← Quay lại trang sách

Chương 6 1939-Cuộc chiến của Teddy

Sự ngây thơ

Anh không nghe Chamberlain[70] đưa ra lời tuyên bố ảm đạm về chiến tranh trên radio, bởi vì anh đã lựa chọn việc dẫn con chó già nhà Shawcross là Harry đi dạo trên con đường mòn. Đó là một chuyến đi dạo thong dong, chậm chạp và nhẹ nhàng, vì bây giờ con chó thuộc giống Golden Retriever này chỉ có thể chịu đựng được kiểu vận động như vậy. Đôi mắt nó đã mờ đục và thân hình từng to lớn lừng lững giờ hốc hác đến mức chỉ còn da bọc xương. Nó còn bị điếc nữa, giống hệt Thiếu tá Shawcross. Hai bọn họ, ông già và con chó, đã ngủ gà gật bên nhau suốt những buổi chiều hè dài đằng đẵng của năm 1939, gắn bó với nhau trong thế giới câm lặng của riêng họ - Thiếu tá Shawcross thì ngồi trên chiếc ghế liễu gai cũ của mình, còn Harry nằm bẹp trên bãi cỏ dưới chân ông.

“Lòng em đau như cắt khi thấy nó như vậy.” Nancy nói. Cô nói về Harry mặc dù cô cũng xót xa cho cha mình. Teddy thấu hiểu nỗi thương tâm đặc biệt khi nhìn thấy con chó mà ta biết từ lúc nó còn nhỏ xíu đang dần chạm đến chân dốc bên kia của cuộc đời. “Những dấu hiệu của cái chết, trái với tiêu đề bài thơ của Wordsworth[71].” Ursula nói. “Ôi, giá mà tuổi đời của lũ chó dài hơn. Chúng ta đã phải khóc thương quá nhiều chú chó rồi.”

Các cô gái nhà Shawcross đều vô cùng yêu mến người cha già của họ, và Thiếu tá Shawcross đáp lại tình yêu ấy thậm chí còn mãnh liệt hơn. Hugh vốn gần gũi với Pamela và Ursula, đương nhiên rồi, nhưng Teddy luôn rất kinh ngạc khi thấy Thiếu tá Shawcross thoải mái thể hiện cảm xúc của mình với các con, ông thường ôm hôn “các cô gái của cha” và rơm rớm nước mắt chỉ bởi nhìn thấy họ. (“Cuộc Đại chiến.” Bà Shawcross nói. “Nó đã khiến ông ấy thay đổi.”) Cuộc chiến ấy cũng khiến Hugh trở nên trầm lặng hơn. Thiếu tá Shawcross có mong một cậu con trai không? Chắc chắn là có, chẳng phải đàn ông ai cũng thế sao? Chẳng phải Teddy cũng vậy ư?

Anh định cầu hôn Nancy. Có lẽ là hôm nay. Một ngày lịch sử trọng đại, để trong tương lai, Nancy sẽ nói với các con của họ (vì chắc chắn họ sẽ có con): “Con biết không, bố con đã cầu hôn mẹ vào ngày chiến tranh bùng nổ đấy.” Teddy cảm thấy anh đã chờ đợi lâu rồi, có lẽ là quá lâu. Đầu tiên là để Nancy hoàn thành tấm bằng cử nhân Toán học ở Trường Newnham, và bây giờ là để cô học lấy bằng tiến sĩ. Đề tài nghiên cứu để lấy học vị tiến sĩ của cô là thứ gì đó liên quan đến “các số tự nhiên”. Chúng có vẻ chẳng tự nhiên chút nào đối với Teddy. Anh không muốn thấy mình phải chờ đợi đến khi chiến tranh kết thúc nữa, vì ai biết nó sẽ kéo dài bao lâu.

Teddy hiện hai mươi lăm tuổi, đối với mẹ anh, anh gần như đã “quá lứa”. Bà háo hức mong có cháu, háo hức hơn hẳn những lần mong đợi trước, bởi vì Pamela đã có “ba đứa con trai và quân số vẫn còn tăng lên”, còn Maurice có một trai một gái. “Giống như cá tẩm bột rán và khoai tây chiên[72].” Ursula nói. Teddy chẳng biết gì mấy về các con của Maurice và Sylvie nói cho anh biết rằng chúng “khá đần”.

Kết hôn với Nancy có vẻ là điều tất yếu. Tại sao anh lại không cưới cô chứ? “Thanh mai trúc mã.” Bà Shawcross nói, xúc động bởi ý niệm lãng mạn này. Mẹ anh thì không bị xúc động như thế.

Tất cả mọi người đều cho là như vậy, ngay cả Sylvie, người nghĩ rằng Nancy “quá thông minh” nên không phù hợp với hôn nhân. (“Hôn nhân mài mòn người ta.”)

“Dù sao đi nữa, còn có thể là ai khác ngoài Nancy?” Teddy hỏi Ursula. “Tính đến nay, cô ấy là người tốt nhất mà em biết. Cũng là người dễ thương nhất nữa.”

“Và em yêu cô ấy. Và em biết rằng tất cả chúng ta đều yêu quý cô ấy.”

“Đương nhiên, em yêu cô ấy.” Teddy nói. (Đó có phải là một câu hỏi không?) Anh có biết tình yêu là gì không? Tình yêu dành cho người cha, người chị, thậm chí là một chú chó thì anh có biết, nhưng còn tình yêu giữa người chồng và người vợ? Hai cuộc đời đan cài vào nhau chặt chẽ đến mức không thể gỡ nổi. Hoặc bị ràng buộc như con bò bị thắng vào ách, con ngựa bị đóng yên cương. (“Mục đích của hôn nhân là vậy.” Sylvie nói. “Nếu không, chúng ta sẽ trở nên phóng túng.”)

Anh nghĩ về Adam và Eve, anh nghĩ về Sylvie và Hugh. Dường như cả hai cặp đều không phải là những ví dụ tốt lắm. “Cuộc hôn nhân của cha mẹ Nancy…” Ursula nói. “… Chẳng phải đó là một hình mẫu lý tưởng sao? Thiếu tá Shawcross và bà Shawcross thật hạnh phúc. Ít nhất là ở bề ngoài.” Nhưng bề ngoài và thực tế là hai vấn đề khác nhau, đúng không? Và ai mà biết những bí mật của một cuộc hôn nhân chứ?

Anh đã yêu Nancy hồi họ còn nhỏ, nhưng đó là một kiểu tình yêu khác, thánh thiện, trong sáng nhưng ngây thơ, trẻ con. Vì bây giờ chúng ta nhìn qua một tấm gương mờ tối[73].

“Có lẽ nên đi thẳng vào vấn đề hơn.” Ursula nói. “Em sẽ cảm thấy thế nào nếu em không cưới cô ấy?” Thế là, anh nghĩ, đương nhiên anh sẽ cưới Nancy. Họ sẽ chuyển tới một vùng ngoại ô êm đềm, có những đứa con, và anh sẽ nỗ lực làm việc để thăng tiến trong ngân hàng, cho đến khi các nhân viên tôn kính anh như họ tôn kính cha anh. Hoặc cũng có thể là không.

Không chỉ sự sắc bén của vợ anh sẽ bị làm cho cùn đi. Tương lai là một cái lồng nhốt kín anh. Chẳng phải tự thân cuộc đời là một cạm bẫy lớn hay sao, chẳng phải hai hàm răng của nó đang chực chờ để cắn phập vào nhau ư? Đáng lẽ anh không nên trở về từ nước Pháp. Đáng lẽ anh nên ngừng lười biếng, ngừng giả vờ rằng anh có tâm hồn của một nhà thơ. Thay vì thế anh nên bám lấy con người phiêu lưu trong anh và tiến về phía đông, khám phá những điểm tận cùng của Đế quốc - như nước Úc chẳng hạn. Một nơi nào đó nguyên sơ và còn nhiều bất ổn, nơi một người đàn ông có thể tự nhào nặn mình thay vì bị những người xung quanh nhào nặn. Quá muộn rồi. Bây giờ thứ nhào nặn anh không còn là địa lý của Đế quốc, mà sẽ là cấu trúc của chiến tranh.

