← Quay lại trang sách

Tập 2 Chương 9 1942 - 1943-Cuộc chiến của Teddy

- Trải nghiệm -

“Còn hai mươi phút nữa là tới mục tiêu, thưa phi cơ trưởng.”

“OK, hoa tiêu.”

Họ đã phải chật vật vượt qua dàn hỏa lực phòng không được dựng lên làm hàng rào phòng thủ ở ven biển, rồi bẻ ngoặt một góc chính xác theo kế hoạch bay trên vùng lãnh thổ bị chiếm đóng trước khi băng qua vành đai đèn rọi dày đặc bao quanh vùng Ruhr. Trên đường bay của họ có rất ít mây, thi thoảng họ có thể nhìn thấy những ánh đèn ở bên dưới - đó là một nhà máy đang làm việc hoặc một địa điểm không tuân thủ chặt chẽ mệnh lệnh tắt đèn tạm thời. Chốc chốc, những ánh đèn pin hoặc đèn xách tay lại chiếu về phía họ, và vào lúc họ bay qua lãnh thổ Hà Lan, Norman Best, cậu cơ khí viên trầm lặng của họ đã đọc to tín hiệu mã Morse[121] từ một người có thiện ý ở bên dưới, dit-dit-dit-dah[122]. Chữ V trong từ Victory (chiến thắng). Đó là một thông điệp thể hiện sự tin tưởng và an ủi mà họ thường xuyên nhìn thấy.

“Cảm ơn, anh bạn, bất kể anh là ai.” Teddy nghe thấy xạ thủ ở tháp pháo đuôi nói. Xạ thủ ở tháp pháo đuôi là một người Scotland tóc đỏ gầy giơ xương, cậu ta mười tám tuổi và rất lắm lời, nhưng cậu ta luôn cố gắng giữ mồm giữ miệng, chỉ thoải mái liến thoắng khi họ ở trên mặt đất. Tổ bay của Teddy biết rằng cậu ta thường im lặng trên hệ thống liên lạc nội bộ trừ phi có gì cần nói. Họ có thể dễ dàng tán gẫu với nhau, nhất là trên đường trở về, khi tất cả mọi người đều đã thoải mái hơn, nhưng chỉ cần một thoáng lơ là thôi, đặc biệt là đối với các xạ thủ, họ có thể sẽ tiêu đời. Chấm hết.

Giống như cậu xạ thủ ở tháp pháo đuôi, Teddy cũng muốn cảm ơn người đàn ông - hay phụ nữ - Hà Lan vô danh dưới kia. Thật là tuyệt khi biết rằng họ đang được ủng hộ. Họ đang quá tách biệt với mặt đất - ngay cả khi họ đang phá hủy nó bằng những quả bom (có lẽ phải nói rằng đặc biệt là khi họ đang phá hủy nó bằng những quả bom) - đến nỗi thi thoảng họ quên mất rằng có những quốc gia ở dưới kia coi họ là niềm hy vọng cuối cùng.

“Tôi có thể nhìn thấy những vật đánh dấu mục tiêu đang được thả xuống ở đằng trước, thưa phi cơ trưởng, cách chúng ta hai mươi dặm, màu đỏ anh đào.”

“OK, lính cắt bom.”

Đây là phi vụ cuối cùng trong kỳ quân dịch của họ. Họ bứt rứt không yên vì những linh tính chẳng lành. Họ đã đánh bại số mệnh để đi tới được buổi tối hôm nay và đều đang băn khoăn tự hỏi liệu số mệnh có tàn nhẫn đến nỗi đưa họ đi xa tới mức này rồi đốn gục họ không. (Có thể lắm. Họ biết chứ.) “Chỉ một lần nữa thôi, Chúa Jesus ơi, chỉ một lần nữa thôi.” Anh đã nghe thấy cậu lính cắt bom người Úc vô thần lẩm bẩm những lời ấy khi họ ở trên đường băng, đợi ánh đèn Aldis màu xanh lá cây[123].

Họ đã phải rất vất vả mới đạt được đến con số ba mươi cần thiết. Một vài chuyến xuất kích của họ chỉ được tính là một phần ba phi vụ. Những chuyến bay “làm vườn” - tức là rải mìn xuống những con kênh vận tải ở Hà Lan hoặc ngoài khơi bờ biển vùng Frisia - hay những chuyến bay tấn công các mục tiêu ở Pháp chỉ được ghi nhận là một phần ba phi vụ. Nước Pháp bị chiếm đóng được coi là một đất nước “thân thiện”, nhưng dù thân thiện hay không thì nó vẫn đầy rẫy những gã lính Đức đang cố bắn hạ họ. Đúng là họ dễ bị giết chết hơn khi tham gia một cuộc không kích trên bầu trời nước Đức (“Khả năng tử trận cao hơn gấp bốn lần.” Theo lời cô bạn của Ursula ở Bộ Không quân), nhưng chuyến xuất kích nào họ chả phải mạo hiểm tính mạng. Thật là vô lý, Teddy nghĩ. Hoặc, theo cách nói thẳng thắn hơn của cậu lính cắt bom: “Bất công đếch chịu được.” Keith là người đầu tiên lập thành một đội với Teddy ở Đơn vị Huấn luyện Chiến đấu OTU.

Lập đội là một việc bất ngờ khiến phần lớn trong số họ đều kinh ngạc. Tất cả các vị trí cấu thành nên một tổ bay - phi công, hoa tiêu, điện đài viên, lính cắt bom và các xạ thủ - chỉ đơn giản được dồn thành đống vào một nhà chứa máy bay và làm theo lời yêu cầu của Chỉ huy Trạm “Hỡi các chàng trai chân chính, các cậu hãy gắng hết sức mình để tự lập ra những tổ bay xuất sắc nhất nhé”, như thể việc lập đội dựa trên luật hấp dẫn bí ẩn sẽ hiệu quả hơn nhiều so với bất cứ phương thức quân sự nào. Và, kỳ lạ thay, điều đó có vẻ đúng, ít nhất là theo những gì Teddy có thể nhận thấy.

Tất cả bọn họ đều loanh quanh thơ thẩn mất một lúc như một bầy ngỗng trong sân trại vào giờ ăn, có chút lúng túng trước lời yêu cầu của viên chỉ huy. “Cứ như một vũ trường quái quỷ ấy nhỉ, người nào người nấy đều đợi được lọt vào mắt xanh của một cô nàng nào đó.” Keith nói khi cậu ta tiếp cận Teddy và tự giới thiệu mình. “Tôi là Keith Marshall, lính cắt bom.” Bộ quân phục màu xanh dương sẫm của cậu ta cho thấy cậu ta là người Úc.

Đối tượng đầu tiên Teddy nhắm đến là một hoa tiêu nhưng anh thích vẻ ngoài của Keith, và chiến tranh đã dạy cho Teddy một bài học là ta thường có thể nhìn ra tính cách của một người đàn ông từ vẻ ngoài của anh ta: một biểu cảm trong mắt, một cái liếc đây đó, nhưng chủ yếu là một vẻ gì đó mà anh không thể cắt nghĩa được, và anh tự hỏi phải chăng chính vì nét khó hiểu ấy mà anh lập tức có cảm tình với Keith. Đương nhiên, anh cũng từng nghe thấy một thầy huấn luyện nói rằng cậu ta là một “chàng trai cừ khôi, thạo việc”. Và lời khen ấy hoàn toàn đúng. Keith không đủ điều kiện để trở thành phi công (“Không thể hạ cánh thứ chết tiệt đó”) nhưng đã đứng đầu lớp trong khóa học về bom.

Người Úc có tiếng là nóng tính nhưng Keith có vẻ điềm đạm, đôi mắt xanh dương của cậu ta toát lên vẻ đăm chiêu. Cậu ta hai mươi tuổi, lớn lên ở một trại nuôi cừu, và Teddy cho rằng cậu ta đã dành phần lớn cuộc đời để nhìn chằm chằm vào chân trời xa xăm dưới ánh dương chói lóa, trái ngược với những cánh đồng xanh dịu mắt trong thời thơ ấu của Teddy. Anh cho rằng hẳn điều đó đã tạo nên cách nhìn đời của mỗi người.

Keith nói cậu ta đang mong đợi được nhìn thấy một chút gì đó của thế giới, “cho dù chỉ là Đệ tam Đế chế Đức quốc xã bị chìm trong biển lửa”.

