← Quay lại trang sách

Chương 12 1960-Những hành động tử tế và yêu thương không được ai nhớ đến

Nó khởi phát bằng một cơn đau đầu khủng khiếp vào giữa buổi dạy. Chuyện này xảy ra trước khi họ chuyển tới York và Nancy vẫn đang dạy học tại ngôi trường cấp hai hạng xoàng ở Leeds. Một ngày thứ Hai ảm đạm trong tiết đông rét buốt với những cơn gió lạnh căm căm và chút ánh sáng mặt trời ít ỏi quý giá. “Do thời tiết ấy mà.” Nancy nói khi Teddy nhận xét rằng trông cô hơi “xanh xao” lúc họ đang ăn sáng.

Vào giờ ăn trưa, cô tới phòng y tế và y tá trường học đã cho cô vài viên aspirin, nhưng chúng chẳng có tác dụng gì. Cô phải bỏ tiết đầu tiên của buổi chiều để nghỉ ngơi trong phòng y tế. “Có vẻ là chứng đau nửa đầu.” Cô y tá trường học nói chắc nịch. “Chị hãy nằm nghỉ ngơi trong bóng tối.” Thế là cô bèn nghe lời cô ta, nằm yên trên chiếc giường xếp nhỏ bé cứng ngắc của phòng y tế, đắp cái chăn màu đỏ lặm nhặm, thường thì chỉ có những cô nữ sinh bị đau bụng khi đến kỳ là vào nằm ở đây. Khoảng nửa tiếng sau, cô cố gắng ngồi dậy, nôn ra khắp chiếc chăn màu đỏ. “Ôi Chúa ơi, tôi hết sức xin lỗi.” Cô nói với cô y tá.

“Nhất định là chứng đau nửa đầu rồi.” Cô y tá nói. Cô ta giống như một bà mẹ vậy. Và sau khi lau dọn xong, cô ta vỗ vỗ vào tay Nancy rồi nói: “Chị sẽ sớm khỏe thôi.”

Sau khi nôn xong, cô quả thực cảm thấy khá hơn một chút và có thể lái xe về Ayswick - một cách khá thận trọng - trước khi tan trường, mặc dù đầu cô vẫn ong ong như thể có một đàn ong đang bay vè vè trong đó.

Khi Nancy về đến nhà, Viola đang ở cùng bà Ellen Crowther. Bà Crowther là một phụ nữ sống ở gần đây, được họ thuê để đi đón Viola từ ngôi trường tiểu học trong làng và ở cùng con bé cho đến khi cô hoặc Teddy đi làm về. Con cái của bà Crowther đã lớn cả và đi làm xa nhưng bà vẫn còn một ông chồng - một thợ làm công cho các nông trại - và một ông bố chồng già lụ khụ (“ông cụ”), cả hai người họ đều có vẻ khó chiều hơn bất cứ đứa trẻ nào, kể cả Viola. Bà là một phụ nữ có vẻ ngoài không khác gì phù thủy, với mái tóc đen mỏng dính được búi lên sau gáy, và khuôn mặt méo xệch vì một chứng tê liệt nào đó từ thuở ấu thơ. Bất chấp những đặc điểm ấy, bà có vẻ khá nhạt nhẽo, có lẽ tính cách của bà đã bị bào mòn bởi những năm tháng phục vụ và phục tùng chồng cùng bố chồng. “Con có thích bà Crowther không?” Nancy từng hỏi Viola, và Viola đã nhìn cô với ánh mắt ngơ ngác rồi nói: “Bà nào cơ ạ?”

Thường thì lúc Nancy về đến nhà, bà Crowther đã sẵn sàng ra về, bà đã quấn khăn trùm đầu và mặc chiếc áo khoác bằng vải gabardine màu nâu có đai lưng, rồi lao ra khỏi cửa như một con chó săn thỏ nhảy ra khỏi một cái bẫy trước cả khi Nancy kịp nói “Chào bà”. Chồng bà (và có lẽ cả ông cụ nữa) dường như là một người rất khắt khe về giờ giấc, đặc biệt là giờ uống trà. “Tôi sẽ bị mắng nếu về muộn.” Bà Crowther thường giải thích như vậy khi bà lao đi.

Nancy về nhà sớm hơn thường lệ, những con ong vẫn đang cần mẫn vo ve trong đầu cô, hẳn là cô đã bước vào nhà rất khẽ khàng, bởi vì cả Viola lẫn bà Crowther đều không nhận ra là cô đã về. Ngay cả con chó Bobby cũng chẳng nhảy ra đón cô. Viola đang ngồi đọc cuốn Bunty ở cái bàn rộng thênh thang của ngôi nhà trại, một tay cầm chiếc bánh sandwich kẹp giăm bông, tay kia quấn một lọn tóc - một thói quen khó ưa mà họ chưa thể bắt cô bé bỏ được. Bà Crowther đang viết gì đó trên mặt sau của một chiếc phong bì, có vẻ là danh sách những món đồ cần mua, bằng cây bút chì thợ mộc múp míp, tay kia cầm một tách trà. Nancy cảm thấy xúc động lạ kỳ bởi cảnh sinh hoạt gia đình này. Có lẽ là vì sự bình dị an yên của nó - chiếc giỏ ủ ấm trà bằng len, hành động khuấy đường trong tách trà mà không rời mắt khỏi danh sách những món đồ cần mua của bà Crowther. Cái nhíu mày tập trung trên mặt Viola khi cô bé vừa mải miết ăn bánh, vừa chìm đắm trong cuộc phiêu lưu tuần này của “Bốn cô nàng Mary”.

Trong một thoáng, khi Nancy đứng ở ngưỡng cửa mà không ai nhìn thấy, cô chợt có cảm giác tách biệt kỳ lạ. Cô giống như một người vô hình, một người quan sát, đang nhìn vào cái cuộc sống mà cô phần nào bị ngăn cách. Cô đột nhiên cảm thấy cơ thể mình nhẹ bỗng, cứ như cô có thể trôi đi bất cứ lúc nào và không thể trở lại nơi cô thuộc về. Cô bắt đầu hoảng loạn, nhưng vào đúng lúc đó, Viola ngẩng lên khỏi cuốn tạp chí truyện tranh và nhìn thấy cô. “Mẹ!” Cô bé reo lên, khuôn mặt ngời sáng. Nancy bừng tỉnh và băng qua ngưỡng cửa để bước vào gian bếp - chốn an toàn, chiếc bếp Aga cũ tỏa ra hơi ấm chào đón cô, khiến cô cảm thấy dễ chịu.

Bà Crowther nói: “Chúa ơi, cháu đứng đó làm cô sợ phát khiếp. Trong phút chốc, cô cứ tưởng cháu là ma. Mặt cháu trắng bệch như ma vậy.” Bà nói thêm (như thể bà quen thuộc với các linh hồn). “Cháu ổn cả chứ? Đây - ngồi xuống đây nào. Để cô rót cho cháu tách trà.”

“Cháu bị đau đầu lúc đang dạy học.” Nancy nói, ngồi xuống một cái ghế bên bàn ăn. Những con ong vẫn vo ve không ngừng nghỉ trong đầu cô, sau mắt cô. Bà Crowther rót trà, và trước khi Nancy kịp ngăn lại, bà đã múc ba thìa đường vào tách trà rồi khuấy lên.

“Một tách trà ngọt nóng hổi.” Bà Crowther nói. “Chính là thứ mà cháu cần.” Thật là kỳ lạ khi được chăm sóc bởi một người mà bình thường chỉ là một cái bóng nhòe mờ mặc áo garbadine ở tiền sảnh. (Hóa ra, bà Crowther có cả một kho những câu chuyện xã giao.) “Cảm ơn cô.” Nancy nói, vô cùng biết ơn vì tách trà, mặc dù nó bị bỏ quá nhiều đường.