Họ đã tới cánh đồng bò sữa, Teddy bứt vài lá cỏ dài từ hàng rào và thét lên: “Bò… ò, bò… ò…” Nhưng sau khi thoáng liếc mắt về phía anh, lũ bò vẫn thờ ơ bình thản. Anh châm một điếu thuốc và dựa người vào cánh cổng trong lúc hút thuốc. Harry đã vụng về nằm phịch xuống mặt đất, hai mạng sườn gầy trơ xương của nó phập phồng vì nỗ lực hít thở. “Anh bạn già tội nghiệp.” Teddy nói, thò tay xuống và gãi gãi phía sau vành tai mềm mại của chú chó già. Anh nghĩ về Hugh. Họ chưa bao giờ chạm mặt nhau ở ngân hàng nhưng thi thoảng cha anh sẽ mời anh tới ăn trưa tại câu lạc bộ của ông ở Pall Mall. Thế giới tài chính lạnh lùng phù hợp với Hugh, nhưng đối với Teddy, nó thật nhàm chán, tẻ nhạt và thi thoảng khiến anh thấy vô cùng khốn khổ.

Cha anh sắp nghỉ hưu, đương nhiên, ông thường đi thơ thẩn quanh vườn, ngủ gà gật bên những trang sách mở của cuốn Wisden trong vườn hay trong phòng riêng, khiến Sylvie điên tiết. Chỉ hơn một năm sau, Hugh sẽ được tìm thấy trong tình trạng như thế, ngồi trên cái ghế sưởi nắng trong vườn, cuốn sách Wisden để mở trên đùi. Ngủ giấc ngủ ngàn thu. Ngay cả cái chết bình yên nhất này của ông cũng có vẻ làm Sylvie phẫn nộ. “Ông ấy cứ lẳng lặng mà đi, chẳng nói một lời!” Bà phàn nàn, như thể ông còn nợ bà nhiều thứ. Có lẽ đúng là thế thật.

“Bố không phải là người ồn ào.” Ursula viết thư gửi sang Canada cho Teddy bằng tờ giấy poluya màu xanh, có một vết mực bị nhòe, hẳn là vì bị một giọt nước mắt rơi trúng.

Teddy di đầu mẩu thuốc lá dưới chân và nói: “Đi nào, Harry, chúng ta sẽ bị lỡ bữa trưa nếu không nhanh lên.” Con chó vẫn không thể nghe thấy lời anh, nhưng ngay cả khi Teddy khẽ chọc vào người nó, nó vẫn không nhúc nhích, và anh sợ rằng anh đã khiến nó hoàn toàn kiệt sức. Tuy chỉ còn da bọc xương nhưng nó vẫn nặng khủng khiếp, Teddy không chắc anh có thể bê thi thể của con chó về tận nhà, mặc dù anh cho rằng anh sẽ phải cố gắng xoay xở làm việc đó nếu không có lựa chọn nào khác - đó là điều buộc phải làm. Nhưng may thay, Harry đã quả cảm lê mình dậy và họ chậm rãi đi về nhà Nancy.

“Ôi, cháu đừng vào nhà.” Bà Shawcross nài nỉ khi nhìn thấy anh ở cửa sau của Quạ Gáy Xám. Bà phẩy cái khăn lau bát đĩa về phía anh như thể anh là một con ruồi.

Nancy đang ở nhà nhân kỳ nghỉ dài. Cô đang nằm bẹp trên giường vì bị bệnh ho gà (“Từng này tuổi rồi!”) và được bà Shawcross cần mẫn chăm sóc. Bà Shawcross biết hồi nhỏ Teddy chưa mắc bệnh này. “Cháu không được để mình nhiễm bệnh.” Bà nói. “Người lớn mà mắc bệnh này thì khủng khiếp lắm.”

“Đừng tới gần con bé đó.” Sylvie đã khuyến cáo khi anh nói với bà rằng anh đã ngỏ ý đưa Harry đi dạo, vì hiện giờ ở Góc Cáo chẳng có con chó nào. Quá muộn rồi, anh nghĩ.

“Con bé đó” là cô gái mà anh sắp sửa cầu hôn, nhưng có lẽ không phải là hôm nay. “Con bé thực sự khá yếu.” Bà Shawcross nói. “Nhưng đương nhiên bác sẽ gửi tình yêu của cháu đến cho nó.”

“Nhờ bác ạ.”

Các loại mùi khác nhau của bữa trưa Chủ nhật bay ra từ căn bếp của bà Shawcross. Những lọn tóc của bà xổ tung từ búi tóc xộc xệch, mặt bà đỏ bừng và trông bà như chếnh choáng say, nhưng theo kinh nghiệm của Teddy, đây chính là kết quả của việc nấu nướng bữa trưa Chủ nhật. Giống như Góc Cáo, Quạ Gáy Xám vừa mới mất đi người đầu bếp, và bà Shawcross dường như còn ít phù hợp với nghệ thuật bếp núc hơn cả Sylvie. Chẳng thấy bóng dáng Thiếu tá Shawcross đâu cả. Bà Shawcross là người ăn chay và Teddy tự hỏi bà sẽ ăn gì trong lúc ông Shawcross thưởng thức món thịt bò. Có lẽ là một quả trứng. “Ôi, Chúa ơi, không.” Bà Shawcross nói. “Chỉ nghĩ đến việc ăn trứng thôi cũng đủ khiến bác cảm thấy buồn nôn rồi.”

Teddy nhìn thấy một chai Madeira để mở trên bàn bếp và một cái ly nhỏ đựng đầy một nửa thứ chất lỏng màu nâu ấy. “Chiến tranh.” Bà Shawcross nói, đôi mắt mọng nước, và chẳng còn nhớ gì đến sự lây nhiễm, bà kéo Teddy vào vòng ôm ấm áp, nồng nàn mùi rượu của mình. Bà có mùi rượu Madeira và xà phòng Coal Tar, một sự kết hợp lạc quẻ, khó chịu. Bà Shawcross đẫy đà, dịu dàng và luôn có chút rầu rĩ. Nếu Sylvie bực tức trước những thói xấu của thế giới thì bà Shawcross lại chịu đựng cái gánh nặng ấy một cách nhẫn nại, như đối với một đứa trẻ. Anh cho rằng chiến tranh sẽ làm cho gánh nặng đó càng trở nên nặng nề hơn.

Bà Shawcross đặt tay lên thái dương và nói: “Ôi trời, bác nghĩ cơn đau đầu lại tấn công bác rồi.” Bà thở dài và nói thêm: “Ơn Chúa vì bọn bác chỉ có con gái. Neville sẽ không thể đối mặt với việc tiễn một đứa con trai ra chiến trường.”

Teddy chắc chắn mình đã ủ bệnh ho gà. Bà Shawcross không biết rằng tuần trước Nancy đã lên London để gặp anh, cô đã len lén đi vào phòng trọ của anh dưới con mắt sắc bén như mũi khoan của bà chủ nhà, và ở lại qua đêm. Hai người họ ép sát vào nhau trên cái giường chật hẹp, cười rung cả người trước tiếng lò xo giường cọt kẹt. Họ vẫn chưa rành chuyện đó. “Rõ là a ma tơ.” Nancy cười cợt nói. Giữa họ có sự đam mê, nhưng đó là sự đam mê điềm đạm, vui vẻ. (Dĩ nhiên, có thể có người tranh luận rằng, theo cách định nghĩa ấy thì đó chẳng phải là sự đam mê nữa rồi.) Anh từng quan hệ với một, hai cô gái ở trường Oxford và một vài cô ở Pháp, nhưng việc quan hệ với họ giống như một chức năng của cơ thể hơn, khiến anh bất mãn và vô cùng bối rối. Hành động ấy có lẽ không đến mức hoàn toàn hoang dã nhưng chắc chắn cũng có chút bản năng thú vật, và anh cho rằng anh biết ơn Nancy vì cô đang thuần hóa nó. Thứ ham muốn cuồng dại và sự lãng mạn mộng tưởng có lẽ chỉ nên hiện hữu trong những trang sách. Anh ngờ rằng anh giống cha mình. Nhưng chiến tranh sẽ thay đổi điều này, giống như nó sẽ thay đổi mọi thứ, nó sẽ dẫn anh đến với những mối quan hệ chớp nhoáng ít văn minh hơn. Tuy nhiên, Teddy sẽ không bao giờ thoải mái với những từ ngữ miêu tả tình dục. Anh cũng không rõ là do sự đứng đắn vờ vĩnh hay nỗi e ngại thực sự. Con gái anh trong tương lai sẽ không ngại ngần gì những từ ngữ ấy. Viola làm tình, ăn nằm, thậm chí còn dùng những từ suồng sã hơn và sẵn sàng kể oang oang những chuyện này. Teddy cảm thấy nhẹ nhõm khi Viola tuyên bố mình không còn quan hệ với ai ở tuổi năm mươi lăm.

