← Quay lại trang sách

- 7 - THỦY THẦN

Bao giờ ông Rybář cũng cầm cái mũ trong tay. Ngay cả khi trời rét căm căm hay nắng chói chang, cùng lắm thì ông cũng chỉ nâng chiếc mũ trụ rộng vành lên trên đỉnh đầu như nâng một cái ô. Mái tóc bạc trắng của ông được chải phía sau, bện chặt và buộc lại, chắc đến mức cứng không vung vẩy được. Đó là một trong những cái đuôi tóc bện cuối cùng ở Praha, ngay ngày ấy cũng chỉ còn hai, hoặc ba người tết tóc như vậy thôi. Ông mặc cái áo khoác màu xanh lá cây có cúc vàng. Áo có hai vạt trước ngắn cũn nhưng lại có vạt sau dài lê thê, thành thử ông vốn nhỏ bé trông càng như choắt lại. Cái áo sơ mi trắng che kín bộ ngực lép của ông, cái quần đen có ống chỉ dài quá đầu gối một tí, ở hai gấu quần có hai cái mặt khóa bằng bạc, rồi đôi tất trắng dài đến đầu gối, cũng có đôi mặt khóa bạc, cuối cùng là đôi giày to. Tôi không biết đôi giày ấy có được sửa chưa bao giờ không, nhưng lớp da của nó lúc nào cũng rạn nứt và có vẻ cũ kĩ.

Trên khuôn mặt dài nhọn và gầy gò của ông Rybář luôn luôn rạng rỡ một nụ cười. Khi ông đi ngoài đường, trông ông rất đặc biệt. Cứ đi được khoảng hai chục bước là ông lại dừng lại rồi ngó nghiêng sang phải sang trái. Như thể những suy nghĩ của ông không ở trong ông, mà đi sau ông một bước, và chúng luôn mang đến cho ông những ý nghĩ vui vẻ, vì vậy ông phải cười và thỉnh thoảng lại nhìn ngó một cách tinh nghịch. Khi chào một người nào đó, ông chỉ nâng tay phải, giơ ngón trỏ lên cao rồi huýt nhẹ. Bao giờ ông cũng huýt nhẹ như thế khi bắt đầu cất tiếng nói, và thường bắt đầu bằng từ “ờ”, với nghĩa đồng ý chấp nhận.

Nhà ông Rybář ở đường Hluboká, ngay phía dưới bên tay trái, có mặt tiền hướng sang đồi Petřín. Nhưng cho dù đã đứng ở trước cửa nhà mình, cứ hễ trông thấy những người nước ngoài nào rẽ tay phải đi sang khu Hradčany[23], bao giờ ông cũng đi theo họ. Khi họ dừng lại ở các điểm tham quan để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Praha, ông thường đứng cạnh họ, giơ ngón tay và huýt nhẹ: “Ờ, biển! Tại sao chúng tôi không có biển nhỉ!” Rồi ông đi cùng họ vào Lâu đài Praha. Khi thấy khách du lịch chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những bức bình phong có chạm đá quý, ông huýt sáo một lần nữa: “Thế đấy, thế đấy! Ở Séc, nếu đứa trẻ chăn dê có lấy đá ném theo đàn dê thì hòn đá ấy thường quý hơn và có giá trị hơn đàn dê!” Chưa bao giờ ông nói với họ về cái gì khác những điều đó.