“Mẹ về sớm thế!” Viola nói. Cô bé nghi ngờ bất cứ sự thay đổi thói quen nào và căm ghét tính tự phát. Phải chăng vì cô bé là con một? Hay chỉ đơn giản vì cô bé là một đứa trẻ?

“Ừ, con yêu, hôm nay mẹ về sớm.” Sau khi đã uống cạn tách trà và ăn một cái bánh quy Rich Tea để làm yên dạ dày, theo lời khuyên của bà Crowther (“Rất hiệu quả, đúng không?”), cô liền nói với bà: “Cháu biết đây quả là một sự đòi hỏi quá đáng, nhưng cô có phiền không nếu cháu nhờ cô nán lại cho đến khi chồng cháu về? Cháu nghĩ cháu cần đi nằm nghỉ một lát.”

Hẳn là cô đã ngủ rất say. Khi cô tỉnh dậy, trời đã tối, nhưng cửa phòng ngủ đang mở và đèn hành lang đang bật. Những con ong đã thôi vo ve, chúng đã đi tìm một nữ chúa mới. Chiếc đồng hồ bên giường điếm chín giờ. Đầu cô vẫn còn nặng trình trịch nhưng cô cảm thấy khá hơn rất nhiều.

“Chào em!” Teddy nói khi cô xuống dưới nhà. “Cô Crowther nói với anh là em bị đau đầu. Vì thế anh để yên cho em ngủ.” (Nancy tự hỏi liệu bà Crowther có bị chồng bà và ông cụ “mắng mỏ” không.) “Anh đã trả thêm cho cô ấy ít tiền. Sáng nay anh đã nói trông em xanh xao lắm mà - đó hẳn là lý do. Anh rán một miếng sườn cho em ăn tối nhé?”

Cô không bị đau nửa đầu nữa, chỉ có những cơn đau đầu bình thường thôi, tuy tần suất chúng xuất hiện nhiều hơn nhưng chẳng có lần nào trầm trọng như cái ngày cô phải vào phòng y tế đó. “Tôi đoán công việc của cô khá vất vả.” Bác sĩ nhãn khoa nói khi cô tới phòng khám của ông ta để tìm hiểu xem tại sao thi thoảng mắt trái của cô lại nhìn thấy một dải sáng, một vệt màu vàng lung linh thực sự khá đẹp. “Chứng đau nửa đầu ảnh hưởng đến thị giác.” Ông ta nói, nhòm vào mắt cô. Ông ta ghé sát đến nỗi cô có thể ngửi thấy mùi bạc hà mà ông ta đã dùng để khỏa lấp mùi hành trong bữa trưa của ông ta (nhưng không thành công lắm). “Cô không nhất thiết bị đau đầu khi mắc chứng này, cưng ạ.” Ông ta đã khá già, đáng tuổi cha chú của cô, và đã hành nghề nhiều năm trong cái thị trấn nhỏ này. Ông ta khẳng định chẳng có gì về mắt mà ông ta lại không biết cả.

“Thi thoảng, khi tôi viết trên bảng đen quá nhiều…” Nancy nói. “… Mắt tôi lại bị mờ đi, như tấm kính bị bôi sáp Vaseline vậy, và tôi không thể đọc hay viết được gì cho ra hồn.”

“Nhất định là chứng đau nửa đầu ảnh hưởng đến thị giác.” Ông ta nói.

“Gần đây tôi từng bị đau nửa đầu một lần.” Cô nói. “Và vài cơn đau đầu bình thường, tần suất nhiều hơn hẳn mọi khi.”

“Thế thì đúng rồi.” Ông ta nói.

“Ngày trước mẹ tôi cũng hay bị đau đầu.” Cô nói, nhớ đến cảnh mẹ cô lê bước lên cầu thang để về căn phòng ngủ tối om của bà, bà nở nụ cười buồn bã, cam chịu khi nói với họ: “Mẹ e rằng một trong những cái đầu[188] của mẹ lại dở chứng rồi.” Câu nói đó thường khiến họ cười ngặt nghẽo (họ không cười lúc bà đang đau, họ không phải là những đứa con gái độc ác.) Họ trìu mến gọi bà là “Rắn chín đầu”. “Nhưng là một con rắn chín đầu tốt bụng.” Millie nói. “Một bà mẹ rắn chín đầu xinh đẹp, đáng mến.”

Sau này, Nancy tự hỏi phải chăng cô đã cảm nhận được gì đó, một loại linh cảm thúc đẩy cô lựa chọn buổi tối hôm ấy để đề nghị cả ba người họ “nhổ rễ” khỏi đây và chuyển vào trong thị trấn, nơi họ sẽ có cuộc sống dễ chịu và thuận tiện hơn. Tuy nhiên, khi cô rời khỏi phòng khám nhãn khoa với chỉ định của bác sĩ là phải mua một chiếc kính, (“Chỉ là cô đã đến tuổi phải đeo kính thôi, cưng ạ, không phải lo lắng gì cả đâu”), ý nghĩ lớn nhất trong đầu cô là cô sẽ tự đãi mình một ấm trà và chiếc bánh nướng ăn kèm tại tiệm cà phê ở gần đó trước khi lặn lội về nhà. Hôm ấy trời rất nóng mà Teddy lại lấy ô tô đi rồi. Anh tới một triển lãm nông sản và mang cả Viola theo dù con bé khá miễn cưỡng. Cô mệt mỏi khủng khiếp nhưng cô nghĩ tách trà sẽ giúp cô phấn chấn hơn.

Đúng là trà đã có tác dụng, và khi cô đang giở đống tiền lẻ để boa cho bồi bàn thì chợt nảy ra ý nghĩ rằng sự kiện duy nhất xảy ra với cô - với cô và Teddy (và thậm chí cả Viola, mặc dù chậm chạp hơn) - là họ đang già đi. Ngoại trừ điều đó ra, cuộc sống của họ vẫn y như vậy. Họ đang giậm chân tại chỗ, ì ạch bước theo lối mòn. Tại sao họ không làm gì đó khác biệt, thay đổi bản thân một chút chứ?

“Ì ạch?” Teddy nói, trên mặt thoáng hiện vẻ khó chịu. Họ đang ở trên giường - uống ca cao và đọc sách mượn ở thư viện, và những việc đại loại thế - Nancy cho rằng đây là một định nghĩa tuyệt vời cho từ “ì ạch”. Cô nhớ Sylvie từng nói: “Hôn nhân mài mòn người ta.”

“Em không có ý xúc phạm.” Cô nói, nhưng Teddy có vẻ không tin.

Một ngày cuối tuần, sau khi họ chuyển tới York không lâu, Nancy đang lấy món thịt nướng ngày Chủ nhật ra khỏi lò thì cánh tay trái của cô đột nhiên bại đi, khiến khay thịt nướng rơi thẳng xuống sàn. Chắc là Teddy đã nghe thấy tiếng loảng xoảng, bởi vì anh chạy vội vào bếp và nói: “Em ổn cả chứ?”

“Vâng, vâng, em vẫn ổn.” Cô nói, hoảng hốt nhìn thịt cừu và khoai tây lăn lóc vương vãi trên sàn, chưa kể mỡ nóng văng tung tóe. “Em không bị bỏng chứ?” Teddy lo lắng hỏi. Cô trấn an anh rằng cô không bị bỏng. “Em đúng là kẻ vụng về nhỉ!”

“Để anh đi lấy giẻ lau.”