Họ bắt tay nhau như những quý ông hào hoa phong nhã, rồi Keith nói: “Chà, phi cơ trưởng, tốt hơn hết là chúng ta nên tiếp tục đi kiếm các thành viên khác thôi, nếu không sẽ chỉ còn sót lại những người không ai cần đến. Chúng ta không muốn lựa chọn những người như vậy, phải không?” Teddy nghĩ, đây là lần đầu tiên một thành viên trong tổ bay của anh (tổ bay của anh!) gọi anh là “phi cơ trưởng”. Anh có cảm giác như cuối cùng mình đã đi đúng đôi giày của mình.

Họ cùng quét mắt khắp nhà chứa máy bay, rồi Keith nói: “Anh có nhìn thấy cậu chàng đang đứng cười bên bức tường đằng kia không? Đó là một điện đài viên. Tối qua tôi đã uống rượu với cậu ấy và cậu ấy có vẻ là một người trung thực.”

“OK.” Teddy nói. Đó có vẻ là một sự tiến cử tốt.

Cậu chàng điện đài viên ấy mười chín tuổi, quê ở Burnley, tên là George Carr. Teddy từng chứng kiến George Carr ngỏ ý sửa xe đạp hộ ai đó, cậu ta nhiệt tình tháo nó ra thành từng mảnh rồi lắp lại nguyên vẹn trước khi đem trả cho chủ nhân của nó và nói: “Đó, tôi cá là nó còn tốt hơn cả lúc mới mua ấy.” Cậu ta nói cậu ta thích mày mò mọi thứ, tính cách đó có vẻ hữu ích đối với một điện đài viên.

Đến lượt George chỉ ra cho họ một xạ thủ trên không, cậu ta cũng quen cậu chàng này trong một đêm chè chén ở nhà ăn tập thể. Cậu chàng tên là Vic Bennett, là người ở đảo Canvey và có điệu cười ngoác tận mang tai (cậu ta là người có hàm răng xấu nhất trong số những người mà Teddy từng gặp). Sau khi được giới thiệu, cậu ta vẫy gọi “một người bạn” cùng học khóa huấn luyện bắn súng với cậu ta. “Tinh như cú.” Cậu ta nói. “Nhanh như chuột. Mà vẻ ngoài cũng hơi giống chuột thật. Một con chuột màu hoe.” Đó chính là cậu chàng người Scot lắm lời. “Kenneth Nielson, nhưng mọi người đều gọi tôi là Kenny.”

Vẫn chưa có hoa tiêu, Teddy nghĩ, hoang mang khi thấy mình bị mất quyền kiểm soát quá nhanh. Việc này hơi giống trò chơi hệ quả[124], hoặc có lẽ là trò bịt mắt bắt dê.

Làm thế nào để nhận ra một hoa tiêu giỏi nhỉ? Anh tự hỏi và nhìn quanh phòng. Một người điềm tĩnh, nhưng chẳng phải tất cả bọn họ đều cần điềm tĩnh sao? Chúi mũi xuống bàn, hoàn toàn chú tâm vào công việc. Anh nghe thấy một giọng Canada chậm rãi, điềm tĩnh ở đâu đó sau lưng anh. Anh xoay người lại, xác định chủ nhân của giọng nói đó và khi nhìn thấy phù hiệu hoa tiêu của cậu ta, anh liền nói: “Tôi là Ted Todd. Tôi là một phi công đang tìm kiếm một hoa tiêu giỏi.”

“Chính là tôi đây.” Anh chàng Canada nhún vai, nói. “Chí ít cũng đủ để đáp ứng yêu cầu của anh.” Cậu ta tên là Donald McLintock. Đương nhiên được gọi tắt là Mac. Teddy thích người Canada, trong thời gian tập huấn ở đó, anh thấy họ là những người đáng tin cậy, và họ không dễ bị căng thẳng quá mức hay có trí tưởng tượng quá phong phú - vốn là những đặc điểm không tốt đối với một hoa tiêu. Giọng nói của Mac đã khơi lại trong anh những hồi ức thân thương về bầu trời thênh thang rộng mở nơi anh từng học lái máy bay trên những chiếc Tiger Moth hay Fleet Finch và xao xuyến trước tấm thảm phong cảnh khổng lồ sặc sỡ của tỉnh Ontario. Những chiếc máy bay ấy chỉ là những vật thể nhỏ bé mong manh so với những chiếc Anson và Harvard mà anh đã lái lúc tốt nghiệp, chưa kể những chiếc Wellington đồ sộ mà họ sẽ học lái ở Đơn vị Huấn luyện Chiến đấu. Các phi công chiến đấu cơ thường chế giễu gọi các phi công lái máy bay ném bom là “Tài xế xe buýt”, nhưng đối với Teddy, có vẻ như chính những chiếc “xe buýt” đó sẽ giành được chiến thắng.

“Mừng cậu nhập hội, hoa tiêu.” Teddy nói. Họ lại lịch thiệp bắt tay nhau khắp lượt. Ôi chà, họ là một tổ bay ô hợp, Teddy nghĩ. Anh khá thích điều đó. “Chỉ cần thêm một cơ khí viên người New Zealand nữa…” Keith nói, trùng khớp với những suy nghĩ của Teddy. “… Là chúng ta sẽ giống cái Hội Quốc Liên[125] quái quỷ.” Họ không kiếm được người New Zealand nào, thay vì thế họ có Norman Best, người xứ Derby, một cựu học sinh trường điểm khá nhút nhát và nghiêm túc, có tấm bằng về ngôn ngữ và một niềm tin kiên định vào Cơ Đốc giáo, nhưng đó là khi họ chuyển sang Đơn vị Huấn luyện Chuyển đổi Hạng nặng, còn hiện tại họ chỉ có từng này người thôi. Họ là một đội. Đơn giản như thế đấy. Kể từ giờ họ ăn cùng nhau, uống cùng nhau, bay cùng nhau và cuộc đời họ gắn bó chặt chẽ với nhau.

Đêm đầu tiên ấy, sau khi lập đội, cả tổ bay liền kéo nhau đi chè chén như một thủ tục bắt buộc. Noi theo tinh thần của chủ nghĩa quân bình, tất cả bọn họ phải thay phiên nhau mỗi người đãi một tuần bia. Thế là sau sáu vại bia, họ lảo đảo trở về chỗ ngủ, say bí tỉ và tuyên bố rằng tình bạn của họ là bất diệt. Teddy chưa bao giờ uống say như thế trong đời, và đêm đó, khi anh nằm trên tầng hai của chiếc giường tầng, căn phòng như xoay tròn xung quanh, anh nhận ra rằng anh cũng chưa bao giờ phấn chấn đến thế. Hay đúng hơn thì đã lâu lắm rồi anh không phấn chấn như vậy, có lẽ là từ hồi anh còn bé tí. Anh sắp có một cuộc phiêu lưu.

Tất cả bọn họ đều là hạ sĩ quan, ngoại trừ Teddy. Theo những gì anh biết, anh được phong làm sĩ quan chẳng vì lý do gì ngoài việc đã học đúng trường, cả trung học lẫn đại học, và khi được hỏi, anh đã nói rằng mình thích cricket, dù anh không thực sự thích nó lắm nhưng anh có thể thấy rằng nếu anh nói thật thì đó sẽ là một câu trả lời sai lầm. Và đó là lý do nhiều tháng sau, anh đang ở đây, trên đường tới Duisburg, với tư cách là chỉ huy của một đám đàn ông, là kẻ làm chủ vận mệnh của mình, là người nắm giữ linh hồn mình và linh hồn của một chiếc Halifax bốn động cơ kềnh càng quái quỷ có xu hướng đáng ngại là nghiêng về bên phải mỗi khi cất cánh và hạ cánh.

“Mười phút nữa là đến mục tiêu, phi cơ trưởng.”

“OK, hoa tiêu. Mười phút nữa là đến mục tiêu, lính cắt bom.”

“OK, phi cơ trưởng.”

