đến.” Anh ấy ngẩng đầu nhìn sang nóc nhà đối diện. “Ối, người chết đuối đến rồi kìa!” Anh ấy giả bộ kinh hoàng. Kupka và Hovora quay nhanh sang nhìn.
Trên nóc bên kia, một cái chỏm mũ nhô lên, dưới mũ là gương mặt đỏ với nụ cười rộng đến mang tai.
“A, Jakl! Xuống đây, xuống đây nhanh lên!” Tất cả mọi người cùng gọi.
Jakl từ từ leo lên nóc. Hai vai hiện ra, rồi ngực, rồi cái bụng. “Gớm, leo mãi mà vẫn không thấy hết người,” Novomlýnský lẩm bẩm, “cậu này là người hiện ra từng đoạn.”
Bây giờ thì cái chân bên phải được vắt sang nóc, sau đó là chân trái, rồi cả người Jakl trượt đánh sầm từ mái ngói xuống đến máng xối, chỗ các bạn đang ngồi. Mọi người phá lên cười. Hình như cả cái mái nhà cũng cười, thậm chí cả mặt trăng trên trời cao kia cũng vậy.
Nhưng người cười nhiều nhất lại chính là Jakl. Cậu ấy nằm sấp, đập đập cả hai mũi giày vào lòng máng xối.
Mọi người phải đập, phải kéo mãi Jakl mới ngồi dậy. Cậu ấy ngồi dậy rất chậm rãi, vuốt ngay ngắn chỉnh tề cái áo khoác mùa hè màu vàng vàng của mình. “May không bị một vết sờn nào,” cậu ấy hài lòng nói, rồi ngồi xuống bên cạnh Novomlýnský.
“Thế nào, cậu nghĩ ra được trò chơi gì cho tối nay đấy?”
Jakl kéo tay ra đến giữa hai đầu gối, gập người về phía trước rồi lại ngả về phía sau và thong thả nói “Em nghĩ là mỗi người chúng ta sẽ nói về kỷ niệm xa xưa nhất trong cuộc đời mình. Các cậu ạ, kỷ niệm mà...”
“Tớ biết ngay là hắn sẽ nghĩ ra chuyện ngớ ngẩn,” Novomlýnský chêm vào. “Ối trời, sinh viên tốt nghiệp trường Luật, đã qua đến mấy kỳ thi nghiệp vụ, ấy thế mà...”
“Thì cả anh cũng đâu có khôn ngoan ngay từ lúc lọt lòng,” Jakl cự lại.
“Tớ ấy à? Tớ nằm trong bụng mẹ mười sáu tháng, khi chào đời là tớ đã biết nói rồi. Tớ đã theo học hai mươi tư trường La-tinh, mỗi một từ tớ nói bố tớ phải trả bằng giá hai mươi xu đấy!”
“Này, tớ cho là ý nghĩ ấy chắc không phải là ngớ ngẩn đâu,” Holora nói và gõ tàn thuốc, “chúng mình thử chơi đi xem nào! Jakl này, hẳn là cậu đã nhớ ra kỷ niệm xa xưa nhất của mình rồi chứ?”
“Tớ ư? Tất nhiên rồi,” Jakl khẳng định và tiếp tục đung đưa người một cách bình thản. “Tớ nhớ một việc xảy ra khi tớ chưa đầy hai tuổi. Khi ấy bố tớ không có nhà, mẹ tớ có việc phải sang bên kia đường nhưng không mang tớ đi theo được. Thế là tớ ở nhà một mình, nhà lại chẳng có cô giúp việc nào. Để tới khỏi buồn, mẹ tớ đã mang vào phòng cho tớ một con ngỗng nhà đang nuôi. Ở nhà một mình sợ quá, tớ đã ôm chặt cổ con ngỗng mà khóc, còn nó thì cũng sợ nên cứ quàng quạc kêu - một cảnh đẹp, có phải không?”
“Ồ, rất đẹp,” Novomlýnský nói to.