Phòng trọ của anh khá gần Bảo tàng Anh, nó có chút xập xệ nhưng anh thích nó, mặc dù bà chủ nhà ghê gớm đến mức có thể sánh ngang với Thành Cát Tư Hãn. Teddy không biết rằng, vì sự kìm hãm khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh, đêm vụng trộm ấy của anh với Nancy sẽ là một trong số ít dịp hiếm hoi họ có thể thân mật với nhau cho đến khi chiến sự kết thúc.

“Nancy tội nghiệp thế nào rồi?” Hugh hỏi khi Teddy trở về Góc Cáo.

“Con nghĩ cô ấy vẫn ổn.” Teddy nói. “Mặc dù thực ra con không gặp cô ấy. Vậy là chúng ta đang có chiến tranh sao bố?”

“Bố e rằng vậy. Vào thư phòng đi, Ted, và uống với bố một ly.” Thư phòng là nơi ẩn dật của Hugh, là chốn an toàn mà người khác chỉ có thể vào nếu được mời. “Con nên nhanh chân…” Ông nói thêm. “… Trước khi mẹ con nhìn thấy con. Bố đoán bà ấy sẽ trở nên kích động. Bà ấy không thể chịu nổi chuyện này, cho dù chúng ta đều biết nó sẽ xảy ra.”

Teddy không chắc tại sao anh lại quyết định không nghe lời tuyên bố chiến tranh. Có lẽ chỉ đơn giản vì anh cho rằng việc dẫn một con chó đi dạo vào sáng Chủ nhật nắng ấm trước bữa trưa là việc quan trọng hơn.

Hugh rót hai cốc whisky mạch nha từ cái bình thon cổ nặng trịch bằng thủy tinh được chạm khắc hoa văn mà ông cất trong thư phòng. Họ cụng ly và Hugh nói “Vì hòa bình” trong khi Teddy tưởng ông sẽ nói “Vì chiến thắng”. “Con nghĩ con sẽ làm gì?” Hugh hỏi anh.

“Con cũng không biết nữa.” Teddy nhún vai. “Chắc con sẽ tòng quân.”

Bố anh cau mày, nói: “Nhưng không phải là lục quân chứ!” Nỗi kinh hãi âm thầm về những con hào thoáng lóe lên trên mặt ông.

“Con nghĩ là không quân bố ạ.” Teddy nói. Trước khoảnh khắc này, anh thực sự chẳng nghĩ gì về chuyện đó, nhưng bây giờ, anh nhận ra rằng cửa lồng đang mở, những song sắt nhà tù đang sụp đổ. Anh sắp sửa thoát khỏi những xiềng xích của ngân hàng. Anh nhận ra mình cũng sắp sửa thoát khỏi viễn cảnh về cuộc sống ở vùng ngoại ô, về lũ trẻ có thể bị gọi là “khá đần”. Thậm chí thoát khỏi cái ách và bộ yên cương mang tên là hôn nhân. Anh nghĩ về những cánh đồng hoa hướng dương vàng rực. Những khối màu rắn chắc. Những mảnh nắng nóng bỏng.

Anh lo lắng liệu nước Pháp có bị sụp đổ dưới bàn tay ma quái của Hitler không? Chắc là không.

“Phi công.” Anh nói với bố mình. “Con muốn bay.”

Lời tuyên bố chiến tranh đã làm trì hoãn bữa trưa Chủ nhật. Sylvie vẫn đang hái lá bạc hà ở ngoài vườn để làm gia vị cho món thịt cừu lúc Teddy đi tìm bà. Bà không có vẻ kích động chút nào, chỉ khá nghiêm nghị. “Con lỡ mất lời tuyên bố của Chamberlain rồi.” Bà nói, đứng thẳng dậy và xoa eo lưng. Mẹ anh cũng đang già đi, anh nghĩ. “Và mẹ cho rằng con sẽ phải chiến đấu.” Bà nói, nhìn nắm lá bạc hà mà bà đang vò nát trong tay.

“Con cho rằng vậy.” Anh nói.

Sylvie xoay gót và đùng đùng đi vào trong nhà, để lại mùi bạc hà thơm ngát ở đằng sau. Bà dừng lại ở cửa hậu và ngoảnh lại nói với anh một câu thừa thãi: “Bữa trưa sẽ muộn đấy.”

“Mẹ có bực lắm không?” Chiều hôm đó, Ursula hỏi anh qua điện thoại.

“Rất bực.” Anh nói và họ đều cười. Trước đó, Sylvie đã ủng hộ chính sách nhượng bộ rất nhiệt tình.

Mọi người tới tấp gọi điện cho nhau suốt cả chiều. Thành thật mà nói, Teddy phát mệt vì liên tục bị hỏi xem anh định làm gì, như thể tương lai của cuộc chiến này chỉ nằm riêng trên vai anh.

“Nhưng em là người lính duy nhất của gia đình mình.” Ursula nói. “Em sẽ làm gì?”

“Gia nhập không quân.” Anh đáp ngay tức khắc. Càng được hỏi câu hỏi này nhiều lần, câu trả lời của anh càng trở nên chắc chắn. (Anh tự hỏi Augustus sẽ làm gì? Ý anh là Augustus trưởng thành, bản sao của anh, chứ không phải cậu bé trẻ mãi không già như Peter Pan trong những cuốn sách của Izzie.) “Dù sao đi nữa, em không phải là người lính duy nhất, còn Maurice và Jimmy thì sao?”

“Maurice sẽ tránh né bất cứ mối nguy hiểm nào, rồi em sẽ thấy.” Ursula nói. “Còn Jimmy, chị cho rằng… Ôi trời. Chị vẫn nghĩ nó là trẻ con, chị không thể hình dung ra nó cầm một món vũ khí trong tay.”

“Nó gần hai mươi rồi.” Teddy cảm thấy cần phải chỉ ra sự thật ấy.

Bữa trưa thật ảm đạm. Chỉ có ba người họ - nếu tính cả Bridget đang ở trong bếp thì là bốn người, nhưng họ chẳng bao giờ tính cô ấy vào. Họ ăn thịt cừu với khoai tây và ít đậu đũa khá xơ hái ở trong vườn. Sau đó, Bridget đặt đánh thịch món bánh pudding làm từ gạo đựng trong cái đĩa hình bầu dục xuống bàn và nói: “Nó bị khô mất rồi, “nhờ” đám người Đức chết tiệt đó đấy.”

“Ít nhất thì bây giờ Bridget sẽ có ai đó ngoài mẹ để đổ lỗi cho những tai họa trong thế giới của chị ta.” Ursula nói khi Teddy kể với cô qua điện thoại về câu nói của Bridget. “Cuộc chiến này sẽ đẫm máu, em biết đấy.” Cô buồn bã nói thêm. Ursula có vẻ nắm được nhiều thông tin. Cô “quen biết” nhiều người, đương nhiên, trong đó bao gồm cả một người có vị trí cao trong Bộ Hải quân.

“Anh chàng Phó Đề đốc của chị là người thế nào?” Anh hỏi cô khá dè dặt vì Sylvie đang ở quanh đó.

“Ồ, em biết đấy - là người đã có gia đình.” Ursula nhẹ nhàng nói. “Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán[74].” Cô đã nói khi tâm sự với anh về cuộc tình này. Teddy đã giật mình khi biết chị gái mình dan díu với chồng của người khác, là người thứ ba. Nhưng đến cuối cuộc chiến, chẳng có chuyện gì về đàn ông và đàn bà làm anh ngạc nhiên nữa cả. Thực tế là anh chẳng còn ngạc nhiên với bất cứ chuyện gì. Hóa ra cả tòa kiến trúc của nền văn minh lại được xây dựng trên một nền móng bấp bênh bao gồm cát lún và trí tưởng tượng.

Sau bữa trưa, họ lại uống một ly whisky lớn và rồi lại một ly nữa trước bữa tối, vậy nên lúc Teddy rời đi London, cả Teddy và Hugh - vốn không phải sâu rượu - đều đã ngà ngà say. Teddy nghĩ sáng mai anh vẫn sẽ đến ngân hàng, nhưng vào giờ ăn trưa, anh sẽ đi tìm một văn phòng tuyển quân để đăng ký. Và rồi, có lẽ thế giới này tuy sẽ không đảo lộn như lời khúc ballad cũ về cuộc Nội chiến nhưng chắc chắn sẽ thay đổi trong chừng mực nào đó.