Trên không trung, họ gọi nhau bằng vai trò của họ, nhưng dưới mặt đất, họ trở lại là chính bản thân họ - Ted, Norman, Keith, Mac, George, Vic và Kenny. Giống như những người bạn đồng hành trong một chuyến phiêu lưu trong sách truyện, Teddy nghĩ. Trong số những “đồng chí” của Augustus, có hai người tên là Norman và George, nhưng Augustus của Izzie và những đồng đội của cậu vẫn chỉ mười một tuổi, mãi mãi là trẻ con và bận rộn với việc bắn súng cao su, bắt cá tuế và sục sạo chạn thức ăn để tìm những lọ mứt - vì một lý do nào đó, có vẻ như chúng coi những lọ mứt ấy là một món ăn thiêng liêng giống như chén thánh vậy. Đứa con tinh thần mà Izzie sáng tạo ra cùng nhóm bạn vui vẻ của cậu hiện đang “góp mặt” trong cuốn Augustus và chiến tranh - kiếm chác giấy vụn bằng cách lấy báo trong hòm thư nhà người khác và thu thập sắt vụn bằng cách lấy trộm nồi niêu xoong chảo của các nhà hàng xóm, khiến họ tức điên. (“Chảo rán không phải là sắt vụn.” Bà Swift phẫn nộ nói. “Nhưng con lấy nó để phục vụ cho chiến tranh mà.” Augustus phản đối. “Mẹ lúc nào cũng nói rằng chúng ta phải quyên góp các thứ còn gì. Con chỉ đang quyên góp những chiếc chảo rán của mọi người thôi mà.”) Teddy căm phẫn nghĩ, Augustus của Izzie không phải đối mặt với hỏa lực phòng không hoặc lo lắng về một chiếc Messerschmitt sà đến chỗ mình như một con chim săn mồi đói khát.

Augustus của anh - phiên bản trưởng thành của cậu ta mà anh tưởng tượng ra - gần như chắc chắn đang né tránh cuộc đời quân ngũ. Có lẽ cậu ta sẽ trở thành dân phe phẩy, một kẻ đầu cơ trục lợi trong chiến tranh, bán rượu, thuốc lá và bất cứ thứ gì mà cậu ta có thể nhúng đôi tay dính chàm của mình vào. (“Của ngài đây, thưa ngài, mười si linh. Nhớ đừng bép xép với ai nhé!”)

Họ đang chật vật vượt qua hệ thống hỏa lực phòng không - những quả đạn pháo liên tục lóe lên và những luồng khói xám xịt phủ trùm lên họ - mặc dù tiếng động cơ Merlin đinh tai nhức óc của chiếc máy bay đã át đi những tiếng nổ.

“Hãy chú ý quan sát kĩ lưỡng nhé, mọi người.” Teddy nói.

Phía xa xa, anh có thể thấy một cơn mưa bom lửa đang ào ào trút xuống, có lẽ là từ một chiếc máy bay đang cố tăng độ cao. Nó chỉ càng giúp cung cấp thêm ánh sáng cho những chiếc chiến đấu cơ của Đức đang bay phía trên tốp máy bay ném bom có nhiệm vụ thả pháo sáng đánh dấu mục tiêu - những quả pháo sáng tuyệt đẹp, lung linh như ngọn chúc đài, dường như treo lơ lửng trong không trung, tạo nên một hành lang sáng trưng cho chiếc máy bay ném bom bất hạnh bay dọc theo. Mấy giây sau, một chiếc máy bay ném bom nổ tung thành một quả cầu lửa đỏ rực, phun ra những làn khói đen sì.

“Ghi lại điều đó, hoa tiêu.” Teddy nói.

“OK, phi cơ trưởng.”

Họ đã cất cánh muộn. Là một tổ bay giàu kinh nghiệm, thường thì họ sẽ bay gần như đầu đoàn, nhưng cái động cơ phía trong ở cánh trái của họ bị trục trặc, do đó họ trở thành chiếc máy bay cuối cùng cất cánh khỏi phi trường và bay ở ngay phần đuôi của “đàn vịt trời” khi họ tới điểm hẹn phía trên Flamborough Head. “Chà, phải có ai đó chốt đoàn chứ.” Teddy nói, cố gắng động viên các đồng đội đang chán nản, nhưng lời động viên ấy không hiệu quả lắm. Họ đều biết rằng việc bị tụt lại đằng sau sẽ khiến họ dễ dàng trở thành một mục tiêu cho các chiến đấu cơ nhắm đến - bởi vì khi ấy họ sẽ trở thành đốm sáng nhỏ tách biệt hiện lên rõ rệt trên màn hình ra đa của quân đội Đức, chứ không còn là một phần của một đội hình đông đúc chặt chẽ, khó tiêu diệt nữa.

Đương nhiên, một đội hình máy bay ném bom đông đúc cũng có mặt trái đáng sợ. Trước đây, họ từng tham gia cuộc không kích Cologne trong một đội hình có đến cả nghìn chiếc máy bay. Đó là lần đầu tiên Harris sử dụng nhiều chiếc phi cơ đến vậy trong một cuộc không kích. Trong một đoàn máy bay lớn như thế, bạn sẽ thấy mình bị luồng khí từ động cơ của chiếc máy bay đằng trước phụt thẳng vào mặt, khiến bạn di chuyển khó khăn, và suốt lúc đó sẽ tự hỏi tất cả những chiếc máy bay khác đang ở đâu. Teddy đã cảm thấy rằng mối nguy hiểm lớn nhất không phải đến từ các chiến đấu cơ hay hỏa lực phòng không của Đức mà đến từ chính họ. Họ đã được xếp thành nhiều lớp, những chiếc Stirling chậm chạp bay ở dưới cùng, những chiếc Lanc[126] có khả năng bay cao thì bay ở trên cùng, còn những chiếc Halifax thì bị kẹp ở giữa như nhân của chiếc bánh sandwich. Tốc độ chuẩn, độ cao và vị trí của mỗi chiếc máy bay đều đã được quyết định từ trước, nhưng như thế không có nghĩa là tất cả mọi người đều ở đúng chỗ của mình.

Trên đường đi, có lúc một chiếc Halifax khác bay qua ngay sát trên đầu họ, chỉ cách họ chừng sáu mét, thân hình đen ngòm kềnh càng của nó trông giống hệt một con cá voi - một con cá voi có những ống xả đỏ rực. Sau đó, trên đường tới mục tiêu, Vic Bennett, đang ở trong tháp pháo giữa, bỗng hét lên thất thanh bởi vì một chiếc Lancaster phía trên bọn họ vừa mở cửa khoang chứa bom, vậy là Teddy phải lạng lách để né tránh nó, vừa tránh vừa lo mình sẽ đâm sầm vào một chiếc máy bay khác.

Họ đã chứng kiến một cuộc va chạm ở gần họ đến mức đáng ngại, một chiếc Halifax bên cánh trái của họ tự dưng bay chéo qua đội hình máy bay ném bom và một chiếc Lancaster đã đâm sầm vào nó. Chiếc máy bay của họ - khi ấy họ vẫn còn lái chiếc máy bay có tên riêng là J-jig - chao đảo bởi sức ảnh hưởng từ vụ nổ kinh hoàng. Những dải lửa trắng sáng chói bốc lên từ những bình xăng ở hai cánh của chiếc Lanc, và Teddy hét lên với các xạ thủ của mình rằng không được nhìn vào chúng để đề phòng bị mất khả năng nhìn trong đêm tối.

Họ đã tìm ra Cologne không khó khăn gì. Lúc họ đến mục tiêu, nó đang cháy rừng rực, khắp nơi toàn là lửa và khói, chúng đã che khuất những quả pháo sáng đánh dấu, vì vậy họ tiến thẳng đến giữa đám cháy lớn nhất để thả bom rồi bỏ đi. Khi hồi tưởng lại, Teddy cảm thấy đó có vẻ là một cuộc không kích chẳng có gì ấn tượng, bất chấp quy mô đồ sộ của nó, và thành thực mà nói, bây giờ Teddy hầu như không thể nhớ nổi các chi tiết. Có cảm giác như anh đã sống rất nhiều cuộc đời. Hoặc có lẽ cuộc đời anh chỉ là một đêm trường bất tận, giống như trong thơ của Blake.

