Chương 7 1993-Chúng ta, những người bị bỏ lại
“Chà, xong được cái hộp đó rồi.” Viola nói, như thể vừa hoàn thành một việc gì đó đáng ghê tởm, như thể vừa dọn đống rác bẩn thỉu của ai đó, trong khi tất cả những gì cô làm chỉ là xếp những món đồ thủy tinh sạch sẽ vào một cái hộp các tông. Cô đang cầm dụng cụ cắt băng dính như thể nó là một món vũ khí. Cô bắt gặp Sunny đang lắc điếu thuốc lá ra khỏi bao. Và trước khi cậu kịp quẹt một que diêm, cô quát lên với cậu “Dừng lại ngay!” như thể cậu sắp châm que diêm vào ngòi nổ của một quả bom thay vì một điếu thuốc lá Silk Cut. “Con mười chín tuổi rồi mà.” Sunny lẩm bẩm. “Con có thể bỏ phiếu bầu cử, kết hôn và chết vì đất nước mình (liệu thằng bé có làm bất cứ điều gì trong số đó không? Teddy tự hỏi) nhưng con không thể hút một điếu thuốc lá sao?”
“Đó là một thói quen đáng ghê tởm.”
Teddy định nói với Ursula “Trước kia con vẫn hút thuốc mà”, nhưng thấy rằng điều đó sẽ châm ngòi cho một “quả bom” khác. Thay vì thế, ông đi đun nước để pha trà cho mấy người thợ dọn nhà.
Sunny thả phịch người xuống xô pha. Cũng chung số phận với hầu hết những món đồ nội thất khác của Teddy, chiếc xô pha này đang bị tống khứ đi vì nó quá cồng kềnh, không phù hợp với căn hộ mà ông sắp chuyển tới. Nó được thay thế bởi một chiếc ghế đôi rẻ tiền nhỏ xíu. “Dành cho khách.” Viola nói khi đặt chiếc ghế ấy cho ông từ một cuốn ca ta lô. Về phần ông, ông có một thứ được gọi là ghế “nhô lên hạ xuống” (“phù hợp với người già”), ông buộc phải thừa nhận rằng nó thoải mái vô cùng. Ông không thích từ “già”, nó gây ra nhiều định kiến như từ “trẻ” trước đây vậy.
Phần lớn đồ đạc của Teddy sẽ được đưa đến các cửa hàng từ thiện. Ông đang bỏ lại nhiều thứ hơn những gì ông sẽ nhận được. Cả một đời tích lũy để rồi được gì chứ? Rõ ràng là chẳng có gì nhiều. “Ông ngoại có nhiều rác quá.” Lúc nãy Teddy đã nghe thấy Sunny nói với Viola như vậy, như thể ông đã vi phạm một vấn đề đạo đức ghê gớm lắm khi lưu trữ các bảng sao kê ngân hàng suốt một thập kỷ qua, hoặc một quyển lịch từ năm năm trước có những bức tranh vẽ hình chim chóc theo kiểu Nhật Bản mà ông giữ lại bởi vì chúng quá xinh đẹp. “Bố không thể mang theo bất cứ thứ gì trong số này, bố biết điều đó, đúng không?” Viola đã nói như thể ông là một đứa trẻ có quá nhiều đồ chơi. “Bố có bao giờ vứt đi thứ gì không vậy?”
Đúng vậy, từ một, hai năm trước, ông đã bắt đầu đánh mất thói quen tằn tiện mà ông từng có, ông trở nên mệt mỏi với những sự lựa chọn và quyết định không ngừng nghỉ mà thế giới vật chất yêu cầu. Sẽ dễ dàng hơn nếu cứ để mọi thứ chồng đống lên, chờ đợi cuộc sàng lọc quy mô lớn mà cái chết của ông sẽ mang đến. “Thế cũng tốt.” Ông nghe thấy con gái mình nói với Sunny. “Chúng ta sẽ chẳng phải dọn dẹp gì nhiều lúc ông qua đời.”
Cứ đợi đến lúc Viola già mà xem, ông nghĩ (“Già hơn ạ.” Bertie nói), sẽ đến lượt con cái nó dọn dẹp “rác” của mẹ chúng - những cái lưới bắt giấc mơ, những bức tượng Đức mẹ Đồng trinh phát sáng (“trớ trêu thay”), những cái đầu búp bê bị vặt rời ra (cũng “trớ trêu thay”), những quả cầu phù thủy “ngăn chặn tà ma xâm nhập vào nhà”.
Sunny có vẻ đã ngủ thiếp đi như thể mệt mỏi lắm, như thể cậu đã phải lao động vất vả chứ không phải chỉ di chuyển một vài cái thùng giấy. Mấy người thợ dọn nhà đã làm tất cả những việc nặng nhọc trong khi Sunny chỉ kiểm tra đống hồ sơ giấy má. Và cứ năm phút, cậu lại nói với Teddy “Ông có muốn giữ lại thứ này không? Ông có muốn giữ lại thứ này không? Ông có muốn giữ lại thứ này không?”, cứ như một con vẹt đang nhại tiếng người, cho đến khi Teddy phải lên tiếng: “Cứ để đó cho ông, Sunny, ông sẽ tự mình kiểm tra. Dù sao cũng cảm ơn cháu.”
Teddy đặt một đĩa bánh quy và hai cốc trà lên một cái khay. Đĩa, cốc và khay sau này đều sẽ được gửi đến Oxfam[80]. “Bố có tới bốn cái khay! Bốn cái đấy!” Viola nói, như thể Teddy phải đích thân chịu trách nhiệm cho sự thừa mứa lãng phí này. “Chẳng ai cần đến bốn cái khay cả. Bố chỉ có thể mang theo một cái thôi.” Ông chọn cái khay cũ nhất, một cái khay thiếc mòn vẹt và xước xát mà ông đã có từ lâu lắm. Nó là cái khay của bà lão vô danh đã sống và qua đời trong căn nhà tranh mà ông từng ở hồi mới cưới. Họ thường gọi bà là “bà lão” như thể bà là một hồn ma thân thiện.
“Thứ cũ kĩ đó ư?” Viola nói và nhìn cái khay với vẻ kinh hãi. “Thế còn cái khay bằng tre xinh đẹp mà con mua cho bố thì sao?”
“Nó có giá trị về mặt tình cảm.” Teddy quả quyết nói.
Ông mang trà ra chỗ mấy người thợ dọn nhà đang nghỉ ngơi. Họ đang ngồi ở đuôi thùng xe, hút thuốc và hưởng thụ chút ánh nắng mặt trời, mừng rỡ đón lấy cốc trà được mang tới.
Sunny chậm rãi mở mắt giống như một con mèo vừa ngủ dậy và nói: “Ông không làm gì cho cháu à? Cháu đang thèm uống thứ gì đó.” Teddy cho rằng Sunny kế thừa lòng vị kỷ từ cha mẹ cậu. Cả Viola và Dominic đều luôn coi mình là nhất. Ngay cả cách chết của Dominic cũng ích kỷ. Sunny cần được thuyết phục tự đứng trên đôi chân của mình, chiếm lấy một vị trí trong thế giới rộng lớn ngoài kia, và hiểu được rằng thế giới ấy còn vô vàn người khác, không chỉ có mình cậu.
“Ấm nước ở trong bếp ấy.” Teddy nói với cậu.
“Cháu biết rồi.” Sunny mỉa mai nói.
“Đừng có nói cái giọng đó.” Viola nói (Giọng điệu của mẹ nó chứ ai, Teddy nhận định). Cô khoanh tay vẻ hằn học, nhìn trừng trừng mấy người thợ dọn nhà ngoài cửa sổ. “Nhìn họ kìa, một cặp vô công rồi nghề nhận tiền công để ngồi uống trà.” Theo những gì Teddy còn nhớ, kể cả trước khi họ mất Nancy, Viola đã căm ghét niềm vui của những người khác, như thể niềm vui ấy đã rút bớt thứ gì đó khỏi thế giới này.
“Bố nhớ hình như con từng đứng về phía những người lao động mà.” Teddy ôn tồn nói. “Hơn nữa, bố mới là người trả tiền công cho họ. Họ là người tốt, bố sẵn lòng trả tiền cho họ để họ uống trà trong mười phút.”
