Chương 8 1951-Con sâu vô hình
Viola lần lữa mãi không chịu xuất hiện trên sân khấu cuộc đời. Teddy và Nancy đã cưới nhau được năm năm nhưng vẫn không có dấu hiệu gì là sẽ có con, và họ gần như đã từ bỏ hy vọng. Họ cân nhắc đến việc xin con nuôi. Một người phụ nữ không có khiếu hài hước ở trung tâm giới thiệu con nuôi nói rằng chẳng mấy chốc họ sẽ quá già, và ở thời điểm này trẻ con đang khan hiếm (như thể số lượng của chúng thay đổi theo mùa vậy). Bà ta hỏi họ có muốn đăng ký không?
“Có.” Nancy nói, sốt sắng hơn Teddy nghĩ. Người phụ nữ không có khiếu hài hước kia tên là Taylor Scott, bà ta đang ngồi sau một cái bàn giấy phát mãi rẻ tiền. Teddy và Nancy ngồi trên những cái ghế cứng ngắc trước mặt bà ta để nghe bà ta chất vấn. (“Cứ như mình là những học sinh nghịch ngợm ấy.” Nancy nói.)
“Nếu trẻ con “khan hiếm” đến vậy thì…” Nancy nói. “… Chúng tôi không ngại nhận nuôi một đứa trẻ da màu đâu.” Cô quay sang Teddy, nói: “Đúng không anh?”
“Đúng.” Anh nói, bị bất ngờ. Họ chưa từng bàn đến vấn đề này. Thậm chí anh còn chưa từng nghĩ đến chuyện con của họ sẽ không phải là đứa trẻ da trắng. Trong một phi vụ hồi chiến tranh, có một thành viên của tổ bay khác từng bay cùng với tổ bay của anh, đó là một xạ thủ ở tháp pháo đuôi, quê ở Jamaica, đen nhẻm như hòn than. Anh không thể nhớ nổi tên cậu ta, chỉ biết rằng cậu ta mười chín tuổi, tràn đầy sức sống cho đến khi cậu ta bị rơi ra khỏi cái tháp pháo ở đuôi máy bay trong một chuyến trở về từ vùng Ruhr.
“Anh không ngại đâu.” Teddy nói. “Nhưng đừng có là màu xanh lá cây đấy nhé!” Anh biết đó là một câu pha trò gượng gạo. Anh hình dung ra cảnh mình không nói gì với Sylvie về kế hoạch này rồi theo dõi vẻ mặt bà trong lần đầu tiên bà ngó vào chiếc giường cũi và nhìn thấy một khuôn mặt nhỏ bé đen sì đang nhìn lại bà. Anh bật cười và bà Taylor Scott nhìn anh vẻ nghi ngại. Nancy đưa tay sang siết chặt bàn tay anh để động viên. Hoặc có lẽ là cảnh cáo. Họ không được tỏ ra rằng mình là người có tâm thần không ổn định.
“Nhà cửa?” Bà Taylor nói, viết gì đó lên tờ đơn đăng ký của họ mà họ không thể đọc nổi.
Lúc này họ đã rời khỏi Nhà Chuột và chuyển vào sâu trong thung lũng hơn chừng vài dặm, sống trong một ngôi nhà trại cho thuê có tên là Ayswick ở rìa một ngôi làng nhỏ. Nơi đó có một trường học nhỏ, một quán rượu, một cửa hàng, một hội trường làng và một nhà nguyện của Hội Giám lý, nhưng không có nhà thờ. “Ở đây có tất cả những gì chúng ta cần.” Nancy nói. “Có lẽ chỉ trừ nhà nguyện.” Nửa thế kỷ sau, quán rượu sẽ trở thành một “quán rượu bán đồ ăn hảo hạng”; trường học biến thành một xưởng gốm; cửa hàng biến thành tiệm cà phê (“tất cả đều là đồ nhà làm và được chế biến ngay tại chỗ”); hội trường làng là một phòng triển lãm tranh có bán những món đồ lưu niệm thường thấy cho khách du lịch như gối thêu, lịch, “cái đặt thìa” và những vật trang trí có hình con cừu; còn nhà nguyện của Hội Giám lý trở thành một ngôi nhà riêng. Hầu hết những ngôi nhà tranh còn lại đều trở thành nhà nghỉ mát. Khách du lịch nườm nượp kéo nhau đến đây - thi thoảng có đến cả đoàn xe khách - bởi vì từng có một bộ phim truyền hình dài tập có bối cảnh trong quá khứ được quay tại ngôi làng này.
Teddy biết tất cả những điều này bởi vì ông đã trở lại đây cùng với Bertie vào năm 1999 trong “chuyến đi giã biệt” của ông. Họ phát hiện ra Nhà Chuột đã hoàn toàn biến mất, không còn sót lại một viên đá nào, nhưng Ayswick thì vẫn còn đó, bề ngoài vẫn hệt như cũ. Bây giờ nó đã trở thành một nhà nghỉ được đặt lại tên là Mỹ Cảnh, do một cặp vợ chồng ở độ tuổi năm mươi “đang trốn tránh cuộc cạnh tranh khốc liệt nơi đô thị” quản lý.
Họ quyết định trong tích tắc là sẽ qua đêm ở đó. Teddy được sắp xếp ở trong căn phòng ngủ của ông và Nancy ngày trước nên đã đề nghị đổi phòng. Vì thế, ông ngủ trong một căn phòng nhỏ ở phía trong cùng của ngôi nhà mà mãi đến sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, ông mới nhận ra nó từng là phòng của Viola, và ông tự hỏi sao mình có thể quên điều đó. Ở đây từng kê cái nôi của cô, rồi đến cái cũi, và cuối cùng là cái giường đơn nhỏ bé. Dưới sự chỉ đạo của Nancy, ông đã đóng hình những nhân vật ngộ nghĩnh bằng gỗ dán lên tường - Jack, Jill, cái giếng và một cái xô[104]. (“Không, dịch sang bên trái hơn nữa - làm cho cái xô trông như đang bị đổ ấy.”) Bên cạnh giường của Viola từng có một cái đèn ngủ nhỏ hình ngôi nhà tỏa ánh sáng ấm áp qua các ô cửa sổ. Ông đã đóng một cái tủ sách để đựng những cuốn sách thời thơ ấu của Viola - Gió qua rặng liễu, Khu vườn bí mật, Alice ở xứ sở diệu kỳ - và bây giờ ông đang ở đây, ở phía bên kia của chiếc gương soi[105], nhìn chằm chằm vào lớp giấy dán tường Toile de Jouey, một bức tranh nghiệp dư lớn về thung lũng mùa đông, và một cái đèn cạnh giường với chụp đèn bằng giấy màu trắng rẻ tiền. Chẳng bao giờ quay lại thế giới cũ nữa.
Ngôi nhà ấm áp hơn nhiều so với hồi ông sống ở đây cùng Nancy, nhưng ông thấy buồn khi những tấm ván ô kiểu Georgian đã bị gỡ khỏi các bức tường - Teddy cho rằng chúng chính là nạn nhân của thập niên sáu mươi - và bây giờ phòng nào phòng nấy đều dán giấy dán tường hình kẻ sọc và hình hoa tươi tắn, có “nhà vệ sinh khép kín” và những tấm thảm màu sắc nhã nhặn. Ayswick đã biến đổi thành một thứ mà ông không thể nhận ra - thực ra là thành Mỹ Cảnh - và chẳng còn sót lại thứ gì liên quan đến ông hay quá khứ của ông. Bây giờ chẳng có ai ngoài Teddy biết rằng ông và Nancy từng có thời túm tụm với nhau bên chiếc bếp Aga lớn trong phòng bếp khi gió thổi tràn trên ngọn đồi và gào rít qua từng căn phòng, cạnh tranh với tiếng hát của Beniamino Gigli và Maria Caniglia trong vở Tosca đang phát từ chiếc đĩa hát yêu quý của họ. Chẳng ai biết rằng Moss, con chó collie có bộ lông hai màu đen trắng của họ, ngủ say sưa trên tấm thảm kết bằng vải vụn trước cái bếp Aga lớn đó, trong lúc Teddy viết nháp những bài viết cho chuyên mục Tản mạn về thiên nhiên vào một cuốn sổ phóng viên, còn Nancy - giống như một quả đậu chín sắp bung nở - ngồi móc những món đồ nhỏ xíu bằng ren cho đứa con mà họ sắp được gặp.