Bởi vì cái tên có nghĩa là Người Đánh Cá của ông, bởi cái áo khoác màu xanh lá cây ông mặc, bởi cái từ “biển” mà ông hay nói, chúng tôi gọi ông Rybář là Thủy thần. Nhưng bất kể người già con trẻ, tất cả chúng tôi đều kính nể ông. Ông quê ở vùng Turnov, là luật sư đã về hưu. Tại Praha, ông ở cùng với một cô cháu họ gần, còn trẻ, có chồng là viên chức nhỏ và có hai hay ba đứa con. Người ta kể rằng ông Rybář là một người cực kỳ giàu có. Không hẳn là vì nhiều tiền, mà là do ông có nhiều đá quý. Họ kể là trong căn phòng nhỏ của mình, ông có một cái tủ cao màu đen, trong tủ có rất nhiều cái hộp to và thấp cạnh, sơn màu đen. Mỗi một chiếc hộp được chia bằng các dải băng dính màu trắng thành các ô nhỏ, trong ô nào cũng có một viên đá quý sáng bóng đặt trên lớp bông. Có người đã tận mắt trông thấy nó. Nghe nói tất cả những viên đá quý ấy đều do ông tìm thấy ở núi Kozákov. Bọn trẻ con chúng tôi thì thường kể cho nhau nghe về chuyện ở nhà cô Šajvl, tức là ở nhà người cháu họ của ông Rybář, rằng ở nhà ấy có rất nhiều đường kính. Vì vậy mà chúng tôi vô cùng ghen tị với các con của cô. Một lần, tôi ngồi ở trên trên bờ lũy ở cổng thành Bruska, gần ông Rybář. Cứ khi nào đẹp trời là ông lại ra đó khoảng một tiếng, ông ngồi thoải mái trên bãi cỏ và hút tẩu. Lần ấy có hai sinh viên lớn tuổi đi qua, một anh nhạo ông: “Ông này đang hút bông lót váy của mẹ!” Từ đó, tôi cho việc “hút bông lót váy của mẹ” là một cái gì khác thường mà chỉ những người giàu có mới có thể làm được.

Cứ như vậy, “Thủy thần” thường đi dạo ở khu cổng thành Bruska. Nhưng mà có lẽ không nên gọi ông là Thủy thần nữa, vì chúng tôi đâu còn là trẻ con! Các kinh sĩ cũng thường đi dạo ở đó. Bao giờ gặp ai, ông cũng nhẹ nhàng nói vài lời. Tôi nhớ hồi đó, tôi rất thích nghe người lớn nói chuyện. Một lần, tôi nghe thấy ông đứng nói chuyện với hai người kinh sĩ ngồi ở một chiếc ghế dài. Họ nói về “Frankreich”, về sự “tự do”, toàn là những chuyện lạ tai. Đột nhiên, ông Rybář giơ cao ngón tay và huýt một tiếng: “Ờ, tôi cứ theo Rosenau. Ông Rosenau đã nói là sự tự do giống như thức ăn ngon và rượu mạnh. Nó nuôi sống người nào mạnh mẽ và làm cho người ta mạnh hơn, nhưng nó làm mệt, làm say, nó hủy hoại người yếu đuối.” Nói đoạn, ông nhấc mũ lên chào rồi bỏ đi.

Ông kinh sĩ to béo suy nghĩ: “Ông ấy bao giờ cũng nói đến Rosenau là nghĩa sao?” Ông thứ hai, cũng béo, nhưng nhỏ người hơn, trả lời: “Nhà văn, chắc là nhà văn.”

Nhưng tôi nhớ đến nội dung của câu ấy với tất cả những điều thông thái chứa trong nó. Tôi có ấn tượng cao đẹp về Rosenau, tương tự như về ông Rybář. Sau này, khi lớn lên và tự mình đọc được đủ các loại sách, tôi mới nhận ra rằng hồi đó ông Rybář đã trích dẫn khá đúng. Cái khác duy nhất là câu đó không phải do một Rosenau nào viết, mà chính là Roussenau[24] với hai chữ “s” trong tên. Chắc hẳn đó chỉ là một điều ngẫu nhiên dẫn đến cách phát âm sai như vậy của ông, nhưng hoàn toàn không vì thế mà làm giảm sự kính nể của tôi đối với ông. Quả thật, ông là một người vô cùng tốt!

Lúc đó là khoảng ba giờ chiều của một ngày tháng tám đầy nắng. Người nào đang đi ở phố Ostruhová cũng dừng lại; người nào đang đứng ở trước cửa nhà thì vội gọi ai đó ở trong nhà; mọi người từ các cửa hàng đều chạy ra đường. Tất cả đứng nhìn theo ông Rybář đang đi xuống dốc. “Ông ấy đi khoe của đấy,” ông Herzl, chủ quán bia ở nhà Hai mặt trời, bảo vậy. Tôi cũng muốn nói là theo ngôn ngữ của Malá Strana thì “hai mặt trời” quả đúng là hai mặt trời.