“Khúc ballad đó là một khúc bi ca chứ không phải hoan ca.” Ursula nói. Thi thoảng cô cũng câu nệ chi tiết gần giống như Nancy vậy. “Giáng sinh đã bị khai tử ở trận Naseby.” Chị gái anh lúc này chưa phải là người Thanh giáo - chiến tranh sẽ biến cô thành người như vậy.

Sylvie hôn lên má anh nụ hôn tạm biệt, rất lạnh lùng, và quay người đi, nói rằng bà sẽ không nói lời chào tạm biệt với anh bởi vì nó sẽ tạo cảm giác như đây là lần gặp cuối cùng. Teddy nghĩ mẹ anh thật giỏi diễn xuất nếu bà quyết tâm làm việc đó. “Con đang chuẩn bị bắt chuyến tàu 720 tới ga Marylebone mà mẹ.” Anh nói với bà. “Có phải con đi vào chỗ chết đâu.”

“Chưa đến lúc thôi.”

Hugh vỗ vai anh như cách một người cha thường làm và nói: “Đừng để ý tới mẹ con. Nhớ bảo trọng nhé Ted?” Đó là lần cuối cùng anh được bố chạm vào.

Anh đi dọc con đường mòn dẫn tới nhà ga trong bóng chiều chạng vạng. Cho đến lúc đã ngồi trong một toa hạng nhì, anh mới nhận ra thứ khiến anh chóng mặt và nóng rực cả người không phải là rượu whisky của Hugh mà chính là căn bệnh ho gà của Nancy. Căn bệnh đã trì hoãn nỗ lực gia nhập cuộc chiến của anh mất vài tuần khốn khổ, thậm chí khi anh đã khỏi bệnh và cố đăng ký, anh vẫn bị người ta đuổi về và bảo rằng hãy đợi một thời gian nữa. Đến giữa mùa xuân năm 1940, anh nhận được một tấm phong bì được để trên chiếc bàn ngoài tiền sảnh nhà trọ của anh. Khi mở ra, anh mới thấy thì ra đó chính là một thông báo từ Bộ Không quân bảo anh đến trình diện ở sân bóng cricket Lord’s để phỏng vấn. Vào mùa hè trước khi anh nhập học trường Oxford, bố anh đã đưa anh tới sân Lord’s để xem trận cricket đối kháng Toàn Ấn Độ đầu tiên. Thật kỳ lạ khi giữa vô vàn địa điểm, đây lại là nơi anh chính thức được chấp nhận gia nhập cuộc chiến. “Đội Anh đã thắng 158 lượt chạy.” Bố anh nhớ lại khi anh nói với ông về địa điểm ấy. Và Teddy tự hỏi cần bao nhiêu lượt chạy mới thắng được cuộc chiến này? - Ngay cả ở giai đoạn này trong cuộc đời, anh vẫn có thói quen liên tưởng linh tinh. Mặc dù thực tế nó cần chính xác bảy mươi hai lượt chạy, không lượt nào bị loại - đó chính là số lần xuất kích của anh tính đến cuối tháng Ba năm 1944.

Bước chân anh tới chỗ làm nhẹ nhàng hơn. Anh dừng lại để vuốt ve một con mèo đang nằm sưởi nắng trên một bức tường. Anh ngả mũ chào một người phụ nữ thanh lịch anh gặp trên đường, rõ ràng cô ta bị anh mê hoặc nên mỉm cười đáp lại (nụ cười của cô ta khá hấp dẫn, đặc biệt là ở thời điểm này). Anh dừng lại để ngửi mùi một bông tử đinh hương nở muộn trên hàng rào bao quanh những khu vườn của quảng trường Lincoln’s Inn Fields. Anh nghĩ rằng “sự huy hoàng và giấc mộng[75]” của Wordsworth không hoàn toàn bị quên lãng.

Thứ mùi quen thuộc của đồng thau và gỗ được đánh bóng xộc tới bủa vây anh khi anh bước vào ngân hàng. Sẽ không còn nữa, anh nghĩ, sẽ không còn nữa.

Hơn một năm sau, khi trên bộ quân phục của anh đã có chiếc phù hiệu hình đôi cánh, và khóa huấn luyện của anh trong Kế hoạch Huấn luyện Bay Khối thịnh vượng chung Anh ở Canada đã hoàn thành, anh trở về trên con tàu Hoàng hậu Mary khởi hành từ New York. “Thích thế!” Izzie nói khi nghe kể về chuyện này. “Cô từng có khoảng thời gian thật tuyệt vời khi đi trên con tàu đó.” Teddy không buồn nói cho bà biết rằng con tàu khách ấy giờ đã trở thành tàu chở lính cho quân đội Mỹ, anh đã phải chen lấn xô đẩy mới lên được trên đó (“bị đẩy xuống đáy khoang tàu đọng đầy nước bẩn”) và tất cả mọi người - một nửa trong số đó bị say sóng trong suốt cuộc hành trình - bị lèn chặt hơn cả những con cá mòi trong hộp. Họ còn có cảm giác bất an khi băng qua Đại Tây Dương giữa thời tiết xấu mà không có tàu hộ tống. Con tàu này được cho là chạy nhanh hơn cả tàu ngầm Đức, nhưng Teddy không tin điều đó. “Vâng, thức ăn tuyệt lắm ạ.” Anh mỉa mai nói với bà (mặc dù nếu so sánh với những bữa ăn đạm bạc của chế độ phân phối thì nó vẫn còn ngon chán). Anh không biết liệu bà có nghe ra giọng điệu châm biếm của anh hay không. Izzie luôn là người khó hiểu.

Sau khi từ Canada về, anh được nghỉ phép vài ngày trước khi tham gia một Đơn vị Huấn luyện Chiến đấu. Chị gái anh đã xoay xở đào thoát khỏi London để về Góc Cáo ăn trưa. Izzie cũng đang “quanh quẩn” ở đó, không mời mà đến, theo lời Sylvie. Vào mùa thu năm 1942 ấy, Pamela đã đi tản cư ở một nơi đồng không mông quạnh, mặc dù cô sẽ sớm trở về; Maurice gần như cắm rễ trong một boong ke ở Whitehall; Jimmy đang được huấn luyện trong một đơn vị lục quân ở Scotland. Còn Hugh thì đã qua đời. Sao có thể? Sao bố anh có thể chết được chứ?

Hồi đó Teddy đã được phê chuẩn nghỉ phép để về chịu tang cha và Hải quân (cụ thể là người đàn ông của Ursula ở Bộ Hải quân, nhưng Teddy không bao giờ biết điều này) đã kiếm được chỗ cho anh trên một con tàu buôn được hộ tống, nhưng vào phút chót, lệnh phê chuẩn đã bị hủy. “Dù sao đi nữa con cũng sẽ không về kịp đám tang.” Sylvie nói. “Vì vậy con có về được hay không cũng chẳng mấy khác biệt.”

“Tôi thấy ngạc nhiên…” Maurice nói. “… Khi đang trong chiến tranh mà lại có người coi đó là một yêu cầu quan trọng.” Ursula nói: “Maurice là một trong những kẻ đóng dấu cho các giấy phép mua hàng - hoặc không - và gạch chéo lên những lá đơn. Anh ta chính là loại người sẽ bác bỏ một lá đơn xin nghỉ phép để về chịu tang.” Maurice sẽ rất bực tức khi bị coi là kẻ thấp kém đến mức phải đóng dấu bất cứ thứ gì. Anh ta chỉ việc ký tên thôi. Ngoáy một chữ ký trơn tru từ ngòi chiếc bút Sheaffer bằng bạc. Nhưng không phải trong trường hợp này.

Teddy phải cảm ơn bất cứ người nào đã bác bỏ yêu cầu nghỉ phép của anh. Đoàn tàu hộ tống đã bị tàu ngầm Đức tấn công. Con tàu mà Teddy định đi đã bị đánh chìm cùng tất cả thành viên trên tàu. “Chắc là em đã được giữ lại để dành cho một mục đích cao cả hơn.” Ursula nói.

“Không phải là chị tin điều đó đấy chứ?” Teddy hỏi, kinh ngạc nghĩ rằng chị gái mình có thể đã ngộ đạo.

“Không.” Cô nói. “Chị đã học được một điều rằng sống và chết là hoàn toàn ngẫu nhiên.”