Và bản chất của thời gian cũng biến đổi. Trước kia, nó giống như một tấm bản đồ thênh thang - dường như bất tận - trải ra trước mắt anh và anh có thể lựa chọn hướng mình sẽ đi. Giờ thì tấm bản đồ chỉ trải ra dưới chân anh từng bước một và có thể biến mất vào bất cứ lúc nào. “Chị cũng cảm thấy như vậy lúc những cuộc tấn công ở London lên đến đỉnh điểm.” Ursula nói, cố gắng giải thích phép ẩn dụ vòng vo này khi anh gặp cô trong chuyến nghỉ phép đầu tiên của anh - cứ mỗi sáu tuần họ lại được nghỉ sáu ngày, và anh đã lựa chọn nghỉ phép ở London thay vì về Góc Cáo. Anh thậm chí còn chẳng nói với Sylvie là anh được nghỉ phép.

“Trước chiến tranh thì…” Ursula nói. “… Ngày nào cũng như ngày nào, đúng không? Ở nhà, đi làm, rồi lại về nhà. Thói quen làm cho các giác quan cùn đi. Thế rồi, đột nhiên người ta có cảm giác rằng họ đang sống ở rìa cuộc đời họ, như thể họ không bao giờ biết được liệu họ sắp sửa rơi xuống hay bay lên.” Teddy nhận thấy dù rơi xuống hay bay lên thì kết cục họ cũng chẳng thể hạ cánh một cách nhẹ nhàng được.

“Em cũng nghĩ vậy.” Anh đồng ý, nhận ra rằng anh không thực sự hiểu mình đang nói gì và chẳng quan tâm lắm. Anh sống cuộc đời của mình trước mặt cái chết. Đó là cách nói đơn giản, ngắn gọn, chẳng cần phải vòng vo bằng mấy phép ẩn dụ văn hoa, bóng bẩy.

“Tám phút nữa là tới mục tiêu, phi cơ trưởng.”

“OK, hoa tiêu.”

“Hãy cảnh giác, các xạ thủ.”

“Vâng, phi cơ trưởng.”

“OK, phi cơ trưởng.”

Các xạ thủ không cần nhắc nhở, đây chỉ là một cách để mọi người giữ liên lạc với nhau. Anh biết họ đang lia mũi súng khắp bầu trời, giữ vững cảnh giác như mọi khi. Tính từ phi vụ đầu tiên đến giờ, họ hầu như không phải khai hỏa những khẩu súng của mình. Lúc họ bắt đầu nổ súng cũng là lúc họ tự đánh dấu mình thành mục tiêu cho quân địch nhắm đến. Một chiếc chiến đấu cơ có thể dễ dàng bỏ sót họ trong bóng tối, nhưng nếu họ bắn một tràng đạn lửa đỏ rực ngay ở cửa máy bay, nó sẽ sớm phát hiện ra họ. Những khẩu đại bác to xác của nó sẽ có tính sát thương cao hơn những khẩu súng máy Browning nhỏ bé của họ. Các xạ thủ súng máy về cơ bản chỉ là người canh gác. Có những xạ thủ chẳng phải bắn một viên đạn nào suốt cả một kỳ quân dịch.

Chị gái Pamela của Teddy đã kết hôn với một bác sĩ, anh ta từng nói với Teddy rằng anh ta đã đọc được một mẩu tin về những thí nghiệm trong buồng ôxy, kết quả cho thấy ôxy sẽ giúp ích cho thị lực của các xạ thủ, và thị lực của họ cũng là thứ đầu tiên mất đi nếu bị thiếu ôxy. Kể từ đó, Teddy bắt đầu bắt các xạ thủ của mình đeo mặt nạ ôxy từ lúc cất cánh cho đến khi hạ cánh.

Họ đang ở chính giữa một khu vực được phòng thủ dày đặc. Một bức màn khói xám từ hàng rào hỏa lực phòng không nằm lơ lửng trước mặt họ, đó là tấm rèm khói chất nổ mà họ phải vượt qua.

So với những cuộc không kích quy mô lớn với hàng nghìn chiếc máy bay ném bom, đêm nay là một cuộc không kích tương đối vừa phải, chỉ có chừng hai trăm chiếc phi cơ - trong số đó có mười hai chiếc thuộc phi đoàn của họ - tất cả bay theo đội hình giống như một bầy ngỗng, thẳng tiến về vùng Ruhr, Thung lũng Hạnh phúc.

Họ đã nhìn thấy một chiếc Lancaster bị một chiến đấu cơ bắn trúng phần cánh và rơi xuống, bốc cháy ngùn ngụt như một chiếc lá bằng lửa đang chao rụng, và họ cũng đã nhìn thấy một “anh bạn” Halifax bị đèn pha chiếu rọi khi nó đi qua hàng rào phòng thủ của vùng Ruhr. Nó bị luồng sáng chính màu xanh dương “tóm gọn” và họ lẳng lặng theo dõi những luồng sáng phụ chuyển hướng, giống như những cỗ máy tự động vô hồn, chiếu về phía con mồi của chúng, khiến nó như bị mắc kẹt trong ánh sáng trắng chói lòa, rồi những quả đạn pháo được phóng lên một cách tàn nhẫn, nhắm vào chiếc máy bay tội nghiệp. Chiếc Halifax tuyệt vọng bổ nhào xuống theo đường xoắn ốc, nhưng những luồng sáng vẫn bám theo nó không ngừng nghỉ, và hẳn là hỏa lực phòng không hạng nặng đã bắn trúng nó bởi vì họ thấy nó nổ tung thành một quả cầu lửa khổng lồ.

“Ghi lại điều đó, hoa tiêu.” Teddy nói bằng giọng bình thản. “Có ai nhìn thấy người nào nhảy dù không?”

Những tiếng “không” lầm rầm vang lên trên hệ thống liên lạc nội bộ, tiếp đó là tiếng thốt của Keith: “Mấy thằng cha tội nghiệp.” Họ đã bị bắn hạ ngay trước mắt cậu ta, ngay trước mũi chiếc máy bay này, khi đang chuẩn bị tiếp cận mục tiêu. Quả là một cú sốc khi chứng kiến một chiếc phi cơ rơi xuống, nhưng chẳng có thời gian để nghĩ về điều đó. Kẻ bị bắn hạ không phải là ta, đó mới là điều quan trọng.

Nếu chúng con phải ra đi, Teddy cầu nguyện, xin hãy để chúng con ra đi trong tích tắc, trở thành một quả cầu lửa chứ không phải bị rơi xuống. Nhưng bằng cách nào thì cũng sẽ không có cú hạ cánh nhẹ nhàng. Không phải anh đang nghĩ gở, anh chỉ tuân theo thuyết định mệnh mà thôi. Vào lúc này - hay đúng ra là vào bất cứ lúc nào - điều mà tổ bay của anh không mong muốn nhất là một đội trưởng thoái chí. Đặc biệt là đêm nay, khi họ đều đang bồn chồn lo lắng. Teddy nghĩ trông họ cũng rệu rã nữa, một sự mệt mỏi không chỉ ở mặt thể xác. Anh còn nhận ra trông họ thật già cỗi. Mặc dù Keith chỉ vừa mới tổ chức ăn mừng sinh nhật lần thứ hai mốt bằng một bữa tiệc huyên náo ở phòng sinh hoạt của các trung sĩ. Các hoạt động ăn mừng của họ toát lên vẻ hồn nhiên, giống như những cậu bé nghịch ngợm ở một bữa tiệc ồn ào dành cho trẻ con. Những dấu chân đen như bồ hóng in trên trần nhà, những lời hát bất nhã vang lên quanh cây đàn piano sau khi các cô gái WAAF đã về đi nghỉ (thi thoảng một, hai cô gái táo bạo vẫn nán lại). Suy cho cùng, cũng không quá khác biệt so với Augustus và những người bạn nhỏ của cậu ta.

Sylvie, vốn hay trễ giờ, luôn chỉnh những cái đồng hồ ở Góc Cáo chạy nhanh hơn mười phút (một thói quen dễ khiến mọi người nhầm lẫn hơn là giúp mọi người đúng giờ). Teddy nghĩ giờ đây sẽ tốt hơn biết bao nếu có ai đó vặn ngược chiếc đồng hồ của họ, để họ tưởng rằng đây chỉ là phi vụ thứ hai chín chứ không phải phi vụ thứ ba mươi, và giải thoát họ khỏi những dự cảm u ám.