“Em cho rằng em đã quen với cái bếp Aga ở ngôi nhà cũ, và em chỉ… em cũng không biết nữa… nhầm lẫn gì đó. Ôi, món thịt cừu tội nghiệp!” Cô buồn bã nói thêm, như thể miếng đùi cừu ấy là một người bạn thân thiết. “Anh nghĩ chúng ta còn ăn được nó không? Cứ thế nhặt nó lên và giả vờ như chưa từng có chuyện gì xảy ra?” Miếng đùi cừu dường như đã bị bám một lớp bụi đất từ cái sàn bếp mà Nancy ngỡ là sạch sẽ. Cô thầm nhiếc móc mình vì đã để nhà cửa nhếch nhác. “Chúng ta rửa nó bằng nước nóng được không nhỉ? Nếu đang là chiến tranh thì chúng ta sẽ không bỏ nó đi một cách lãng phí như vậy. Chúng ta vẫn còn cà rốt đấy.” Cô nói thêm với vẻ mong đợi. “Và nước xốt bạc hà.”

Teddy cười nói: “Anh nghĩ anh nên đun nóng một hộp đậu và tráng ít trứng. Anh không thể nhìn Viola ăn cà rốt trong bữa trưa Chủ nhật được.”

Còn có những triệu chứng nho nhỏ khác: cánh tay trái yếu ớt ấy trở nên tê bì và ngứa ran, thêm nhiều cơn đau đầu bình thường, và một cơn đau nửa đầu khủng khiếp khởi phát từ tối thứ Sáu đến tận sáng thứ Hai mới dứt. Điều đó thúc đẩy cô tới phòng khám đa khoa, hy vọng được kê một đơn thuốc giảm đau mạnh. Sau vài phương pháp kiểm tra khá kỳ quặc - cô phải đi bộ theo một đường thẳng, xoay đầu về các hướng khác nhau, như để kiểm tra xem cô có bị say xỉn không - bác sĩ nói anh ta muốn chuyển cô lên bệnh viện tuyến trên. Anh ta còn trẻ nên không muốn mắc sai lầm. “Chị không phải lo lắng đâu.” Anh ta nói. “Có thể đây đúng là chứng đau nửa đầu.” Có vẻ cũng không cần phải vội, và đến lúc tấm giấy hẹn đến khám ở bác sĩ chuyên khoa xuất hiện ở hòm thư nhà mình, Nancy nghĩ hẳn là bệnh viện đã quên khuấy cô. Cô không kể với Teddy về chuyện này. Chẳng ích gì khi làm anh lo lắng. (Anh là kẻ hay lo nghĩ, còn Nancy thì không.) Cô cho rằng kết quả sẽ không rõ ràng và cô sẽ giống như mẹ cô, phải sống chung với những cơn đau đầu kinh niên. Cô nghĩ cô sẽ không thể kiên nhẫn chịu đựng được như mẹ cô.

Đến ngày Nancy phải tới bệnh viện khám theo giấy hẹn, thời tiết đúng chuẩn mùa xuân. Khi rời khỏi trường vào giờ giải lao (“Tôi sẽ về vào giờ ăn trưa”), cô quyết định đi bộ tới bệnh viện. Như thế cô có thể đi một đoạn trên Bar Walls - dãy tường bao của thành phố - và thưởng ngoạn những bông thủy tiên hoa vàng vừa nở, đang “phô trương sắc vàng rực rỡ” - cô nhớ đã đọc được cụm từ này trong một bài báo cũ của Agrestis. Vài năm trước, Teddy từng “mê mẩn” những bông thủy tiên hoa vàng dại mà anh tình cờ gặp trong một chuyến đi dạo trong rừng.

Cho đến nay Teddy vẫn duy trì chuyên mục Tản mạn về thiên nhiên. Anh tự tranh cãi (với chính mình) rằng đó chỉ là một bài báo ngắn đăng mỗi tháng một lần, và anh có thể dễ dàng lái xe về vùng đồng quê - cả nhà họ có thể cùng đi với nhau, mang theo đồ ăn dã ngoại và một chiếc ống nhòm. “Anh biết tình cảnh bây giờ sẽ không thuận lợi cho công việc này như lúc sống ở giữa nơi đó - “giữa nơi đồng không mông quạnh”.” Anh nhấn mạnh. “Nhưng anh buộc phải tiếp tục. Cho đến khi tờ Recorder tìm được ai đó thay thế anh.” Một năm sau, họ cũng tìm được người thay thế - đó là một người phụ nữ, mặc dù cây bút Agrestis mới này không bao giờ thú nhận về sự thay đổi giới tính ấy. Nhưng lúc bấy giờ chuyện này không còn quan trọng với Teddy nữa, nếu có thì cũng rất ít, và anh bỏ Agrestis lại đằng sau mà không một lần nhìn lại.

Những bông thủy tiên hoa vàng mọc trên các triền cỏ dốc bên dưới Bar Walls thực sự đáng yêu. Không hiểu sao trong mảnh vườn ở ngôi nhà mới của họ chẳng có bông thủy tiên hoa vàng nào (những tưởng ai cũng trồng thủy tiên hoa vàng chứ nhỉ?), và Nancy quyết định rằng cô phải bàn với Teddy về việc trồng chúng. Thật là nhiều (cả một đám[189]) trong một luống hoa lớn kiểu Wordsworth. Anh sẽ thích lắm. Cô đã rất ngạc nhiên khi anh say mê vườn tược, chăm chú nghiên cứu các cuốn ca ta lô về hạt giống và thảo ra các kế hoạch. Nancy để mặc anh làm những gì anh thích, nhưng anh vẫn hỏi ý kiến cô - “Em nghĩ sao về hoa lay ơn?” “Chúng ta tạo ra một cái ao nhỏ được không nhỉ?” “Đậu Hà Lan hay đậu đỗ hay cả hai?”

Khi cô xuống khỏi dãy tường bao ở cổng Monkgate Bar, và đang đợi chỗ đèn giao thông để chuẩn bị băng qua đường, đột nhiên mắt trái của cô như bị một tấm màn đen kịt phủ xuống che kín. Nó giống một bức mành mành[190] hơn là một tấm rèm - trước kia cô chưa từng thắc mắc về nguồn gốc của từ này. Bản thân cô đang tắt điện tạm thời. Cô cảm nhận được tai họa. “Đột nhiên bị mù” - giống như trong Kinh thánh[191], mặc dù cổng Monkgate không phải là con đường dẫn tới Damascus.

Cô tìm được một băng ghế ở gần đó và lặng lẽ ngồi đợi xem chuyện gì xảy ra tiếp theo. Một mặc khải từ Chúa ư? Có vẻ không có khả năng ấy. Nếu cô bị mù hoàn toàn, cô sẽ gọi người giúp đỡ, nhưng vì chỉ bị mất thị lực ở một bên mắt, cô cảm thấy không nhất thiết phải phiền đến những người hoàn toàn xa lạ. (“Em kỳ cục quá!” Millie nói khi Nancy kể với cô ấy về chuyện này. “Nếu là chị thì chị sẽ gào thét thất thanh lên cho xem.” Nhưng Nancy không phải là Millie.) Sau khoảng mười phút ngồi im lặng trên ghế, bức mành mành đen kịt được nhấc lên - nhanh và bí ẩn như lúc nó hạ xuống - và thị lực trở lại trong mắt cô.

“Các dây thần kinh bị rối loạn hoặc đại loại thế.” Cô nói với bác sĩ tham vấn khi cuối cùng cũng tới được bệnh viện. “Tôi cho rằng thật là may vì lúc đó tôi không lái ô tô hay đạp xe đạp.” Cảm giác nhẹ nhõm khiến cô trở nên nói nhiều, cơn khủng hoảng đã qua, tai họa giống như trong Kinh thánh đã bị đẩy lui. “Chà!” Bác sĩ tham vấn nói. “Vậy chúng ta sẽ tiến hành kiểm tra cô một cách kĩ lưỡng nhé?” Ông ta không non trẻ, không dịu dàng, không trịch thượng và chẳng nói gì mấy về chứng đau nửa đầu.