Tất cả những kỷ niệm đó rồi sẽ chết theo ông, Teddy nhận ra điều này khi đang phết bơ lên miếng bánh mì nướng trong phòng ăn sáng của Mỹ Cảnh - trước đây nó vốn là một phòng khách phụ không được dùng đến, lúc nào cũng phủ đầy bụi bặm, nhưng bây giờ ông phải thừa nhận rằng nó khá xinh đẹp với ba cái bàn tròn phủ khăn trải trắng tinh, và trên mỗi bàn đều có một bó hoa nhỏ. Ông là vị khách đầu tiên xuống ăn sáng, ông đã ăn thịt muối, trứng và xúc xích (Theo lời Viola, ông vẫn “ăn uống rất khỏe”, nghe cứ như một lời chỉ trích) và tán gẫu sôi nổi với bà chủ nhà nghỉ trước khi bất cứ ai khác xuất hiện. Ông không nhắc đến chuyện ông từng sống ở đây. Như thế sẽ kỳ cục lắm. Và cuộc trò chuyện sẽ đi vào lối mòn. Bà chủ sẽ tỏ ra ngạc nhiên và nói: “Hẳn là nó đã thay đổi rất nhiều so với hồi ông sống ở đây.” Và ông sẽ nói: “Vâng, chắc chắn rồi!” Và sẽ chẳng có lời nào nhắc đến tiếng quạ kêu vào buổi tối khi chúng vội vã tìm chỗ ngủ trên rặng cây đằng sau ngôi nhà trại, hoặc cảnh hoàng hôn tráng lệ như được miêu tả trong thơ của Blake nhìn từ trên đỉnh đồi.
“Ayswick.” Nancy nói. “Đó là một ngôi nhà trại.” Bà Taylor Scott nhướng một bên lông mày như thể bà chẳng ưa những ngôi nhà trại. “Trong một ngôi làng.” Nancy vội nói thêm. “Hay đúng ra là ở rìa của ngôi làng ấy. Nó có đủ những tiện nghi cần thiết.”
Họ thuê được Ayswick là vì người chủ của nó đã xây cho mình một ngôi nhà gạch hiện đại “đủ mọi tiện nghi” và coi ngôi nhà trại cũ là một “con voi trắng[106]”, vì vậy ông ta mừng như được mùa khi có người sẵn sàng chấp nhận những hành lang lát đá gió lùa thông thống và những cánh cửa sổ kêu lạch cà lạch cạch. “Nhưng nó có nét đặc sắc riêng!” Nancy vui vẻ nói khi họ ký hợp đồng thuê nhà.
Trái ngược với Nhà Chuột nhỏ xíu, ngôi nhà trại này rộng thênh thang, có thể nói là quá rộng đối với một gia đình chỉ có hai người. Nó được xây từ giữa thế kỷ mười tám và mặt tiền bằng đá xám dãi dầu mưa nắng đã mòn đi đôi chút, nhưng bên trong vẫn toát lên vẻ thanh lịch với những tấm ván lót sàn bằng gỗ sồi to bản, những tấm ván ốp tường kiểu Georgian được quét sơn trong phòng khách, những gò trang trí được đắp nổi và tuyệt vời nhất là căn bếp khổng lồ của ngôi nhà trại với một cái bếp Aga cũ màu kem trông “giống như một con thú to lớn thân thiện đem lại cho ta cảm giác bình yên” (theo lời của Nancy). Họ vẫn chẳng có đồ đạc gì của chính mình ngoại trừ cây đàn piano của Nancy. Và ở đây chẳng có bà lão nào đã mất để cho họ mượn các loại vật dụng. Do đó, họ rất biết ơn vợ chồng người nông dân vì đã để lại cái bàn đồ sộ trong bếp, vốn được dùng để phục vụ bữa sáng cho cả một đám nhân công háu đói của trang trại.
Bà vợ ông nông dân khăng khăng kê bộ bàn ghế Ercol đơn giản phù hợp với thời đại trong căn phòng ăn nhỏ bé của bà ta. “Dễ thương quá!” Nancy lịch sự nói khi cô đến thăm bà ta. Cô đã mang hoa đến để “cảm ơn” họ và ngồi ở cái bàn gỗ du giản dị, uống cà phê Camp[107] đã được đun với sữa đặc. Cả Teddy và Nancy đều khá cầu kì về cà phê. Họ đặt hạt cà phê rang của Ý từ hãng Border’s ở York qua đường bưu điện. Viên bưu tá luôn tỏ vẻ ngạc nhiên bởi mùi hương thoát ra từ gói giấy màu nâu. Họ tự xay hạt cà phê bằng một cái máy xay cầm tay được gắn cố định lên cái bàn ở bếp, và pha cà phê bằng một chiếc bình lọc cũ mà Teddy mang từ Pháp về hồi trước chiến tranh.
“Ngôi nhà trại mới khá vô hồn.” Nancy nói với Teddy. “Không có nét đặc sắc nào.” Cũng không có nhện hay chuột. Không có bụi hay vết nứt nào bò lan trên trần, hay vết ẩm nào loang trên các bức tường, những thứ mà một ngày kia sẽ khiến cho đứa con gái khó khăn lắm mới có được của họ bị mắc chứng viêm thanh quản và nghẹt mũi vào mùa đông. Thêm nữa, ngôi nhà trại mới nằm khuất mình ở một nơi kín gió của ngọn đồi, trong khi Ayswick nhìn thẳng xuống dải thung lũng phía dưới, hứng chịu trực tiếp sức mạnh của những trận gió bạo tàn. Họ có thể đứng ở cửa trước và dõi nhìn các hiện tượng thời tiết tiến về phía họ, như thể chúng là kẻ địch đang xông đến. Chúng sống chung với họ và có tính cách - “Mặt trời đang cố ló dạng”, “Em nghĩ trời muốn mưa”, “Tuyết đang lần lữa chưa chịu rơi.”
Hôm đó là thứ Bảy, khi Nancy đi từ căn nhà trại mới về, cô thấy Teddy đang tràn trề cảm hứng với vùng đồng quê.
Hiện giờ khu rừng tràn ngập hoa găng cáo[108]. Loài hoa bản địa khiêm nhường này được nhà thực vật học người Đức ở thế kỷ mười sáu là Leonhart Fuchs đặt cho cái tên Latin là digitalis, dịch ra là “thuộc về ngón tay”, và quả thực ở Yorkshire này chúng thi thoảng được gọi là “những ngón tay của phù thủy”. (Quả là một sự trùng hợp kỳ lạ khi từ “Fuchs” trong tiếng Đức có nghĩa là “cáo”.) Hoa găng cáo còn có rất nhiều cái tên khác - găng tiên, chuông tiên, chuông cáo, đuôi cáo - nhưng hầu hết chúng ta quen thuộc nhất với cái tên “găng cáo”. Có thể từ này bắt nguồn từ một từ trong tiếng Anh cổ: Foxes glófa.
“Trước giờ em chưa từng nghĩ đến chuyện cái tên ấy bắt nguồn từ đâu.” Nancy nói. Cô đứng đằng sau anh, vịn tay lên vai anh mà đọc.
Đó là một loài hoa chẳng chút kiêu kỳ. Suốt nhiều thế kỷ, nó được dùng như một phương thuốc dân gian để chữa vô số loại bệnh tật trước khi người ta phát hiện ra công dụng của nó trong việc điều trị các vấn đề về tim mạch. Có thể vài người trong các bạn vẫn còn nhớ hoặc đã từng là một thành viên của ủy ban Thảo mộc địa phương hồi chiến tranh, được giao nhiệm vụ hái hoa găng cáo để sản xuất thảo dược digitalis khi chúng ta không thể nhập khẩu từ nguồn quen thuộc.
“Anh biết được điều này từ mẹ em.” Nancy nói.
“Đúng vậy. Bà là chủ tịch ủy ban Thảo mộc của hạt mình mà.”
“Mẹ anh nghĩ mẹ em là phù thủy.” Nancy nói. “Nếu là ba trăm năm trước, có lẽ bà sẽ dìm mẹ em chết đuối.” Mảnh vườn của họ, mảnh vườn ở Ayswick, hầu như chỉ toàn hoa mao địa hoàng. Họ mượn ông nông dân một cặp liềm hái để tạo ra một bãi cỏ xù xì và để mặc phần còn lại cho thiên nhiên. Có trồng một khu vườn cũng chẳng để làm gì vì chắc chắn nó sẽ bị lép vế so với sự tráng lệ của khung cảnh xung quanh. Khi họ chuyển tới York, Teddy ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng chỉ một phần tư mẫu đất ở vùng ngoại ô cũng có thể chứa nhiều niềm vui đến vậy.
