- 8 - CÁI TẨU BỌT BIỂN
Ngày 16 tháng hai năm một nghìn tám trăm bốn mươi, anh Vorel khai trương cửa hàng bột mì của mình ở ngôi nhà mang tên “Thiên thần xanh”. Bà vợ ông đại úy bảo cô con gái, lúc này đã đứng ở ngoài hành lang để chuẩn bị đi chợ: “Poldýnka ơi, con vào cửa hàng mới mua một gói bột thô nhé, ta ăn thử xem sao.”
Nhiều người nhẹ dạ có thể nói rằng mở một cửa hàng bột mì mới thì có gì là đặc biệt. Nhưng có lẽ tôi sẽ bảo kẻ nhẹ dạ đó: “Này, anh chả hiểu gì cả!”, hoặc chỉ nhún vai mà không nói gì. Thời đó, khi một người nhà quê nào cách hàng hai chục năm mới lên Praha, đi qua cổng thành Strahov đến tận phố Ostruhová, thì vẫn tìm thấy người bán hàng ở đúng góc phố như cách đó hai chục năm, vẫn thấy cửa hàng bánh mì với cái biển như xưa, vẫn thấy cửa hàng tạp hóa ở đúng ngôi nhà như trước. Thời đó, tất cả mọi thứ đều có chỗ cố định của nó. Vì thế, việc tự nhiên mở cửa hàng bán bột mì ở chỗ trước đó là cửa hàng tạp hóa chẳng hạn, là việc thuộc về những hành động dại dột ngu xuẩn đến mức không ai dám nghĩ tới. Cửa hàng là thứ cha truyền con nối, và giả sử nó được chuyển vào tay một người nào đó từ khu khác của Praha đến, hay người từ nhà quê lên, thì người đó cũng không bị cư dân địa phương coi hẳn là người lạ, bởi người đó đã tuân theo cái trật tự thành nếp ở đây mà không gây rắc rối bằng những cái mới lạ. Nhưng anh Vorel không những chỉ là người hoàn toàn xa lạ, mà lại còn đi mở cửa hàng bán bột mì ở trong ngôi nhà Thiên thần xanh là nơi từ trước đến nay chưa từng bao giờ có một cửa hàng nào. Vì cái cửa hàng mới ấy mà anh cho phá bức tường ở phía trông ra đường của căn hộ ở tầng mặt đất. Chỗ đó trước đây có cửa sổ uốn tròn. Ngày ngày, từ sáng đến chiều, ai đi qua cũng thấy bên cửa sổ ấy có một người đàn bà tuổi đã nhiều mang cái che mắt màu xanh ngồi trước quyển Kinh Thánh. Đó là bà quả phụ Stanková, bà đã mất cách đây ba tháng. Nhưng mà mở cửa hàng bột ở chỗ đó để làm gì?! Ở phố Ostruhová đã có một cửa hàng bột rồi, tuy nó ở tận cuối phố. Vậy thì mở cửa hàng thứ hai để làm gì?! Ngày đó, người ta vẫn còn nhiều tiền, phần lớn họ mua bột dự trữ ngay từ nhà xay bột. Có lẽ anh Vorel nghĩ là rồi sẽ buôn bán được. Có lẽ anh ấy nghĩ một cách tự phụ rằng anh ấy trẻ, đẹp trai, có khuôn mặt đầy đặn, có đôi mắt xanh mơ mộng và thân hình mảnh dẻ như thiếu nữ, hơn nữa còn chưa có gia đình, thì các bà nội trợ hẳn sẽ đến mua bột của anh. Nhưng mà trên đời này có nhiều chuyện lạ lùng!