“Thôi, con quay lại với cái việc phân loại bất tận này đây. Bố có biết bố có bao nhiêu món đồ thủy tinh không? Con đã đếm được tận tám cái ly để uống rượu brandy. Bố có bao giờ cần đến tám cái ly để uống rượu brandy không vậy?” Viola có một cuộc sống bừa bãi. Cuộc đời cô gặp hết thảm kịch này đến thảm kịch khác. Có lẽ việc được quyền phân loại các khay trà và ly uống rượu brandy đã tạo cho cô ảo tưởng rằng cô có quyền kiểm soát. Teddy ngờ rằng ông đang liều lĩnh tự coi mình là một chuyên gia tâm lý dù ông chẳng hiểu gì về lĩnh vực ấy.
“Bố chắc chắn sẽ không cần đến chúng ở nơi mà bố sắp đến đâu.” Cô nhấn mạnh. Nghe như cô đang nhắc đến thế giới bên kia chứ không phải việc ông chuyển đến khu cư xá dành cho người già, mặc dù ông cho rằng hai nơi đó đều như nhau cả. “Chẳng đời nào có chuyện có đến tám người ở trong căn hộ mới của bố và tất cả bọn họ đều muốn uống brandy cùng một lúc đâu.” Viola nói. Teddy nghĩ, có lẽ sau khi chuyển đến đó, ông sẽ tổ chức một tiệc rượu brandy, một bữa tiệc dành cho tám người, đương nhiên rồi. Sau đó, ông sẽ chụp ảnh làm bằng chứng để cho Viola xem.
“Chí ít bố cũng không có chó để phải tống khứ đi.” Cô nói.
“Tống khứ đi ư?”
“À, ở chỗ bố sắp dọn đến, họ không cho phép nuôi thú cảnh. Bố sẽ phải đem cho nó đi.”
“Hoặc con có thể nuôi nó.”
“Ồ, con không thể, con còn có lũ mèo mà.”
Tại sao họ lại đi nói về một con chó tưởng tượng, không hề tồn tại nhỉ? Teddy tự hỏi.
“May là Tinker chết rồi.” Cô nói. Cô thật tàn nhẫn!
Trước kia, Teddy không để ý, bây giờ ông mới nhận ra Tinker là con chó cuối cùng mà ông nuôi. Ông cho rằng ông đã nghĩ là mình sẽ nuôi một con chó khác - không phải chó con, ông không còn đủ sức nuôi chó con nữa, có lẽ là một con chó trưởng thành bị bỏ rơi ở trại chó. Ông và nó có thể sống những ngày cuối đời bên nhau. Tinker chết đã ba năm rồi. Vì ung thư. Bác sĩ thú y đã tới nhà ông để kết liễu cuộc đời nó trước khi căn bệnh quái ác khiến nó phải chịu nhiều đau đớn. Nó là một con chó tuyệt vời, có lẽ là con chó tuyệt vời nhất của ông. Một con chó săn cáo rất khôn. Teddy đã ôm nó trong tay lúc bác sĩ thú y tiêm cho nó, ông đã kiên định nhìn thẳng vào mắt nó cho đến khi đôi mắt ấy chẳng còn sinh khí. Ông từng làm vậy với một người đàn ông. Bạn của ông.
“Cháu thích Tinker, ngoại Ted ạ.” Sunny bất ngờ nói xen vào, đột nhiên cậu như trở lại là một cậu bé sáu tuổi. “Cháu nhớ nó.”
“Ông biết. Ông cũng vậy.” Teddy nói, vỗ vai cháu trai. “Cháu muốn uống trà không, Sunny?”
“Còn con thì sao? Con có phần không?” Viola nói với giọng điệu vui vẻ giả tạo mỗi khi cố gắng vờ như họ là một gia đình hạnh phúc. (“Gia đình bất bình thường thì có.” Bertie nói.)
“Đương nhiên là có chứ.” Teddy nói.
Họ dọn đến ngôi nhà ở York này vào năm 1960. Trước đó, sau khi rời khỏi Nhà Chuột, họ đã thuê một ngôi nhà trại (Ayswick), đó là nơi Viola sống những năm đầu đời. Khi họ chuyển tới York, việc mất đi vùng đồng quê giống như một vết thương đối với Teddy. Nhưng sau đó, ông còn có những vết thương lớn hơn nên đành cố gắng kiên trì ở lại York cho đến khi ông trở nên thích nó.
Đây là một ngôi nhà chung tường ở vùng ngoại ô. Trông nó giống hệt hàng nghìn ngôi nhà khác trên mảnh đất này - ốp tường bằng đá cuội, phong cách giả Tudor[81], cửa sổ lồi và cong với những ô kính nhỏ hình thoi, mảnh vườn lớn ở cả đằng trước và đằng sau nhà. Nó đã là nhà của Viola trong nửa quãng đời thơ ấu của cô - rõ ràng cũng là nửa quãng đời tồi tệ nhất - mặc dù cô luôn làm như nó chẳng có ý nghĩa gì với cô cả. Có lẽ cũng không phải là không có ý nghĩa gì. Suốt thuở thiếu thời đầy tủi hờn, cô đã nóng lòng muốn thoát khỏi sự giam hãm tù túng của nó (“u ám”, “cổ lỗ”, “bé như lỗ mũi”, vân vân). Khi cô cuối cùng cũng rời khỏi nhà để đi học đại học, có cảm giác như một bóng đen lớn đã rời khỏi ngôi nhà. Teddy biết Viola bất mãn với ông nhưng ông không rõ tại sao. (“Ông có bao giờ nghĩ ngược lại không?” Bertie nói. “Có thể chính mẹ cháu mới là người khiến ông bất mãn?” “Nước mắt không bao giờ chảy ngược, cháu ạ.” Teddy nói.)
Ông sẽ tới một nơi có tên là Fanning Court. “Một cư xá chở che cho những người già đã nghỉ hưu.” Từ “chở che” khiến bố có cảm giác đó là một nơi dành cho chó hoặc ngựa vậy. “Bố đừng lẩm cẩm thế!” Viola nói. “Đó là nơi ở an toàn hơn cho bố nhiều.” Ông chẳng nhớ nổi có lúc nào cô không coi ông là một mối phiền toái. Ông ngờ rằng ông càng già đi thì tình trạng này càng trở nên tồi tệ hơn. Bấy lâu nay cô cứ lèo nhèo nài ông chuyển đi để có người “để mắt đến bố”.
“Bố mới bảy mươi chín tuổi.” Teddy nói. “Bố có thể tự để mắt đến mình. Bố chưa lú lẫn đâu.”
“Lúc này thì chưa.” Viola nói. “Nhưng sớm muộn gì bố cũng sẽ phải chuyển đi mà, vậy thì thà sớm còn hơn là muộn. Bố không thể leo cầu thang và bố chắc chắn không thể làm vườn được nữa.” Ông nghĩ ông vẫn chăm sóc tốt cho mảnh vườn, với chút trợ giúp từ một người đàn ông tới mỗi tuần một lần để làm những công việc nặng nhọc và cắt cỏ vào mùa hè. Cuối vườn có mấy cây ăn quả và từng có một khoảnh vườn lớn để trồng rau. Teddy từng trồng mọi thứ - khoai tây, đậu Hà Lan, cà rốt, hành tây, đỗ, mâm xôi, lý chua đen. Cà chua và dưa chuột được trồng trong nhà kính. Ông đã xây một cái chuồng nhỏ để nuôi vài con gà, thậm chí ông còn nuôi cả một tổ ong trong vài năm. Giờ thì phần lớn mảnh vườn đã hóa thành thảm cỏ với những bụi cây và hoa dễ trồng - trong đó chủ yếu là hoa hồng. Ông vẫn trồng đậu hoa vào mùa hè và hoa thược dược vào mùa thu, mặc dù việc đó đang bắt đầu trở nên khó nhọc.
Ông sẽ khó lòng nguôi ngoai nếu mất đi mảnh vườn này. Lúc ông chuyển tới đây, ông đã nghĩ mảnh vườn sẽ chẳng thể xoa dịu cảm giác hụt hẫng trong ông khi mất đi vùng đồng quê hoang dã mà ông đã bỏ lại, nhưng hóa ra ông đã nghĩ lầm. Giờ thì thứ gì sẽ là nguồn an ủi của ông? Có lẽ là một vài chậu hoa trên ban công hay một bồn hoa ở cửa sổ. Trái tim ông chùng xuống.