Nancy hôn lên đỉnh đầu anh và nói: “Em phải chấm bài đây.” Cô không còn dạy những cô bé trường điểm ham học nữa, cuối cùng thì cô cũng bị lương tâm lôi kéo tới nơi “thực sự cần” cô. Hằng ngày, cô lái xe tới thị trấn gần nhất, nơi cô là chủ nhiệm bộ môn Toán của một trường cấp hai hạng xoàng. Bây giờ Nancy đã dùng họ của chồng, bỏ lại cái tên “cô Shawcross” ở ngôi trường điểm kia. Ngôi trường mới, nơi có đầy những học sinh “thiệt thòi”, không quá e ngại những người phụ nữ đã có gia đình. Nancy nói, cho dù cô có là một con ngựa cụt đầu thì họ cũng chẳng bận tâm, miễn là cô có thể giải cứu bộ môn Toán của họ.
Còn Teddy đã dần trở thành biên tập viên không chính thức của tờ Recorder khi Bill Morrison từng bước “rút về phía sau”. Teddy thuê một người mới ra trường làm những công việc nhàm chán đòi hỏi phải chạy đi chạy lại nhiều, nhưng anh vẫn đảm nhiệm viết phần lớn nội dung của tờ báo.
Như lời họ kể với bà Taylor Scott, vào các ngày cuối tuần, họ đi bộ qua ngọn đồi và thung lũng, quan sát thiên nhiên “trong tất cả những bộ y phục khác nhau của nó”, như cách nói của Agrestis, và lấy cảm hứng để viết bài cho chuyên mục Tản mạn về thiên nhiên. Họ có một con chó collie lông khoang trắng đen tên là Moss rất ngoan, hằng ngày Teddy vẫn đưa nó đi làm cùng mình. Vào buổi tối, họ chơi giải ô chữ hoặc đọc những bài báo trên tờ Manchester Guardian cho nhau nghe. Họ có radio, thích chơi bài kipbi và nghe nhạc từ cái đĩa hát vốn là quà cưới mà Ursula tặng họ.
“Thế còn bạn bè?” Người phụ nữ ở trung tâm giới thiệu con nuôi hỏi.
“Thực sự chúng tôi cũng không có nhiều thời gian dành cho bạn bè.” Nancy nói. “Chúng tôi còn có công việc và phải chăm lo cho nhau nữa.”
“Cứ như một bài kiểm tra miệng khủng khiếp ấy.” Nancy nói với Teddy khi họ ra về. “Khi em nói chúng ta thích nghe đĩa opera, em thề là bà ta đã nhăn mặt. Và khi em nói cả hai chúng ta đều xuất thân từ những gia đình khá đông anh chị em, có thể thấy rõ là bà ta băn khoăn liệu chúng ta có thói hoang dâm vô độ hoặc - tệ hơn - theo Công giáo hay không. Và em không biết bà ta nghĩ điều gì là tốt hơn: giao du rộng rãi hay chỉ có một, hai người bạn. Em nghĩ em còn chưa chắc chắn về mặt đó. Đáng lẽ chúng ta không nên nhắc đến Moss, bà ta không phải người yêu chó. Và việc nhắc đến tờ Guardian cũng là một sai lầm, ắt hẳn bà ta là một độc giả của tờ Mirror.”
“Đi lễ nhà thờ thì sao?” Bà Taylor Scott đã hỏi, nhìn chằm chằm vào Teddy như thể đang cố ép anh khai ra một bí mật tội lỗi nào đó.
“Chủ nhật hằng tuần, Giáo hội Anh.” Nancy nói nhanh. Lại một cú siết tay nữa.
“Và mục sư của cô sẽ viết giấy chứng nhận chứ?”
“Đương nhiên.” (“Em không bịa ra điều đó.” Ừ thì không phải bịa, chỉ là một lời nói dối thẳng thừng thôi, Teddy nghĩ.)
“Chúng ta có thể trở thành thành viên của Hội Giám lý và dự lễ ở nhà nguyện của làng ta.” Nancy nói. “Em chắc chắn bà Taylor Scott sẽ hài lòng khi biết chúng ta theo hội của Wesley[109], ông ấy rất mẫu mực. Ông ấy từng có câu nói nổi tiếng: “Cầu Chúa đừng bao giờ để con sống đến tận lúc trở nên vô dụng!”” Teddy đã trích dẫn những lời này ở đám tang của Ursula, và rồi hối hận vì điều đó bởi nó khiến chị gái anh nghe như một người nghiêm nghị khủng khiếp, đặc biệt là vào năm 1966, khi lý tưởng sống hữu ích đã trở nên lỗi thời. Ursula không theo tôn giáo nào, chiến tranh đã làm cô mất niềm tin ở tôn giáo, nhưng cô ngưỡng mộ việc các giáo phái cải cách đã rèn giũa tín đồ của họ có được sự trầm tĩnh và tinh thần nỗ lực.
Teddy đã đứng ra lo liệu cho đám tang của Ursula. Rồi suốt vài tháng sau đó, anh đã mong cô viết thư cho anh và nói với anh về nó. (“Teddy thân yêu của chị, chị hy vọng em vẫn khỏe.”)
“Ngoại ơi, ngoại vẫn ổn chứ ạ?” Bertie hỏi, ngồi vào cái ghế bên cạnh Teddy ở bàn ăn sáng của Mỹ Cảnh và ghé sang hôn lên má ông. “Chuyến đi dọc theo miền ký ức này đang làm ông khó chịu à?” Ông vỗ vỗ lên tay cô và nói: “Hoàn toàn không.”
Hôm nay họ sẽ đi khám phá vài phi trường nơi ông từng đóng quân trong sự nghiệp phục vụ Lực lượng Không quân Hoàng gia hồi chiến tranh. Giờ những nơi ấy đã trở thành khu công nghiệp hoặc trung tâm mua sắm bên ngoài thị trấn. Nhà cửa đã mọc lên san sát ở những nơi đó, còn có cả một nhà tù, nhưng chỗ ông đóng quân trong kỳ quân dịch đầu tiên thì vẫn là một nơi hoang phế, ảm đạm, giống như trong trí tưởng tượng của ông, với tàn tích ma quái của những dãy nhà ở, dấu vết của đường vành đai, cái khung phủ kín cỏ của một kho bom và cái xác nứt nẻ, xập xệ của đài kiểm soát không lưu có những khung cửa sổ hoen gỉ và lớp bê tông bong tróc. Bên trong đã bị cỏ dại xâm lấn - cỏ lửa, tầm ma và chút chít - nhưng vẫn còn một phần tấm bảng phân công nhiệm vụ, và trên tường vẫn treo một mảnh bản đồ Tây Âu bạc phếch tơi tả, đã lỗi thời từ lâu.
“Tất cả những thứ này rồi cũng sẽ biến mất.” Teddy nói với Bertie khi họ quan sát tấm bản đồ. Bertie liền nói: “Đừng. Ông cháu mình sẽ phát khóc mất. Hãy tìm chỗ nào để uống trà ngoại nhé!”
Họ tìm thấy một quán rượu có tên là Thiên Nga Đen và vào đó để uống trà, ăn bánh nướng. Mãi đến lúc trả tiền, Teddy mới nhớ ra đây là nơi mà họ từng gọi là Vịt Lấm Bùn, và là nơi diễn ra nhiều cuộc chè chén của họ trong kỳ quân dịch đầu tiên của ông.
“Anh có nghĩ là chúng ta vượt qua được “bài kiểm tra vấn đáp giáo lý” của bà Taylor Scott không?” Nancy cáu kỉnh.
“Anh không biết. Bà ấy rất kín miệng.”
Nhưng một hôm, trước khi họ tìm được một đứa trẻ dù thuộc bất cứ màu da nào, Nancy xuống ăn sáng và nói: “Em nghĩ một thiên thần đã ghé thăm em.”