Vấn đề càng trở nên tệ hơn khi trên máy bay của họ có một phi công phụ. Cậu ta là một phi công tập sự đang chuẩn bị “nhúng chàm” trong chuyến xuất kích đầu tiên. Theo thông lệ, một tân binh thường được gửi kèm theo một tổ bay giàu kinh nghiệm để “quan sát học hỏi” trước khi dẫn dắt tổ bay của riêng mình trong các phi vụ, nhưng vì lý do nào đó, một viên phi công phụ non tay bị coi là kẻ mang lại xui xẻo. Teddy thấy niềm tin này khá vô căn cứ. Lần “nhúng chàm” đầu tiên của anh là một chuyến bay ném bom các bến cảng ở Wilhelmshaven với tổ bay của chiếc C-Charlie, lúc bấy giờ họ đang trong phi vụ thứ mười hai và gần như không quan tâm đến sự tồn tại của anh, như thể chỉ cần lờ anh đi là họ có thể giả vờ như chẳng có ai đang ngồi ở ghế lái phụ. Khi trở về, chiếc C-Charlie hầu như chẳng bị tổn hại gì - ngoại trừ vài vết thủng vì trúng hỏa lực phòng không và một động cơ bị hỏng - nhưng ngay cả sau khi đã hạ cánh, cả tổ bay vẫn né tránh anh cứ như anh có thể làm hại họ bằng một cách nào đó. Chẳng bù cho tổ bay của anh, họ sướng điên lên khi thấy anh trở lại mặt đất “bình an vô sự”, sau đó cả bọn kéo nhau đến một quán rượu địa phương để chè chén say sưa, ăn mừng sự kiện này, không quên kéo theo cả tổ mặt đất. Quán Thiên Nga Đen, được mọi người biết đến với cái tên Vịt Lấm Bùn, có ông chủ rất dễ tính. Ông ta cho phép các tổ bay được ghi nợ dù biết rằng nhiều người trong số họ sẽ chẳng bao giờ trả được khoản tiền đó. Dựa vào sổ nợ của ông ta cũng có thể tính được bao nhiêu người đã chết.

Trong kỳ quân dịch thứ hai của Teddy, có một tổ bay mới - lái chiếc W-William - bị mất phi công khi cậu ta tham gia chuyến bay với một tổ bay khác. Họ lập tức được bổ sung người thay thế, nhưng viên phi công thay thế này cũng phải tham gia một chuyến bay “dự thính” và cũng không trở về. (Suy cho cùng, có lẽ họ đúng là những kẻ mang lại vận xui.) Lúc này, tổ bay mới thiếu phi công ấy vô cùng hoang mang, giống như những chú chó lo lắng, vì vậy khi họ được chỉ định viên phi công thứ ba (đương nhiên cậu ta rất căng thẳng), Teddy đã đi kèm cả đội trong phi vụ đầu tiên của họ, cậu phi công mới phải ngồi ở ghế lái phụ của chiếc W-William, chiếc máy bay của chính cậu ta. Đó là một cuộc không kích thử nghiệm ở Berlin mà họ phải dốc toàn bộ sức lực và họ đã cố gắng giữ vững tinh thần.

Khi hạ cánh, họ vỡ òa vì vui sướng. “Làm tốt lắm, các cậu bé.” Anh nói. Họ đúng là các cậu bé vì trong số họ chẳng có thành viên nào quá hai mươi tuổi. Họ mời anh đi uống rượu cùng trong phòng sinh hoạt chung của các trung sĩ - họ nói rằng suy cho cùng, anh cũng là một thành viên trong tổ bay của họ. Anh nhận lời nhưng ra về sớm. “Liều lĩnh đúng chỗ thì mới đáng liều lĩnh.” Anh viết cho Ursula, vì đây là một trong những câu cách ngôn mà cô tâm đắc.

“Không phải lúc nào cũng vậy.” Cô hồi đáp.

Ngày hôm sau, chiếc W-William tiếp tục đi làm nhiệm vụ, lần này là một chuyến rải mìn tương đối an toàn, họ phải thả những quả mìn mà họ gọi là “rau” xuống Langeoog ở phía đông quần đảo Frisia. Teddy cảm thấy buồn bã hơn thường lệ khi đọc những dòng chữ quen thuộc trong nhật ký của các phi vụ vào ngày hôm sau. Phi cơ này cất cánh lúc 16 giờ 20 phút và không trở về. Do đó, nó được báo cáo là mất tích. Sau chiến tranh, mỗi khi nhìn xuống biển Bắc, anh nhận thấy mình khó mà không nghĩ rằng nó là một nghĩa địa nước khổng lồ, chứa đầy những bộ khung máy bay gỉ sắt và những thi thể trẻ trung.

Trong chuyến xuất kích tiếp theo, tổ bay của chiếc C-Charlie, những người đã miễn cưỡng tiếp nhận Teddy làm phi công phụ, đã bị hết nhiên liệu khi đang tìm chỗ đậu trong màn sương mù và đâm sầm xuống những trảng đất gần Helmsley. “Phi vụ thứ mười ba của họ.” Vic Bennett nói, như thể đó chính là nguyên nhân. Cậu ta là người mê tín nhất trong số tất cả bọn họ. Khi họ bay tới Stuttgart trong phi vụ thứ mười ba - lại rơi đúng vào ngày thứ Sáu - cậu ta đã nhờ cha tuyên úy ban phước đặc biệt cho chiếc J-Jig già cỗi tội nghiệp, và cha tuyên úy - một người vui tính, nhiệt tình - đã rất vui vẻ thực hiện yêu cầu đó.

Các tổ bay tin rằng năm phi vụ đầu tiên và năm phi vụ cuối cùng là những chuyến bay nguy hiểm nhất, mặc dù theo những gì Teddy nhận thấy, các quy luật về xác suất có hiệu lực vào bất cứ thời điểm nào. Chỉ có một phần sáu trong số các tổ bay hoàn thành được kỳ quân dịch đầu tiên. (Chưa bao giờ có nhiều người bị ám ảnh bởi những con số thống kê đến thế, anh nghĩ.) Chẳng cần đến cô bạn của Ursula trong Bộ Không quân, anh cũng biết rằng tỷ lệ sống sót của lính không quân bọn anh là rất thấp. Vào đầu kỳ quân dịch này, nếu Teddy là một người đánh bạc (dĩ nhiên anh không phải người như thế), anh sẽ không đặt cược rằng họ sẽ sống sót cho đến khi nhìn thấy cháu của họ. Hoặc con của họ, vì họ thậm chí còn chưa có con. Chưa một ai trong số họ lập gia đình, và Teddy ước đoán ít nhất một nửa trong số họ là trai tân khi anh lần đầu gặp họ. Giờ thì còn ai ở trong tình trạng đó không? Anh không biết. Vic Bennett thì không, cậu ta đã đính hôn với một cô gái tên là Lillian (Lil) và lúc nào cũng nói về cô ấy, kể cả những chuyện mà họ “làm với nhau”.

Tuần tới Vic sẽ kết hôn với Lillian, tất cả bọn họ đều được mời dự đám cưới. Teddy không nghĩ Vic lại lập ra các kế hoạch như vậy. Bản thân anh không còn lập các kế hoạch nữa. Đối với anh, chỉ có hiện tại mà thôi, và sau cái hiện tại này sẽ là một cái hiện tại khác. Nếu ta may mắn. (“Em sẽ trở thành một nhà sư tuyệt vời đấy.” Ursula nói.)

“Nếu cậu nhìn vào tỷ lệ người chết…” Cô bạn của Ursula ở Bộ Không quân nói, nghiêm trang nhấm nháp một ly rượu gin màu hồng[127]. “… Vậy thì, dựa vào Toán học mà nói, cái chết là điều không thể tránh khỏi.” Tất nhiên, còn có những cách hiểu khác khi nhìn vào các số liệu ấy, cô ta vội vã nói thêm khi Ursula trừng mắt nhìn cô ta. Teddy gặp cô ta khi anh đang nghỉ phép vào tháng Năm tiếp theo. Ba người họ đi uống rượu cùng nhau rồi sau đó đi nhảy ở Hammersmith Palais. Teddy cảm thấy không vui, anh không thoải mái vì có cảm giác rằng mỗi lần cô gái ở Bộ Không quân nhìn anh, cô ta lại nhìn thấy một loạt các bảng thống kê.