Hàng năm trời nay Viola cứ lải nhải về thực phẩm hữu cơ và việc cô đã nuôi các con bằng một chế độ ăn lành mạnh, nhưng cô có vẻ không hiểu nổi ông khi ông nói rằng ông đã nuôi cô bằng thực phẩm hữu cơ - “thu hoạch ngay ngoài vườn”. Cô nói sao chúng có thể là thực phẩm hữu cơ được, cứ như trước thời của cô thì không có phân bón hữu cơ và lao động chân tay vậy. Hồi còn nhỏ, cô chẳng hứng thú gì với việc học nuôi ong, tỏ ra miễn cưỡng khi cho gà ăn hay nhặt trứng, và nói rằng mảnh vườn khiến cô bị dị ứng. Cô có còn bị dị ứng phấn hoa vào mùa hè không?
“Con vẫn bị dị ứng à?” Ông hỏi.
“Đáng lẽ con sẽ để bố sống cùng con.” Cô tiếp tục như thể ông chưa nói gì (“Để ư?” Teddy nghĩ.) “Nhưng nhà chật quá và, đương nhiên, bố sẽ không thể leo lên leo xuống cầu thang. Việc đó hoàn toàn không phù hợp với một người già.”
Vài năm trước, Viola đã rời York để tới Leeds. Ở York, cô đã làm việc cho một Đơn vị Trợ cấp Phúc lợi (Teddy không biết đó là gì), nhưng sau đó cô kiếm được việc làm trong Câu lạc bộ Thiền Gia đình ở Leeds. Đó cũng là một nghề có vẻ mơ hồ và nghe tên thì nó không phù hợp lắm với Viola. Đương nhiên, cuộc hôn nhân của cô với Wilf Romaine chính là nguyên nhân khiến cô chuyển đi. (“Chúng tôi đã lén lút kết hôn.” Viola vô tư nói trong một cuộc phỏng vấn với tờ Phụ nữ và Gia đình vào năm 1999. Teddy không chắc từ “lén lút” có còn phù hợp với cô không khi lúc đó cô đã hơn ba mươi tuổi và có hai đứa con nhỏ.)
Bây giờ cô đang sống ở Whitby nhờ trợ cấp phúc lợi, mặc dù họ không nói gì về chuyện đó nhưng ông vẫn có thể nhận ra. Cô đã mua một ngôi nhà chài cũ bằng số tiền nhận được từ cuộc ly dị với Wilf Romaine. Cô bốn mươi mốt tuổi và phần lớn cuộc đời chỉ sống nhờ số tiền mà những người khác cho cô - Teddy, gia đình Dominic (“một món tiền còm cõi”) rồi đến cuộc hôn nhân thảm họa với Wilf. “Nếu con nhận ra từ trước…” Cô giận dữ nói, như thể đó là lỗi của ai khác. “… Con sẽ bỏ qua việc yêu đương và sinh con mà tìm ngay một công việc khi con tốt nghiệp. Có lẽ bây giờ con đã là một kiểm soát viên ở đài BBC rồi, hoặc một chức vụ gì đó ở MI5[82].” Teddy chỉ ừ hữ cho qua chuyện.
Căn nhà ở Whitby chỉ có bốn căn phòng oằn mình chồng chất lên nhau. Teddy sẽ không ngạc nhiên nếu Viola cố tình cất công lặn lội tìm một nơi không phù hợp với một “người già”. Cứ làm như ông từng suy tính đến việc sống cùng cô vậy. (“Thế còn tệ hơn là chết nữa.” Bertie đồng ý.)
Viola nói là cô đang “viết”. Teddy không chắc điều này có nghĩa là gì nhưng chẳng muốn hỏi quá kĩ. Không phải vì ông không quan tâm mà vì Viola sẽ nổi cáu nếu ai đó bảo cô nói rõ chi tiết về bất cứ điều gì. Sunny cũng giống như vậy, cậu bực tức với cả những câu hỏi vô thưởng vô phạt nhất. “Gần đây cháu đang làm gì?” Teddy đã hỏi cậu cháu trai khi cậu tới - với vẻ miễn cưỡng - vào sáng nay để giúp ông chuyển đồ. Bất cứ câu hỏi nào liên quan đến những kế hoạch của Sunny cho tương lai đều nhận được một cái nhún vai và một tiếng thở dài cùng câu trả lời: “Việc này việc kia thôi.”
“Nó giống bố nó y sì đúc.” Viola nói. (Không, Teddy nghĩ, nó giống hệt mẹ nó.) “Con thất vọng vì nó. Nó chẳng trưởng thành gì cả, chỉ to xác hơn thôi. Đương nhiên, nếu nó là một đứa trẻ sống ở thời buổi này, có lẽ nó sẽ được chẩn đoán là mắc chứng khó đọc và tăng động. Và có lẽ cả rối loạn vận động nữa. Thậm chí là tự kỷ.”
“Tự kỷ?” Teddy nói. Thật nực cười khi con gái ông luôn cố gắng phủi trách nhiệm của mình. “Bố luôn thấy nó là một thằng bé khá bình thường.” Điều này không hoàn toàn đúng, Sunny đã phải chật vật bước những bước khó nhọc trên đường đời, loạng choạng, nghiêng ngả, va vấp, nhưng phải có ai đó bênh vực thằng bé tội nghiệp. Nếu Teddy buộc phải “chẩn đoán” về vấn đề mà cậu mắc phải thì đó chính là sự bất hạnh. Teddy yêu Sunny đến đau lòng. Ông lo sợ cho cậu, cho tương lai của cậu. Tình yêu Teddy dành cho Bertie thì đơn giản hơn, lạc quan hơn. Sự thông minh, sáng dạ của Bertie thi thoảng nhắc ông nhớ đến Nancy (một điều mà Viola không bao giờ có được). Cô cũng giống bà ở tính cách hoạt bát, vui vẻ, mặc dù có lẽ ở ngoài đời thực bà có thể không được hoạt bát, vui vẻ như những gì đọng lại trong ký ức của ông sau khi bà mất.
“Cái gì đây?” Nghe giọng Viola có vẻ phẫn nộ, như thể cái hộp các tông nhỏ hình chữ nhật chứa bằng chứng của một tội ác khủng khiếp. Trên cái hộp chưa khui có hình một cái máy xay cà phê.
“Máy xay cà phê.” Teddy ôn tồn nói.
“Đây là cái máy xay cà phê mà con biếu bố dịp Giáng sinh. Bố còn chưa dùng nó.”
“Ừ, bố chưa dùng.”
“Cái máy xay cà phê của bố cổ lỗ sĩ lắm rồi. Bố nói bố cần một cái mới.” Cô bắt đầu mở các cánh cửa tủ và nhìn vào các ngăn tủ bếp, cuối cùng lấy ra - “Một cái máy xay cà phê. Bố tự mua à? Con đã phải vay mượn để mua một món quà biếu bố đấy. Ồ, khoan đã.” Cô giơ một tay ra như thể đang cố ngăn một cỗ xe tăng. “Khoan đã. Ồ, dĩ nhiên…”
Sunny thơ thẩn vào bếp và càu nhàu: “Nữ hoàng kịch nghệ đang càm ràm cái gì vậy?” Viola chỉ cho cậu xem cái hộp đựng chiếc máy xay cà phê chưa được dùng đến. “Của Đức đấy!” Cô tuyên bố, như thể cô đang ở tòa án và vừa đưa ra một bằng chứng có tính quyết định.
“Thì sao ạ?” Sunny nói.
“Hãng Krupps.” Teddy nói.
“Thì sao ạ?” Sunny nói.
“Ông con không chịu mua đồ của Đức.” Viola nói. “Bởi vì cuộc chiến tranh ấy.” Cô nói từ “chiến tranh” một cách mỉa mai như thể cô đang tranh cãi với bố mình về độ dài chiếc váy, độ dày của lớp trang điểm trên mắt hoặc mùi thuốc lá trong hơi thở - tất cả những chủ đề gây ra những cuộc tranh cãi kịch liệt trong thời niên thiếu của cô.
“Gia đình Krupp ủng hộ quân phát xít.” Teddy nói với Sunny.
“Ồ, bài giảng về lịch sử lại bắt đầu rồi đấy.” Viola nói.