“Gì cơ?” Teddy nói. Anh đang nướng bánh mì trên cái bếp Aga, tâm trí để cả vào những bài viết của Agrestis, không để ý đến lời thông báo của cô. Ngày hôm qua, anh đã nhìn thấy hai con thỏ rừng “đấm bốc” ngoài cánh đồng và đang cố gắng nghĩ ra một từ để truyền tải được niềm thích thú của anh khi ấy.
“Một thiên thần ư?” Anh nói, dứt tâm trí ra khỏi Lepus europaeus[110] (“những sứ giả Celtic của Eostre, nữ thần mùa xuân”).
Nancy mỉm cười sung sướng với anh. “Anh làm cháy bánh mì rồi kìa.” Cô nói. Rồi cô tiếp tục: “Em là một người phụ nữ có phúc. Em nghĩ em sắp có con. Chúng ta. Chúng ta sắp có con, anh yêu ạ. Một trái tim non nớt đang đập. Bên trong em. Quả là một điều kỳ diệu.” Nancy đã cự tuyệt đạo Thiên Chúa từ rất lâu, nhưng đôi khi Teddy vẫn thoáng bắt gặp hình ảnh một nữ tu sĩ cao quý ngự trị ở bên trong cô.
Gần cuối cuộc vượt cạn khó nhọc, đầy đau đớn kéo dài tận hai ngày của Nancy, đã có lúc bác sĩ kéo Teddy qua một bên và cảnh báo rằng anh có thể phải lựa chọn giữa việc cứu Nancy và đứa bé. “Nancy.” Anh nói không chút do dự. “Hãy cứu vợ tôi.”
Teddy chưa chuẩn bị gì cả. Khi chiến tranh kết thúc, anh được cho là sẽ rời khỏi thung lũng bóng tối của cái chết để tới vùng đồi núi ngập tràn ánh nắng. Anh chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến nào khác.
“Họ đã đề nghị anh lựa chọn.” Nancy nói khi đã mẹ tròn con vuông. (Anh tự hỏi ai đã kể với cô?) Cô đang nằm trên giường, khuôn mặt trắng bệch vì mất máu, đôi môi khô nẻ, mái tóc vẫn còn ướt đẫm mồ hôi. Anh nghĩ trông cô thật xinh đẹp, cô giống như một vị thánh tử vì đạo đã sống sót sau khi bị lửa thiêu. Đứa bé trong vòng tay cô dường như chưa từng trải qua cuộc thử thách vừa rồi. “Nếu là em thì em sẽ chọn con, anh biết điều đó, đúng không?” Nancy nói, dịu dàng hôn lên trán tạo vật non nớt vừa mới chào đời này. “Nếu phải lựa chọn giữa việc cứu anh hay cứu con, em sẽ chọn cứu con.”
“Anh biết.” Anh nói. “Anh thật ích kỷ. Em đang thực hiện sứ mệnh của một người mẹ.” (Rõ ràng anh đã không thực hiện sứ mệnh của một người cha). Trong những năm sau này, Teddy tự hỏi liệu Viola có mơ hồ biết rằng, về mặt lý thuyết, bố cô đã sẵn sàng kết án tử cho cô mà không suy nghĩ lấy một giây? Trong lúc Nancy đang mang thai, khi được hỏi cô mong con trai hay con gái, Nancy luôn cười nói: “Chỉ cần con ra đời khỏe mạnh là em mừng lắm rồi.” Nhưng khi Viola ra đời và họ biết rằng cô bé sẽ là đứa con duy nhất của họ, Nancy đã nói: “Em mừng vì con là con gái. Nếu là con trai, khi lớn lên nó sẽ lấy vợ và rời đi. Nó thuộc về một người phụ nữ khác, nhưng con gái thì luôn thuộc về mẹ nó.”
Bác sĩ nói họ sẽ không có thêm đứa con nào nữa. Gia đình Nancy có năm người con, gia đình Teddy cũng vậy. Thật kỳ lạ khi họ chỉ có một đứa con duy nhất là “con nhộng béo” đang nằm trong “tổ kén” này. Được tạo nên từ đường và gia vị[111]. (Hóa ra là nhiều gia vị hơn đường.) Họ đã bàn bạc về việc đặt tên cho con từ trước, nếu là con gái thì sẽ là Viola. Lúc ấy, nghĩ đến bốn người chị em gái của mình, Nancy tưởng tượng mình cũng sẽ có nhiều con gái và cô nghĩ thêm những cái tên Rosalind, Helena và có lẽ cả Portia hoặc Miranda. Những cô gái năng nổ, tháo vát. “Sẽ không có cái tên nào trong các vở bi kịch.” Cô nói. “Không Ophelia, không Juliet.” Và cô đã nghĩ mình sẽ có một đứa con trai cho Teddy, họ sẽ gọi nó là Hugh. Đứa con trai ấy sẽ không bao giờ ra đời.
Hồi ấy, dường như việc đặt tên cho con cái theo các nhân vật của Shakespeare là một lựa chọn hiển nhiên. Đó là năm 1953 và họ vẫn đang suy ngẫm về ý nghĩa của việc là một người Anh. Giúp đỡ họ là một nữ hoàng trẻ trung mới đăng quang, hiện thân của Nữ hoàng Gloriana[112]. Họ nghe ca sĩ Kathleen Ferrier hát những bài dân ca Anh trên cái máy hát quý giá của họ. Họ đã đi nghe cô ấy hát với dàn nhạc giao hưởng Halle ở lễ khai trương tại Phòng hòa nhạc Free Trade ở Manchester. Nó đã bị oanh tạc vào năm 1940 và Nancy nói rằng năm 1940 dường như đã quá xa xôi. “Chúng ta đúng là những kẻ yêu nước ngớ ngẩn.” Cô nói, lau đi một giọt nước mắt khi khán giả giậm chân và vỗ tay tán thưởng nhà soạn nhạc Elgar và bài hát Mảnh đất hy vọng và vinh quang. Một năm sau, khi Kathleen Ferrier chết lúc còn quá trẻ, Bill Morrison nói “Một phụ nữ miền Bắc vĩ đại”, cho dù cô xuất thân từ phía bên kia của dãy núi Pennine, và đăng cáo phó về cô trên tờ Recorder.
Nancy yêu Viola ngay từ cái nhìn đầu tiên. Cô nói đó là một tình yêu sét đánh, sâu sắc và mãnh liệt hơn bất cứ loại tình yêu lãng mạn nào. Người mẹ là cả thế giới của con gái và con gái cũng là cả thế giới của người mẹ, một thế giới toàn vẹn và không thể bị chiếm lĩnh. Teddy biết anh không bao giờ có thể bị ai đó choán hết tâm trí mình như vậy. Anh yêu vợ và con gái. Đó có lẽ là sự yêu thương bất di bất dịch hơn là một nỗi ám ảnh vĩ đại, tuy nhiên anh không nghi ngờ chút nào rằng nếu phải hy sinh tính mạng của mình vì họ, anh sẽ vứt bỏ nó ngay không chút do dự. Và anh cũng biết rằng anh sẽ không còn khao khát thứ gì khác ở thế giới rộng lớn ngoài kia, không còn khao khát những mảnh màu sắc nóng bỏng, sự ác liệt của chiến tranh hay sự lãng mạn. Tất cả những điều đó đều đã ở lại đằng sau. Bây giờ, anh có một bổn phận khác, không phải với chính anh, không phải với đất nước của anh, mà là với gia đình nhỏ này.
Với Nancy, liệu đó có phải chỉ đơn giản là tình yêu? Hay còn là thứ gì mãnh liệt hơn? Có lẽ là vì mẹ con họ đã từng cùng nhau trải qua giây phút đứng giữa ranh giới sinh tử. Đương nhiên, anh cũng từng được nếm trải tình mẫu tử thiêng liêng ấy với Sylvie. Anh biết rằng bà đã yêu anh vô bờ hồi anh còn nhỏ (có lẽ là cả cuộc đời anh), nhưng bà chẳng bao giờ dồn hết niềm hạnh phúc của mình vào anh. (Bà có làm thế không?) Đương nhiên, anh chưa bao giờ hiểu mẹ mình, anh ngờ rằng chẳng có ai hiểu bà cả, cha anh chắc chắn lại càng không.
Nancy, tuy là người vô thần, quyết định rằng Viola nên được rửa tội.
“Mẹ tin rằng như thế gọi là đạo đức giả đấy.” Sylvie nói với Teddy khi đang ở ngoài tầm nghe của Nancy (bà chủ yếu nói chuyện với Teddy ở ngoài tầm nghe của cô).