Lúc đó, tất cả đều im lặng suy nghĩ. Hovora đánh diêm ba lần để hút thuốc, nhưng lần nào cũng chỉ đặt que diêm đang cháy vào tẩu, rồi lại để nó cháy hết mà quên không hút. Bây giờ thì tự nhiên cậu ấy hít một hơi dài rồi nói: “Tớ cũng đã nhớ ra một kỉ niệm rồi! Tớ cùng với bố vào tu viện dòng nữ thánh Ursula. Các nữ tu sĩ đã đặt tớ ngồi lên đùi mình và hôn tớ.”
“Cái đó còn đẹp hơn cả con ngỗng,” Novomlýnský lại nói. “Còn cậu, có gì hay như vậy không, hả Kupka?”
Kupka bật cười. “Ông nội tớ trước đây là người chuyên đi rung chuông nhà thờ ở Rakovník. Hồi đó, ông đã rất già rồi. Một hôm, ông nghĩ là sẽ tự rung chuông báo cái chết của mình, sau đó ông đi về nhà, nằm xuống giường rồi chết. Cả nhà đưa tớ đến chỗ ông nằm. Lúc này ông đã được thay quần áo, chân mang đôi tất trắng. Tớ tới để hôn vào ngón chân cái của ông, cũng chẳng biết thế là tục gì. Rồi tớ ngồi chơi ở chỗ ông thợ đóng quan tài, ông ấy ở cùng nhà và đang đóng quan tài.”
“Thật là kỉ niệm tuyệt vời!” Jakl vui vẻ nói. “Còn bây giờ thì đến lượt anh Novomlýnský!”
Novomlýnský nhăn nhó im lặng, nhưng cuối cùng thì cũng cất tiếng. “Tớ... tớ không có một kỉ niệm xa xưa nào cả. À, có lẽ có hai kỉ niệm, nhưng mà... nhưng mà tớ chẳng biết kỉ niệm nào cũ hơn. Tớ nhớ là ngày ấy gia đình tớ dọn nhà, chỉ đến khi mọi người chuyển cái nôi của tớ ra ngoài thì tớ mới chịu rời nhà cũ. Một lần khác, tớ đã nói với em gái một từ bậy... các cậu phải biết đó là một từ rất bậy. Tớ bị mẹ cho một cái tát, rồi bị phạt đứng phía sau đàn piano. Đúng ra thì trẻ con là những sinh linh đặc biệt... chúng là hình ảnh buồn cười của người lớn! Chúng ngốc nghếch, chúng thờ ơ với những hậu quả của hành động và bao giờ cũng thật sự tin vào thiên thần hộ mệnh. Quyển kinh thánh đầu tiên của tớ là quyển viết bằng tiếng Đức. Nhưng mà ngày ấy tớ đâu có biết một từ tiếng Đức nào... cả năm tớ cứ theo quyển ấy để cầu nguyện, Gebet für schwangere Frauen[21]... ấy vậy mà chẳng có cái gì xảy ra với tớ cả.”
Jakl lại đập đập chân vào máng xối. Novomlýnský hài lòng nhìn cậu ấy. “Các cậu thấy chưa? Tớ thích Jakl ở chỗ ấy. Cứ pha một câu đùa là thấy ngay hiệu quả ở cậu ấy.”
“Không, em đâu cười câu pha trò của anh.” Jakl bào chữa. “Em đã nghĩ ra một cái rất ngớ ngẩn! Này, người La Mã cổ đại cũng có con, phải không?”
“Dĩ nhiên rồi.”
“Chắc là những đứa trẻ ấy ngay lúc nhỏ cũng không biết nói như nhà triết gia và hùng biện Cicero, chắc chúng cũng bập bẹ học nói như trẻ con của chúng ta, phải không? Các cậu thử tưởng tượng tiếng La-tinh cổ bập bẹ mà xem. Hanibaj ante pojtas! Hanibaj ante pojtas[22]... ôi trời đất ơi, he he, hô hô!”