“Các nhà máy của họ sản xuất ra thép.” Teddy tiếp tục nói, lờ cô đi. “Thép là thứ quan trọng nhất của mọi cuộc chiến.” Ông đã ném bom (hoặc cố ném bom) các công trình của Krupps ở Essen vài lần. “Họ sử dụng nô lệ làm nhân công. Và người Do Thái từ các trại tập trung.”
“Cuộc chiến đã kết thúc gần năm mươi năm trước rồi.” Viola nói. “Bố không nghĩ đã đến lúc bố quên nó đi à? Hơn nữa…” - Viola lúc nào cũng phải chen thêm từ “hơn nữa” - “… Trong những nhà máy mà bố ném bom cũng có nhiều công nhân là nô lệ và cả người Do Thái nữa. Thật trớ trêu cho bố.” Cô đắc thắng nói. Vụ kiện khép lại. Bồi thẩm đoàn đã bị thuyết phục.
Chiếc ô tô đầu tiên của Viola sau “sự đào thoát” khỏi Dominic (và bốn lần thi lấy bằng lái) là một chiếc VW Beetle cũ. Khi Teddy làu bàu gì đó về việc “mua đồ của Anh”, cô đã phun trào những lời trách cứ về tính bài ngoại. Sau này, khi Teddy đã sống ở Fanning Court được vài năm, cái lò nướng rẻ tiền trong căn hộ của ông bị hỏng, Viola đã đặt mua một cái lò mới của hãng Siemens từ tiệm Currys mà không hỏi ý kiến Teddy. Khi nhân viên giao hàng mang cái lò đến, ông đã (rất lịch sự) đề nghị họ đưa trả nó về cho cửa hàng.
“Con cho rằng bố cũng đã ném bom họ?” Viola nói.
“Ừ.”
Ông nhớ Nuremberg (ông không bao giờ quên được), cuộc không kích cuối cùng trong cuộc chiến của ông. Trong buổi huấn thị trước chuyến xuất kích, sĩ quan tình báo - một người phụ nữ - nói với họ rằng nhà máy Siemens ở đó sản xuất đèn pha rọi, động cơ điện, “những thứ đại loại vậy”. Sau chiến tranh, ông mới biết rằng họ còn sản xuất lò thiêu cho các trại tập trung và ông tự hỏi liệu đó có phải là thứ nằm trong số “những thứ đại loại vậy” đó không. Trong chiến tranh, ông đã được giới thiệu với một người bạn của Bea tên là Hannie, một người tị nạn, và mặc dù ông biết bây giờ điều này có thể chẳng có ý nghĩa gì với Hannie, nhưng chính vì cô mà ông đã có hành động khá ti tiện này đối với tiệm Currys. Sáu triệu chỉ là một con số nhưng Hannie có một khuôn mặt, một khuôn mặt xinh đẹp, cô đeo đôi khuyên tai nhỏ bằng ngọc lục bảo (“Đồ giả đấy!”), biết thổi sáo, xức nước hoa Soir de Paris và có một gia đình bị kẹt lại ở Đức. Có ý kiến cho rằng Hannie vẫn còn sống khi bị ném vào những lò thiêu ở Auschwitz. (“Người ta rất muốn tha thứ cho họ.” Ursula từng nói từ lâu lắm. “Thế rồi người ta nghĩ đến Hannie tội nghiệp.”) Vì vậy ông không thực sự cảm thấy mình cần một lý do để biện hộ cho việc không mua một cái lò nướng của Đức. Hoặc việc ném bom họ đến tối tăm mặt mũi. Điều đó không hoàn toàn đúng, và ông có thể đã thừa nhận như vậy nếu ông không tranh cãi với một người cứng đầu cứng cổ như con gái ông. Ông đã giết phụ nữ, trẻ em, người già, những người mà đáng lẽ ông phải bảo vệ theo thế tục. Ở giữa trái tim thối nát của mỗi cuộc chiến là những người vô tội. Ngày nay, người ta gọi việc này là “tổn thất nằm ngoài dự kiến”, nhưng những thường dân đó không “nằm ngoài dự kiến”, họ chính là những mục tiêu. Chiến tranh đã thành ra như vậy đấy. Không còn là binh lính chém giết lẫn nhau mà là người này giết người khác. Bất cứ người nào.
Ông không đưa ra quan điểm giản hóa luận này với Viola, cô sẽ dễ dàng đồng ý với nó, sẽ không hiểu được sự thỏa hiệp đáng sợ mà chiến tranh buộc lương tâm ta phải chấp nhận. Sự đắn đo không có chỗ trong một cuộc chiến mà kết quả còn chưa ngã ngũ. Họ đã ở bên phe chính nghĩa, đứng về lẽ phải - ông vẫn tin như vậy. Suy cho cùng, còn lựa chọn nào khác chứ? Hãy nghĩ về hậu quả khủng khiếp của Auschwitz, Treblinka! Hãy nghĩ đến việc Hannie bị ném vào một cái lò thiêu!
Teddy nhìn Sunny đang khom người trước bồn rửa ở bếp, và biết rằng ông sẽ không bao giờ có thể tâm sự những điều này với cậu.
Rõ là lẩm cẩm, Sunny nghĩ khi cuộc cãi cọ trong bếp tiếp tục đưa qua đẩy lại như trò bóng bàn. Cậu thích bóng bàn (hay đúng ra là từng thích) hồi cậu còn là một đứa trẻ, mặc dù cậu không hoàn toàn tin mình từng là một đứa trẻ. Họ từng có một kỳ nghỉ hè - bao gồm cậu, Bertie và ngoại Ted - trong một ngôi nhà to lớn, cũ kĩ, xiêu vẹo ở đâu đó. Trong ga ra hoặc nhà kho gì đó của nó có một cái bàn đánh bóng. Đó là kỳ nghỉ tuyệt vời nhất trong đời cậu. Ở đó còn có lũ ngựa (“Lừa chứ.” Bertie cải chính) và một cái hồ (“Cái ao mà”).
Cuộc tranh cãi trong bếp vẫn ồn ào không dứt. Ha ha.
“Vì thế bố mới mua một cái máy xay cà phê hiệu Philips để thay thế cho nó?” Viola nói. “Và bố định nói với con rằng bàn tay của họ sạch sẽ trong cuộc chiến ấy? Trong chiến tranh thì chẳng có bàn tay nào sạch sẽ cả đâu.”
“Bàn tay của hãng Philips khá sạch.” Teddy nói. “Sau chiến tranh, Frits Philips đã được tuyên dương là “dân ngoại công chính[83]”. Điều đó có nghĩa là ông ấy đã giúp đỡ những người Do Thái.” Ông giải thích với Sunny.
“Hừ.” Viola khinh khỉnh nói, ám chỉ rằng cô đã thua trong cuộc tranh luận này.
Sunny ngáp và lủi ra khỏi bếp.
Viola lỉnh ra vườn. Mảnh vườn không còn ngăn nắp như trước kia nhưng nó vẫn tiết lộ bố cô là người kĩ tính. Những cây đỗ leo thẳng lên giàn, những cây hoa hồng vẫn chẳng có lấy một vết lốm đốm hay bị sâu đục. Trên quan tài của mẹ cô, bố cô không đặt một vòng hoa mà đặt một bó hoa hồng hái từ mảnh vườn này. Viola nhớ khi ấy cô đã nghĩ rằng mẹ cô xứng đáng với thứ gì đó sang trọng và cầu kỳ từ một bàn tay chuyên nghiệp hơn. Tự tay làm ra vẫn tuyệt hơn chứ, bố cô nói. Ngược lại thì có, Viola nghĩ.
Ông không thích hoang phí, trong khi Viola chẳng thể hiểu nổi tại sao sự hoang phí lại là một tội lỗi. Thứ gì vẫn dùng được thì không cần phải vứt đi. (Tiếng nói của Lý trí.) Ta có thể tái sử dụng hộp sữa chua và hộp thiếc để ươm hạt giống, dùng bánh mì chua và bánh ngọt để làm món pudding, xay nhỏ những mẩu thịt thừa. (Ai còn có máy xay thịt nữa?) Áo len chui đầu cũ được cắt ra để nhồi làm gối nệm. Bất cứ loại quả nào sắp hỏng thì được làm thành mứt hoặc tương. Khi ta ra khỏi một căn phòng, ta phải tắt đèn và đóng cửa. Nhưng Viola chẳng làm thế. Hồi còn nhỏ, cô không bao giờ có giấy để vẽ mà luôn phải vẽ vào những mảnh giấy dán tường còn thừa mà bố cô cho. (“Chỉ cần lật nó lại là có thể dùng tốt.”) Giấm và báo được dùng để lau cửa sổ. Tất cả những thứ khác được đem ủ phân hoặc dành cho lũ chim. Bố cô gỡ tóc rụng ở những cái lược để cho lũ chim lót tổ. Ông lúc nào cũng chăm lo cho lũ chim trong vườn.
