- 4 - NGƯỜI ĐÀN BÀ HAY MỦI LÒNG
Ông Velš Josef là một trong những người buôn bán giàu có nhất ở Malá Strana. Tôi nghĩ cửa hàng của ông có đủ mọi thứ hàng sản xuất ở Ấn Độ và châu Phi, từ quế thơm hay xương voi thiêu làm kem đánh giày, cho đến vàng bột. Vì thế mà cửa hàng của ông ở ngoài quảng trường suốt ngày đông khách. Ông Velš ở đó cả ngày, trừ các buổi lễ lớn ở Thánh đường Thánh Vít vào ngày chủ nhật, hay những buổi diễu binh lớn của quân đoàn thị dân Praha. Ông là tay súng thiện xạ, thuộc đại đội một, nhóm thứ nhất, là người bao giờ cũng đứng thứ ba phía tay phải trung úy Nedomy. Mặc dù có hai thanh niên trẻ giúp việc và cả hai thanh niên đang học nghề, nhưng bao giờ ông cũng muốn tự bán hàng cho khách. Nếu không bán thì ông chào họ, gật gù, mỉm cười. Nói cho đúng thì ông Velš lúc nào cũng cười, ở trong cửa hàng, ở ngoài đường, ở trong nhà thờ, ở tất tật mọi nơi. Nụ cười thường trực của người buôn bán đã làm căng hai bên má ông và không thể bỏ nó đi được. Ông có thân hình dễ ưa, beo béo, không cao, cái đầu nhỏ của ông luôn lắc lắc khi cười. Lúc ở cửa hàng, ông đội cái mũ bẹp, mang cái tạp dề bằng da. Khi ra đường, ông mặc chiếc áo khoác màu xanh dài lê thê có bộ cúc vàng, đầu đội cái mũ hình trụ tròn. Tôi có tưởng tượng chút ít về ông Velš. Khi ông còn sống, tôi chưa hề đến nhà ông, nhưng bất kỳ khi nào hình dung ông ở nhà như thế nào thì bao giờ tôi cũng thấy hình ảnh ông ngồi ở bàn, đầu không đội mũ, trên mình mang chiếc tạp dề, trước mặt ông là đĩa xúp nóng bốc hơi nghi ngút, ông chống khuỷu lên bàn, cái thìa xúp cầm trong tay nâng đến khoảng giữa đĩa xúp và nụ cười trên miệng. Và ông cứ ngồi thế như bức tượng, cái thìa cũng ở nguyên chỗ như thế. Vâng, tôi biết đó là một tưởng tượng ngốc nghếch.
Nhưng khi truyện của chúng ta bắt đầu - lúc bốn giờ chiều ngày mùng ba tháng 5 năm 184* -, thì ông Velš đã qua đời. Ông nằm ở tầng hai bên trên cửa hàng, tại phòng khách của mình, trong một cái quan tài rất đẹp. Quan tài vẫn còn chưa đóng nắp - ông nằm đó, đôi mắt được vuốt đã nhắm lại, nhưng nụ cười vẫn còn đọng trên môi.
Đám tang được bắt đầu vào lúc bốn giờ chiều. Xe tang đã chờ sẵn trước ngôi nhà ở quảng trường. Cả trung đội thiện xạ thị dân và ban nhạc cũng đã sẵn sàng.
Phòng khách hầu như đầy người, toàn những người sang trọng của Malá Strana. Linh mục của nhà thờ Thánh Mikuláš cùng những người giúp việc sẽ tới muộn một chút, cũng giống như thói quen của mỗi người láng giềng đáng kính, để khỏi mang tiếng là vội vã chia tay với người quá cố. Không khí trong phòng bí đến nghẹt thở. Ánh mặt trời buổi chiều chiếu vào phòng, chiếu cả lên những tấm gương lớn; những ngọn nến to xung quanh quan tài tỏa ánh sáng màu vàng và khói; bầu không khí nóng nực tràn ngập mùi khói, mùi hắc của lớp sơn mới ở chiếc quan tài màu đen, ở lớp lót bên dưới xác người chết, có thể là cả mùi hôi của xác chết nữa. Cả phòng yên lặng, mọi người chỉ nói thầm với nhau. Không một ai khóc. Ông Velš không còn ai là họ hàng gần, và những người họ xa thì đều nói: “Giá mà tôi có thể khóc được - tôi đau đớn đến xé ruột xé gan, nhưng không còn nước mắt để mà khóc”... “Vâng, vâng, vì thế mà còn đau đớn hơn.”