Anh Vorel chuyển đến phố Ostruhová được khoảng ba tháng nay. Anh ấy là người nhà quê, ở đâu đấy không rõ. Người ta chỉ biết rằng anh là con trai một ông thợ xay bột, ngoài ra không biết gì hơn về anh. Có lẽ anh cũng tự nói cho họ biết về mình nhiều hơn, và sẵn sàng nói, nhưng mà có ai hỏi anh cái gì đâu. Với tất cả cái kiêu hãnh của cư dân địa phương, người ta tỏ ra chống đối anh, tỏ ra cho anh thấy rằng anh là người xa lạ đối với họ. Buổi tối đi uống bia ở quán Nhà vàng, anh ngồi một mình, chỉ một mình, ở góc cạnh lò sưởi. Những người khách khác chẳng hề để ý đến anh, nếu có thì cũng chỉ gật đầu khi anh chào họ. Người nào vào quán sau anh thì nhìn anh như thể anh là người lạ lần đầu tiên đến quán. Nếu anh vào quán khi mọi người đã ngồi ở đó rồi, thì đã có lần lập tức họ ngừng nói chuyện với nhau. Kể cả ngày hôm qua cũng không người nào để ý đến anh, mặc dù ở quán đã có một cuộc vui rất thân mật. Số là ông Jarmárka, nhân viên bưu điện, đã kỉ niệm đám cưới bạc, tức là kỉ niệm hai mươi nhăm năm ngày cưới của mình. Mặc dù cho đến nay, ông Jarmárka vẫn là người chưa vợ, nhưng ngày mười tám tháng hai là ngày mà cách đây hai mươi nhăm năm, chỉ một li nữa là ông lấy vợ. Một ngày trước khi cưới, người vợ tương lai của ông qua đời. Ông giữ lòng chung thủy với cô dâu của mình và không bao giờ nghĩ đến chuyện lấy vợ nữa. Ngày hôm qua, ông coi việc kỉ niệm đám cưới bạc là điều thật sự nghiêm chỉnh. Tất cả cư dân địa phương, toàn là người tốt, đều cho việc đó là chuyện không có gì khác thường. Vì thế, sau khi uống bia như thường lệ, ông Jarmárka lấy ra ba chai rượu vang thì tất cả đều chân thành chạm cốc chúc mừng. Bởi bà chủ quán bia chỉ có hai cái ly để uống rượu vang, người ta chuyền ly rượu cho nhau. Ấy thế mà không một lần nào ly rượu đi tới tay anh Vorel; cho dù hôm ấy, anh ngồi hút một cái tẩu mới bằng đá bọt biển có nạm bạc, và anh sắm nó cũng chỉ cốt để cho có vẻ là một người dân địa phương.
Vậy là vào sáu giờ sáng ngày mười sáu tháng hai, anh Vorel mở cửa hàng bột mì của mình ở ngôi nhà mang tên Thiên thần xanh. Ngay từ hôm trước, hết thảy mọi thứ đã được chuẩn bị kĩ càng, cửa hàng bóng nhoáng lên, mới mẻ với tường sơn trắng bóc. Bột mì trắng xóa trên các giá để hàng và trong các gói bột để ngỏ, còn trắng hơn cả màu trắng của tường mới quét sơn. Đậu Hà Lan khô vàng ươm, vàng hơn cả màu vàng da cam của bàn tủ xung quanh. Đàn ông đàn bà trong phố đi qua đều nhìn vào cửa hàng, có người còn lùi lại vài bước để ngắm nghía. Nhưng không một ai bước vào trong.
“Rồi họ sẽ đến,” anh Vorel, trên người mặc bộ quần áo màu xám với ống quần ngắn đến đầu gối, tự nhủ vào lúc bảy giờ sáng. “Giá mà mình đã có người mua mở hàng rồi,” anh nói vậy vào lúc tám giờ rồi châm lửa hút cái tẩu đá bọt biển mới.
Lúc chín giờ, anh ra đứng ở gần cửa, sốt ruột nhìn ra ngoài đường để xem liệu có ai đến mua mở hàng cho không. Vào lúc đó, cô Poldýnka, con gái ông bà đại úy, đang đi lên dốc. Cô Poldýnka là một cô gái đẫy đà khoảng hai mươi tuổi; cô thấp người nhưng có đôi vai và cái hông rộng bè bè. Người ta đã đồn đại đến ba bốn lần rằng cô sẽ lấy chồng. Trong đôi mắt sáng màu của cô đã có vẻ thờ ơ, đúng hơn là vẻ mệt mỏi, cái vẻ thường thấy ở các quý cô, quý bà mãi chưa lấy được chồng. Bước chân đi của cô giống cách đi chập chững của trẻ nhỏ, nhưng có cái riêng đặc biệt. Cứ đi được một đoạn, cô lại vấp. Vào những lúc ấy, bao giờ cô cũng hơi kéo váy lên, như thể cô đã giẫm phải nó. Bước đi của cô làm tôi liên tưởng đến bài thơ dài với nhiều khổ thơ có số nhịp giống nhau.