Nancy có biết sự tính toán số người chết đầy lạnh lùng này trong Binh chủng Máy bay ném bom không? Có lẽ là không. Cô đang được bao bọc ở đâu đó trong chốn an toàn lãnh đạm ở một trụ sở của những người trí thức. Cô đang cố gắng sắp xếp gặp anh ở London ngay khi kỳ quân dịch này kết thúc. Cô đã viết: “Hay là em đến dự lễ cưới đồng nghiệp của anh nhỉ? Anh có thể kiếm được thiệp mời cho em không, hay các cô bạn gái sẽ bị cho ra rìa?!” Anh cảm thấy giọng điệu của lá thư này hoàn toàn sai trái. Cách cô dùng sai từ “đồng nghiệp” chẳng hạn. Vic Bennett không phải là một “đồng nghiệp”. Cậu ta là một phần của Teddy, giống như một cánh tay hay một cái chân. Cậu ta là một người bạn thân, một người bạn chí cốt, một đồng chí. Nếu nền văn minh tiếp tục tồn tại - hiện nó đang ở tình trạng bấp bênh - liệu nó có trở thành một xã hội bình đẳng không? Một Jerusalem mới đầy những người theo phong trào Cào bằng và Đào sâu? Và chắc chắn RAF không phải là nơi duy nhất mà các rào cản giai cấp bị sụp đổ, vì tất cả mọi người buộc phải chung tay góp sức với nhau. Teddy đã kề vai sát cánh với những người đàn ông - và phụ nữ - mà anh sẽ không bao giờ chạm mặt nếu vẫn đang ở trong cái thế giới của trường tư, Oxbridge[128], ngân hàng. Anh có thể là đội trưởng của họ, anh có thể là người phải chịu trách nhiệm với họ, nhưng anh không phải là thượng cấp của họ.

Anh đã đốt lá thư của Nancy trong cái lò ở lều của anh. Chúng luôn khát nhiên liệu.

“Còn bốn phút nữa là tới mục tiêu, phi cơ trưởng.”

“OK, hoa tiêu.”

“Còn bốn phút nữa là tới mục tiêu, lính cắt bom.”

“OK, phi cơ trưởng.”

“Cái động cơ chết tiệt nằm ở phía trong của cánh trái ấy vẫn đang dở chứng, phi cơ trưởng.” Norman Best nói. Đèn trên đồng hồ đo áp suất nhiên liệu cứ chập chờn suốt chuyến bay, như thể nó có sinh mệnh. Đó chính là cái động cơ đã trì hoãn việc cất cánh của họ, và Norman đã giám sát nó với vẻ nghi ngại được một lúc rồi. Vic Bennett nói may mà họ cất cánh muộn. Chả hiểu sao cậu ta lại quên mất “tấm bùa may mắn” của mình và đã thuyết phục được cô gái WAAF - người đã chở họ ra địa điểm tập kết để lên máy bay - đưa cậu ta trở lại phòng thay đồ để lấy nó trong lúc tổ mặt đất xử lý cái động cơ hư hỏng. Tổ mặt đất là những người hùng thầm lặng của “lực lượng cờ lê” - nào thợ lắp ráp, thợ sửa chữa, thợ máy, toàn bộ đều là hạ sĩ quan hoặc lính trơn, làm việc suốt ngày đêm trong mọi loại thời tiết. Họ vẫy tay tiễn các tổ bay lên đường và đón chào các tổ bay trở về. Họ có thể thức suốt đêm trong căn lều của mình vào những đêm xuất kích ảm đạm, chờ đợi chiếc máy bay “của họ” về nhà an toàn. Họ chẳng có tấm bùa may mắn nào, chỉ có những cú bắt tay lịch sự khắp lượt khi các tổ bay khởi hành và lời hẹn “Gặp lại vào sáng mai nhé!”

“Tấm bùa” đặc biệt của Vic Bennett là chiếc quần lót bằng xa tanh màu đỏ của vị hôn thê của cậu ta, cô nàng Lil đã được nói đến lúc trước. Những thứ “không thể nhắc đến” này, theo cách gọi của Vic, được gấp gọn gàng và được cất trong túi bộ đồ chiến của cậu ta trong mỗi chuyến bay. “Nếu chúng ta có thể dự đám cưới của cậu ấy…” Keith nói. “… Tớ biết tất cả chúng ta sẽ nghĩ gì khi cô dâu thẹn thùng đỏ mặt bước dọc lối đi giữa hai hàng ghế.”

“Chính tớ sẽ đỏ mặt thì có.” Kenny Nielson nói.

May mắn là điều quan trọng nhất. “Thế quái nào mà người ta lại hình tượng sự may mắn thành một quý cô chứ.” Keith nói. “Nó chỉ là một ả điếm quái quỷ.” Sự mê tín lan tràn khắp căn cứ của họ. Dường như tất cả mọi người trong phi đoàn đều có một loại bùa may cho riêng mình - một lọn tóc, một bức hình Thánh Christopher, một quân bài, một bàn chân thỏ đâu đâu cũng thấy. Có một trung sĩ không quân luôn hát bài E Donna Mobile khi họ thay đồ bay và một người khác phải xỏ chân trái vào giày trước chân phải. Nếu anh ta quên, anh ta phải cởi hết quân trang ra và mặc lại từ đầu. Anh ta đã sống sót sau cuộc chiến. Còn viên trung sĩ không quân hát bài E Donna Mobile thì không. Hàng trăm người khác với những nghi thức và vật thiêng kỳ cục riêng cũng không thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Người chết nhiều vô số kể và những vị thần có những kế hoạch của riêng họ.

Keith không có bùa may nào, cậu ta tuyên bố rằng gia đình cậu ta là một gia đình “ngược đời”, vận may của họ trái ngược với tất cả mọi người, và cậu ta có thể đi qua dưới một cái thang với một tá con mèo đen băng qua trước mặt mà vẫn sẽ “bình an vô sự”. Tổ tiên của cậu ta là dân Di gan Ireland, bị trục xuất tới Australia vì lối sống du mục. “Có lẽ không phải là dân Di gan thực thụ.” Cậu ta nói. “Tôi nghĩ họ chỉ là những kẻ ma cà bông, lang thang, vất vưởng thôi.”

Kenny Nielson là thành viên nhỏ nhất trong một gia đình có tới mười người con, là “út ít” trong nhà, và bùa may của cậu ta là một con mèo đen nhỏ sờn mòn - chỉ đúng một con duy nhất ấy - do một cô cháu gái của cậu ta vụng về khâu lại từ những miếng nỉ. Sinh vật đó trông thảm hại như thể nó đã ở trong miệng một con chó gần cả cuộc đời vậy.

Và bùa may của Teddy chính là con thỏ rừng bằng bạc mà Ursula đã cho anh, lúc đầu anh chẳng đoái hoài đến nó nhưng bây giờ, trong mỗi chuyến bay, nó luôn được nằm gọn gàng trong túi áo anh, ngay bên trên trái tim. Anh đã vô thức lập nên nghi thức của riêng mình, đó là chạm vào con thỏ như thể nó là một thánh tích trước khi cất cánh và sau khi hạ cánh, thầm nguyện cầu và cảm ơn. Anh không thể sờ hẳn vào sinh vật nhỏ bé vô tri vô giác ấy qua lớp áo khoác bay bằng da cừu và chiếc áo phao Mae West dày cộp. Nhưng anh biết nó đang ở đó, âm thầm nỗ lực hết sức để bảo vệ anh.

Họ rầu rĩ thơ thẩn đi đi lại lại trong lúc đợi cô gái WAAF chở Vic quay lại. George Carr ăn hết khẩu phần sô cô la của mình như thường lệ. Những người khác thì để dành, nhưng George lý luận rằng cậu ta có thể chết trong cuộc không kích và “không bao giờ được thưởng thức nó nữa”. Cậu ta nói trong thời thơ ấu của cậu ta ở Lancashire, sô cô la từng là thứ của hiếm không dễ gì có được.

Họ hút điếu thuốc cuối cùng trước khi phải nhịn suốt sáu tiếng đồng hồ sắp tới hoặc có thể còn lâu hơn nữa, đi tiêu ở đuôi chiếc máy bay S-Sugar và ủ rũ nhìn chằm chằm xuống đất. Ngay cả cậu nhóc người Scotland bình thường hoạt bát cũng im như thóc. Viên phi công phụ tội nghiệp bắt đầu tỏ vẻ như thể đang trên đường tới chỗ hành hình. “Họ luôn như thế này à?” Cậu ta thì thầm với Teddy, và Teddy không thể nói với cậu bé tội nghiệp rằng: “Họ nghĩ tối nay họ sẽ tiêu đời.” Thay vì thế, anh tiết lộ cho cậu ta biết về tính nết chung của tổ bay mình và nói: “Không, họ chỉ là một đám ngốc nghếch khốn khổ thôi.”