Thế rồi mọi chuyện diễn ra nhanh chóng như một chuyến tàu suốt sẽ không dừng lại ở các ga xép dọc đường. Họ yêu cầu cô làm thêm các xét nghiệm và chụp X quang. Họ đều mập mờ với cô, nói rằng họ không chắc chắn về những gì đang thấy. Họ hỏi rằng có phải cô đã kết hôn không? Tại sao cô không đi cùng chồng trong lần hẹn khám kế tiếp nhỉ? “Chị sẽ không đi cùng Teddy nếu họ không đưa ra chẩn đoán.” Cô nói với Bea trên điện thoại. “Họ đang giấu giếm chị mà chẳng có lý do gì chính đáng cả.” Cô biết chuyện gì xảy ra với những ca bệnh xấu. Họ nói chuyện với vợ hoặc chồng, anh chị em, thậm chí là bạn bè của bệnh nhân, bất cứ ai ngoại trừ chính bản thân người bệnh, với cái cớ là để người bệnh có thể “tiếp tục sống một cuộc sống bình thường”. Hồi ở Bletchley Park[192], cô từng quen một nữ quân nhân WREN[193] tên là Barbara Thoms, một mẫu người thực tế, là một trong những cái “vấu” của “bánh răng”. Nhiều “bánh răng”. Nancy từng là một “bánh răng” lớn, một chuyên gia giải mã, một thành viên chính thức trong tổ chức. Thường thì cô sẽ chẳng dính dáng gì đến một “vấu răng” cấp thấp, nhưng cả hai người họ đều từng là vận động viên bóng lưới[194] của quận hạt, và họ đã cố gắng lập một đội bóng lưới ở Bletchley nhưng không thành. (Nancy từng là một vận động viên điền kinh dự bị ở trường Cambridge.) Vào cuối cuộc chiến, Nancy đã có bàn làm việc riêng, giữ chức đội phó. Cô đã quen biết tất cả những người có tiếng trong giới - Turing, Tony Kendrick, Peter Twinn. Cô đã yêu cái thế giới đó: khép kín, bí mật, độc lập, nhưng cô vẫn luôn hiểu rằng nó chỉ là tạm thời, cuộc sống sẽ bình thường trở lại. Phải bình thường trở lại.

Barbara tội nghiệp bị mắc bệnh ung thư, “tiến triển rất nhanh, vô phương cứu chữa”. Một căn bệnh ung thư của phụ nữ, vì nó quá tế nhị nên mẹ cô ấy không nói cụ thể. Bà Thoms đã kể chuyện này với một người bạn đồng nghiệp của Barbara, và chẳng bao lâu sau, tất cả các cô gái trong đội của Barbara đều biết chuyện. Tất cả mọi người đều biết, ngoại trừ chính bản thân Barbara. Bà Thoms đã bắt họ thề giữ bí mật, bởi vì các bác sĩ của cô ấy đã khuyên như vậy, “để không phủ bóng đen lên những tháng ngày còn lại trong cuộc đời con bé”, bà giải thích với họ. Cô gái tội nghiệp vẫn làm việc cho đến khi không thể tiếp tục được nữa, rồi về nhà và chết mà vẫn chẳng hay biết gì về bệnh tình của mình, vẫn mong đợi được cứu chữa.

Nancy đã gần như quên bẵng Barbara khi bà Thoms viết thư thông báo rằng cô ấy đã chết và được an táng. “Một đám tang lặng lẽ. Con bé chẳng bao giờ biết có chuyện gì không ổn, điều đó khiến nó thanh thản.” Hừ! Nancy nghĩ. Nếu cô mắc phải một căn bệnh chết người khủng khiếp nào đó, cô không muốn bị giấu giếm, cô muốn biết. Thậm chí cô sẽ làm ngược lại - cô sẽ là người biết còn những người thân thiết và gần gũi với cô thì không. Tại sao Teddy và Viola phải sống dưới “bóng đen” đó chứ?

“Chị cần đến một phòng khám trên phố Harley.” Bea nói với cô. “Em vẫn còn vài mối quan hệ trong giới y khoa.” Sau chiến tranh, Bea đã kết hôn với một bác sĩ phẫu thuật, nhưng cuộc hôn nhân ấy không kéo dài lâu (“Em nghĩ em không hợp với hôn nhân.”). “Em sẽ tìm hiểu xem ai là người giỏi nhất trong lĩnh vực này, em sẽ tìm được một người không làm cho chị hoang mang. Nhưng chị nên nói cho anh Teddy biết, chị Nancy ạ.”

“Chị sẽ nói, chị hứa đấy.”

Cô đã suýt chết khi sinh Viola và cảm thấy mình phần nào “miễn nhiễm” với mọi tai họa. Có lẽ đó là lý do khiến cô lâu như vậy mới truy ra được căn bệnh này. Trong khi đó, suốt thời gian ấy, nó vẫn bám đuổi cô. Nó chui vào trong đầu óc cô. Giá mà nó chỉ xâm chiếm một bầu ngực, một cánh tay, một con mắt. Kể cả khi nó khiến cô chết sớm, nhưng ít nhất cô vẫn có thể giữ được tâm trí tỉnh táo cho đến phút chót. Thi thoảng, khi cô thấy mình bị sa lầy trong những bổn phận song song của hôn nhân và tình mẫu tử, cô lại nghĩ đến việc tình yêu đã hủy hoại cuộc đời cô như thế nào. Viola ngay từ khi chào đời đã luôn cáu kỉnh, giận dữ. Còn Teddy ngoài mặt lúc nào cũng tỏ ra vui vẻ, nhưng đó chỉ là để che giấu sự rầu rĩ, ủ ê ở trong lòng.

Khi họ mới chuyển đến ngôi nhà này, mảnh vườn ở trước nhà được tô điểm bởi một cây tử đinh hương xinh xắn, nhưng Teddy đã chặt nó đi khi những bông hoa thơm ngát nở rộ vào tháng Tư đầu tiên. “Tại sao?” Cô hỏi rồi nhìn thấy biểu cảm trong mắt anh, và nhận ra đó là một thứ liên quan đến chiến tranh - một vết đen lớn trong cuộc đời - và anh chắc chắn sẽ không giải thích với cô. Cuộc chiến của Teddy là bí ẩn duy nhất mà cô không bao giờ giải được. Nhưng bây giờ là năm 1960 rồi, vì Chúa, thi thoảng cô lại nghĩ như vậy khi mất kiên nhẫn. Cô mệt mỏi quá! Dường như cô dành quá nhiều thời gian để khuyến khích và động viên người khác - Teddy, Viola, các học sinh của cô. Cứ như cô vẫn là đội trưởng của đội bóng lưới vậy.

Teddy không phải là người duy nhất phải hy sinh những năm tháng quý báu của cuộc đời mình. Cô đã đứng thứ nhất trong hai kỳ thi sát hạch môn Toán ở Newnham và tốt nghiệp hạng ưu vào năm 1936, được trao giải thưởng Philippa Fawcett, và rồi bị hốt đi, được tuyển vào trường Mật mã Chính phủ vào mùa xuân năm 1940. Cô đã từ bỏ một sự nghiệp xán lạn vì chiến tranh, rồi lại từ bỏ một lần nữa vì Teddy và Viola.

“Em sẽ xuống Lyme để giúp Gertie chuyển nhà.”

“Được thôi. Em thật tốt bụng.” Teddy nói.

“Chỉ là đóng gói những món đồ nhẹ nhàng thôi mà, chẳng hạn như đồ sứ và đồ trang trí, đại loại vậy. Mất chừng hai ngày. Em nghĩ sẽ thật tuyệt nếu dành ít thời gian với chị ấy, chỉ hai bọn em thôi.”