“Hoàn toàn đúng. Người ta học được điều đó trong cuộc chiến lần trước.” Izzie nói, châm một điếu thuốc lá dù bà hầu như chưa động đến một miếng thịt gà hầm nào mà Sylvie đã nấu cho bữa trưa. Sylvie đã làm thịt con gà ấy vào sáng nay để “ăn mừng” sự trở về của “đứa con trai hoang đàng”. (Lại nữa rồi, anh nghĩ. Đó là vai trò của anh trong cuộc đời này ư? Suốt đời hoang đàng?) “Hoang đàng gì chứ.” Teddy chống chế. “Con đi học chiến đấu mà.”

“Nhưng, coi kìa, cả nhà đã làm thịt con gà béo này để chào mừng em trở về.” Ursula nói.

“Một con gà già thì đúng hơn.” Izzie nói.

“Đúng là cùng loại nên dễ nhận ra nhau.” Câu nói này là của Sylvie, đương nhiên.

Izzie gạt cái đĩa của mình đi và Sylvie nói: “Tôi hy vọng cô sẽ ăn hết chỗ thịt đó. Con gà này đã chết vì cô đấy.” Ursula cười phá lên và Teddy nháy mắt với cô. Nhưng anh có cảm giác sai trái khi vắng mặt Hugh mà anh vẫn có thể vui vẻ.

Izzie đã đào tẩu qua bờ bên kia của đại dương vào giây phút tình trạng chiến tranh được công bố nhưng lúc Teddy cập cảng Liverpool thì bà đã trở về, quả quyết rằng “lòng yêu nước” là một bổn phận quan trọng hơn cả sự an toàn của bản thân. “Yêu nước cái gì chứ.” Sylvie khinh miệt nói. “Cô về nhà chỉ vì cuộc hôn nhân của cô là một thảm họa.” Người chồng của Izzie - vốn là nhà soạn kịch nổi tiếng - đang “dan díu với hết người nọ đến người kia ở Hollywood”, Sylvie nói. Nghe thấy từ “dan díu”, Teddy liếc nhìn Ursula đang ngồi ở phía đối diện với anh qua chiếc bàn ăn theo phong cách Nhiếp chính Phục hưng, nhưng cô lại đang nhìn xuống đĩa thịt gà trước mặt mình.

Sylvie hiện có một đàn gà lớn và bà lấy trứng của chúng để đem đổi lấy những thứ thiết yếu khác. Những con gà bị vắt kiệt sức ấy thường kết thúc cuộc đời trên bàn ăn của Góc Cáo khi chúng không còn làm tròn nhiệm vụ của mình trên mặt trận đẻ trứng. “TBL[76].” Ursula nói. Khi thấy vẻ mặt ngơ ngác của Sylvie, cô giải thích: “Thiếu bản lĩnh. Dễ dao động. Khi những người lính không chế ngự được sự lo lắng, căng thẳng của mình. Nhưng họ gọi đó là sự hèn nhát.”

“Cô đã thấy nhiều người như vậy dưới những con hào.” Izzie nói.

“Cô đâu có ở dưới những con hào.” Sylvie nói, bà luôn cáu kỉnh mỗi khi Izzie nhắc tới những trải nghiệm của mình trong cuộc chiến lần trước. Họ đều như thế trong chừng mực nào đó. Lạ một điều là chỉ có Hugh chịu đựng được một chút “cuộc chiến của Izzie”, như cách ông gọi nó. Ông từng tình cờ gặp em gái mình một lần ở một trạm cấp cứu không quá xa tuyến lửa trong trận Somme kinh hoàng. Ông đã bối rối khi nhìn thấy bà. Bà có vẻ đang ở nhầm chỗ - bà thuộc về căn phòng khách ở Hampstead hoặc đáng ra phải mặc chiếc váy dạ hội, ve vãn và bỡn cợt một người đàn ông không thể cưỡng lại được sức hút của bà. Ký ức về “hành động dại dột” của bà - đó là cách ông gọi cuộc tình vụng trộm tai tiếng của bà với một người đàn ông lớn tuổi hơn, đã có vợ, dẫn đến hậu quả là bà sinh ra một đứa con ngoài giá thú - đã gần như bị bùn đen lấp kín trong tâm trí ông. Dù sao đi nữa, Izzie đó khác Izzie này. Izzie này mặc một bộ đồng phục bên dưới cái tạp dề bẩn thỉu, máu lấm lem một bên má, đang xách một cái xô tráng men đựng thứ gì đó rõ là hôi thối. Rồi khi bà nhìn thấy ông, bà há hốc miệng và nói: “Ồ, nhìn anh kìa, anh vẫn còn sống, tuyệt quá! Em sẽ không hôn anh đâu, em e rằng em đang bẩn khiếp đi được.” Đôi mắt bà ngân ngấn lệ và chính ở khoảnh khắc đó, Hugh đã tha thứ cho em gái rất nhiều lỗi lầm trong tương lai, những lỗi lầm mà lúc bây giờ vẫn chưa xảy ra.

“Em đang làm gì ở đây thế?” Ông hỏi, giọng điệu quan hoài dịu dàng.

“Ồ, em là một FANY.” Cô hấp tấp nói. “Giúp đỡ mọi người, anh biết đấy.”

“Cánh đàn ông mới phải chui xuống những con hào.” Sylvie khăng khăng. “… Chứ không phải mấy cô tình nguyện viên cầu kì, chải chuốt.”

“Đội quân Y tá và Cứu thương không phải là những cô nàng cầu kì, chải chuốt.” Izzie điềm tĩnh nói. “Tay bọn em lúc nào cũng lấm bẩn. Và thật khủng khiếp khi gọi một người đàn ông là kẻ hèn nhát.” Bà lặng lẽ nói thêm.

“Vâng, đúng vậy.” Ursula đồng ý. “Nhưng gọi một con gà như thế thì cũng không tồi.” Teddy cười, náu mình trong sự hài hước. Anh sợ mình làm không tốt trong cuộc chiến sắp tới. “Nó đã rụt đầu rụt cổ.” Anh nói, chỉ vào chỗ thịt gà trên đĩa của Izzie. Cả anh, cả Ursula đều cười rũ rượi. “Các con thật trẻ con.” Sylvie giận dữ nói. Không hẳn thế, Teddy nghĩ. Họ là những người sẽ phải vững vàng để bảo vệ Sylvie, đàn gà của bà, Góc Cáo, những sự tự do cuối cùng còn sót lại.

Nội dung trong những lá thư mà chị gái gửi đến Canada cho anh vốn tản mạn (“vì Cam kết Bảo mật, kiểu vậy”), nhưng qua những ẩn ý trong từng câu chữ, anh hiểu được rằng chị anh đã có một khoảng thời gian khá khủng khiếp. Teddy chưa được thử thách trong chiến trận, nhưng chị anh thì đã trải qua rồi.

Đương nhiên, chị anh đã đúng về chiến tranh, nó thực sự “đẫm máu”. Trong sự an toàn, ấm áp, xa hoa của những rạp chiếu bóng sang trọng ở Canada, anh đã vừa ăn bỏng ngô vừa kinh hoàng xem những bộ phim thời sự về các cuộc tấn công trong Cuộc oanh kích Blitz nhắm vào nước Anh. Tới Rotterdam. Rồi tới Warsaw. Và nước Pháp đã thực sự thất thủ. Teddy hình dung ra cảnh đám xe tăng giày xéo những cánh đồng hoa hướng dương thành bùn đen. (Thực ra chúng không bị như vậy, chúng vẫn ở đó.)

“Phải, con đã bỏ lỡ nhiều thứ.” Sylvie nói, như thể anh đến rạp hát muộn và lỡ mất nhiều chi tiết thú vị của một vở kịch. Bây giờ dường như mẹ anh đã hoàn toàn quen thuộc với những sự kiện của cuộc chiến và trở nên hiếu chiến đến đáng kinh ngạc. Teddy cho rằng mẹ anh dễ dàng trở nên như vậy là vì bà đang ở một nơi tương đối yên bình như Góc Cáo. “Mẹ đã bị những lời tuyên truyền thuyết phục.” Ursula nói, như thể Sylvie không có ở đó.

“Còn chị thì không ư?” Teddy nói.

“Chị thích những dữ kiện thực tế hơn.”

“Con đã trở thành một ông Gradgrind[77] rồi đó.” Sylvie nói.

“Không thể nào.”