“Chà, mẹ cũng vậy mà.” Teddy nói. “Mẹ vẫn đến nhà thờ nhưng con biết mẹ không tin.”
“Anh quả là ông chồng tốt.” Sau đó, Nancy nói. “Lúc nào cũng đứng về phía vợ thay vì đứng về phía mẹ.”
“Anh chỉ đứng về phía lẽ phải thôi.” Teddy nói. “Chẳng qua em luôn tình cờ đứng ở phía đó, còn mẹ anh thì hiếm khi.”
“Con sẽ không liều lĩnh.” Nancy nói với Sylvie ở buổi lễ rửa tội. “Con đang đặt cược nước đôi, theo kiểu của Pascal[113].” Sylvie càng bực bội hơn khi Nancy nhắc đến nhà toán học kiêm triết gia người Pháp ấy. Giá mà Teddy cưới người nào ít học thức hơn, bà nghĩ.
Họ đã về “nhà” để làm lễ rửa tội cho Viola. “Tại sao chúng ta vẫn gọi đó là nhà khi đã có một ngôi nhà riêng hoàn toàn tuyệt vời của chính mình?” Nancy trầm ngâm. “Anh không biết.” Teddy nói, mặc dù anh biết rằng trong tim anh, Góc Cáo sẽ luôn là nhà.
Các bà mẹ đỡ đầu - dì Bea và bác Ursula - hứa sẽ cự tuyệt quỷ sứ và tất cả những sự nổi loạn chống đối Chúa, sau đó họ ăn mừng ở Quạ Gáy Xám với rượu sherry ngọt và một cái bánh Dundee[114]. Khỏi cần phải nói, Sylvie rất tức giận vì họ đã không mở tiệc ở Góc Cáo ngay bên cạnh.
Teddy tặng cho Nancy cái nhẫn đính duy nhất một viên kim cương nhỏ để kỷ niệm chuyến hành trình thuận buồm xuôi gió của Viola đến với thế giới này. “Đây là chiếc nhẫn đính hôn mà anh chưa từng tặng em.” Anh nói.
Viola lớn lên, giống như một con nhộng núc ních chưa hóa thành bươm bướm. Nancy đi làm trở lại khi Viola bắt đầu đi học tiểu học ở trường làng. Cô dạy học bán thời gian ở một trường nội trú tư đắt đỏ của Giáo hội Anh ở gần đó, đây là ngôi trường dành cho các nữ sinh không đủ điều kiện để vào trường điểm trong kỳ thi tốt nghiệp tiểu học, nhưng cũng không thể học ở những ngôi trường cấp hai hạng xoàng vì cha mẹ chúng coi đó là một sự nhục nhã đáng hổ thẹn.
Người nông dân đã ngỏ ý bán Ayswick cho họ. Rồi họ đăng ký một khoản vay có thế chấp để mua ngôi nhà trại cũ ấy. Cuộc sống có vẻ cứ tiếp diễn như thế mãi, Teddy không có tham vọng gì và Nancy dường như cũng bằng lòng với hiện tại, cho đến một ngày mùa hè năm 1960, khi Viola tám tuổi, Nancy quyết định rằng cô muốn họ thay đổi.
Cô nói cuộc sống ở nông thôn rất tốt nhưng chẳng mấy chốc Viola sẽ cần nhiều thứ hơn nữa: một ngôi trường trung học tốt không nằm cách nhà tận một giờ đi xe buýt, bạn bè, các hoạt động giao du, đó là những thứ khó có thể tìm thấy “ở nơi đồng không mông quạnh” này. Hơn nữa, ngôi nhà trại quá lớn, gây khó khăn cho việc dọn dẹp hằng ngày, lại còn tốn bộn tiền cho hệ thống sưởi, chưa kể hệ thống ống nước có từ thời Tiền Trung cổ. Cùng nhiều lý do tương tự.
“Anh không nghĩ ở thời Tiền Trung cổ đã có hệ thống ống nước.” Teddy nói. “Anh tưởng em yêu ngôi nhà này bởi vì nó đặc sắc.”
“Nó đặc sắc quá thành ra phiền phức.”
“Cú đánh úp” này là một điều hoàn toàn bất ngờ. Lúc ấy họ đang ngồi trên giường, đọc những cuốn sách mượn ở thư viện, một cái kết yên bình cho một ngày khá nhàm chán, ít nhất là với Teddy, sau khi anh phải theo dõi một triển lãm nông sản ở địa phương để viết bài cho tờ Recorder. Ở đó có quá nhiều chú cừu được chải chuốt và quá nhiều loại rau củ được trưng bày một cách cầu kỳ khiến người ta chẳng còn thấy hứng thú. Khá thất vọng, anh buộc lòng phải đánh giá những cái bánh xốp Victoria trong quầy của Hội Phụ nữ (anh cảm thấy mình khá giống một vị giám khảo mới toanh trong một cuộc thi nhan sắc). “Nhẹ tựa lông vũ.” Anh tuyên bố chiếc bánh đoạt giải bằng một câu nói sáo rỗng.
Bấy giờ các trường học đều đã nghỉ hè và Nancy muốn đi khám mắt. Thời tiết lại rất đẹp nên Teddy nói anh sẽ đưa Viola đến triển lãm nông sản cùng mình. Viola đương nhiên chẳng thích thú gì các gia súc ở nông trại. Cô bé tỏ ra căng thẳng khi tới gần lũ bò và lợn, thậm chí lo lắng trước lũ cừu và kêu ré lên nếu một con ngỗng đến gần (trước đây cô bé từng bị chúng đuổi và mổ). “Còn có những thứ khác mà.” Teddy lạc quan nói, và đúng là có một triển lãm hoa mà Viola nói là rất “thú vị”, mặc dù - bất chấp những lời cảnh báo của Teddy - cô bé cứ thò mũi vào hết lọ đậu hoa này đến lọ đậu hoa khác nên đã bị lên cơn dị ứng phấn hoa. Tuy những cuộc thi chó chăn cừu khá “tẻ nhạt” (Teddy phải đồng ý với điều này) nhưng trò ném dừa của Hội Nông dân trẻ lại thành công. Cô bé chi rất nhiều tiền cho trò chơi này chỉ để đổi lấy một phần thưởng ít ỏi, bởi cô bé thường ném bừa chứ chẳng biết nhắm đích. Cuối cùng, Teddy phải nhúng tay vào, ném vài quả bóng và thắng được một con cá vàng, do đó cô bé không phải ra về tay không. Ngoài ra còn có một màn trình diễn của những chú ngựa lùn. Tuy cô bé tỏ rõ là mình ghét ngựa nhưng vẫn rất thích xem trò biểu diễn này. Cô bé vỗ tay nhiệt liệt mỗi khi có bất cứ ai cưỡi ngựa nhảy qua được những chướng ngại vật nhỏ.
Trong quầy của Hội Phụ nữ, Viola được cưng chiều hết mực - tất cả mọi người trong Hội Phụ nữ đều biết rõ Teddy và cho Viola ăn rất nhiều bánh. Teddy cũng được họ đãi bao nhiêu là bánh ngọt. Viola cũng giống như Bobby, con chó Labrador màu vàng của họ - cô bé sẽ ăn liên tục cho đến khi có người bảo cô bé dừng lại. Cũng giống như Bobby, cô bé hơi mập mạp. “Cún con mũm mĩm.” Nancy nói. Có lẽ câu đó là nói về Viola chứ không phải Bobby, vì Bobby đã qua thời “cún con” từ lâu rồi. Moss, chú chó collie ưu tú của họ, đã chết sau khi Viola chào đời không lâu. Thế rồi chú chó Bobby trầm tĩnh đã được lựa chọn để làm người bạn trung thành và tận tụy của Viola suốt tuổi ấu thơ.