Sau ngày về nhà, cô nhận được một tấm thiệp từ Gertie, ở mặt trước của nó có hình những bông viola được vẽ bằng màu nước - “Đây là loài hoa yêu thích của mẹ chúng ta, đương nhiên là em cũng biết rồi.” Không, cô đã quên mất điều này, tuy nhiên cô đã đặt tên cho con gái mình là Viola. Đó là vì Shakespeare chứ không phải vì mẹ cô. Sao một cô con gái có thể quên một điều như thế chứ? Hay đúng hơn là không chủ định nhớ. Sau này, con gái cô sẽ quên những gì? Nancy chợt thấy rầu rĩ. Cô ước gì mẹ cô vẫn còn trên cõi đời này. Hẳn là Viola cũng sẽ có cảm giác như vậy khi không có mẹ. Cảm giác ấy thật quá sức chịu đựng. Những giọt nước mắt đau đớn, nóng hổi dâng lên trong mắt cô. Cô gạt chúng đi và tự nhủ phải cố gắng xốc lại tinh thần.

Cô tiếp tục đọc tấm thiệp của Gertie - “Chị nghĩ chị nên viết cho em vài dòng…” Cô ấy viết. “… Teddy đã gọi điện tìm em trong lúc em “ở đây”, chị hy vọng chị đã giấu giếm được, chị đã tỏ ra giống như một kẻ hoàn toàn ngớ ngẩn vậy. Em thân yêu, em có chắc là em không nên nói với cậu ấy chuyện gì đang xảy ra không? (Không phải là chị đang can thiệp vào chuyện của em đâu, chị chỉ nói vậy thôi.) Yêu em nhiều, G. Tái bút: Em đã quyết định về chuyện cái tủ búp phê chưa?”

“Em nên nói với cậu ấy.” Millie nói. “Em thực sự nên nói với cậu ấy. Chị đã che đậy cho em rất khéo, chị đã nói với cậu ấy là chị vừa mới tiễn em lên tàu, đại loại vậy, và chúng ta đã có một khoảng thời gian tuyệt vời ở vùng Hồ, nhưng rồi bằng cách này hay cách khác, Teddy cũng sẽ phát hiện ra thôi.”

Nancy đã tìm đến sự giúp đỡ của các chị em gái thay vì chồng mình, bối rối tâm sự với khi thì người này, lúc lại người nọ. Cô có thể đặt gánh nặng lên các chị nhưng không thể đặt gánh nặng lên Teddy. Anh không ngây ngô, có lẽ anh đã nghi ngờ điều gì, nhưng cô sẽ không nói với anh cho đến khi mọi chuyện đã rõ ràng. Tự đáy lòng, cô sẽ luôn là một nhà toán học, cô tin vào sự tuyệt đối. Và nếu điều xấu nhất xảy ra, anh càng ít phải chịu đựng nó bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu.

“Em phải nói với cậu ấy, Nancy.”

“Em sẽ nói, Millie, đương nhiên em sẽ nói.”

Nancy có thể không đến Dorset hay vùng Hồ, nhưng cô chắc chắn đã ở London cùng với Bea. Đúng là cô đã không tham gia một hội chợ hay triển lãm, cô đã ngồi trên chiếc sofa trong căn hộ một phòng theo phong cách Bohemian của em gái ở Chelsea, nhấm nháp một ly whisky. Ursula đang ngồi cạnh Nancy. Cô đã mang chai rượu ấy đến. “Chị nghĩ chúng ta sẽ cần thứ gì đó mạnh hơn trà.” Cô nói.

“Em lúc nào cũng có rượu gin.” Bea nói. Cô ấy đã ly dị người chồng là bác sĩ phẫu thuật được một thời gian. Cô ấy làm việc ở đài BBC và nói rằng mình hài lòng với cuộc sống độc thân.

Millie tới, phờ phạc và hổn hển vì chạy xồng xộc lên cầu thang. “Chị bị lạc.” Cô nói. “Chị xin lỗi.”

“Chị uống whisky hay gin?” Bea hỏi. “Hay trà?”

“Cả ba đều hấp dẫn nhưng làm ơn cho chị rượu gin. Một cốc thật mạnh.” Cô liếc nhìn Nancy nhưng tiếp tục nói với Bea. “Chị cần rượu mạnh, không phải sao? Chuyện này thật tồi tệ, đúng không?”

“Rất tồi tệ.” Bea nói, giọng hơi lạc đi.

“Hoàn toàn tồi tệ?” Millie nói nhanh và rành rọt từng tiếng nghe đến là buồn cười, như thể cô đang cố gắng kìm nén cảm xúc hoặc tưởng tượng mình là nhân vật trong một vở kịch hay một bộ phim, một người đang tỏ ra cứng cỏi - Celia Johnson trong bộ phim Cuộc gặp gỡ thoáng qua hiện lên trong tâm trí cô. Tiếng gọi của bổn phận, nguyên tắc đạo đức đòi hỏi phải làm điều đúng đắn. Nancy ngưỡng mộ nó, nhưng bây giờ có thứ gì đó trong cô đang nổi dậy chống đối. Hãy chạy trốn, cô nghĩ, quên hết bổn phận đi. Cô hình dung mình đang lao như bay xuống cái cầu thang dốc và hẹp của Bea, vọt ra ngoài đường, men dọc theo bờ sông, cứ thế mải miết chạy cho đến khi bỏ xa thứ đáng sợ đang bám gót cô.

Một tia lấp lánh trong mắt và bàn tay có chút run rẩy khi Millie nhận lấy cốc rượu gin khẳng định với Nancy rằng chị gái cô không diễn kịch.

“Em ở đây này.” Nancy nói với Millie. “Chị có thể hỏi em.”

“Chị không nghĩ là chị muốn hỏi em.” Millie nói. “Chị không nghĩ là chị muốn biết.” Tia lấp lánh trong mắt cô biến thành giọt nước mắt lăn xuống gò má, và Bea nhẹ nhàng ấn cô ngồi xuống một cái ghế rồi ngồi xuống tấm thảm dưới chân cô.

“Chà, đó là sự thật.” Nancy điềm tĩnh nói. “Nó đã được xác nhận và em e là nó hoàn toàn tồi tệ, như cách chị nói. Em rất tiếc phải nói rằng em đã rơi vào trường hợp xấu nhất có thể xảy ra.”

Millie bật khóc nức nở và đưa tay lên bịt miệng cứ như cô có thể ngăn âm thanh ấy thoát ra, nhưng đã quá muộn. Bea nắm lấy bàn tay còn lại của cô và họ ôm chầm lấy nhau. Trông họ như đang đối mặt với tai họa đắm tàu vậy. “Chẳng thể làm gì được ư?” Ursula hỏi. “Chắc hẳn…”

“Vâng.” Nancy nói, ngắt lời cô. Tất cả bọn họ đều muốn có hy vọng, muốn nhìn thấy các khả năng, nhưng cô đã đi quá giới hạn của các khả năng rồi. “Bác sĩ nói nếu nó được phát hiện ở giai đoạn sớm hơn thì có thể làm được gì đó. Và ông ta sẽ không phẫu thuật.” Cô nói, giơ tay lên để ngăn Bea lại khi Bea định mở miệng phản đối. “Họ không thể phẫu thuật vì vị trí của nó, và bây giờ nó đã rối vào với các mạch máu.” - “Ôi Chúa ơi!” Millie nói. Trông mặt cô xanh lét, cô luôn là người dễ xúc động nhất trong số tất cả bọn họ - “Vì thế, nó đã trở nên vô phương cứu chữa. Kết quả tốt nhất mà một cuộc phẫu thuật mang lại sẽ là kết thúc cuộc đời em.”