Jakl đập đập chân vào máng xối dữ dội hơn. Tất cả lại phá ra cười, cả mái nhà, cả mặt trăng và các ngôi sao trên trời cũng như đang khanh khách cười: “Hanibaj ante pojtas.”
“Jakl hôm nay xem ra rất vui vẻ,” Hovora nói.
“Đúng thế đấy,” Kupka ngồi bên cạnh khẳng định, “vì sao vậy nhỉ?”
Jakl đã trấn tĩnh lại. Cậu ấy ngồi thẳng người lên, nhìn thẳng vào Kupka.
“Ờ, vì sao ư? Mà vì sao lại không nói để các cậu biết... chẳng gì thì tớ cũng thấy phải nói... mà đúng thế, tớ sẽ nói! Tớ đang yêu... à, đúng ra tớ không yêu nữa... nhưng mà tớ sẽ lấy vợ... mà cũng không phải... quả là tớ không biết nói thế nào cho nhanh gọn.”
“Có đẹp không?” Kupka hỏi nhanh.
“Chẳng lẽ cậu ấy lại làm việc tội lỗi đối với các bạn tốt nhất của mình là đi lấy vợ xấu ư?” Hovora bênh bạn.
“Lấy vợ... e hèm! Tớ thì cũng muốn cuộc sống gia đình, nhưng ở đâu tớ cũng gặp chướng ngại vật là các ông chồng,” Novomlýnský lại nói. “Vì tiền ư?”
“Tiền bạc gì! Tớ không nói đến tiền, cũng chẳng hỏi về của hồi môn. Chỉ cần vài năm không kiếm ra tiền là mất hết vào ăn uống thôi mà.”
“Vẫn còn trẻ thế mà đã cao thượng thế!”
“Nhưng cô ấy là ai vậy?” Tất cả đồng thanh hỏi.
“Lizinka.”
“Lizinka nào?”
“Con gái ông thợ may Perálek ở phố Senovážná... các cậu có biết không?”
“Biết chứ!” Hovora khẳng định. “Nhà ấy có ba cô con gái. Cô lớn nhất là Marie... tớ không thích cô ấy một tí nào. Bao giờ nhìn, tớ cũng thấy cô ấy đang ngáp. Tiếp theo là Lizinka, rồi Karla là cái cô gầy khô.”
“Khô đến nỗi mà khi muốn mím môi lại thì phải nhấm hàm răng bằng nước bọt đã. Ấy thế mà cô nàng lại đi lấy chồng sớm nhất,” Kupka lấy làm ngạc nhiên.
Novomlýnsky, người có kinh nghiệm, giơ ngón tay giảng giải:
“Các cậu hãy nhớ là nhà nào có ba chị em thì bao giờ cô xấu nhất cũng đi lấy chồng trước nhất!”
“Lắm lời quá, các cậu lắm lời quá!” Jakl lầu bầu. “Cái tớ ghét nhất là khi người nào đó nói nhiều, làm tớ chẳng có cơ hội để nói!... Ừ, Lizinka đẹp.”
“Tớ cũng nghĩ thế!”
“Thế yêu nhau bao nhiêu lâu rồi?”
“Để tớ tính... đến năm nay là mười tám năm.” Trên gương mặt Jakl thoáng vẻ đùa cợt châm biếm. “Tớ dạo ấy học lớp hai, cô bé học lớp một ở lớp bên cạnh. Tớ làm quen với cô ấy vào dịp mùa đông và yêu ngay lập tức... yêu suốt đời! Đó là cô bé rất đáng yêu! Bé có đầu óc rất thông minh, mái tóc dài bện đôi, hai má tựa như hoa hồng. Bé đội cái mũ lụa xanh, mặc chiếc áo khoác màu xanh vàng. Ở cặp sách của bé có thêu một con chó nhỏ màu trắng trên bầu trời xanh... trời đất ạ, một con cún con! Bé cũng không nghĩ ngợi lâu về tình cảm của tớ đối với bé. Một lần, tớ lấy can đảm tấn công, tớ nắm tuyết thành từng nắm rồi ném bé, và khi bé bỏ chạy thì tớ đuổi theo, giật cái mũ của bé. Từ đấy bé luôn cười với tớ và hiểu tớ. Tất nhiên, tớ vẫn không dám nói gì với bé, nhưng ném tuyết vào bé thì tớ hay ném.