“Vậy các dữ kiện thực tế ấy nói lên điều gì?” Izzie hỏi nhưng Ursula - vốn quen biết một cô gái làm trong Bộ Không quân - không nói rằng cơ hội sống sót của Teddy trong chuyến xuất kích đầu tiên cùng lắm là rất mong manh, và khả năng sống sót trong kỳ quân dịch[78] đầu tiên của anh gần như bằng không. Thay vì thế, cô rạng rỡ nói: “Chúng nói lên rằng đây là một cuộc chiến đúng đắn.”

“Ồ, tốt quá!” Izzie nói. “Chẳng ai muốn chiến đấu trong một cuộc chiến tranh phi nghĩa cả. Cháu sẽ ở phe các thiên thần, cháu trai yêu quý.”

“Vậy ra các thiên thần là người Anh ạ?” Teddy nói.

“Rõ rành rành ra rồi.”

“Tình hình tồi tệ lắm ạ?” Anh hỏi Ursula khi đón cô ở ga tàu vào sáng hôm đó. Trông cô xanh xao và rầu rĩ, giống như một người đã ở trong nhà quá lâu hoặc có lẽ đang tham gia chiến đấu. Anh tự hỏi chị mình có còn gặp gỡ người đàn ông ở Bộ Hải quân không?

“Đừng nói về chiến tranh vội. Nhưng đúng vậy, nó rất khủng khiếp.”

Họ đi đường vòng để ghé vào nghĩa địa của nhà thờ, nơi Hugh được chôn cất. Từ bên trong nhà thờ vọng ra tiếng hát nho nhỏ của cộng đoàn sáng Chủ nhật, họ đang ngân lên bài Ngợi ca Thiên chúa.

Tấm bia mộ màu xám của Hugh với dòng chữ có vẻ nhạt nhẽo được khắc trên đó - Người cha và người chồng thân yêu - vẫn còn mới, xù xì, thô ráp. Lần cuối Teddy gặp bố là lúc ông vẫn còn sờ sờ trước mặt anh bằng xương bằng thịt, vậy mà bây giờ thịt da ông đang rữa nát trong một cái huyệt dưới chân anh. “Tốt hơn hết là nên tránh những ý nghĩ tăm tối.” Ursula khuyên anh như vậy, và lời khuyên ấy sẽ giúp ích cho anh trong ba năm sau đó. Hay đúng ra là cả quãng đời còn lại của anh. Teddy chợt nghĩ bố anh là người đàn ông đường hoàng, tử tế biết chừng nào, thực ra ông là người tuyệt vời nhất trong gia đình anh. Nhân lúc anh sơ hở, nỗi đau buồn đã ập đến, tóm chặt lấy anh.

“Người cha và người chồng thân yêu - nghe buồn quá ạ, chẳng nhạt nhẽo chút nào.” Bertie nói. Đó là năm 1999, gần sáu mươi năm sau khi Hugh qua đời. Bấy giờ, cuộc đời của Teddy đã dài như lịch sử. Bertie đã hỏi ông muốn làm gì trong lần sinh nhật thứ tám mươi lăm, và ông nói ông muốn thăm lại “những chốn xưa”. Vậy là cô đã thuê một chiếc ô tô và họ khởi hành từ Fanning Court, bắt đầu chuyến đi mà Bertie gọi là “một chuyến đi phượt”, còn Teddy gọi là “chuyến đi giã biệt”. Ông nghĩ mình sẽ chẳng sống thêm được bao lâu khi qua thiên niên kỷ mới, và nghĩ rằng đây sẽ là một cách tuyệt vời để khép lại trọn vẹn một cuộc đời và một thế kỷ. Ông sẽ ngạc nhiên khi biết rằng ông vẫn còn hơn một thập kỷ nữa ở phía trước. Đó đã là một chuyến đi lạ lùng và thú vị, tràn đầy cảm xúc (“Chúng ta đã đi được hết các nơi muốn đến rồi.” Bertie nói sau chuyến đi) và khơi lên trong ông những tình cảm đích thực chứ không chỉ là nỗi hoài cổ, vốn là một thứ cảm xúc vụn vặt trong mắt Teddy.

Lúc đó, địa y đã bám đầy trên bia mộ của Hugh và dòng chữ khắc trên đó không còn rõ nét nữa. Sylvie cũng được mai táng trong nghĩa địa này, giống như Nancy và cha mẹ bà. Teddy không biết Winnie và Gertie được chôn cất ở đâu nhưng Millie thì ở đây, cuối cùng bà cũng được an nghỉ ở quê nhà sau cả một đời lênh đênh, chẳng yên ổn ở nơi nào. Teddy nghĩ, tất cả những người này đều được gắn kết với Bertie bằng một “sợi chỉ đỏ” mỏng manh, nhưng cô sẽ không bao giờ biết họ.

Pamela và Ursula, giống như Bea, đã lựa chọn hỏa thiêu. Teddy đã đợi những bông chuông xanh trong rừng nở hoa mới rắc tro của Ursula xuống giữa chúng. Người chết nhiều không đếm xuể.

“Tốt hơn hết là nên tránh những ý nghĩ tăm tối.” Ông nói với Bertie.

“Ông thích viết gì trên bia mộ của mình?” Cô hỏi, chẳng đếm xỉa đến lời nhắc nhở của ông. Teddy nghĩ đến những tấm bia mộ trắng toát bạt ngàn ở các nghĩa trang liệt sĩ. Tên, chức vụ, số hiệu. Ông nghĩ về Keats, “Tên người nằm đây được viết trên mặt nước”, Ursula luôn thấy văn bia ấy quá bi thảm. Rồi ông nghĩ đến lời Hugh từng nói: “Ồ, con có thể ném bố vào thùng rác cũng được, bố sẽ chẳng bận tâm đâu.” Và những cái tên được viết trên bia đá ở đài tưởng niệm chiến tranh tại Runnymede, đó là tên của những người chết mà không có huyệt mộ.

Thứ gì đó đã thay đổi. Đó là gì nhỉ? Đương nhiên rồi - những cây dẻ ngựa cao lớn, bất kham, mọc tự do phóng túng từng che bóng mát cho người chết ở một bên nghĩa địa giờ đã biến mất hết, thay thế cho chúng là những cây anh đào nhỏ bé, hiền lành đang trổ hoa, được trồng một cách quy củ hơn. Bức tường đá cũ kĩ trước kia bị những cây dẻ ngựa che khuất giờ đã hiển hiện, được xây lại mới tinh và sạch sẽ.

“Hãy chôn ông ở trong rừng.” Ông nói. “Không cần ghi tên, chẳng cần thứ gì cả, chỉ cần một cái cây. Một cây sồi, nếu cháu có thể tìm được, nhưng nếu không có thì chọn cây nào cũng được. Đừng để mẹ cháu lo liệu.”

Chết là hết. Đôi khi phải mất cả đời mới hiểu được điều đó. Ông nghĩ về Sunny, cậu đang mải miết không ngừng nghỉ trong hành trình tìm kiếm thứ mà cậu đã bỏ lại đằng sau. “Hãy hứa với ông là cháu sẽ sống trọn vẹn cuộc đời của cháu.” Ông nói với Bertie.

“Cháu hứa.” Bertie nói, cô đã hai mươi tư tuổi và biết rằng mình sẽ không thể làm vậy.

Khúc Tình yêu thánh siêu việt báo cho họ biết rằng buổi lễ Chủ nhật sắp kết thúc. Teddy thơ thẩn giữa các nấm mộ. Hầu hết những người được chôn dưới đó đều đã mất từ lâu, trước cả khi anh chào đời. Ursula đang nhặt những quả dẻ ngựa từ rặng cây hùng vĩ ở đầu bên kia nghĩa địa. Cây nào cây nấy đều cao lớn, và Teddy tự hỏi liệu rễ của chúng có quấn vào xương của những người chết không. Anh tưởng tượng chúng đang len lỏi qua những lồng ngực, uốn mình quanh các cổ chân như những chiếc vòng xuyến và trói chặt các cổ tay như gông cùm xiềng xích.