Anh Vorel trông thấy cô Poldýnka.
Cô Poldýnka mang cái làn trong tay đi tới tận cửa hàng. Cô ngước mắt nhìn lên, như vẻ ngạc nhiên về cái gì đó, rồi vấp chân vào bậc thềm nhà, cô lên đứng giữa cửa ra vào. Cô vẫn chưa bước vào hẳn trong cửa hàng mà đã vội kéo khăn lên bịt mũi. Anh Vorel chờ khách hàng quá lâu nên đã hút thuốc rất nhiều, trong cửa hàng vì thế đầy khói thuốc.
“Xin chào cô ạ. Thưa, cô cần gì ạ?” Anh ân cần hỏi, lùi lại hai bước và đặt cái tẩu lên quầy.
“Hai bơ bột thô,” cô Poldýnka nói và quay nửa người ra phía ngoài cửa.
Anh Vorel đong hai bơ bột, đong thêm vào đó nửa bơ nữa rồi đổ vào chiếc túi giấy. Anh thấy là phải nói một cái gì đó.
“Tôi hi vọng là... là quý cô sẽ... hài lòng,” anh lắp bắp. “Bột đây, thưa cô!”
“Bao nhiêu?” Cô Poldýnka hỏi, cô nín thở rồi ho vào cái khăn.
“Xin cô bốn krejcar ạ. Vâng, xin cám ơn cô ạ. Được cô gái xinh đẹp mua mở hàng, tôi sẽ gặp may đây!”
Cô Poldýnka tròn mắt lạnh lùng nhìn anh Vorel. Một kẻ bán bột xa lạ ở đâu đến! Rõ dơ chưa, người này giá mà lấy được con bé Anuše tóc đỏ nhà ông bán xà phòng thì vẫn còn là may mắn cho hắn lắm, vậy mà hắn dám mạo muội thế này với cô. Cô lặng thinh không trả lời và đi ra ngoài.
Anh Vorel xoa xoa tay hài lòng. Anh lại nhìn ra đường, và trông thấy lão Vojtíšek, một người ăn mày. Chỉ trong nháy mắt, lão đã đứng ở cửa, cái mũ xanh cầm trong tay. “Một krejcar đây ông ạ,” anh Vorel nói bằng giọng tử tế, “cứ vào ngày thứ tư thì ông lại đến mà lấy nhé!” Ông lão ăn mày mỉm cười, cám ơn rồi đi tiếp. Anh Vorel lại xoa xoa tay và tự nhủ: “Xem ra có vẻ nếu mình cứ chăm chăm nhìn vào ai thì người ấy phải vào đây. Rồi chắc chắn sẽ bán được hàng!”
Thế nhưng ở trước ngôi nhà mang tên Tầng hầm sâu, cô Poldýnka đang đứng nói chuyện với bà Kdojeková, vợ ông nhân viên sở kế toán: “Khiếp quá, cửa hàng của anh ta đặc khói thuốc đến mức mà mọi thứ đều như bị hun khói.” Buổi trưa, khi ăn xúp nấu bằng bột thô đã mua, cô khẳng định một cách chắc chắn rằng xúp có mùi khói thuốc và đặt thìa xuống không ăn nữa.
Chỉ đến chiều ngày hôm đó, tất cả dân phố đã biết là mọi thứ ở cửa hàng của anh Vorel đều ám khói, rằng bột mịn thì như bị rang cháy và bột thô thì như bị hun khói. Và người ta đã không gọi anh Vorel bằng cái tên nào khác, ngoài danh hiệu “thợ bột hun khói”. Số phận của anh thế là đã được định đoạt.