Hai năm sau, tớ đã dạy thêm cho một thằng bé lớp dưới, nhà nó ở ngay cuối phố Senovážná. Ngày nào tớ cũng đi qua nhà ông Perálek, Lizinka thường đứng ở trước cửa nhà. Mái tóc sáng màu buông xõa, không mang áo khoác, trong lúc ấy, bé mới sinh làm sao! Đôi mắt xanh trong sạch ngây thơ của bé luôn vui vẻ nhìn tớ; và không biết làm sao, lần nào tớ cũng đỏ mặt. Tớ và bé dần dần thân nhau hơn. Một lần đi qua, thấy Lizinka đứng đó và ăn bánh mì phết bơ, tớ thu hết can đảm dừng lại. “Cho xin một miếng nào,” tớ nói. “Này đây!” Lizinka nói và bẻ cho tớ một mẩu bánh. “Cho miếng to hơn kia,” tớ trêu. - “Thế thì hết mất! Em đang đói!” Lizinka cười duyên dáng. Tớ sung sướng đi tiếp, rồi từ chỗ xa, tớ giơ miếng bánh được cho để Lizinka nhìn thấy. Đáng tiếc là ngay sau đó, bố mẹ thằng bé tìm một thầy phụ đạo khác cho nó, họ viện lý lẽ ngốc nghếch là tớ và nó chỉ chơi thôi chứ chẳng học hành gì.
Thế là bẵng đi mất mười lăm năm, tớ và Lizinka không gặp nhau. Cho đến tận năm nay. Hôm ấy là chủ nhật, ngày mùng một tháng năm; tự nhiên tớ thấy phải đi chơi chỗ nào đó ở bên ngoài trung tâm. Tớ cũng chẳng biết vì lý do gì, bởi vì đối với tớ thì tất cả mọi cổng thành của trung tâm có đóng cửa cả năm cũng chẳng sao, nhưng lần ấy có lẽ là vì sức hút của trái tim! Hôm ấy, tớ đi ra đồi Šárka. Tớ thấy ông bà Perálek đang ngồi ở đó cùng cô Marie và Lizinka. Cô ấy như đóa hồng đang hé nở! Đôi bờ vai đẹp một cách yểu điệu. Ánh mắt vẫn ngây thơ trong sạch như thuở còn trẻ con cách đây mười tám năm trời.
Ở bàn cạnh chỗ tớ ngồi, người ta đang nói xấu ông Perálek. - “Khi nói, hắn cứ chỉ tay lên đầu, để cho mọi người tưởng là hắn đang suy nghĩ, thật là đồ ngốc, sao mà ghét thế!” Một người nói. - “Nghe bảo hắn tát mấy đứa con gái hắn, khi mà không có ai đến mời chúng khiêu vũ,” một người khác thêm vào. Tớ đứng dậy. Tội nghiệp Lizinka! Bên cạnh đó, mấy đôi nam nữ đang khiêu vũ. Các cậu biết đấy, tớ đâu có thích khiêu vũ. Tớ hơi lêu nghêu, làm sao mà nhẹ nhàng uyển chuyển được. Nhưng mà kệ, muốn ra sao thì ra! Ngồi cùng bàn với gia đình ông Perálek là một ông già... ờ, cái ông thuyền trưởng đã về hưu ấy tên là gì nhỉ? À, phải rồi, tên là Vítek! Ông ấy đang nói chuyện rất sôi nổi với cô Marie. Chúng tôi có quen biết nhau. Tớ đi đến bàn ấy, chào gia đình ông bà Perálek. Lizinka mỉm cười rồi đỏ mặt. Một lúc sau, tớ mời cô ấy khiêu vũ. Cô ấy nhìn bà mẹ và hứa với tớ là sẽ cùng tớ nhảy điệu cadri, nhưng sẽ không nhảy vòng quanh. Đó