“Nếu cái chết là kết quả tốt nhất thì kết quả xấu nhất là gì?” Ursula hỏi. Millie thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc trước từ “chết”, như thể đó là một từ báng bổ.

“Em có thể trở thành tàn phế, cả về trí tuệ lẫn thể xác…”

“Có thể thôi ư?” Bea nói, như một người đắm tàu vẫn đang bám lấy hy vọng giữa cảnh mưa dập gió vùi.

“Gần như chắc chắn.” Nancy nói. “Kết quả đó cũng sẽ là kết thúc của cuộc đời chị, theo một cách khác. Mà cho dù có phẫu thuật thành công đi nữa thì cũng chẳng để làm gì, vì vị trí của nó khiến họ không thể triệt tận gốc.” Millie trông như sắp nôn mửa. “Nó sẽ tiếp tục phát triển. Thực sự thì…” Nancy nói, có lẽ giọng cô không hòa nhã như cô muốn. “… Sẽ tốt hơn cho em nếu mọi người chấp nhận chuyện này.”

Trong thâm tâm, cô đã đoán rằng chuyện này sẽ xảy ra, ngay từ lần đầu tiên cô đến khám ở phố Harley, khi Teddy tưởng rằng cô đang giúp Gertie chuyển nhà. Bác sĩ Morton-Fraser, vị bác sĩ tham vấn mà Bea đã tìm cho cô, là một người Scotland sáng suốt. “Rất nhiều người giới thiệu ông ấy.” Bea đã nói. “Ông ấy có tiếng là cực kì cẩn thận. Không hòn đá nào là không lật lên, đại loại thế.” Có lẽ khi đó cô cũng có chút hy vọng, nhưng hy vọng ấy trở nên mong manh hơn khi cô trở lại vào tháng sau (khi cô nói cô đi thăm ngôi nhà tranh của Wordsworth và những thứ tương tự), ông ta đã cho cô xem tấm phim X quang, và cô có thể thấy khối u đã to lên nhanh cỡ nào chỉ trong một thời gian ngắn. “Nếu cô đến khám ở chỗ tôi từ một năm trước thì có lẽ…” Ông ta nói. “… Nhưng kể cả khi đó cũng chẳng ai dám chắc…” Rất nhanh, vô phương cứu chữa - lời chẩn đoán dành cho Barbara Thom tội nghiệp.

“Chị không chịu được đâu.” Millie lẩm bẩm khi Bea đi loanh quanh, rót rượu cho mọi người. Nancy chợt thấy căm phẫn. Cô mới là người phải chịu đựng căn bệnh chứ không phải họ.

Cô muốn họ để cô yên, cô muốn thu mình vào thế giới tĩnh mịch của riêng cô và suy ngẫm về cái chết. Cái chết. Phải, cô cũng có thể nghĩ đến cái từ thẳng thừng, đáng ghê tởm đó. Nhưng thay vì thế, cô phải tỏ ra ân cần, mạnh mẽ, nói rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn (dù rõ ràng nó không hề ổn chút nào), rằng cô đã “bình thản chấp nhận nó”.

“Sẽ ổn cả thôi.” Cô nói với Millie. “Em ổn cả mà. Em đã chấp nhận nó và bây giờ các chị cũng phải chấp nhận.”

“Còn Teddy thì sao?” Ursula nói, giọng khàn khàn. “Sáng nay nó đã gọi điện cho chị, Nancy ạ. Nó nghi ngờ em ngoại tình, vì Chúa. Em phải giải thoát nó khỏi nỗi khốn khổ ấy.”

Nancy cười cay đắng và nói: “Và đẩy anh ấy vào một nỗi khốn khổ còn tồi tệ hơn ư?”

“Hãy nói với nó càng sớm càng tốt, thật không công bằng khi giấu giếm nó lâu đến vậy.” (Ursula lúc nào cũng là người bênh vực và bảo vệ Teddy nhất, Nancy giận dữ nghĩ.) “Mặc dù chị cho rằng với Viola thì không nên…”

Ôi, Chúa ơi. Viola, Nancy nghĩ. Cô thầm run lên vì tuyệt vọng.

“Không, không được nói với Viola.” Bea vội nói. “Nó còn quá nhỏ nên sẽ không thể hiểu được.”

“Bọn chị sẽ ở bên con bé.” Millie rối bời nói. “Bọn chị sẽ chăm sóc nó…”

“Nhưng trước hết em phải nói với Teddy.” Ursula khăng khăng. “Bây giờ em phải về nhà và nói với nó.”

“Vâng.” Nancy thở dài. “Vâng, em sẽ nói.”

Tất cả bọn họ hộ tống cô đến ga King’s Cross và tiễn cô lên tàu. Bea hôn cô rất nhẹ nhàng, như thể cô đã đột nhiên biến thành một tấm kính vô cùng mỏng manh và có thể vỡ tan vào bất cứ lúc nào. “Chị phải thật can đảm.” Cô ấy nói. Trái ngược với Bea, Ursula có vẻ không sợ sẽ làm Nancy vỡ tan, cô siết chặt Nancy. “Em phải giúp Teddy.” Cô vội vã nói. “Giúp nó đương đầu với chuyện này.” Ôi Chúa ơi, Nancy mệt mỏi nghĩ, chẳng ai trong bọn họ cho phép cô yếu ớt và ích kỷ một chút sao?

Họ đứng vẫy tay trên sân ga khi con tàu chuyển bánh, ai nấy đều nước mắt lưng tròng, Millie thì khóc như mưa. Cứ như là mình đang ra trận ấy, Nancy thầm nghĩ. Tuy nhiên, trận chiến ấy đã diễn ra và cô đã thua cuộc rồi.

“Ì ạch?” Cô hỏi.

“Anh biết em đang làm trò gì.” Anh nói. Suốt những năm qua, cô chưa bao giờ thực sự thấy Teddy giận dữ, chắc chắn là cô chưa bao giờ nhìn thấy anh giận dữ như thế này. Đối với cô.

Cô đi vào bếp, bước tới bồn rửa, mở vòi và rót một cốc nước. Cô đã tập dượt khoảnh khắc này lúc đang ở trên tàu (một chuyến đi tồi tệ, cô bị mắc kẹt trong một toa tàu đầy những kẻ phì phèo thuốc lá và sực nức mùi bia, chốc chốc lại liếc ánh mắt dâm đãng về phía cô), nhưng đến lúc phải nói thì mọi lời lẽ đều bay biến đâu mất. Cô uống nước thật chậm rãi để cho mình thêm chút thời gian.

“Anh biết…” Teddy nói, giọng nói chất chứa nỗi oán giận mới mẻ.

Cô quay sang đối mặt với anh và nói: “Không, Teddy. Anh không biết đâu. Anh chẳng biết gì cả.”

Ban đầu, đối với Nancy, khối u có vẻ là một con dã thú, một kẻ xâm lược, từ từ bò tới xâm chiếm những sợi dây thần kinh trong đầu cô, ngốn ngấu cô, nhưng bây giờ, khi nó đã yên vị, khi không còn khả năng nào nữa, nó cũng không còn là kẻ thù của cô. Nó có thể không phải một người bạn (nó còn lâu mới được coi là một người bạn), nhưng nó là một phần của cô. Của cô và chỉ riêng cô mà thôi, và họ sẽ đồng hành cùng nhau để đi đến cái kết cục khủng khiếp.