Ông không keo kiệt, cô phải công nhận điều đó. Ngôi nhà luôn ấm áp - quá ấm là khác, hệ thống sưởi tập trung luôn được để ở nhiệt độ cao. Ông cho cô nhiều tiền tiêu vặt và để cô tự lựa chọn quần áo của mình. Thức ăn thì ê hề. Cô từng căm ghét chuyện gần như tất cả mọi thứ đều được lấy từ mảnh vườn: hoa quả, trứng, rau, mật ong. Thịt gà thì không, thịt gà thì ông mua ở hàng thịt. Ông không thể giết một con gà. Ông cứ để chúng chết già, điều này thật kỳ cục vì lũ gà già bắt đầu tràn lan trong mảnh vườn của ông.
Cô từng ở ngoài vườn hàng tiếng đồng hồ vào mùa hè như một người nông dân trên đồng, hai bàn tay dính nhớp vì hái quả lý chua đỏ, lý chua đen và mâm xôi. Cô bị những bụi lý chua lông cào xước, bị ong đốt, bị đám côn trùng ẩn mình trong cỏ cắn và cảm thấy ghê tởm những con sâu cùng sên trần. Tại sao họ không thể mua sắm trong những siêu thị đèn đuốc sáng trưng, chọn những gói thực phẩm màu mè, những loại rau quả bóng mẩy xuất xứ từ một nơi xa xôi do người khác hái chứ?
Giờ thì, nếu cô thành thực với chính mình - cô biết cô hiếm khi như vậy - cô thấy nhớ tất cả những bữa ăn mà cô căm ghét vào thời điểm đó. Bố cô đã trưng dụng những cuốn sách dạy nấu ăn cũ của Nancy và làm món thịt nướng ngày Chủ nhật, bánh táo, thịt hầm khoai tây và bánh hấp nhân đại hoàng. “Bố cháu siêu thật đấy.” Mọi người thường nói với cô như vậy. Các giáo viên của cô quý mến ông, một phần vì họ từng quý mến Nancy, nhưng cũng vì cái cách ông đảm nhiệm vai trò của người mẹ. Cô không muốn ông làm mẹ cô, cô chỉ muốn Nancy làm mẹ cô thôi.
(“Chúng tôi là những người sớm đi theo tiếng gọi của cuộc Cách mạng Xanh. Tôi được nuôi dạy trong một gia đình tự cung tự cấp, rất quan tâm đến môi trường sinh thái. Chúng tôi tự trồng các loại rau củ quả, tái chế tất cả mọi thứ, chúng tôi thực sự là những người đi trước thời đại trong vấn đề tôn trọng hành tinh này.” Teddy rất ngạc nhiên khi đọc được những dòng này trong một bài phỏng vấn ở phần phụ lục in màu của một tờ báo Chủ nhật, trước khi ông rời khỏi Fanning Court để tới nhà dưỡng lão không lâu.)
Bố cô đọc cuốn Mùa xuân tĩnh lặng khi nó mới được xuất bản, ngay sau khi mẹ cô mất. Dĩ nhiên là ông mượn ở thư viện. (Ông có bao giờ thực sự mua một cuốn sách không nhỉ? “Nhưng chúng ta nên ủng hộ các thư viện công cộng, nếu không chúng sẽ bị đóng cửa.”) Ông từng “tra tấn” cô bằng cách đọc to những đoạn văn. Đó là khi ông bị ám ảnh bởi lũ chim trong vườn. Hiện có vài con thuộc những loài khác nhau đang bâu quanh cái hộp đựng thức ăn cho chim. Viola chẳng phân biệt nổi con nào là chim gì.
Cô trở lại bếp - giờ trong bếp chẳng còn ai nữa, ơn Chúa - và bắt đầu lôi những cái đĩa ra khỏi tủ chén bát và cho chúng vào những cái hộp, chia riêng những hộp sẽ mang đến Fanning Court và những hộp sẽ mang đến cửa hàng từ thiện. (Ai cần đến bốn cái đĩa đựng rau có nắp đậy hoặc thậm chí là một cái liễn xúp chứ?)
Dường như tất cả mọi thứ trong bếp đều khơi lại ký ức. Những cái đĩa Pyrex gợi cô nhớ đến món khoai tây nghiền nướng với thịt băm và món pudding làm từ gạo. Những cái cốc vại khủng khiếp bằng thủy tinh màu xanh lá cây với hoa văn gồ ghề khiến tất cả mọi thứ đựng trong đó trông như bị nhiễm bẩn, đó chính là những cái cốc đựng sữa mà cô từng uống hằng đêm trước khi đi ngủ - kèm theo hai cái bánh quy Rich Tea, loại bánh quy cơ bản nhất, trong khi cô đang chết thèm thứ gì đó hấp dẫn hơn - chẳng hạn như bánh của hãng Club hay Penguin. Việc bố cô kiên quyết cho cô ăn loại bánh quy cơ bản vào giờ đi ngủ đã nói lên tất cả về sự hà khắc của ông. (“Bố đang nghĩ đến răng của con.”) Ồ, và đám bát đĩa bằng sành của hãng Midwinter mang lại cho người ta cảm giác sầu muộn kia nữa. Cả cuộc đời có thể được chứa trong mẫu hoa văn của một bộ bát đĩa. (Một câu văn hay ho. Cô cất kín nó đi.) Một ngày kia, toàn bộ chỗ này sẽ trở thành “đồ cổ” và Viola sẽ rất bực tức vì cô đã đóng hộp chúng để gửi tới Oxfam mà không thèm liếc lại lấy một lần.
Bố cô có vẻ quá cổ lỗ nhưng ông hẳn đã từng tân tiến. Lại một câu văn thú vị. Cô cũng cất kín nó đi để dùng sau này. Cô đang viết một cuốn tiểu thuyết. Nó nói về một cô gái trẻ thông minh, sáng dạ, già dặn, và mối quan hệ không được xuôi chèo mát mái của cô với người bố đơn thân của mình. Đây là một việc bí mật. Một việc cô không thể nói với ai. Viola cảm nhận được ở bên trong cô có một con người tốt hơn con người lúc nào cũng muốn trừng trị thế giới vì cách cư xử tồi tệ của nó (trong khi cách cư xử của cô cũng rất đáng trách). Có lẽ viết lách là một cách để đưa con người đó ra ánh sáng.
Cô làm rơi một cái cốc đựng sữa hiệu Midwinter khiến nó vỡ tan. “Khỉ thật!” Cô nói, khẽ khàng hơn cô định.
Teddy đã để Viola sắp xếp chuyển vài món đồ kềnh càng trong nhà tới một cuộc bán đấu giá và, theo cách nói của cô, họ đã thu về được “một món tiền rẻ mạt”. Cây đàn piano của Nancy, chiếc tủ búp phê của Gertie. Những đồ vật quý giá. Cây đàn piano đã bị lệch tông và bị bỏ xó vì bây giờ chẳng có ai chơi nó nữa. Viola bỏ chơi đàn (cô không có năng khiếu lắm) sau khi Nancy qua đời.
Khi Teddy nghĩ về Nancy, ông thường hình dung bà đang ngồi ở cây đàn ấy. Ông nghĩ về bà hằng ngày, như ông nghĩ về rất nhiều người khác. Người chết nhiều không đếm xuể và ông cho rằng việc nhớ về họ là một loại bổn phận. Không phải lúc nào cũng liên quan đến tình yêu.