là điều may cho tớ. Suốt lúc nhảy, chúng tớ đã lặng im, nhưng sau đó, khi đi dạo dọc bờ suối, chúng tớ đã nói chuyện. Tớ hỏi cô ấy có còn biết tớ là ai không. Cô ấy nghiêng đầu sang một bên, rồi cứ thế đưa con mắt ngây thơ trong trắng nhìn tớ. Lập tức, tớ lại thấy mình như đứa trẻ ngày nào, tớ đã nói về những nắm tuyết, về con cún con, về miếng bánh mì được bé cho. Tớ có cảm giác chắc chắn cô ấy cũng cảm thấy như vậy. Rồi tớ tiễn họ về nhà. Lizinka mệt mỏi bước, tớ đã dìu cô ấy đi. - “Thế, thế, người trẻ đi với người trẻ,” ông Vítek nói. Sao tớ thấy ông ấy khó chịu đến thế! Quả thật, khi mà người ta yêu, người ta thường thấy tự ái cả vì lời nói tốt đẹp.
Mấy hôm sau, tớ nhận được thư của Lizinka. Thư viết bằng tiếng Đức, cô ấy hẹn gặp tớ vào lúc ba giờ ở nhà thờ Thánh Mikuláš. Tớ run cả người vì sung sướng. Chúng tớ đã đi từ nhà thờ sang vườn Valdštýnská. Ở đấy, chúng tớ đã thề là sẽ mãi mãi yêu nhau. Tớ hứa với cô ấy là đến tháng tám tớ sẽ tốt nghiệp, rồi hai năm nữa thì sẽ cưới cô ấy. Sau đó, cô ấy đưa tớ về nhà giới thiệu với bố mẹ. Tớ nhận thấy ông Perálek là người rất dễ chịu và bà Perálek là người đàn bà khôn ngoan, tớ chỉ không thích cô Marie, cô ấy cứ nhìn tớ bằng con mắt là lạ thế nào ấy.
Ngay sau đó, tính đến nay thì cũng đã được bốn tuần rồi, Lizinka phải vội đi Klatovy để đến với bà cô đang sắp chết.
Ngày hôm qua, bạn của tớ là anh Bureš, sinh viên trường Y, đến chơi. Anh ấy hỏi tớ: “Cậu có biết cô Lizinka Perálková không?”. “Biết chứ!” - “Hôm nay cô ấy sinh con trai ở nhà hộ sinh.”
Mặc dù cho đến lúc này, ba người bạn đều hồi hộp nghe kể chuyện, nhưng câu cuối cùng họ hầu như không nghe nữa, cả ba chợt giật mình nhìn về phía cửa sổ.
“Rồi buổi trưa, ông thuyền trưởng già Vítek đã lên trên nhà để hỏi thăm sức khỏe cô ấy, để hỏi xem cô ấy sinh con trai gái,” Jakl nói thêm.
“Suỵt! Mấy đứa con gái giúp việc đang nghe trộm chúng mình đấy... chúng đang khúc khích cười đấy,” Novomlýnský đột nhiên nói thầm. Anh ấy đứng dậy, chạy hết sức nhanh về phía cửa sổ, rồi biến mất. Kupka và Hovora chạy liền sau anh ấy.
Mặt trăng như nhoài xuống lắng nghe, hình như là chị Hằng cũng nghe thấy ở dưới mái nhà tiếng rên nhỏ nhẹ của đám con gái, rồi tiếng chút môi.
Có lẽ Jakl cũng nghe thấy tiếng gì đó tương tự. Cậu ấy lại lặng lẽ thu hai cánh tay dài vào giữa hai đầu gối, đu đưa người về phía trước rồi lại về phía sau và lẩm bẩm: “Ăn trộm vào ban đêm thì tội còn nặng hơn.”
BÌNH SLAVICKÁ dịch