Sáng hôm đó, Teddy đã nhận được một lá thư từ Ursula. Chỉ là một lá thư bình thường như bao lá thư khác, nhưng ở cuối thư cô đã viết “Em thế nào?”, và thứ tình cảm được dồn nén trong ba từ đơn gọn gàng ấy có vẻ đã ùa ra khỏi trang giấy, hóa thân thành thứ gì đó lớn hơn và xúc động hơn nhiều. “Ở đây ổn cả.” Anh hồi âm với sự cô đọng tương tự. “Chị không phải lo lắng cho em đâu.” Anh bổ sung thêm, tặng cô món quà trấn an là một câu nói chứa từ có hai âm tiết.

Anh đã nhờ một cô gái WAAF có nhiệm vụ xếp dù tên là Nellie Jordan đi gửi lá thư hộ anh. Cô ta vốn phải lòng anh. Các cô gái WAAF đều mê mẩn Teddy. Anh ngờ rằng lý do chỉ đơn giản là vì anh đã ở đây lâu hơn hầu hết những người khác. Đó là một lá thư cần được gửi đi, không phải là loại được cất trong ngăn kéo của anh phòng trường hợp anh không trở về. Teddy có ba lá thư cất trong ngăn kéo, một cho mẹ anh, một cho Ursula và một cho Nancy. Chúng đều có lời lẽ giống nhau, nói rằng anh yêu họ, và họ không được quá đau lòng bởi vì anh đã chết khi đang làm một việc mà anh tin tưởng, và họ nên tiếp tục cuộc sống của mình bởi vì đó là điều anh mong muốn. Đại loại vậy. Anh không nghĩ lá thư vĩnh biệt một chiều này là chỗ để xem xét, tự vấn lương tâm hoặc phơi bày sự thật. Anh đã cảm thấy kỳ lạ khi viết về bản thân mình trong một tương lai nơi anh không tồn tại, như thể anh là một câu đố trừu tượng hóc búa.

Nếu anh chết, ai đó từ ủy ban chỉnh lý - một uyển ngữ kỳ cục - sẽ tới và nhanh chóng dọn dẹp quân trang của anh. Bất cứ thứ gì khiến cho một bà mẹ hay một người vợ phải bần thần nghĩ ngợi - chẳng hạn như tranh ảnh khiêu dâm, thư gửi cho người phụ nữ khác hoặc bao cao su - sẽ được cất vào một cái túi khác. Teddy thì chẳng có bí mật gì phải giấu giếm, ít nhất là những bí mật để lại bằng chứng sờ sờ trước mắt. Thi thoảng anh tự hỏi chuyện gì xảy ra với những vật bị loại bỏ vì lòng nhân đạo này - họ chỉ đơn giản vứt chúng đi hay có một cái kho ở đâu đó chứa đầy những bí mật không mong muốn ấy? Anh không bao giờ tìm ra câu trả lời cho câu hỏi này.

Sang năm sau, trong kỳ quân dịch thứ hai của anh, anh tình cờ mở cửa một nhà kho ở căn cứ và thấy nó treo đầy những bộ đồng phục của không quân. Lúc đầu, anh cứ nghĩ chúng là quân phục dự phòng, cho đến khi anh nhìn kĩ hơn, thấy những phù hiệu, quân hàm, cùng những tấm huân chương đeo trên dải ruy băng và nhận ra chúng được lấy từ cơ thể của những người chết và người bị thương. Nếu lúc đó anh chưa ít nhiều từ bỏ thi ca thì những bộ quân phục không người mặc ấy sẽ là một hình ảnh giàu chất thơ, khơi gợi lên cảm hứng trong anh.

Thi thoảng, khi một tổ bay mới đến một căn cứ không quân, họ thấy rằng trong những cái lều Nissan, đồ đạc của những người từng ở đó trước họ vẫn rải rác khắp nơi, như thể mấy người ấy sắp sửa trở về và bước từ ngoài vào. Ủy ban chỉnh lý sẽ xua họ ra ngoài để tiện “dọn dẹp”, gói ghém đồ đạc của người chết khi các cô gái WAAF hay cần vụ thay mới chăn ga gối. Và thi thoảng những chàng tân binh ấy sẽ xuất kích ngay trong đêm đó và không trở về, thậm chí họ còn chưa được ngủ trên những cái giường mới được dọn dẹp sạch sẽ kia. Họ có thể đến rồi đi mà chẳng một ai biết đến. Tên của họ được viết trên mặt nước, bị đốt trên mặt đất, bị tán nhỏ vào thinh không. Nhiều không đếm xuể.

Vic Bennett quay trở lại, giơ cao “thứ không thể nhắc đến” (“Tuy nhiên lại được nhắc đến quá thường xuyên.” Mac mỉa mai nói) và họ trèo lên chiếc S-Sugar, vật thay thế cho chiếc J-Jig trước đây. J-Jig là một con quái vật kềnh càng. Giống như nhiều chiếc Mark II khác, nó có vẻ chẳng muốn rời khỏi mặt đất. Nếu nó là một con ngựa, nó sẽ là loại ngựa mà ta phải động viên khuyến khích để nó bắt đầu cuộc đua, chưa nói đến việc hoàn thành vòng đua ấy, và nếu ta không hiểu được nó, nếu ta không được cảnh báo về những nhược điểm của nó, đặc biệt là cái thói lạng về bên phải như muốn tự sát, rất có thể nó sẽ kết liễu cuộc đời ta trước cả khi phi vụ của ta bắt đầu.

Đêm nay là phi vụ thứ hai họ bay bằng chiếc S-Sugar. Nó là một chiếc phi cơ vừa được xuất xưởng, mới tinh như tổ bay của nó hồi còn là tân binh vậy. Tất cả bọn họ đều đã muốn kết thúc kỳ quân dịch của mình trên chiếc J-Jig, nhưng tiếc thay giờ nó chỉ còn là một hồi ức thân thương. Nó đã mang lại may mắn cho họ, giúp họ được an toàn, và họ vẫn còn rất căm phẫn vì mất nó, tin rằng đây là một dấu hiệu nữa cho thấy họ sẽ không hoàn thành được phi vụ thứ ba mươi. Trên thân nó vẽ hình hai mươi sáu quả bom, mỗi quả tượng trưng cho một phi vụ mà nó đã hoàn thành, một chiếc chìa khóa cho phi vụ thứ hai mươi mốt, một cây kem ốc quế mà một anh chàng vui tính nào đó đã tặng cho nó nhân dịp nó tham gia cuộc không kích ở Ý. Chiếc S-Sugar tính đến nay mới chỉ tham gia một phi vụ duy nhất là chuyến không kích Dusseldorf, và họ vẫn chưa kịp đánh dấu kỷ niệm phi vụ đó. Mặc dù nó còn mới toanh nhưng chẳng ai trong số họ tin tưởng nó cả. Cái động cơ bên cánh trái quá nóng chỉ là một trong nhiều mối phiền toái của nó mà thôi.

Sĩ quan chỉ huy của họ đã đi cùng chuyến xe với Vic tới địa điểm lên máy bay và đang tỏ ra sốt ruột. “Còn mười phút.” Ông ta nói, gõ gõ vào đồng hồ đeo tay. Còn mười phút nữa để cất cánh, nếu không họ sẽ bị muộn và chuyến xuất kích này sẽ bị hủy bỏ.

Cô gái WAAF lái chiếc xe tải chở viên sĩ quan chỉ huy đi theo chiếc máy bay dọc đường vành đai, rồi đỗ lại cạnh chiếc caravan điều hành bay. Sau đó, họ trèo xuống, nhập hội với đoàn người đưa tiễn trông khá phờ phạc đang kiên nhẫn chờ đợi để vẫy chào tổ bay của Teddy. Teddy ngờ rằng vài người trong số đó đã từ bỏ hy vọng chiếc máy bay sẽ cất cánh và đã mặc kệ họ mà ra về trước.