“Ấy, thế đấy!” Ông Vitouš ở cửa hàng chỗ góc phố kêu lên, “Chắc là bí lắm mới mang đi bán!” Tôi lấy làm tiếc, nhưng phải nói rằng ông Vitouš không được láng giềng tôn trọng lắm. Người ta kể rằng đã có lần ông ấy suýt bị phá sản. Và cho tới bây giờ, những người tử tế ở Malá Strana nhìn “người bị phá sản” bằng con mắt khác hẳn so với người ở nơi khác.

Ông Rybář vẫn bình thản đi tiếp, hơi nhanh hơn một chút so với lệ thường. Nách trái ông kẹp một trong những chiếc hộp màu đen mà người ta thường kể nhiều về chúng. Ông kẹp cái hộp vào mình, chặt đến mức mà cái mũ cầm trong tay như dính vào chân. Trong tay phải ông là chiếc ba toong có tay cầm bằng ngà voi. Cứ theo đó thì thấy là ông đang đi chơi thăm ai, vì những lúc khác không bao giờ ông mang ba toong. Khi có người chào, ông nhấc gậy chào lại và huýt sáo to hơn mọi ngày.

Ông đi hết phố Ostruhová, qua quảng trường Thánh Mikuláš rồi bước vào nhà ông Žambecký, lên tầng ba gặp ông Mühlwezel, giáo sư trường trung học, nhà toán học và khoa học tự nhiên. Ngày đó, người có kiến thức như vậy là người khác thường. Nhưng ông Rybář đã không dừng lâu ở đó. Giáo sư Mühlwenzel lúc đó đang vui vẻ thoải mái. Cơ thể to béo của ông vừa được nghỉ ngơi sau giấc ngủ trưa. Những sợi tóc bạc dài của ông vén quanh đầu, tủa ra mọi phía. Cặp mắt xanh đầy sức sống và thiện cảm của ông sáng lên. Đôi má vốn hồng hào của ông nóng rực. Trên đôi má to và hiền hậu ấy có đầy nốt rỗ vì thủy đậu, và đó là điều mà giáo sư thường đem ra để pha trò. “Chuyện đời là vậy,” ông nói, “khi cô gái cười mà có một lúm đồng tiền thì người ta bảo là đẹp, nhưng khi tôi cười, tôi có tới hàng trăm lúm đồng tiền mà người ta lại bảo là xấu!”

Giáo sư mời ông Rybář ngồi vào ghế bành rồi hỏi: “Nào, tôi có thể giúp ông được cái gì?”

Ông Rybář thận trọng đặt chiếc hộp lên bàn rồi mở ra. Các viên đá sáng loáng lộ ra. “Tôi muốn... tôi chỉ muốn biết... cái này... đáng giá bao nhiêu.” Ông lắp bắp rồi ngồi xuống, chống cằm vào tay cầm của chiếc ba toong.

Giáo sư Mühlwenzel xem các viên đá. Sau đó, ông lấy ra một viên tối màu, để trong tay và chìa ra chỗ sáng ngắm nghía.

“Đây là đá moldavite,” ông nói.

“Đá gì ạ?”

“Moldavite.”

“Ờ, moldavite,” ông Rybář huýt sáo. Nét mặt ông hơi tỏ ra rằng đây là lần đầu tiên trong đời ông nghe thấy từ ấy.

“Viên này có thể bổ sung cho bộ sưu tầm của trường tôi, loại này bây giờ cũng hiếm rồi. Ông có thể bán cho chúng tôi.”

“Vâng, để xem đã... Khoảng bao nhiêu ạ?”

“Ba zlatý. Được không ông?”

“Ba zlatý!” Ông Rybář huýt một tiếng nhẹ. Ông nhấc cằm lên, rồi lại chống vào ba toong. “Thế các viên khác thì sao?” Một lúc sau ông hỏi, giọng nghẹn trong cổ.

“Mã não, ngọc bích, thạch anh tím, thạch anh khói, cũng chả đáng giá gì.”

Chỉ một lúc sau, ông Rybář đã ra đến góc phố Ostruhová. Ông chậm rãi bước lên dốc. Lần đầu tiên, người trong phố thấy ông đội chiếc mũ. Cái vành mũ rộng trùm kín trán ông. Chiếc ba toong kéo lê thê theo người, gõ lanh canh trên đá lát đường. Ông không để ý đến ai, cũng chẳng hề một lần huýt sáo. Chắc chắn là hôm nay, không có một suy nghĩ nào tinh nghịch đuổi theo ông, tất cả đều dừng ở trong người, ở tận nơi sâu thẳm của tâm hồn ông.