Đến xế chiều, Viola bắt đầu trở tính trở nết vì nóng nực và mệt mỏi. Điều đó cùng với lượng bánh ngọt và nước cam ép dồi dào mà cô bé đã ních đầy bụng tạo thành một sự kết hợp tai hại. Thế là trên đường về nhà, Teddy phải dừng xe lại hai lần để cho Viola xuống nôn trên vệ cỏ. “Con gái tội nghiệp!” Anh nói, cố gắng vỗ về cô bé, nhưng cô bé giãy ra khỏi vòng tay anh. Teddy từng hy vọng mối quan hệ của mình với con gái sẽ giống như mối quan hệ của Thiếu tá Shawcross với các con gái của ông, hoặc có lẽ chừng mực hơn một chút, giống như mối quan hệ của Pamela và Ursula với Hugh, nhưng trong tim Viola không có chỗ dành cho anh, Nancy đã chiếm trọn nó. Sau khi họ mất Nancy, Nancy càng chiếm nhiều diện tích hơn trong trái tim Viola. Con gái anh luôn chất chứa đầy oán giận với cái thế giới đã cướp mất mẹ cô, để lại cho cô người cha dù có cố gắng bao nhiêu cũng chẳng thể nào thay thế được người mẹ ấy.
Viola ngủ suốt chặng đường còn lại, để mặc Teddy lo lắng cho con cá vàng (đã được Viola đặt tên là Vàng Vàng) đang bị nhốt trong cái nhà tù bằng túi ni lông nóng bức, ngột ngạt.
“Con muốn một con ngựa lùn.” Viola tuyên bố với Nancy khi hai bố con họ về đến nhà. Rồi khi Teddy lý luận rằng “Nhưng con đâu có thích ngựa”, Viola liền òa khóc và gào lên với anh rằng ngựa lùn không phải là ngựa. Anh không tranh cãi với con về điều đó. “Nó mệt quá ấy mà.” Nancy nói khi Viola thả phịch người xuống xô pha trong cơn nức nở giả tạo. “Sự khắc kỷ nổi tiếng của nhà Todd đâu mất rồi?” Nancy lẩm bẩm. “Nhạy cảm” là từ mà cô sẽ dùng để miêu tả đứa con gái mỏng manh của mình. “Được nuông chiều thái quá thì có.” Sylvie sẽ nói như vậy. Teddy kịp thời cứu con cá vàng thoát khỏi tai họa bị đè nát dưới thân hình mũm mĩm như cún con của Viola. “Được rồi, con gái yêu.” Nancy nói với Viola. “Nào, để mẹ lấy cho con một mẩu sô cô la nhỏ nhé, nó sẽ giúp con vui lên, đúng không nào?” Đúng là như vậy và cô bé nín ngay lập tức.
Teddy mang con cá vàng vào bếp và thả nó ra khỏi túi, nhìn nó trườn vào cái chậu rửa đựng nước máy. “Không phải là một cuộc sống tốt đẹp lắm, đúng không, Vàng Vàng?” Anh nói với nó. Teddy là một trong những thành viên đầu tiên của Câu lạc bộ Cá vàng[115], mặc dù anh hiếm khi nghĩ về điều này. Anh có một cái huy hiệu nhỏ bằng vải hình con cá có cánh đang để ở đâu đó, kết quả của một lần hạ cánh khẩn cấp xuống biển Bắc. Chuyện đó xảy ra trong kỳ quân dịch đầu tiên của anh. Thi thoảng anh vẫn tự hỏi vào lúc đó liệu anh có thể làm tốt hơn không, anh có nên bay nốt vài dặm cuối cùng vào đất liền thay vì lao thẳng chiếc Halifax xuống biển? Đó là một sự việc khủng khiếp. Thôi, chúc anh may mắn.
Anh thầm ghi nhớ rằng ngày mai anh sẽ đến một cửa hàng thú cảnh và mua một cái bể cá cho Vàng Vàng, để con cá có thể bơi lượn suốt phần đời còn lại trong cái không gian tù túng đơn độc ấy. Anh cho rằng mình có thể mua cho nó một người bạn, nhưng điều đó chỉ nhân đôi nỗi khốn khổ lên mà thôi.
Tối đó, nằm trên giường, Teddy cảm thấy mình đang phải trả giá cho cái bánh của Hội Phụ nữ - nó như bị kẹt lại ở đâu đó dưới những rẻ xương sườn của anh, khiến anh cảm thấy ấm ách khó chịu.
“Khổ thân anh.” Nancy nói. “Để em lấy cho anh ít thuốc nhuận tràng nhé?” Anh nhận ra cô đang dùng giọng điệu mà cô thường dùng để xoa dịu Viola mỗi khi cô bé bị đau hay phật ý vì điều gì (một mẩu sô cô la nhỏ). Anh gạt đi lời đề nghị ấy và quay lại đọc sách. Anh đang đọc cuốn Sinh ra trong tự do, còn Nancy đang đọc Chiếc chuông của Iris Murdoch. Anh tự hỏi liệu những cuốn sách họ đọc có nói lên được điều gì về bản thân họ không.
Tuy nhiên, anh không thể tập trung và gập cuốn sách lại mạnh hơn anh định. “Vậy là em muốn chúng ta chuyển nhà?” Anh hỏi.
“Vâng, em nghĩ là em muốn như vậy.”
Khi Viola ra đời, Teddy và Nancy đã hào hứng bàn bạc về kế hoạch dành cho cô bé một tuổi thơ lành mạnh ở nơi thôn dã - họ mường tượng ra hình ảnh cô bé trèo cây, nhảy qua những con mương và đi lang thang khắp vùng đồng quê chỉ với một con chó bầu bạn. (“Lơ là một chút cũng chẳng hại gì.” Nancy nói. “Chính điều đó đã giúp ích cho chúng ta hồi chúng ta còn nhỏ.”) Tuy nhiên, theo thời gian, họ phát hiện ra Viola không phải là đứa trẻ phù hợp với cuộc sống ở nông thôn. Cô bé hài lòng với việc ru rú trong nhà cả ngày, đọc một cuốn sách hay nghe cái máy quay đĩa nhỏ hiệu Dansette mà họ mua cho cô bé (nhạc của Cliff Richard, anh em nhà Everly) với Bobby nằm lười trên thảm dưới chân cô bé. Cả con chó và đứa trẻ từ lâu đã đi đến một thỏa thuận là sẽ không giậm chân và nhảy nhót. Có lẽ Nancy nói đúng. Viola sẽ hợp với cuộc sống ở vùng ngoại ô hơn.
Dù sao đi nữa, có lẽ một sự thay đổi sẽ có lợi cho tất cả bọn họ, Nancy nói vậy. Teddy cảm thấy không cần phải thay đổi, anh khá hài lòng với cuộc sống ở nơi “đồng không mông quạnh” và đã nghĩ rằng Nancy cũng thế. “Có lợi cho chúng ta ư?” Anh nói. “Có lợi như thế nào?”
“Thú vị hơn. Nhiều việc để làm hơn. Ở đó sẽ có các tiệm cà phê, rạp hát, rạp chiếu bóng, cửa hàng cửa hiệu. Và nhiều người hơn. Chúng ta không thể hài lòng với việc lùng sục những bông anh thảo đầu tiên của mùa xuân hay nghe tiếng chim chiền chiện hót.” (Cô không thỏa mãn ư? Người vợ bất mãn, giống như một vở hài kịch thời kỳ khôi phục chế độ quân chủ, Teddy nghĩ. Một người khá tội nghiệp. Anh bất giác nghĩ về mẹ mình.) “Em từng hài lòng với việc “lùng sục những bông anh thảo”, theo cách nói của em.” Anh nói. Anh khá thích cụm từ ấy, nó giàu chất thơ hơn thói quen ăn nói thông thường của Nancy, và anh lưu nó lại để dành cho Agrestis sử dụng. Thời gian qua đi, bản ngã thứ hai của anh đã hình thành nên hình dáng và tính cách trong tâm trí anh - một anh chàng nhà quê khỏe khoắn, đầu đội mũ lưỡi trai, tay cầm tẩu thuốc, một người đàn ông thực tế nhưng lại tận tụy phục dịch sự đồng bóng của Bà mẹ Thiên nhiên. Thi thoảng Teddy cảm thấy mình thật kém cỏi khi so với cái bản ngã thứ hai tràn trề sinh lực này.
Đã có thời việc phát hiện ra một tổ chim hay thậm chí là bông anh thảo đầu tiên sẽ làm cho người vợ bất mãn của anh phấn khởi. “Nhưng chẳng ai trong chúng ta là không thay đổi cả.” Cô nói.
“Có anh đây.” Teddy nói.
“Không, anh cũng đã thay đổi.”
“Chúng ta đang tranh cãi đấy à?”
“Không!” Nancy cười nói. “Nhưng bây giờ chúng ta đã đầu bốn cả rồi, ì à ì ạch…”
“Ì ạch?”