Họ ì ạch di chuyển trên đường băng, tất cả mọi người đều hăng hái vẫy tay với họ, đặc biệt là sĩ quan chỉ huy, ông ta luôn cố gắng có mặt ở đó trước mỗi chuyến cất cánh, và thường tạo ấn tượng rằng ông ta tin nếu mình vẫy tay thật nhiệt tình - với cả hai cánh tay giơ cao, chạy theo họ bên đường băng sáng ánh đèn - ông ta sẽ giúp họ nhấc bánh xe lên thành công và kéo cái khoang chở đầy bom lên không trung. Đã có rất nhiều người thiệt mạng vì máy bay rơi ngay lúc vừa cất cánh. Vậy nên Teddy luôn cảm thấy nhẹ nhõm tột độ khi anh nhấc được chiếc Halifax lên khỏi mặt bê tông, bay lên phía trên những hàng rào và những rặng cây.

Nếu họ quay trở lại khi chưa đến được mục tiêu - chuyện này vẫn xảy ra suốt vì lý do thời tiết hoặc máy bay gặp trục trặc về kỹ thuật - thì những chuyến xuất kích ấy cũng không được tính là một phi vụ, bất kể họ đã trải qua một hành trình đáng sợ đến mức nào. “Bất công đếch chịu được.” Teddy nói. “Vô lý ghê gớm, ông bạn già ạ.” Keith nói, cố nhái theo giọng Anh của tầng lớp quý tộc nhưng nghe chả ra làm sao. Bấy giờ họ đang say sưa lè nhè nhân dịp được nghỉ ngơi trong bốn mươi tám giờ đồng hồ sau khi trở về từ Turin. Giờ Teddy mới nhận ra đáng lẽ họ không nên cố bay đến Turin mà nên trở lại giữa chừng, nhưng anh là một trong những viên phi công “kiên quyết tiến lên phía trước”. Vài người thì không.

Lần đầu tiên họ quay về giữa chừng là trong chuyến xuất kích thứ hai của họ, khi đó động cơ bên phải của họ bắt đầu rò rỉ dung dịch làm mát xuống biển Bắc và thiết bị liên lạc nội bộ của điện đài viên bị hỏng. Vì vậy lúc ấy Teddy đã đưa ra một quyết định mà anh nghĩ là đúng đắn, đó là trở về căn cứ sau khi trút hết những quả bom xuống biển Bắc. Sĩ quan chỉ huy của họ lúc đó - không phải là người bây giờ - đã không hài lòng. Ông ta không tán thành những chuyến trở về sớm, vì thế ông ta đã tra hỏi họ rất lâu về lý do tại sao họ không tiếp tục xông tới mục tiêu. Teddy nghĩ lý do đã quá hiển nhiên - động cơ sẽ bị nóng quá mức và bốc cháy (Vào những ngày đầu tiên ấy, họ chẳng lạc quan chút nào về những chuyện như vậy) và họ cần giao tiếp với điện đài viên. “Thế ư?” Sĩ quan chỉ huy nói. “Dù tình cảnh ngặt nghèo thế nào cậu cũng phải cố mà xoay xở chứ, đúng không? Và một viên phi công giỏi sẽ chẳng lăn tăn gì về chuyện chỉ bay với ba động cơ.”

Đến lúc đó, Teddy mới nhận ra rằng họ không phải những chiến binh mà chỉ là những vật hy sinh vì đại nghĩa. Những con chim bị ném vào một bức tường, với hy vọng rằng cuối cùng, nếu có đủ số chim, chúng sẽ làm vỡ bức tường đó. Các số liệu thống kê trong những cuốn sổ cái to tướng của Bộ Chiến tranh của Maurice. (“Anh ta đã trở thành một gã khốn vênh vang tự đắc.” Ursula giận dữ viết.)

Và đó cũng là lúc Teddy quyết định rằng anh sẽ không để cho lòng dũng cảm của họ bị nghi ngờ lần nữa, họ sẽ không phải là “những người anh em yếu hèn” như lời nói của Harris, mà lần nào cũng sẽ “kiên định tiến tới” mục tiêu trừ phi hoàn toàn không thể, nhưng anh cũng sẽ cố gắng hết sức để giữ được tính mạng của cả tổ bay. Trong khoảng thời gian còn lại của kỳ quân dịch đầu tiên, mỗi khi họ không phải đi làm nhiệm vụ, anh thường bắt họ tập nhảy dù và hạ cánh trên mặt nước - họ chỉ tập chay thôi vì không có điều kiện để tập trên không hay trên mặt nước thực sự, nhưng nếu họ biết phải làm gì, nếu họ thuần thục các thao tác, họ sẽ - có thể - vượt qua được những tỷ lệ u ám kia. Khi họ mới lập đội ở OTU, Vic và Kenny đã luyện bắn súng trên không nhiều hơn bất kỳ ai. Họ đã tiến hành những chuyến bay ném bom giả ở cảng Immingham, tham gia vô số cuộc tập trận chung với máy bay chiến đấu để luyện rèn kỹ năng lẩn tránh. Teddy vẫn cố gắng cho họ thực hiện càng nhiều bài tập bay đường trường càng tốt, và thường xuyên tập trận chung với những chiếc chiến đấu cơ Spitfire từ căn cứ máy bay chiến đấu ở gần chỗ họ nhất. Anh thuyết phục cả đội thông thạo mã Morse và hiểu biết về công việc của nhau, để nhỡ có rơi vào “hoàn cảnh ngặt nghèo” như lời viên sĩ quan chỉ huy máu lạnh kia, họ có thể thế chỗ nhau khi cần. Trên lý thuyết, Keith sẽ là người tốt nhất đảm nhiệm vị trí của Teddy nếu Teddy xảy ra chuyện gì, vì lúc đầu cậu ta đã được huấn luyện làm phi công, nhưng Teddy vẫn dạy cả Norman Best những bước lái máy bay sơ đẳng, “bởi vì cái gã xén lông cừu người Úc quái quỷ kia có thể lái “con diều[129]” chết tiệt này nhưng hắn sẽ không thể làm cho nó hạ cánh”. Dạo này Teddy hay chửi thề, những từ đệm khiếm nhã là thứ dễ lây nhiễm, nhưng anh vẫn cố tránh những từ bậy nhất. Đương nhiên, nếu có chuyện gì xảy ra với Teddy thật, có lẽ tất cả bọn họ đều sẽ tiêu tùng cả.

Teddy biết rằng Mac luôn vạch ra lộ trình gần với những vùng đất trung lập nhất - Thụy Sĩ hoặc Thụy Điển hoặc Bồ Đào Nha - và vào những đêm trời trong, cậu ta sẽ trau dồi kỹ năng định vị bằng thiên văn của mình. Còn cậu chàng Norman Best rụt rè, nhút nhát thường mặc cả bộ quần áo kiểu Pháp bên trong bộ đồ chiến, kể cả quần lót. Đây là bộ đồ mà cậu ta kiếm được ở Paris hồi còn là sinh viên. Trong túi cậu ta còn nhét một chiếc mũ nồi Pháp xịn nữa. Cậu ta đúng là một hướng đạo sinh, Teddy nghĩ. “Chuẩn bị sẵn sàng về mặt tinh thần bằng cách nghĩ trước bất cứ tai nạn hay tình huống nào có thể xảy ra.” Xem ra những kỹ năng sử dụng cung tên mà Teddy được học từ tổ chức Kibbo Kift sẽ chẳng giúp ích gì nhiều nếu anh phải trốn tránh ở Pháp.

Sau này, Norman phải nhảy dù xuống đất Pháp thật, khi bay cùng một tổ bay khác, trong kỳ quân dịch thứ hai của cậu ta vào năm 1943, nhưng mọi sự chuẩn bị của cậu ta đều hóa thành công cốc vì chiếc dù đã bốc cháy khi cậu ta nhảy ra khỏi máy bay, rồi cậu ta rơi thẳng xuống đất như một hòn chì dây dọi cháy rừng rực, thi thể của cậu ta không bao giờ được tìm thấy. Norman không mang theo bùa may nào, cũng không có nghi thức bắt buộc nào giống như George Carr, người phải quay vòng tròn theo chiều kim đồng hồ ba lần, giống như một chú chó đang tìm chỗ nằm, trước khi bước lên máy bay và nghĩ rằng không ai nhìn thấy.

Viên phi công tập sự khốn khổ đứng cạnh Teddy lúc cất cánh. Cậu ta tên là Guy - một cựu học sinh trường Eton, cậu ta khoe vậy với hy vọng có thể tạo nên m?