Hôm ấy, ông không ra đường một lần nào nữa, cũng không ra cổng thành Bruska. Mà trời thì đẹp đến thế. Đã gần nửa đêm, nhưng bầu trời vẫn trong xanh như vào buổi sáng. Mặt trăng huyền ảo tỏa sáng, trời lấp lánh sao. Làn sương bạc trắng mờ tuyệt đẹp như phủ kín đồi Petřín, đổ tràn xuống cả Praha.

Qua hai cánh cửa sổ mở toang, ánh trăng vui vẻ tràn vào căn phòng nhỏ của ông Rybář. Ông đang đứng bên cửa sổ, người ngay đờ như bức tượng. Từ xa, tiếng nước sông Vltava[25] xối xả đổ ầm ầm qua đập chắn. Nhưng ông có nghe thấy tiếng nước ồn ào ấy không? Ông đột nhiên bừng tỉnh. “Biển!... Sao ở đây không có biển!”, ông thầm thì, đôi môi ông mấp máy run run. Cái luyến tiếc nhớ nhung cồn lên trong ông, ồn ã như sóng biển.

“Ôi chao!” Ông rùng mình rồi quay lại phòng. Trên sàn nhà có đầy những chiếc hộp đã được mở tung, ánh mắt ông dừng lại ở chúng. Ông chậm chạp với tay đến cái hộp gần nhất, lấy các viên đá ra và giữ chúng trong tay. “Này thì sỏi này!” Nói đoạn, ông vung tay ném chúng ra ngoài cửa sổ.

Phía dưới có tiếng thủy tinh vỡ loảng xoảng. Ông quên mất là dưới vườn có nhà kính.

“Chú ơi, chú làm gì vậy ạ?” Có tiếng nhẹ nhàng của một người đàn ông từ cửa sổ phòng bên cạnh. Bất giác, ông lùi lại một bước. Cửa phòng cọt kẹt mở, anh Šajvl bước vào. Chắc đêm đẹp trời làm anh ấy đứng lâu ở cửa sổ. Chắc anh để ý thấy nét mặt ông chú vợ hôm nay không yên khác thường và liên tục nghe thấy tiếng động từ phòng ông, chắc anh nghe thấy tiếng thở dài của ông vọng ra từ cửa sổ. “Thưa chú, chú định vứt tất cả những viên đá đẹp như thế ra ngoài kia hay sao?”

Ông già giật mình. Rồi, mắt vẫn chăm chăm nhìn sang đồi Petřín, ông nói khẽ:

“Chẳng có giá trị gì... chúng chỉ là những hòn sỏi...”

“Vâng, con biết là chúng không đáng giá cao, chính con cũng biết như vậy. Nhưng mà đối với chúng con, đối với chú, nó có giá trị chứ! Chú đã mất bao nhiêu công tìm ra chúng mà! Con xin chú giữ lại tất cả cho mấy đứa nhỏ nhà con. Chúng nó sẽ học để nhận biết các loại đá, chú sẽ dạy chúng nó...”

“Chắc vợ chồng anh tưởng là,” ông già lại mệt mỏi lên tiếng nói khẽ, “tưởng là chú giàu, chú quả thật...”

“Chú ơi,” anh Šajvl cầm tay ông chú rồi nói bằng giọng dứt khoát, nhưng nhẹ nhàng, “chú chẳng là thứ giàu có của chúng con sao? Không có chú thì tụi trẻ như không có ông, nhà con như không có cha. Chính chú cũng thấy là có chú, chúng con hạnh phúc như thế nào! Chú là niềm vui, là sự che chở của chúng con ở nhà này.”

Ông già đột ngột đi ra đến tận cửa sổ. Môi ông run run, mắt ông cay cay rưng rưng. Ông nhìn ra bên ngoài. Ông không trông thấy một cái gì cụ thể, tất cả mọi thứ đều lấp lánh như những hạt kim cương, tất cả mọi thứ đều như những con sóng vỗ đến tận cửa sổ ông đứng, tràn đến tận mắt ông. Ôi biển... biển!

Tôi xin ngừng kể ở đây vì tôi không biết tiếp tục thế nào nữa.

BÌNH SLAVICKÁ dịch