Khi anh bước tới chỗ Ursula, anh thấy cô đang kiểm tra một quả dẻ ngựa. Lớp vỏ màu xanh với những chiếc gai nhọn lởm chởm của nó đã nứt, để lộ cái hạt bóng loáng bên trong. “Quả của cây này đấy.” Cô nói, đưa nó cho anh. “Media vitae morte sumus. Chúng ta đang chết giữa cõi sống. Hay là ngược lại nhỉ? Thật kỳ diệu, phải không, khi nhìn thấy thứ gì đó mới toanh vừa bước vào thế giới này, chẳng hạn như một con bê đang được sinh ra hoặc một chồi nụ đang hé nở?” Hồi nhỏ, họ từng chứng kiến những chú bê được sinh ra ở Trang trại Gia đình. Teddy nhớ anh đã cảm thấy buồn nôn khi nhìn thấy lớp màng bọc trơn nhẫy của chúng, trông chú bê như thứ gì đó vừa được ông hàng thịt gói lại vậy.

Đoàn người dự lễ buổi sáng bắt đầu tràn ra khỏi nhà thờ, hòa mình vào ánh nắng. Ursula nói: “Em từng rất thích chơi quả dẻ ngựa. Nhìn những cậu bé chơi quả dẻ ngựa mà có cảm giác như đang ở thời Trung cổ vậy. Món vũ khí có gai nhọn tua tủa bao quanh và có cán để cầm được gọi là chùy gai đúng không nhỉ? Hay là chùy Sao Mai? Một cái tên thật đẹp đối với một món vũ khí gớm ghiếc như vậy.” Cô nói lan man. Teddy nhận ra cô đang đánh lạc hướng tâm trí mình, anh cho rằng đó là một biện pháp để chống lại sự khủng khiếp của chiến tranh. Anh nghĩ Ursula biết những gì xảy ra trên mặt đất: trong một cuộc oanh tạc. Teddy thì chỉ có thể tưởng tượng, và kể từ bây giờ, sự tưởng tượng sẽ không có chỗ trong thế giới của anh.

Dĩ nhiên, anh cũng đã từng thấy vài chuyện kinh hoàng, những vụ tai nạn trong khóa huấn luyện, nhưng chúng không phải là chủ đề mà anh có thể nhắc đến bên món thịt gà hầm trên cái bàn ăn theo phong cách Nhiếp chính Phục hưng.

Anh mang chồng đĩa bẩn vào bếp (“Bridget sẽ làm việc đó mà.” Sylvie đanh giọng nói, nhưng Teddy làm như không nghe thấy) và bắt gặp bộ xương gà trên bàn bếp, đã bị lóc hết thịt. Dạ dày anh chợt nhộn nhạo.

Ở trường huấn luyện bay tại Ontario, Teddy từng chứng kiến một chiếc máy bay Anson hạ cánh khẩn cấp. Trong một bài tập bay đường trường, nó vừa cất cánh thì phải quay lại gần như ngay lập tức vì động cơ bị trục trặc. Teddy nhìn nó lao vun vút vào phi trường, chao qua đảo lại trước khi rơi thẳng xuống đường băng. Các bình chứa nhiên liệu của nó gần như còn đầy nguyên nên cú va chạm đã gây ra một vụ nổ kinh hoàng. Hầu hết mọi người đã chạy đi tìm chỗ trú ẩn khi thấy cảnh tượng ấy. Teddy đã nhào ra đằng sau một nhà chứa máy bay.

Tất cả mọi người trên mặt đất đều có vẻ bình an vô sự, xe cứu hỏa và xe cứu thương phóng nhanh như bay tới chỗ chiếc Anson đang bốc cháy ngùn ngụt.

Người ta báo lại rằng một thành viên của tổ bay đã thoát khỏi “giàn thiêu” ấy, ông ta bị thổi bay ra ngoài khi chiếc máy bay phát nổ, thế là Teddy tham gia tìm kiếm cùng vài người bạn phi công thực tập khác. Họ tìm thấy linh hồn cô đơn lạc lõng ấy giữa những cây tử đinh hương bao quanh hàng rào vành đai. Sau đó, họ nhận ra rằng đó chính là thầy huấn luyện, một viên phi công dạn dày kinh nghiệm thuộc Không lực Hoàng gia Canada RCAF vừa mới bay cùng Teddy ngày hôm qua. Bây giờ ông ta phô bày một cảnh tượng gớm ghiếc: chỉ còn là một bộ xương, da thịt đã bay biến gần như hoàn toàn vì sức ép của vụ nổ. (“Bị lột da tróc thịt.” Một phần não bộ của Teddy đã nghĩ như vậy.) Bộ ruột của thầy huấn luyện, vẫn còn ấm, kết thành tràng hoa trên những nhành tử đinh hương. Hoa tử đinh hương đang nở rộ, mùi của chúng vẫn rất rõ rệt, không hề bị thứ mùi hôi thối như ở trong lò mổ này át mất.

Một người trong đội tìm kiếm với Teddy bỏ chạy, vừa chạy vừa gào thét và chửi rủa luôn mồm. Anh ta liền bị tước đi tư cách phi công, không bao giờ được bay nữa. Người ta tuyên bố anh ta là kẻ TBL, và anh ta rời đi trong nỗi nhục nhã ê chề, chẳng rõ là đi đâu về đâu. Một viên phi công thực tập khác trong đội tìm kiếm với Teddy, một người xứ Wales, nhìn chằm chằm vào những gì còn sót lại của thầy huấn luyện và chỉ đơn giản nói: “Gã khốn tội nghiệp.” Teddy cho rằng phản ứng của anh nằm giữa hai thái cực ấy. Kinh hãi trước cảnh tượng rùng rợn, nhẹ nhõm vì mình không có mặt trên chiếc Anson đó. Đây là trải nghiệm đầu tiên của anh về những điều khủng khiếp mà cỗ máy chiến tranh có thể gây ra cho cơ thể mong manh yếu đuối của con người, một điều mà anh cho rằng chị gái anh đã biết rõ.

“Cái đó để hầm lấy nước dùng đấy.” Bridget nói khi cô thấy Teddy nhìn chằm chằm vào bộ xương gà, như thể anh đang tính lấy trộm nó. Cô đang đứng bên cái bồn Belfast bằng đá to tướng trong bếp để rửa bát, bọt ngập đến tận khuỷu tay. Teddy lấy cái khăn lau bát đĩa trên móc xuống và nói: “Để em lau cho.”

“Cậu tránh ra đi!” Bridget nói, nhưng Teddy biết đó là cách bày tỏ lòng cảm kích của cô. Bridget bao nhiêu tuổi nhỉ? Anh thậm chí không thể đoán được. Trong cuộc đời anh, anh thấy cô đã trải qua quãng thời gian tươi đẹp nhất của mình, từ sự ngây thơ và thậm chí là phù phiếm (“Nhà quê ra tỉnh.” Theo cách nói của Sylvie) tới sự nhẫn nhục mệt mỏi. Cô nói cô đã “đánh mất cơ hội” của mình trong cuộc chiến lần trước, và Sylvie chế giễu: “Mất cơ hội gì cơ? Cơ hội có một cuộc hôn nhân cực nhọc và buồn tẻ, liên tục phải lo lắng về con cái à? Cháu ở đây với chúng ta còn sung sướng hơn đấy.”

“Tôi sẽ về nhà.” Cô nói với Teddy, miễn cưỡng đưa một cái đĩa ăn tối đang nhỏ nước tong tỏng cho anh. “Khi toàn bộ chuyện này kết thúc.”

“Về nhà ư?” Teddy nói, thoáng ngơ ngác. Cô quay lại nhìn anh chằm chằm và anh nhận ra rằng mình chưa bao giờ thực sự nhìn Bridget. Hoặc là anh nhìn nhưng không bao giờ thấy cô.

“Ireland.” Cô nói như thể anh là kẻ ngớ ngẩn, và anh cho rằng mình đúng là ngớ ngẩn thật. “Cậu ra kia ngồi đi. Tôi phải đi lấy món tráng miệng.”

Còn Nancy? Nancy thì sao? Cô đang ở đâu? Một năm trước, cô đột ngột bị bứt khỏi thế giới bí ẩn của những con số tự nhiên và bị đem đi giấu ở một địa điểm bí mật. Khi người ta hỏi cô đang làm gì, cô nói cô đang làm việc cho một bộ phận của Bộ Thương mại, đã được chuyển từ London tới chốn an toàn ở vùng nông thôn. Qua lời cô kể, công việc đó nghe rất tẻ nhạt (“chia khẩu phần những loại nguyên vật liệu nhà làm hiếm hoi”) đến nỗi chẳng ai buồn hỏi gì thêm. Teddy đã mong được gặp cô, nhưng vào phút chót cô gọi điện thoại và nói: “Em không thể chuồn đi khỏi đây được, em rất tiếc.”