Anh Vorel hoàn toàn không linh cảm được điều đó. Ừ, ngày đầu tiên mở cửa hàng không bán được, không sao! Ngày thứ hai, ngày thứ ba không bán được, anh bảo nhưng rồi sẽ khá hơn! Cho đến tận cuối tuần, anh vẫn chẳng bán được lấy hai đồng tiền vàng... xem ra có cái gì không ổn đây!
Ngày lại ngày, sự tình cứ tiếp tục như thế mãi. Không một người dân nào ở đây đặt chân đến cửa hàng của anh, họa hoằn lắm mới có người nhà quê nào đó lạc đường vào mua, chỉ có lão ăn mày Vojtíček là thường xuyên tới. Cái tẩu bằng đá bọt biển trở thành người bạn an ủi duy nhất của anh. Nỗi buồn phiền rầu rĩ của anh càng đầy bao nhiêu thì khói thuốc anh nhả ra càng dày bấy nhiêu. Mặt anh nhợt nhạt đi, cái trán nhăn lại, nhưng chiếc tẩu thì càng ngày càng đỏ hơn và bóng nhoáng lên vì được hút nhiều. Cảnh sát ở phố Ostruhová nhìn vào kẻ hút thuốc không biết mệt mỏi ấy ở trong cửa hàng bằng con mắt độc địa. Giá mà anh ta cứ ngậm tẩu mà bước qua ngưỡng cửa ra đường, ít ra chỉ một lần thôi, ta sẽ phạt ngay! Một trong những viên cảnh sát ấy là ông Novák, người có vóc dáng bé nhỏ. Ông tuyên bố sẵn sàng mất cái gì cũng được, miễn là có thể giật được cái tẩu ra khỏi miệng anh Vorel. Vì thế mà tự nhiên, ông Novák chia sẻ cái không thiện cảm của người địa phương đối với kẻ xa lạ ấy. Nhưng anh Vorel thì lại cứ rầu rĩ, cứ ngồi không hề nhúc nhích ở sau quầy!
Cửa hàng của anh trở nên trống trải buồn thênh. Năm tháng sau, người ta bắt đầu thấy có mấy người có vẻ đáng ngờ vực đến gặp anh. Đó là những người Do Thái. Lần nào họ đến, anh cũng đóng tấm cửa kính lại. Người dân địa phương bàn tán với nhau rằng chắc chắn ở Malá Strana sẽ có người bị phá sản. “Dây dưa với người Do Thái là dễ có chuyện.”
Vào dịp ngày Thánh Havel giữa tháng mười, người ta đồn rằng anh Vorel sẽ chuyển đi nơi khác, và ông chủ nhà sẽ sửa cửa hàng lại thành căn hộ. Cuối cùng thì trước khi chuyển nhà một ngày, cửa hàng bột của anh đã vĩnh viễn đóng cửa.
Nhưng ngày hôm sau, liên tục từ chín giờ sáng đến tận chiều tối, ở phía trước cửa hàng đã đóng cửa của anh Vorel lúc nào cũng đông người. Người ta kể cho nhau rằng khi không tìm thấy anh Vorel ở đâu, ông chủ nhà đã cho phá cửa để vào.
Khi cánh cửa được mở, một cái ghế gỗ đổ văng ra đường. Phía trên là thân thể người bán bột tội nghiệp đang treo lủng lẳng bằng sợi dây móc vào cái móc trên trần nhà. Anh ấy đã thắt cổ tự tử.
Lúc mười giờ sáng, người của cơ quan pháp y đến cửa hàng. Họ cho cắt dây đỡ anh Vorel xuống. Ông Uhmühl, cảnh sát trưởng của Malá Strana, đã giúp họ. Ông cho tay vào túi quần của anh Vorel và lấy ra cái tẩu. Ông đưa cái tẩu ra ánh sáng để ngắm nghía, rồi khẳng định:
“Chưa từng bao giờ tôi trông thấy cái tẩu nào được hút cẩn thận kĩ càng như cái này. Đây, các ông xem này!”
BÌNH SLAVICKÁ dịch