Ông nhớ đến lần mình đi vào căn phòng này và nhìn thấy Nancy đang chơi piano - gần như là lần cuối. Nhạc của Chopin. Ông đã nghĩ đến một bức tranh của Vermeer trong Triển lãm Quốc gia - một người phụ nữ đang ở bên một cây đàn clavơxanh nhỏ trong một căn phòng - ông không thể nhớ chính xác, đã lâu lắm rồi ông không lên London. Người phụ nữ bị làm phiền khi đang chơi đàn piano, ông nghĩ khi ông nhìn thấy Nancy. Ông có thể tưởng tượng bà đang sống trong một căn phòng gọn gàng, lạnh lẽo trong tranh của Vermeer. Ông có thể tưởng tượng bà đang đọc thư, rót sữa. Ông có thể tưởng tượng ra lời yêu cầu của bà và mục đích của nó. Khi ông bước vào phòng, bà ngẩng lên từ cây đàn piano, tỏ ra kinh ngạc như thể bà đã quên mất sự tồn tại của ông, và mang vẻ mặt bí hiểm như thể bà đã chìm đắm trong chính bản thân bà, vẻ mặt mà thi thoảng bà vẫn mang. Nancy bí ẩn.
Lòng ông đã thắt lại khi những người thợ dọn nhà mang cây đàn piano đi. Ông đã yêu Nancy, nhưng có lẽ cách yêu của ông không phù hợp với bà. Có lẽ một ai đó ở thế giới rộng lớn ngoài kia sẽ khiến bà hạnh phúc hơn. Nhưng ông đã yêu bà. Không phải là kiểu tình yêu đầy đam mê mãnh liệt hay tình yêu bay bổng lãng mạn kiểu hiệp sĩ, mà là một kiểu tình yêu thiết thực, đáng tin cậy hơn.
Ông cũng buồn khi thấy cái tủ búp phê của Gertie bị khiêng đi mất. Nó vốn là đồ của nhà Shawcross và được kê ở phòng ăn của ngôi nhà Quạ Gáy Xám. Nó là một món đồ theo trào lưu Thủ công Mỹ nghệ của hãng Liberty, đã lỗi thời nhiều năm nhưng hiện đang được ưa chuộng trở lại, tuy nhiên quá trình ấy diễn ra không đủ nhanh đối với Viola, cô đã luôn coi nó là xấu xí và “thảm hại”. Mười lăm năm sau, vào năm 2008, khi Viola nhìn thấy người anh em song sinh của cái tủ búp phê của Gertie - mà có lẽ đó chính là nó - trên chương trình Antiques Roadshow và cái giá mà nó được định, Viola sẽ tức điên lên vì mình đã không “giữ lấy nó”. “Đáng lẽ mẹ phải giữ nó lại.” Viola nói với Bertie. “Nhưng ông ấy cứ khăng khăng đòi bỏ nó đi.” Teddy càng già, Viola càng hay gọi ông gọn lỏn là “ông ấy” hơn, như thể ông là một vị thần gia trưởng đã làm hỏng cuộc đời cô.
“Chiếc đồng hồ quả lắc cầm tay cũ của bố đâu rồi nhỉ?” Cô đột nhiên hỏi, quét mắt khắp căn phòng khách giờ đã gần như trống không. “Hình như con không nhìn thấy nó khi chúng ta đóng gói đồ đạc.” Đó là chiếc đồng hồ của Sylvie và trước đó là của mẹ bà. Nó đã rơi vào tay Ursula khi Sylvie mất và Ursula để nó lại cho Teddy, vì vậy nó đã đi theo một con đường ngoằn ngoèo trên cái cây gia phả. “Bố biết đấy!” Viola nói với vẻ thờ ơ giả tạo. “Nếu bố không muốn giữ nó nữa, con sẽ lấy nó về.” Cô là kẻ nói dối rất kém - rõ ràng lời nói dối của cô chẳng có tí chân thật nào, nhưng cô lại hoàn toàn tin tưởng vào khả năng lòe bịp của mình. Nếu cô cần tiền, tại sao cô không hỏi xin ông? Cô luôn trông chờ được người khác cho thứ gì đó, giống như một con chim cúc cu hơn là một con thú săn mồi. Như thể trong cô luôn có một nỗi thèm khát không bao giờ có thể thỏa mãn. Nó khiến cô trở nên tham lam.
Đó là một chiếc đồng hồ tốt do Frodsham[84] chế tác và khá giá trị, nhưng Teddy biết rằng nếu ông đưa nó cho Viola, cô sẽ bán nó, làm mất nó hoặc đánh vỡ nó, trong khi ông rất coi trọng việc giữ nó lại trong gia đình mình. Một món đồ gia truyền. (“Từ đó đáng yêu quá!” Bertie nói.) Ông hy vọng rằng chiếc chìa khóa vàng nhỏ bé được dùng để lên dây cót cho nó sẽ tiếp tục được xoay bởi bàn tay của một thành viên trong gia đình, một người là máu mủ của ông. Sợi chỉ đỏ. Nếu nó rơi vào tay Viola thì cô gần như chắc chắn sẽ làm mất nó. Vì vậy, ông đã đưa cái đồng hồ ấy cho Bertie vào lần cuối cô đến thăm ông. Đáng lẽ ông nên cho cô cả chiếc tủ búp phê của Gertie nữa, nó sẽ hợp với ngôi nhà theo trào lưu Thủ công Mỹ nghệ nơi cô sẽ sống sau này cùng hai đứa con song sinh và người đàn ông tuyệt vời mà cô đã lấy làm chồng - một bác sĩ mà cô tình cờ gặp trên cầu Westminster vào tuần lễ diễn ra Đại lễ Kim cương của Nữ hoàng[85]. Nhiều năm sau, sau khi Bertie kết hôn và chuyển tới ngôi nhà này ở East Sussex, cô đã đem cái đồng hồ đi định giá để bảo hiểm và phát hiện ra rằng nó trị giá đến ba mươi nghìn bảng. Mỗi lần Viola đến thăm cô, Bertie phải giấu tiệt “quả trứng vàng lót ổ[86]” nhỏ bé của cô đi và quấn chặt nó lại để bịt tiếng kêu của nó. Lúc đó Teddy đã nằm dưới đất được hai năm rồi và ông sẽ không bao giờ được nhìn thấy ngôi nhà theo trào lưu Thủ công Mỹ nghệ của Bertie, không bao giờ được nhìn thấy chiếc đồng hồ ấy tiếp tục đếm ngược thời gian trên mặt lò sưởi của cô.
“Bố đã đóng gói cái đồng hồ đó rồi à?” Viola hỏi với vẻ trách móc.
Teddy nhún vai vẻ ngây thơ và nói: “Có lẽ thế. Chắc là nó đang ở dưới đáy một cái hộp nào đó.” Ông yêu Viola như bất kỳ người cha nào yêu con mình, nhưng việc đó thật khó khăn.
“Có lẽ chúng ta sẽ phải sơn lại ngôi nhà này một chút trước khi rao bán nó.” Viola nói. “Nhưng nhân viên bất động sản nói rằng nó sẽ khá dễ bán.” (Con gái ông đã nói chuyện với nhân viên bất động sản sao? Sau lưng ông?) “Và rồi bố sẽ có một khoản tiền để sống nốt những ngày còn lại.” Đó chính là tình cảnh của ông kể từ bây giờ ư? Sống nốt những ngày còn lại. Đương nhiên, ông đã luôn ở trong tình cảnh như thế, ai cũng vậy, nếu may mắn.
“Nhà mới.” Viola nói. “Một sự khởi đầu mới. Việc đó sẽ…” Cô suy nghĩ để tìm một từ thích hợp.
“Đầy khó khăn?” Teddy ướm lời. “Đầy buồn tủi?”
“Con đang định nói là việc đó sẽ giúp bố trở nên tràn trề sinh lực.”
Ông không muốn một sự khởi đầu mới, và ông ngờ rằng Fanning Court sẽ chẳng bao giờ đem lại cho ông cảm giác thoải mái như ở nhà. Nó là một tòa nhà còn mới, vẫn rõ mùi sơn và mùi của những món đồ nội thất chống cháy. Căn hộ mà Teddy mua là một trong những căn hộ cuối cùng được bán của tòa cư xá này. (“Bố rất may mắn khi mua được nó đấy.” Viola nói.) Ít nhất ông không chuyển tới một căn hộ vừa có người chết. Những nơi thế này thuộc dạng “người này đi, người kia đến”, không phải sao? “Không, đây chỉ là một trạm nghỉ, Teddy.” Một trong (số ít) người bạn còn sống của ông là Paddy nói. “Những chặng đường thánh giá[87].” Cán cân thăng bằng của Teddy đã nghiêng lệch, bây giờ ông biết nhiều người chết hơn là người sống. Ông tự hỏi ai sẽ là người ở lại cuối cùng. Ông hy vọng đó không phải là ông. “Trạm nghỉ tiếp theo là nhà dưỡng lão.” Paddy nói. “Tôi thà tiêm một mũi tiêm nhân đạo để có cái chết êm ái như một con chó già còn hơn là đến một nơi như thế.” “Tôi cũng vậy.” Teddy đồng ý.