Gần mười tám tháng không gặp nhau, vậy mà cô chỉ “tiếc” thôi sao? Anh cảm thấy bị tổn thương, nhưng rồi anh nhanh chóng tha thứ cho cô. “Cô ấy quá kín tiếng. Em không biết khi nào em mới gặp lại cô ấy.” Anh nói với Ursula khi họ “la cà” trên con đường mòn. (“Chị thích từ đó, dạo gần đây chị chẳng mấy khi được la cà.” Cô nói.) Họ dừng lại và châm thuốc trước khi về Góc Cáo. Sylvie không thích ai hút thuốc trong nhà. Ursula rít một hơi sâu và nói: “Đây là một thói quen xấu, nhưng chị cho rằng nó không xấu bằng chiến tranh.”

“Những lá thư của cô ấy cực kì nhạt nhẽo.” Teddy nói, vẫn tiếp tục bám lấy chủ đề về sự khó hiểu của Nancy. “Như thể có một nhân viên kiểm duyệt đứng bên khuỷu tay cô ấy lúc cô ấy viết chúng vậy. Có vẻ công việc của cô ấy vô cùng bí mật. Theo chị đoán thì cô ấy thực sự đang làm gì?”

“Chà, chắc chắn là một việc gì đó liên quan đến bộ môn Toán học thâm sâu.” Ursula đáp, ngay cả cô cũng nói rất mập mờ. Người đàn ông ở Bộ Hải quân của cô vẫn có thói quen kể cho cô nghe nhiều chuyện lúc đang ở trên giường. “Chị nghĩ nếu em không hỏi gì thì sẽ dễ dàng hơn với con bé.”

“Em cá rằng nó liên quan đến mật mã của Đức.” Teddy nói.

“Ôi, đừng nói điều đó với bất cứ ai.” Ursula nói, xác nhận những nghi ngờ của anh.

Sau bữa trưa, Teddy rủ Ursula uống một ly whisky trong thư phòng của cha họ. Đó có vẻ là một cách hay để tưởng nhớ ông, một điều mà anh cảm thấy là mình chưa làm.

“Thư phòng?” Ursula nói. “Chị e rằng không còn thư phòng nào nữa.”

Khi anh thò đầu qua cánh cửa căn phòng nhỏ ở trong cùng của ngôi nhà, anh phát hiện ra Sylvie đã biến “nơi ẩn náu” của Hugh thành thứ mà bà gọi là “phòng khâu vá”. “Bây giờ nó đã trở nên xinh xắn, sáng sủa và thoáng đãng.” Bà nói. “Trước kia nó quá u ám.” Các bức tường được sơn màu xanh lá cây nhạt, sàn nhà được trải thảm kiểu Aubusson, và những tấm rèm nhung nặng nề đã được thay thế bằng một loại vải lanh nhạt màu. Một cái bàn thanh nhã thời Victoria dùng để ngồi khâu vá, trước kia bị bỏ xó trong căn phòng đơn sơ của Bridget, nay được đặt một cách thuận tiện bên cạnh cái ghế thư giãn có những cái núm ở lưng, là thứ mà Sylvie đã “lựa được với cái giá rất hời trong một cửa tiệm nhỏ ở Beaconsfield.”

“Mẹ khâu vá ở trong này à?” Teddy hỏi Ursula, nhặt lên một cuộn chỉ từ chiếc giỏ đựng đồ khâu và trầm ngâm nhìn nó.

“Theo em thì là gì?”

Thế là họ bèn đi dạo quanh vườn. Phần lớn khu vườn giờ được dành để trồng rau và đặt những chuồng gà lớn. Đàn gà của Sylvie được nhốt kĩ càng vì lúc nào cũng có một con cáo lảng vảng đâu đây. Cây dẻ gai già cỗi uy nghi vẫn đứng sừng sững giữa bãi cỏ, nhưng phần còn lại của khu vườn - ngoại trừ những cây hoa hồng của Sylvie - đang bắt đầu bị bỏ bê. “Mẹ có làm cách nào cũng không thể kiếm được một thợ làm vườn tử tế.” Sylvie giận dữ nói. Izzie mỉa mai “Ôi, chiến tranh phiền phức quá đi mất” và mỉm cười với Teddy vẻ chế giễu, nhưng anh không hưởng ứng, vì anh có cảm giác sai trái nếu đồng lõa với Izzie để chống lại mẹ mình, ngay cả những khi mẹ anh trái tính trái nết nhất.

“Mẹ đã đánh mất người thợ làm vườn cuối cùng vào tay Vệ quốc quân.” Sylvie nói, lờ Izzie đi. “Cầu Chúa phù hộ cho chúng ta nếu ông lão Mortimer là người duy nhất đứng giữa chúng ta và bè lũ xâm lược.”

“Bà đang kiếm một con lợn.” Ursula nói với Teddy khi họ chăm chú nhìn lũ gà bị nhốt đang kêu rù rù và cục cục vẻ chán chường.

“Ai cơ?”

“Mẹ chứ ai.”

“Một con lợn á?” Anh không thể hình dung ra Sylvie trong vai trò một người nuôi lợn.

“Chị biết, ở mẹ đầy những điều ngạc nhiên.” Ursula nói. “Ai mà ngờ mẹ lại có máu kinh doanh theo kiểu chợ đen cơ chứ? Mẹ sẽ đến cửa sau của từng nhà để chào hàng thịt muối và xúc xích. Chị nghĩ chúng ta nên cổ vũ sự táo bạo của mẹ.”

Ở cuối vườn, họ bắt gặp một khóm cúc mắt bò lớn - hẳn là chúng đã di cư đến đây từ đồng cỏ. “Lại một “bè lũ xâm lăng” khác.” Ursula nói. “Chị nghĩ chị nên mang một ít về London.” Cô khiến Teddy ngạc nhiên khi lấy ra một con dao nhíp lớn từ túi áo khoác và bắt đầu cắt vài nhánh hoa mảnh mai. “Em sẽ sửng sốt khi thấy những gì chị mang theo bên mình.” Cô cười. “Luôn chuẩn bị sẵn sàng. Đó là châm ngôn của cả Hội Hướng đạo Nam và Hội Hướng đạo Nữ, em biết đấy - “Vào bất cứ lúc nào, ta cũng phải ở trong trạng thái sẵn sàng đối mặt với những khó khăn và thậm chí là những mối nguy hiểm. Muốn được như vậy, ta cần biết mình phải làm gì và làm như thế nào.””

“Ở đội Hướng đạo Nam thì khác.” Teddy nói. “Những yêu cầu của họ dài hơn, chi tiết hơn.” Anh cho rằng người ta đòi hỏi ở đàn ông nhiều hơn, mặc dù tất cả những người phụ nữ mà anh quen biết đều sẽ không đồng ý với suy nghĩ này.

Ursula luôn quên rằng anh chưa bao giờ tốt nghiệp đội Sói con để lên đội Hướng đạo. Đương nhiên, cô chưa bao giờ phải chịu đựng những trò đáng xấu hổ của Kibbo Kift.

Anh quyết định quay lại London với Ursula, mặc dù anh biết điều này sẽ làm mẹ anh thất vọng, bà đã mong anh nán lại thêm một ngày nữa. Không có bố anh, Góc Cáo trở nên trống rỗng, điều đó khiến anh chán nản.

“Nếu đi ngay bây giờ, chúng ta có thể bắt kịp chuyến tàu sắp tới.” Ursula nói, rối rít giục anh ra khỏi cửa. “… Nhưng chưa chắc nó đã chạy đúng lịch trình.”

“Thực sự thì chúng ta còn khối thời gian.” Cô nói sau khi họ tạm biệt mọi người và bước ra đường. “Chị chỉ muốn chuồn thật nhanh. Ngay cả vào những lúc mẹ dễ tính nhất, chị cũng khó lòng chịu nổi mẹ, cô Izzie còn tệ hơn. Vì vậy, khi cả hai người họ ở bên nhau thì đúng là thảm họa.”

“Em có đến ở căn hộ của chị không?” Ursula hỏi khi đoàn tàu vào ga Marylebone và anh đáp rằng không, anh sẽ đi tìm một người bạn cũ để “vui chơi một đêm trên thành phố”. Anh không rõ tại sao anh lại nói dối, hay đúng ra thì tại sao anh lại không muốn ở cùng với chị mình. Có lẽ là vì cái thôi thúc dai dẳng muốn được tự do lần cuối cùng.

Tron