Lúc này, một người đàn bà tên là Ruska bước vào phòng. Bà ấy là vợ góa của ông Rus, chủ quán ăn ở vườn Gráflovská, nơi thường có tổ chức các buổi khiêu vũ đẹp nhất của lính pháo thủ. Bởi vì việc bà Ruska góa chồng như thế nào chẳng bận đến ai, nên tôi chỉ xin kể ngoài lề về chuyện ấy thôi. Hồi đó, mỗi một trung đoàn pháo binh đều có một đại đội pháo thủ đặc biệt, toàn những chàng lính trẻ trung và béo tốt. Nghe nói ông Rus ghét cay ghét đắng lính của đại đội này, cũng nghe nói là vì vợ ông ấy. Bởi vậy, có một lần ông bị họ đánh cho một trận tơi bời. Nhưng mà, như tôi đã nói, điều này chẳng bận gì đến ai. Bà Ruska hưởng lương quả phụ đã hai mươi nhăm năm nay, bà không có con, bà sống tại nhà riêng ở phố chợ Nông trại. Nếu có ai hỏi bà làm nghề gì, thì bà sẽ trả lời là đi viếng các đám tang.
Bà Ruska len qua đám đông để đến sát tận quan tài. Bà là người phụ nữ ở tuổi năm mươi, có vóc người to lớn và độ cao trên trung bình. Trên vai bà là chiếc khăn lụa màu đen. Cái mũ đen có viền dải lụa màu xanh lá cây nhạt đội trên đầu làm nổi lên khuôn mặt tròn trịa và trung thực của bà. Cặp mắt màu nâu của bà nhìn vào mặt người quá cố. Mặt bà rúm lại, mếu máo, hai dòng nước mắt tuôn ra. Bà nức nở khóc.
Bà Ruska lau nhanh mắt và miệng bằng một chiếc khăn màu trắng. Rồi bà quay sang phải sang trái nhìn những người phụ nữ đứng quanh. Phía bên tay trái là bà hàng nến Hirtová. Bà ấy đang tụng kinh theo Kinh Thánh. Phía bên tay phải là một người phụ nữ ăn mặc lịch sự, nhưng bà Ruska không biết người ấy. Nếu là người Praha thì người phụ nữ ấy chắc hẳn phải sống ở nơi nào đó bên kia sông. Bà lên tiếng nói với người phụ nữ ấy, tất nhiên là nói bằng tiếng Đức, bởi lẽ về phương diện dân tộc mà nói thì thời đó Malá Strana thực sự là Praha cánh tả.
“Xin trời phù hộ cho ông ấy,” bà Ruska nói, “ông ấy nằm đây mà vẫn mỉm cười như người còn sống vậy,” bà lại lau nước mắt. “Ông ấy ra đi, bỏ lại chúng ta ở đây... bỏ lại cái giàu có ở đây... cái chết thật bất công, vâng, thật bất công.”
Người phụ nữ lạ mặt không trả lời.
“Có một lần tôi đến một đám tang người Do Thái,” bà Ruska lại thầm thì, “nhưng tôi thấy họ làm rất dở. Họ che tất cả mọi cái gương, nghe bảo để dù từ góc nào cũng không ai trông thấy được người chết. Nhưng làm như thế này tốt hơn, người quá cố nằm trong quan tài, nhìn từ phía nào cũng thấy được - tôi đoán là cái quan tài này phải có giá ít nhất hai mươi zlatý, đẹp quá! Nhưng ông ấy xứng đáng có cái quan tài như thế, nhìn qua gương mà cũng thấy như là ông ấy đang cười với chúng ta. Cái chết chẳng làm ông ấy thay đổi gì, họa chăng làm ông xanh xao đi một chút thôi... nhưng trông ông ấy vẫn như lúc còn sống, phải không bà?”
“Tôi không biết ông Velš lúc ông còn sống,” người phụ nữ lạ mặt trả lời.