Những không gian công cộng ở Fanning Court được sơn màu hồng và màu be dịu mắt. Các bức tường ở hành lang được treo các bức tranh thuộc trường phái Ấn tượng dễ nhìn. Dường như chẳng có ai từng ngắm chúng cả. Nghệ thuật cũng chỉ như giấy dán tường. “Dễ thương quá, phải không bố?” Viola nói với vẻ lạc quan gượng ép khi họ lần đầu được dẫn đi tham quan một vòng. “Có cảm giác hơi giống một khách sạn bố nhỉ? Hoặc một con tàu du lịch?” Viola đi tàu du lịch bao giờ vậy? Cô đang hết sức quyết tâm làm cho ông phải thích Fanning Court.
Người dẫn họ đi tham quan khu cư xá là bà giám thị, một người phụ nữ có tên là Ann Schofield. Bà ta nói: “Hãy gọi tôi là Ann, Ted.” (Hãy gọi tôi là ông Todd, Teddy nghĩ.) “Giám thị”, nghe như trong truyện của Trollope vậy. Và bây giờ ông sẽ là một cư dân ở Fanning Court - một nhà tế bần thời đại mới. Nhưng Ann Schofield chẳng có điểm gì giống với Septimus Harding[88] cả. Bà ta to béo và có dáng vẻ hối hả. Giọng nói vùng trung du chậm rãi (“Giọng Brummie[89] đấy và tôi tự hào về nó”) không lột tả được sinh lực tràn trề của bà ta. “Ở đây, chúng tôi là một gia đình hạnh phúc.” Bà ta nhấn mạnh, cứ như Teddy có thể là một con chiên ghẻ[90].
Bà ta đi trước dẫn đường. Bà ta có cặp mông đồ sộ và Teddy tự quở trách mình vì sự thô lỗ của ông, nhưng nó cứ lồ lộ đập vào mắt khiến người ta không thể không chú ý đến. “Kiểm soát viên mập ú[91].” Bertie đã gọi bà ta như vậy khi cô lần đầu tới Fanning Court thăm ông. Cô đã rất yêu thích những cuốn sách Tàu hỏa Thomas, cô yêu tất cả các cuốn sách. Cô đang học năm đầu ở trường Oxford, nơi Teddy từng theo học - giờ nó dạy cả nam lẫn nữ. Cô cũng học ngành mà Teddy học ngày trước. Cô là người kế tục ông, là tạo vật ông truyền lại cho thế gian, là thông điệp của ông với nhân loại.
Họ đi tới phòng sinh hoạt chung trước, ở đó có một nhóm nhỏ đang chơi bài Bridge. “Bố nhìn kìa.” Viola thì thầm. “Bố thích chơi bài, đúng không?” (“Ờ…” Teddy nói.)
“Ồ, ở đây chúng tôi có đủ loại hoạt động.” Ann Schofield nói. “Bài Bridge này - như ông thấy đấy - rồi domino, sắp chữ, bóng thảm, kịch nghiệp dư, hòa nhạc, một buổi uống cà phê đàm đạo vào mỗi sáng thứ Tư...” Teddy bỏ ngoài tai. Chân ông như bị chuột rút, ông muốn về nhà, uống một tách trà và xem chương trình Countdown. Ông không phải người nghiện ti vi nhưng ông thích trò giải đố - những chương trình tử tế với đối tượng khán giả trung niên trầm tĩnh. Ông thấy chúng vừa có tính giải trí vừa có tính thử thách, mà ở tuổi của ông, như thế là quá đủ rồi.
Chuyến tham quan vẫn chưa kết thúc. Điểm dừng tiếp theo là một phòng giặt là nóng ẩm đầy những cỗ máy khổng lồ, và sau đó là “kho phế thải” (khá bốc mùi) với những thùng rác cỡ đại có thể nuốt chửng cả một “người già” nếu họ không cẩn thận. “Dễ thương quá!” Viola lẩm bẩm. Teddy liếc nhìn cô. Dễ thương ư? Ông nghĩ. Trông cô hơi quá khích. Tiếp đến là một “căn bếp nhỏ” nơi họ có thể tự làm cho mình “những loại đồ uống nóng” khi họ “giao lưu với nhau” ở sảnh sinh hoạt chung. Đi đến đâu họ cũng thấy người ta mỉm cười chào ông hoặc hỏi khi nào thì ông chuyển đến. “Những người bạn mới của bố đấy.” Viola rạng rỡ nói.
“Những người bạn cũ của bố chẳng có vấn đề gì cả.” Teddy nói, chân ông bắt đầu nặng như chì.
“Chà, ngoại trừ việc hầu hết bọn họ đều đã chết.”
“Cảm ơn con vì đã nhắc bố.”
“Ổn chứ ạ?” Ann Schofield nói, ngoảnh lại nhìn họ khi cảm nhận được mối bất đồng giữa hai người.
Một người phụ nữ tập tễnh đi dọc theo hành lang về phía họ với sự trợ giúp của một cái khung tập đi. “Xin chào, ông đến nhập hội với chúng tôi, phải không?” Bà ta vui vẻ nói với Teddy. Cứ như ông đến gia nhập một giáo phái nào đó vậy. Teddy nhớ đến một chương trình ti vi từ thập niên sáu mươi mà Viola từng thích xem. Tù nhân. Trái tim ông chùng xuống. Đây sẽ là nhà tù của ông, không phải sao? Một nhà tù có giám thị.
Họ gặp thêm nhiều bà lão nữa - thực ra đâu đâu cũng thấy những bà lão. Lúc Teddy chuyển đến đây, ông nhận ra rằng hầu hết “cư dân” ở nơi này là phụ nữ. Họ thích ông, phụ nữ luôn thích ông. Đương nhiên ông vẫn còn khá nhanh nhẹn, hoạt bát và tài cán. Và những người phụ nữ này thuộc về cái thế hệ có thể bị ấn tượng chỉ bởi vì một người đàn ông biết cách bật hoặc tắt công tắc ấm đun nước. Ông khiến cho một vài trái tim mong manh ở Fanning Court phải run rẩy, nhưng ông đã cố hết sức để khéo léo tránh chuyện yêu đương hay dan díu. Vì mặc dù bề ngoài của nơi này có vẻ hoàn toàn êm đềm, nhưng bên dưới lớp sơn màu be của nó vẫn đầy rẫy những chuyện ngồi lê đôi mách và thói ghen ăn tức ở. Teddy, vẫn là một người đàn ông đẹp lão ở tuổi tám mươi (đặc biệt là trong mắt một người phụ nữ ở độ tuổi bảy mươi), đã vô tình khơi lên đủ loại cảm xúc mãnh liệt.
“Ông cho rằng ở độ tuổi của ông không còn nhiều đàn ông nữa.” Ông nói, biện giải cho một vụ xích mích.
“Ở độ tuổi của cháu cũng vậy.” Bertie nói.
“Đi nào, Ted!” Ann Schofield nói. “Còn nhiều thứ để xem lắm.” “Nhiều thứ để xem” ấy là một mảnh vườn nhỏ trồng theo phong cách đô thị. Vài cái ghế băng. Một bãi đỗ xe.
“Ồ, tôi không nghĩ bố tôi sẽ mang theo xe hơi.” Viola nói.
“Ồ, tôi nghĩ là có.” Teddy nói.
“Thiệt tình, bố à, bố đã quá tuổi lái xe rồi.” (Ông cho rằng Viola muốn lấy chiếc xe của ông. Xe của Viola rất hay bị hỏng.) Viola thích tranh luận về những vấn đề như thế này ở khu vực công cộng, nơi có khán giả để họ có thể thấy được cô có lý thế nào, còn các thành viên khác trong gia đình cô vô lý ra sao. Cô từng làm thế với Sunny suốt, khiến cho cậu bé tội nghiệp tức điên lên. Đến giờ cô vẫn làm vậy.
“Ồ, nhiều cư dân ở đây vẫn có xe mà.” Ann Schofiled nói, khiến Viola thất vọng.