Cô bỏ việc ngay lập tức. Suy cho cùng, ở lại và để lộ bệnh tình của cô cho những người khác biết thì có ý nghĩa gì chứ? Viola đã quen được Nancy đưa đi đón về nên cô bé rất bực bội khi đột nhiên phải đi một mình. Nancy dạy con cách bắt xe buýt (“Nhưng tại sao con phải làm vậy ạ?”), giải thích với con rằng cô không được khỏe và cần nghỉ dạy một thời gian để sức khỏe cải thiện hơn. Thật tàn nhẫn với Viola khi đẩy cô bé vào cảnh sống tự lập một cách đột ngột, trong khi đáng lẽ nên để cô bé làm quen dần dần với nó, nhưng giờ là lúc phải thực tế chứ không thể ủy mị. Tâm hồn Nancy đã cứng rắn như sắt đá.

Cô mua quần áo to hơn đến hai, ba cỡ cho Viola, lập ra các danh sách và ghi chú - địa chỉ nhà của giáo viên dạy piano cho cô bé, địa chỉ và số điện thoại của bố mẹ bạn bè cô bé, những điều cô bé thích và ghét. Đương nhiên là Teddy biết nhiều sở thích của Viola, nhưng ngay cả anh cũng không thể hình dung được đầy đủ.

Trớ trêu thay, cô cảm thấy rất ổn trong vài tuần đầu tiên sau khi án tử của cô được xác nhận. Đó là cách cô nghĩ về nó, mặc dù đối với những người khác sẽ có những cách nói giảm nói tránh. Cô dọn dẹp gọn gàng các ngăn kéo và tủ bát đĩa, ném đi những món đồ không cần thiết, lọc bớt tủ quần áo của mình. Liệu cô có sống nổi đến mùa đông tới không? Những cái ngăn kéo này có cần nhét đầy áo len, áo gi lê và tất dày? Cô tưởng tượng các chị em của cô sẽ tới đây và phân loại quần áo của cô sau khi cô qua đời, giống như họ đã làm đối với quần áo của mẹ họ sau đám tang. Nếu cô làm việc đó ngay từ bây giờ thì sẽ đỡ cho họ được phần nào. Cô không nhắc đến những việc khủng khiếp này với bất kỳ ai. Nó sẽ khiến họ đau buồn còn hơn cả cô nữa, vì cô cảm thấy hài lòng khi nghĩ rằng cô đang để lại mọi thứ trong tình trạng gọn gàng. Cô hình dung ra Gertie nhìn ngó quanh phòng ngủ của cô sau khi cô qua đời và nói: “Cái cô nàng Nancy này, đến lúc chết vẫn chẳng bỏ được cái tính ngăn nắp.” Đương nhiên, khi thời điểm ấy đến, Gertie không nói mấy lời như vậy, nỗi thương xót đã choán hết tâm hồn cô ấy, khiến cô ấy chẳng thể thốt ra những câu nói tươi tỉnh như thế.

Teddy hoang mang trước sinh lực tràn trề của cô và đánh bạo nghĩ rằng có thể họ đã chẩn đoán nhầm (“Các bệnh án vẫn hay bị lẫn với nhau”). Hoặc có lẽ bệnh tình của cô đang thực sự khá lên. “Đó sẽ là một phép màu, anh Teddy ạ.” Cô nói nhẹ nhàng hết mức có thể. “Bệnh này vốn vô phương cứu chữa.” Niềm hy vọng sẽ là điều tồi tệ nhất đối với anh. Cả với cô nữa. Cô muốn tận hưởng khoảng thời gian chờ đợi này theo đúng bản chất của nó, chứ không muốn coi nó là một thứ mà nó không bao giờ có thể trở thành.

“Nhưng hồi chiến tranh, em từng nghĩ là anh đã chết.” Anh khăng khăng. “Lúc ấy, em đã từ bỏ hy vọng sao?”

“Vâng. Vâng, em đã từ bỏ. Anh biết em đã từ bỏ mà. Và chính anh vừa nói đấy - em đã nghĩ là anh đã chết.”

“Vì thế việc anh trở về chính là một phép màu.” Anh nói, như thể anh đã thắng trong cuộc tranh luận này. Nhưng anh đã trở về từ một trại tù binh chiến tranh POW chứ không phải trở về từ cõi chết. Dạo gần đây anh chẳng có tí logic nào cả, nhưng chuyện đó thì có quan trọng gì chứ? Chẳng mấy chốc anh sẽ ngừng tin vào những phép màu thôi.

Thế rồi tất cả các ngăn kéo đã được dọn dẹp ngăn nắp, tất cả các danh sách đều đã được lập. Khi cô ngừng bận rộn, cô phát hiện ra cô chỉ đơn giản khao khát được ở một mình trong nhà, lấp kín sự tĩnh mịch bằng tiếng đàn piano, thi thoảng là nhạc của Beethoven, nhưng chủ yếu vẫn là nhạc của Chopin. Cô chơi thật tệ, nhưng ngày qua ngày, cô cũng thấy được những tiến bộ nho nhỏ của mình. Cô nói với Teddy: “Ít nhất cũng có vài thứ có thể cứu vãn.” Nhưng anh né tránh những lời đùa cợt tang tóc ấy.

Một buổi chiều, khi cô đang chăm chú với bản Polonaise cung Mi giáng - vô cùng khó - thì Teddy về nhà sớm. Cô nhận thấy gần đây anh càng ngày càng về sớm hơn. Cô có thể cảm thấy anh đang cố gắng nhét cô vào trái tim và tâm trí anh, bởi vì đó là nơi cô sẽ sống sau này. (Không phải sống, chỉ là một ký ức, một ảo ảnh.) Và trong tim các chị em gái của cô nữa. Và một chút trong Viola, rồi một chút nhỏ nhoi ấy sẽ nhạt phai và bị quên lãng. Đây là loài hoa yêu thích của mẹ chúng ta, đương nhiên là em cũng biết rồi. Một hôm, cô vu vơ nói với Viola: “Loài hoa yêu thích của mẹ là hoa chuông xanh”, và cô bé đáp “Thế ạ?” một cách thờ ơ vì còn mải xem chương trình Blue Peter. Nhưng Teddy rồi cũng sẽ chết, các chị em của cô rồi cũng sẽ chết, Viola rồi cũng sẽ chết và chẳng còn thứ gì của Nancy sót lại nữa. Là thế đấy. Bi kịch của cuộc sống là cái chết. Sic transit gloria mundi[195]. Teddy thường hỏi - rất nhiều lần - “Em đang nghĩ gì vậy?” mỗi khi cô trầm tư mặc tưởng như thế này (chỉ là những ý nghĩ vu vơ, đúng với bản chất của nó). Thà là một con vật không biết nói như Bobby và chào đón từng ngày mới bằng sự vô tri. “Ồ, em đang nghĩ linh tinh ấy mà.” Cô nói, cố nặn ra một nụ cười với Teddy. “Anh sẽ chẳng muốn biết đâu.”

Không phải là cô không muốn chia sẻ những suy nghĩ của mình với Teddy hay dành thời gian ở bên anh - và Viola nữa, đương nhiên rồi - nhưng cô đang chuẩn bị đi vào chốn tối tăm một mình, đó là nơi (thậm chí không phải một nơi chốn cụ thể mà chỉ là cõi hư vô) mà tất cả mọi thứ đều chẳng còn quan trọng nữa - ca cao, những cuốn sách mượn ở thư viện, Chopin. Tình yêu. Nếu cô lập ra một danh sách thì danh sách đó sẽ dài bất tận. Cô quyết định không lập ra nó. Cô đã hoàn thành đủ các danh sách rồi. Cô gạt sự trầm tư mặc tưởng không lành mạnh của mình sang một bên. Thay vào đó, cô chơi nhạc Chopin.

“Đó là bản Cách mạng đúng không?” Teddy hỏi, khiến cô mất tập trung và đánh sai một nốt, tiếng đàn chóe lên cực kì chói tai. “Mẹ anh thường chơi bài này.” Anh nói.