“Không ư? Ôi chao, tôi thì lại rất biết ông ấy! Tôi biết ông ấy từ ngày ông ấy còn son trẻ, cả vợ ông ấy tôi cũng biết từ ngày bà ấy chưa lấy chồng, lạy trời cho bà ấy được lên thiên đường! Tôi còn nhớ như in ngày cưới của họ - bà ấy khóc từ sáng sớm - vâng ạ, khóc suốt một ngày, ấy là họ đã biết nhau tới 9 năm trời rồi đấy! Bà bảo thế có dở hơi không? Ông ấy đã chờ bà ấy 9 năm, nhưng giá mà ông ấy đã có thể chờ 9 lần 9 năm nữa. Bà ấy ghê lắm cơ! Vâng, bà ấy là người rất đáng ghét! Bà ấy đã nghĩ rằng bà ấy là người khôn ngoan nhất, đẹp nhất, rằng không một người đàn bà nào khác hiểu công việc nội trợ như bà ấy. Gớm, ra chợ thì mặc cả hàng giờ để tiết kiệm từng xu, ở nhà thì luôn luôn bớt nước của thợ giặt, mấy cô phụ việc chẳng bao giờ được ăn no. Còn ông Velš thì khổ vì bà ấy lắm lắm! Tôi đã thuê hai cô phụ việc trước làm ở nhà ấy nên tôi biết hết mọi chuyện. Ông ấy chẳng bao giờ được yên lấy một phút. Nghe bảo chính vì thế nên ông ấy rất cẩn thận gọn gàng, vì ông ấy rất sợ bà ấy, nghe nói ông ấy không bao giờ cãi lại, vì sợ bà ấy lại tức giận thêm. Bà ạ, chúng tôi vẫn nói là bà ấy thuộc loại người mơ mộng, và bà ấy muốn được cả thế giới thương hại. Bà ấy còn luôn kêu ca là bị chồng hành hạ. Giá chồng bà ấy vì giận dữ mà đầu độc bà ấy, thì bà ấy phải lấy đó làm điều sung sướng. Và giá ông ấy tự treo cổ thì cũng vậy, ít ra thế giới cũng thương hại bà ấy.”
Bà Ruska lại liếc mắt nhìn người phụ nữ lạ mặt, nhưng người ấy đã không còn đứng ở bên bà nữa. Vì mải nói mà bà Ruska không để ý thấy mặt người phụ nữ lạ đứng cạnh bà mỗi lúc một nóng lên, và người ấy bỏ đi giữa lúc bà đang nói. Bây giờ thì người ấy đứng ở cuối phòng và đang nói gì đó với ông Uhmühl, nhân viên phòng kế toán của ủy ban nhân dân, người có họ với ông Velš.
Bà Ruska lại nhìn vào khuôn mặt người quá cố, lại mếu máo và lại tuôn nước mắt. “Tội nghiệp ông ấy,” bà quay sang nói to với bà Hirtová, “nhưng mà trời có mắt bà ạ, vâng, trời sẽ trừng phạt mọi tội lỗi. Mà ông Velš cũng chẳng phải là người lương thiện gì cho cam, nhưng mà thôi, chả nói đến làm gì nữa! Giá mà ngày ấy ông ấy cưới cô Tonda, cô ấy tuy nghèo thật, nhưng một khi ông ấy đã có con với cô ấy...”
“Mụ phù thủy đã lại đến đây rồi hả?” Một giọng khàn khàn vang lên sau lưng bà Ruska và cánh tay đàn ông xương xương đặt lên vai bà. Tất cả mọi người giật mình quay nhìn bà và ông Uhmühl, lúc này đã tiến đến đứng trước mặt bà ấy. Ông giơ tay chỉ về phía cửa, nói bằng giọng khàn nhưng rõ ràng: “Ra kia ngay!”
“Cái gì thế hả?” Từ cửa, em trai ông Uhmühl cất tiếng hỏi. Ông ấy là cảnh sát trưởng, cũng là người gầy gò xương xẩu giống hệt anh trai.
“Mụ phù thủy này len vào đây nói xấu người quá cố. Mụ có cái lưỡi sắc như dao cạo ấy.”
“Thế thì cạo cho mụ ấy một trận!”
“Đám tang nào mụ ấy cũng làm thế,” có mấy người nói xen vào.
“Mụ ấy làm ầm ĩ cả ở chỗ linh thiêng!”
“Nào, ra đi, nhanh lên,” ông cảnh sát trưởng ra lệnh và kéo tay bà Ruska. Bà ấy đi ra, nhưng vẫn nức nở như đứa trẻ.