“Em không có ý xúc phạm. Em chỉ muốn nói rằng có lẽ chúng ta cần thay đổi một chút. Anh không muốn cuộc đời trôi qua trong khi anh vẫn giậm chân tại chỗ, đúng không?”
“Anh nghĩ chuyện này là vì Viola chứ không phải vì chúng ta?”
“Em không đề nghị chúng ta di cư sang nửa bên kia của thế giới.” Nancy nói. “Chỉ đến York thôi mà.”
“York ư?”
Nancy trèo xuống giường và nói: “Gì thì gì em cũng phải đi lấy cho anh thuốc nhuận tràng đã. Rõ ràng chỗ bánh trong bụng đã khiến anh trở nên cộc cằn. Đây chính là một bài học dành cho anh vì cái tội quá quyến rũ trong mắt các bà các cô ở Hội Phụ nữ đó.” Khi cô đi qua phía giường anh đang nằm, cô trìu mến xoa tóc anh như thể anh là một cậu bé và nói: “Em chỉ nói là chúng ta nên nghĩ về chuyện đó chứ không phải là chúng ta nhất thiết phải làm thế.”
Anh vuốt tóc mình xẹp xuống và nhìn chằm chằm lên trần nhà. Ì ạch, anh nghĩ. Nancy từ phòng tắm trở lại, lắc lắc thứ chứa trong lọ thủy tinh màu xanh dương. Trong một thoáng giây, anh sợ rằng cô sẽ bón từng thìa thuốc nhuận tràng cho anh, nhưng thay vì thế cô chỉ đưa nó cho anh và nói: “Anh uống đi, nó sẽ có tác dụng đấy.” Cô trèo lại lên giường và tiếp tục đọc cuốn sách của mình, như thể cuộc tranh cãi về việc thay đổi cuộc sống của họ đã ngã ngũ và được giải quyết ổn thỏa.
Anh tợp một hơi hết chỗ thuốc màu trắng như phấn ấy và tắt cái đèn bên phía giường của anh. Như thường lệ, giấc ngủ lại lảng tránh anh và những ý nghĩ của anh hướng sang Agrestis, người đang viết một bài báo về chuột đồng nước.
Mặc dù thuộc Bộ Gặm nhấm nhưng anh bạn nhỏ dễ thương này (Arvicola terrestris) thường bị gọi nhầm là chuột nước. Nhân vật Ratty được đông đảo bạn đọc yêu mến trong truyện Gió qua rặng liễu của Kenneth Grahame thực chất là một con chuột đồng nước. Chúng là một sinh vật có tuổi thọ ngắn ngủi trong thế giới hoang dã, sự tồn tại của chúng trên Trái đất chỉ kéo dài vỏn vẹn vài tháng, mặc dù khi bị nhốt, chúng sẽ sống được lâu hơn nhiều. Có khoảng tám triệu con chuột đồng nước - giống như nhân vật Ratty của Grahame - sống ở những cái hang bên bờ sông cũng như các con mương, dòng suối và những vùng nước khác…
Không lâu trước khi Teddy rời khỏi Fanning Court để tới Nhà dưỡng lão Đồi Dương, khi ông đã ngoài chín mươi tuổi (việc “sống trong cảnh giam cầm” rõ ràng đã kéo dài cuộc đời ông), ông đọc được một bài báo trên tờ Telegraph (lúc đó ông phải nhờ đến sự trợ giúp của một chiếc kính lúp để đọc được bài báo ấy). Bài báo tuyên bố rằng ở Anh chỉ còn khoảng hai trăm năm mươi nghìn con chuột đồng nước. Ông cảm thấy tức giận thay cho chúng và đề cập đến chủ đề này một cách khá sôi nổi ở buổi đàm đạo hằng tuần trước sự hoang mang của các cư dân khác. “Lũ chồn vizon được nuôi trong các trang trại…” Ông giải thích. “… Đã trốn thoát ra ngoài thiên nhiên hoang dã và đàn áp lũ chuột đồng nước. Ăn thịt chúng.”
Một, hai bà lão có mặt trong sảnh sinh hoạt chung từng giữ khư khư những chiếc áo khoác lông chồn vizon, rồi bỏ xó chúng trong những cái tủ quần áo mỏng manh bằng gỗ dán phủ melamine ở Fanning Court, và họ không có ý định thương cảm lũ chuột đồng nước vô tội. “Và, đương nhiên.” Teddy tiếp tục. “Chúng ta đã phá hoại môi trường sống của chúng, đó là điều mà con người làm rất giỏi.” Vân vân. Nếu họ chú ý - nhưng chẳng mấy ai chú ý - sau khi nghe hết “bài giảng” này, các cư dân của Fanning Court sẽ chẳng có gì là không biết về lũ chuột đồng nước (hay thậm chí là cả chủ đề về sự nóng lên toàn cầu đầy nan giải).
Cuộc vận động của Teddy về việc bảo vệ loài động vật có vú nhỏ bé đang bị thiên hạ bỏ mặc không được những người uống Nescafe và ăn bánh bourbon sô cô la hưởng ứng nhiệt tình. (Họ cũng có thái độ như vậy đối với những ý kiến của ông về loài nhím gai và thỏ nâu bé nhỏ, “và lần cuối các ông bà nghe thấy tiếng hót của một con chim cúc cu là khi nào?”) “Đúng là kẻ ôm cây[116].” Một trong những cư dân nam - một luật sư về hưu - lẩm bẩm.
“Thực sự thì… bố à!” Viola nói. “Bố không thể hô hào người ta.” Hình như Kiểm soát viên mập ú, Ann Schofield, đã nhờ Viola “nói đôi lời” với Teddy về thái độ “hằn học” của ông. “Nhưng chúng ta đã mất gần chín mươi phần trăm số lượng chuột đồng nước chỉ trong vòng ba mươi năm.” Ông phản đối Viola. “Điều đó khiến bất cứ ai cũng phải cảm thấy hằn học. Mặc dù bố cho rằng sự hằn học ấy cũng chẳng thấm vào đâu so với cảm giác tức giận của bọn chuột đồng nước.” (“Khi mất đi thứ gì ta mới nhận ra giá trị của nó.” Bertie nói. “Theo lời bài hát.” Teddy không biết đó là bài hát nào nhưng ông hiểu ý kiến ấy.) “Bố đừng lẩm cẩm thế.” Viola nói. “Và con nghĩ bố đã khá già rồi, không còn thích hợp để theo đuổi đại nghĩa nữa đâu.” Trong mắt con gái ông, các loài động vật hoang dã phải gánh chịu rủi ro theo thuyết chọn lọc tiến hóa khắc nghiệt của Darwin. “Toàn bộ nỗi ám ảnh với hệ sinh thái này chẳng đem lại lợi ích gì cho bố cả.” Viola nói. “Bố đã già quá rồi, bố không nên tỏ ra kích động như vậy.”
Hệ sinh thái ư? Teddy nghĩ. “Thiên nhiên.” Ông nói. “Ngày trước thế hệ của bố gọi nó là Thiên nhiên.”
Trong chuyến “viếng thăm chớp nhoáng” tới Fanning Court này, Viola đã vận động Teddy chuyển tới một nhà dưỡng lão - bà mang theo một nắm tờ rơi quảng cáo. Vài ngày trước, ông đã bị ngã, may là không nặng lắm, hai chân ông đã bị chùn và ông ngã phịch xuống như một chiếc đàn concertina bị sập. “Cái mông quái quỷ của tôi bị dính chặt vào sàn rồi.” Ông càu nhàu với Ann Schofield khi bà ta tới (phải, ông đã ở gần một trong những cái dây màu đỏ và phải, ông đã kéo nó). “Làm ơn để ý lời ăn tiếng nói!” Bà ta khiển trách như thể ông là một đứa trẻ tội lỗi, trong khi mới hôm qua thôi, lúc bà ta nghĩ bà ta đang ở một mình trong phòng giặt là, ông đã nghe thấy bà ta mắng chửi cái cửa trơ lì của một cái máy giặt: “Sao mày không chịu mở ra hả, cục phân khốn kiếp này?” Lời chửi rủa ấy nghe càng đanh đá hơn bởi chất giọng Birmingham của bà ta.