Căn hộ này vừa bằng phòng khách của bà nội ông ở Hampstead. Đã lâu lắm rồi Teddy không nghĩ về bà cụ Adelaide, và ông ngạc nhiên khi thấy trong đầu mình vẫn còn in rõ một ký ức về cụ, đó là hình ảnh cụ mặc chiếc váy dài màu đen thời Victoria - cho dù đó là thập niên hai mươi - và phàn nàn về những đứa cháu nội ồn ào. Thời ấy nay đã xa lơ xa lắc rồi.
Ông nhớ rằng có một lần, trong một chuyến viếng thăm cực kì tẻ nhạt, ông và Jimmy đã len lén lên gác để khám phá phòng ngủ của bà cụ, nơi họ vốn dĩ bị cấm bén mảng đến. Ông nhớ cái tủ quần áo của bà cụ to kềnh càng, bên trong được lót bằng lụa xếp ly, sực nức mùi long não, oải hương và phảng phát mùi mốc meo. Hai người họ đã trèo vào bên trong tủ, mặt họ quệt mạnh vào những bộ quần áo lỗi mốt lạ lùng của bà cụ Adelaide. “Em không thích ở trong này đâu.” Jimmy thì thầm. Teddy cũng không thích nên bước ra ngoài trước, chẳng may va phải cánh cửa khiến nó đóng sầm lại. Phải loay hoay mất một lúc họ mới mở được nó ra lần nữa, vì tay cầm của nó được thiết kế khá kỳ cục.
Khi Jimmy cuối cùng cũng nhào ra, những tiếng thét kinh hãi của cậu bé Teddy lúc ấy đã triệu tập cả nhà đổ xô tới. Cụ Adelaide vô cùng phẫn nộ (“Mấy thằng nhóc tai quái này, mấy thằng nhóc tai quái này”), nhưng ông nhớ rằng Sylvie đã đưa tay lên bịt miệng mình để cụ Adelaide không thể nhìn ra là bà đang cười. Kể từ đó, Jimmy tội nghiệp không bao giờ thích nổi những không gian tù túng. Jimmy từng là lính biệt kích trong chiến tranh, từng đặt chân lên bãi biển Sword và tham gia những cuộc đụng độ nho nhỏ trên mảnh đất châu Âu hoang tàn sau Ngày Đổ Bộ trước khi theo Trung đoàn Chống tăng số 63 miệt mài chiến đấu trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến. Hẳn là Jimmy phải căm ghét khoảng không gian chật chội trong lòng những cỗ xe chống tăng ấy lắm. Ông đã ở trong Trung đoàn 63 khi họ giải phóng trại tập trung Bergen-Belsen, nhưng ông và Teddy chưa bao giờ nói về chuyện đó, họ hầu như chẳng nói gì về chiến tranh. Teddy ước gì họ đã nói về vấn đề ấy.
Trước khi ông phát hiện ra bí mật về Jimmy vào một ngày bất ngờ ngay sau khi chiến tranh kết thúc, hình ảnh những người đồng tính trong mắt Teddy là những anh chàng xinh đẹp, ẻo lả mà ông nhìn thấy ở Soho. Ông đã không nghĩ rằng những người đàn ông như thế có thể can đảm, táo bạo như những gì Jimmy đã thể hiện.
Jimmy đã mất từ lâu ở độ tuổi năm mươi vì bệnh ung thư hạch bạch huyết tiến triển nhanh. Khi nhận được chẩn đoán, ông đã lái xe ra khỏi đường đi và lao qua một vách đứng. Sống khoa trương, chết cũng khoa trương. Đương nhiên, ông sống ở Mỹ mà. Teddy đã không tới đám tang của em trai mà tới một nhà thờ địa phương, ngồi lặng lẽ suy nghĩ vào lúc Jimmy được chôn cất ở phía bên kia bờ Đại Tây Dương. Vài ngày sau, một lá thư màu xanh dương mỏng manh được gửi đến hòm thư của ông qua đường hàng không, như thể nó là một chiếc lá hiếm lơ lửng bay vào trong đó. Trong lá thư ấy, Jimmy đã nói lời vĩnh biệt. Ông viết rằng ông đã luôn yêu quý, ngưỡng mộ Teddy và Teddy luôn là người anh tốt của ông. Teddy nghĩ điều này không hoàn toàn đúng. Ông đã khá lơ là bổn phận của một người anh. Ông chưa bao giờ hỏi về cuộc sống đồng tính của Jimmy (thực ra là ông không muốn biết), và đã luôn nghĩ rằng (bây giờ ông sẵn sàng thừa nhận là ông đã rất hợm hĩnh) nghề nghiệp của Jimmy - trong ngành quảng cáo - là khá tầm thường. Ông đã cảm thấy thất vọng tương tự khi Bertie cũng làm việc trong ngành quảng cáo, cái ngành mà theo ông thấy chỉ khuyến khích người ta tiêu số tiền mà họ không có vào những thứ mà họ không cần. (“Đúng vậy ạ.” Bertie đồng ý.)
“Chà, Jimmy đã có một cuộc chiến khủng khiếp.” Ursula nói vào lúc bấy giờ. “Chị nghĩ sự tầm thường là một liều thuốc giải tốt dành cho nó.”
“Chúng ta ai cũng có một cuộc chiến khủng khiếp.” Teddy nói.
“Không phải ai cũng vậy.” Ursula nói. “Em thì có, chị biết.”
“Chị cũng thế mà.”
“Chúng ta đều có một công việc phải làm.” Ursula nói. “Và chúng ta đã làm nó.”
Ôi, ông nhớ chị ông quá! Trong số tất cả mọi người, trong đám đông người chết nhiều không đếm xuể, trong hằng hà sa số những linh hồn đã ra đi trước ông, việc mất đi Ursula khiến ông đau đớn hơn cả. Bà đã bị đột quỵ, gần ba mươi năm trước. Một cái chết nhanh gọn, ơn Chúa, nhưng hồi đó bà còn quá trẻ. Và bây giờ, Teddy đã quá già.
“Bố ơi?”
“Ơi, bố xin lỗi, bố mải nghĩ đến mấy chuyện.”
“Bà giám thị - Ann - đang giải thích về những sợi dây báo nguy.” Ôi trời, Teddy nghĩ.
Trong mỗi căn phòng đều có những sợi dây đỏ mảnh mai treo lủng lẳng trên trần. “Vì vậy nếu ông bị ngã…” Ann Schofiled nói. “… Ông có thể kéo một sợi để gọi trợ giúp.” Teddy không buồn hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông không ở gần một sợi dây khi bị ngã. Ông hình dung Ann Schofield lạch bạch chạy tới chỗ ông dọc theo những hành lang sơn màu hồng và màu be, ông nghĩ ông thích nằm yên ở chỗ ông bị ngã và chầm chậm trút hơi thở cuối cùng với chút kiêu hãnh còn sót lại hơn.
Ann Schofield gọi tòa cư xá này là “Fanning”, do đó Teddy cảm thấy nó nghe như một khách sạn ở Mayfair, nơi ông từng qua đêm với một cô gái. Ông không thể nhớ nổi tên của cái khách sạn đó (Hannings? Channings?) nhưng ông khá chắc chắn tên cô gái là Ivy. Họ đã va vào nhau trong màn đêm đen kịt, cả hai đều đang tìm kiếm một chỗ để ngả lưng vào đêm đó. Cô đang tìm kiếm Câu lạc bộ Công giáo ở phố Chester, còn Teddy không thể nhớ lúc ấy ông đang tìm kiếm cái gì, nếu có. Ông đã say còn cô cũng khá chếnh choáng, và họ đã bổ nhào (theo đúng nghĩa đen) vào cái khách sạn ấy.
Những gì ở hiện tại trở nên nhòe mờ - và ông cho rằng càng ngày chúng càng mờ mịt hơn - nhưng quá khứ lại sáng dần lên. Ông có thể nhìn thấy những bậc thềm bụi bặm của cái khách sạn ở London đó, thấy mái cổng màu trắng và cái cầu thang hẹp dẫn lên căn phòng áp mái ở tầng năm. Ông gần như có thể cảm nhận được vị bia mà họ đã uống. Có một chỗ trú ẩn dưới tầng hầm nhưng khi còi báo nguy vang lên, họ không đi xuống đó mà thò đầu ra ngoài cửa sổ trong không khí lạnh giá của màn đ?