“Thật là xấu xa - làm lôi thôi như vậy ở đám tang trang nghiệm như thế này,” mọi người nhận xét.
“Bây giờ thì im đi!” Ông cảnh sát trưởng lại nói, khi họ ra đến phòng ngoài, vì đúng lúc đó linh mục cùng phụ tá tới. Ông cảnh sát trưởng đưa bà Ruska đến chân cầu thang. Bà ấy cố gắng nói một điều gì đó, nhưng ông cương quyết kéo bà ra đến tận trước cửa nhà. Rồi ông bảo viên cảnh sát tuần tra: “Anh đưa bà ấy về tận nhà, kẻo lại gây chuyện xấu hổ ở đám tang!”
Mặt bà Ruska đỏ rực, bà cũng chẳng ý thức được cái gì đang xảy ra xung quanh bà.
“Thật là bôi bác quá, lại đúng ở đám tang đẹp như thế!” Bây giờ thì cả ở ngoài quảng trường cũng có tiếng ồn ào.
Hai anh em ông Uhmühl đều là những người đàn ông nghiêm khắc. Giá mà Malá Strana bao trùm cả thế giới - tôi sinh ra ở đây nên cũng muốn như thế - thì sự khó chịu ngày hôm nay của Malá Strana đối với bà Ruska quả thật lên tới tầm cỡ quốc tế.
Ngày hôm sau, người ta cho triệu bà Ruska lên trạm cảnh sát ở phố Mostecká. Ở đó bao giờ cũng ồn ào. Vào mùa hè, cảnh sát thường mở cửa sổ khi làm việc, tiếng họ nói vang đi khắp cả phố. Với ai họ cũng quát tháo ầm ĩ, hồi đó không hề có chuyện cảnh sát phải đối xử lịch sự như bây giờ, hiện nay thì cái lịch sự quả là tôn thêm cho các hoạt động của họ, làm cho chúng đẹp hơn. Ông Josef, người chơi đàn hạc cầm, một nhà cách mạng danh tiếng của Malá Strana, thường đứng ở vỉa hè dưới cửa sổ trạm cảnh sát. Mỗi khi có người nào trong đám trai trẻ chúng tôi đi qua đó thì ông Josef lại nháy mắt, trỏ ngón tay cái lên phía trên, mỉm cười và nói: “Họ đang sủa đấy.” Tôi hi vọng là câu nói ấy không biểu thị cái gì khinh thường, mà ông Josef chỉ muốn dùng lời lẽ sống động nhất để diễn đạt tình hình thôi.
Vào buổi trưa ngày mùng 4 tháng 5 năm 184*, quàng khăn choàng và đội chiếc mũ viền dải lụa màu xanh, bà Ruska đứng đối diện với ông cảnh sát trưởng nghiêm khắc. Bà ấy trông rất đau khổ, bà nhìn chằm chằm xuống đất và không nói năng gì. Sau khi nghiêm khắc chỉ trích, ông cảnh sát trưởng bảo:
“Từ nay trở đi bà không bao giờ được đến một đám tang nào nữa, nghe chưa? Thôi, bây giờ thì bà về đi!”
Thế là bà ấy đi về. Tất nhiên, lẽ ra lần ấy ông cảnh sát trưởng phải cấm cái chết để khỏi phải cấm người đi đến đám tang.
Khi bà Ruska ra khỏi trạm, ông cảnh sát trưởng quay sang cười và nói với người cấp dưới:
“Thì cái đó cũng chẳng phải lỗi ở bà ấy. Bà ấy giống như cái cưa ấy mà, đặt dưới nó cái gì thì nó cưa cái ấy!”
“Đúng ra bà ấy phải đóng thuế vì ích lợi của người câm điếc!” Người cấp dưới nói.
Cả hai cười ầm, họ đều lại thấy vui vẻ.
Chỉ có bà Ruska là suốt một thời gian dài không làm sao trở lại vui vẻ được. Nhưng cuối cùng thì bà cũng tìm thấy lại niềm vui.
Bởi vì một nửa năm sau, bà chuyển nhà. Bà đã thuê một căn hộ ở gần cổng Oujezd. Bất kỳ một đám tang nào cũng phải đi qua nơi này. Và bất kỳ một đám tang nào đi qua, bà Ruska cũng ra đứng trước cửa nhà rồi nức nở khóc.
BÌNH SLAVICKÁ dịch