Với sự trợ giúp ít ỏi từ Kiểm soát viên mập ú (“Theo quy tắc về sức khỏe và an toàn, tôi phải gọi nhân viên y tế.”), ông đã xoay xở quỳ gối dậy rồi bò lên ngồi trên xô pha. Ngoài vài vết thâm tím thì ông hoàn toàn không có vấn đề gì, nhưng đây là “bằng chứng không thể chối cãi” mà Viola vin vào để cho rằng ông không thể “sống độc lập”. Bà đã nhèo nhẽo thuyết phục ông rời khỏi căn nhà của ông để tới Fanning Court. Bây giờ bà lại cố dụ ông rời khỏi đây để đến một nơi được gọi là Đồi Dương. Ông cho rằng Viola sẽ không thỏa mãn cho đến khi nào bà tống được bố mình vào trong quan tài.
Bà xòe các tờ rơi của nhà dưỡng lão ra, tờ rơi của Đồi Dương được cố ý đặt ngay trên cùng, và nói: “Ít nhất bố hãy nhìn một cái đi nào.” Ông liếc qua chúng - trên đó có hình mấy người tóc bạc đang tươi cười vui vẻ và, như ông chỉ ra cho bà thấy, không có dấu hiệu nào của cứt đái và chứng lú lẫn.
“Dạo này bố nói năng khiếp quá.” Viola nghiêm nghị nói. “Chuyện gì đang xảy ra với bố vậy?”
“Bố sắp chết rồi.” Ông nói. “Điều đó khiến bố quá khích.”
“Bố đừng lẩm cẩm thế!” Ông nhận thấy bà ăn mặc rất lịch sự. “Con đang đến một nơi này.”
“Nơi này là nơi nào?” Viola luôn ghét phải giải thích, đó là một phần tính cách khép kín của bà. Hồi bà còn niên thiếu, ông từng có lần chạm mặt bà trên đường. Lúc ấy bà đang đi với bạn học và đã phớt lờ ông khi đi ngang qua ông. Một cậu con trai tên Hugh sẽ chẳng bao giờ làm một việc như thế.
“Nơi này là nơi nào?” Ông lặp lại, cố giục bà nói cụ thể hơn.
“Người ta đang làm một bộ phim dựa trên một cuốn tiểu thuyết của con. Con có một cuộc họp với mấy ông sếp của họ.” Cung cách cố tỏ ra thản nhiên của bà khi nói mấy từ “bộ phim” và “mấy ông sếp” khiến người ta có cảm giác bà dửng dưng với chuyện đó, trong khi bà rõ ràng không dửng dưng chút nào. Từng có một bộ phim dựa trên cuốn tiểu thuyết thứ hai của bà, Những đứa con của Adam. Nó là một dạng phim chất lượng thấp - của Anh, Viola đã tặng ông một đĩa DVD. Cuốn sách cũng chẳng xuất sắc gì. Nhưng ông không nói với bà điều đó. Ông nói ông thấy nó “rất hay”.
“Chỉ rất hay thôi sao ạ?” Bà cau mày.
Chúa ơi, ông nghĩ, như thế còn chưa đủ sao? Nếu ông có bao giờ hoàn thiện được cuốn tiểu thuyết của mình, ông sẽ mừng húm nếu nó được khen là “rất hay”. Nó đã được đặt tên là gì nhỉ? Thứ gì đó liên quan đến việc ngủ và thở khẽ, đó là một câu thơ của Keats, ông chỉ nhớ được chừng đó, nhưng là bài thơ nào? Ông cảm thấy những đám mây đang tụ lại trong trí não ông. Có lẽ Viola nói đúng, có lẽ đã đến lúc từ bỏ, bước vào phòng chờ của cửa Chúa.
Cuốn tiểu thuyết đầu tay của Viola, Chim sẻ ban mai (quả là một nhan đề khủng khiếp!), nói về một cô gái trẻ “thông minh” (hoặc ngạo mạn đến đáng bực mình) được một tay người cha nuôi dạy. Rõ ràng nó có tính tự truyện, một loại thông điệp mà Viola gửi đến ông. Cô gái luôn bị đối xử tàn tệ và cha cô là người có tính kỷ luật chặt chẽ đến xuẩn ngốc. Đó không phải thứ mà Sylvie sẽ gọi là Nghệ thuật.
“Cuốn nào?” Ông hỏi, tập trung suy nghĩ, xua đi những đám mây. “Họ đang chuyển thể cuốn tiểu thuyết nào của con thành phim?”
“Chiều tàn.” Rồi bà nóng nảy nói thêm khi thấy ánh mắt ngây ngẩn của ông. “Đó là cuốn tiểu thuyết nói về một người mẹ phải từ bỏ đứa con của mình.” (“Đó là mơ tưởng của mẹ cháu đấy.” Bertie nói.) Bà nhìn vào chiếc đồng hồ bằng vàng nặng nề trên cổ tay mình một cách khoa trương. (“Hãng Rolex. Quả là một món đầu tư lớn.”) Ông không chắc bà làm thế là để nhắc ông nhớ đến cuộc sống bận rộn của bà, hay nhắc ông nhớ đến thành công của bà. Ông nghĩ là cả hai. Dạo gần đây bà đã thon thả hơn, bà ăn kiêng và thay đổi kiểu tóc, tóc bà có đến mười sắc vàng khác nhau mà Teddy chưa bao giờ nhìn thấy. Không còn mái tóc màu nâu đỏ, không còn những bộ trang phục luộm thuộm. Những chiếc váy bằng nhung và những bộ trang phục đính kim sa lấp lánh mà bà vẫn diện khi sang tuổi trung niên nay đã biến mất. Bây giờ, mỗi khi ông nhìn thấy bà, bà đều mặc những bộ vét được may đo và những trang phục mang màu sắc trung tính. “Những đứa con của Adam đã làm thay đổi cuộc đời tôi.” Ông đọc được điều này trong tờ Woman’s Weekly để ở sảnh sinh hoạt chung khi đang vẩn vơ lật giở các trang báo, tìm kiếm các công thức nấu ăn mà trên bìa hứa hẹn là dành cho “Những bữa tối rẻ tiền và dễ làm”. “Tác giả từng đoạt giải thưởng - Viola Romaine - nói về cuốn tiểu thuyết bán chạy trước đây của bà. “Không bao giờ là quá muộn để theo đuổi giấc mơ của bạn.” Bà nói với chúng ta trong cuộc phỏng vấn độc quyền này.” Vân vân.
“Con phải đi đây.” Bà nói, đột ngột đứng dậy, đung đưa cái quai túi xách bằng dây xích mạ vàng nặng nề. “Bố phải bắt đầu cân nhắc đến một viện dưỡng lão, bố à. “Nhà dưỡng lão” mới đúng - ngày nay chúng được gọi như vậy. Tiền không thành vấn đề. Đương nhiên con sẽ đỡ bố. Nơi này…” Bà gõ gõ móng tay sơn màu hồng vào tờ rơi giới thiệu về Đồi Dương. “… Được cho là rất tuyệt vời. Bố hãy suy nghĩ về chuyện này nhé! Bố hãy nghĩ xem bố muốn đến nơi nào.”
Góc Cáo, ông nghĩ. Đó là nơi bố muốn đến.
Teddy không chống lại ước muốn chuyển nhà đột ngột của Nancy, và khi đọc được tin tuyển dụng thích hợp trên tờ Yorkshire Evening Press, anh đã nộp đơn, và họ chuyển tới York vài tuần sau đó. (Nhanh như chớp vậy.) Nancy dễ dàng xin được chân giáo viên Toán bán thời gian ở trường Mount, một trường Quaker, và trở lại với công việc đầy nhẹ nhàng là dạy bảo những cô bé thông minh, ngoan ngoãn. Viola cũng đi học ở ngôi trường cấp hai này. Nancy nói cô thích Hiệp hội Giáo hữu, đó là hội gần gũi với Thiên Chúa giáo nhất mà những người theo thuyết bất khả tri có thể tham gia được.
Teddy biết York từ hồi chiến tranh. Hồi đó, nó là một mê cung bí ẩn bao gồm những đường phố âm u, chật hẹp. Đó là nơi để đi uống rượu và nhảy nhót, chè chén ở quán rượu Betty’s hoặc dìu dắt các cô gái lướt đi quanh những phòng khiêu vũ ở De Grey, là nơi diễn ra những nụ hôn lóng ngóng với các cô gái nhiệt tình trong cảnh tối tăm khi toàn thành phố phải tuân thủ lệnh tắt đèn tạm thời. Dưới ánh sáng