Sylvie chơi piano rất giỏi. Ngày trước, thi thoảng Nancy lại lén sang nhà anh để nghe bà đàn. Cha Nancy nói rằng khi Sylvie có tâm trạng không vui, ta chẳng cần phải sang tận Góc Cáo cũng có thể nghe thấy tiếng đàn của bà, thậm chí đứng ở mãi cuối đường cũng vẫn nghe thấy. Ông nói với giọng trìu mến. (“Chị Todd lại đàn rồi!”) Thiếu tá Shawcross rất kính trọng Sylvie (“Một con người tuyệt vời!”).

Bấy giờ Nancy chẳng hiểu gì, nhưng có lẽ Sylvie cũng đã muốn được ở một mình và cực kì căm ghét thính giả nhỏ bé lặng lẽ nép mình trong góc phòng khách nhà bà. Bà luôn có vẻ đắm chìm trong âm nhạc, chẳng hay biết gì về sự xuất hiện của Nancy cho đến khi bản nhạc mà bà đang chơi kết thúc. Nancy không kìm được vỗ tay. (“Hoan hô, cô Todd!”)

“Ồ, là cháu à, Nancy?” Sylvie thường khẽ gắt lên như vậy.

“Không, không phải là bản Cách mạng đâu, đây là bản Anh hùng.” Nancy nói, hai bàn tay vẫn đặt trên các phím đàn với vẻ sốt ruột. Thời gian lướt đi trên cỗ xe có cánh, cô nghĩ. Cô có thể nghe thấy đôi cánh của nó đang vỗ, kẽo cà kẽo kẹt, như thể nó là một con ngỗng to lớn vụng về. Cô có thể cảm nhận sức lực của mình đang dần cạn kiệt và chẳng có cách nào chống lại điều đó. “Mẹ anh được học hành bài bản.” Cô nói. “Còn em, e rằng em chỉ là một tay chơi a ma tơ thôi. Và đây là một bản nhạc khó.”

“Anh thấy khá hay mà.” Teddy nói. Cô biết anh đang nói dối. “Khi anh bước vào phòng, em khiến anh nhớ đến một bức tranh của Vermeer.”

“Vermeer ư? Tại sao?”

“Bức tranh được treo trong Triển lãm Quốc gia ấy. Quý bà bên cây đàn clavơxanh - hoặc đại loại thế.”

“Thiếu phụ ngồi bên cây đàn clavơxanh.” Nancy sửa lại.

“Đúng vậy. Trí nhớ của em luôn chuẩn xác.”

“Tại sao lại là Vermeer?” Cô hỏi lại.

“Vì cái cách em quay sang nhìn anh. Vẻ bí hiểm trên mặt em.”

“Em luôn nghĩ cô gái trong bức tranh đó nhìn giống như một con ếch.” Nancy nói, thầm nghĩ mình trông bí hiểm vì mình sắp chết.

“Còn có cả bức tranh về một người phụ nữ đứng bên cây đàn clavơxanh, đúng không nhỉ?” Anh hỏi. “Hay là anh bị nhầm?”

“Anh không nhầm đâu, đúng là có hai bức đấy, ở Triển lãm Quốc gia có cả hai mà.”

“Cùng là một người đúng không nhỉ?” Teddy hỏi, trông có vẻ tư lự. “Cùng một cây đàn clavoxanh luôn?”

Ôi, làm ơn đi đi, anh yêu, Nancy nghĩ. Đừng trò chuyện với em nữa để anh không phải tưởng nhớ đến những cuộc đối thoại ấy, đừng tạo ra các ký ức nữa. Cứ để mặc em với những bản nhạc của Chopin. Cô thở dài, đóng nắp cây đàn piano lại và nói với sự tươi tỉnh giả tạo: “Chúng ta uống chút trà nhé?”

“Để anh pha.” Teddy hăng hái nói. “Em muốn ăn bánh ngọt không? Chúng ta có bánh ngọt không nhỉ?”

“Có, em nghĩ là có.”

“Em muốn anh hứa với em một chuyện.”

“Bất cứ thứ gì.” Teddy nói. Một lời hứa tai hại, Nancy nghĩ. Họ đang ngồi ở bàn ăn. Teddy đang kiểm tra các hóa đơn trong tháng, còn Nancy đang khâu bảng tên lên bộ đồng phục của Viola. Kỳ nghỉ hè dài sắp kết thúc, năm học mới sắp bắt đầu. Nhịp sống của Nancy luôn gắn liền với năm học, và cô có cảm giác kỳ lạ khi một năm học mới bắt đầu mà mình không được thấy kết thúc của nó.

Các bảng tên được thêu chữ Viola B. Todd bằng lối chữ thảo màu đỏ quen thuộc. “B” là viết tắt của Beresford, tên đệm của Teddy, họ của Sylvie thời con gái trước khi đổi sang họ Todd của chồng bà. Cha bà từng là một họa sĩ - Theo lời Sylvie, cụ “rất nổi tiếng ở thời của cụ” - mặc dù gia đình họ chẳng còn giữ được tác phẩm nào của cụ. Trong một lần tham quan triển lãm tranh ở York cùng với Viola, Nancy đã rất thích thú khi phát hiện ra một bức chân dung do cha Sylvie vẽ hồi cuối thế kỷ trước. Đó là bức chân dung một người quyền quý ở chốn phồn hoa đô hội giờ đã bị quên lãng từ lâu. Tấm bảng tên bằng đồng nhỏ xíu ở bên dưới viết “Llewellyn A. Beresford 1845 -1903”. Và ở góc bức tranh có mấy chữ cái L, A và B được vẽ lồng vào nhau. “Nhìn này.” Nancy nói với Viola. “Cụ của con đã vẽ bức tranh này đấy.” Nhưng mối quan hệ đó quá xa xôi nên chẳng có ý nghĩa gì với Viola.

Nancy bắt đầu khâu một bảng tên mới lên cổ một cái áo đồng phục, rồi đâm kim vào tay mình gần như ngay lập tức. Dạo này cô khâu vá khá vụng về. Và cô không còn đan theo một mẫu đan được nữa. Cô tưởng tượng những con ong thầm lặng đang bí mật xây một tổ ong trong đầu mình.

“Em vẫn ổn chứ?” Teddy hỏi, nhìn vào giọt máu nhỏ xíu trên ngón tay cô. Cô gật đầu và liếm giọt máu đi trước khi nó dây lên cái áo đồng phục của Viola.

“Hãy hứa với em rằng…” Cô tiếp tục nói, đặt cái áo xuống. “… Khi thời điểm ấy đến…” (Teddy ngần ngại trước cụm từ đó) “… Khi thời điểm ấy đến, anh sẽ giúp em.”

“Giúp em điều gì?” Anh bỏ cái hóa đơn tiền gas mà anh đang kiểm tra xuống.

Anh biết rõ cô muốn nói gì mà. “Giúp em ra đi, khi bệnh tình của em bắt đầu trầm trọng, nếu em không thể tự giúp mình. Và nó sẽ trở nên trầm trọng, Teddy ạ.”

“Có thể sẽ không như vậy đâu.”

Cô muốn hét lên vì phẫn nộ trước sự tránh né ấy. Cô đang chết dần chết mòn vì ung thư não, nó sẽ trở nên tàn bạo, man rợ (hoàn toàn tồi tệ). Cô sẽ chẳng thể ra đi trong giấc ngủ yên bình, trừ phi cô cực kì may mắn. “Nhưng nếu nó thực sự trở nên trầm trọng…” Cô kiên nhẫn nói. “… Em muốn ra đi trước khi trở thành một kẻ ngô nghê dãi rớt lòng thòng.” (Mình muốn chết khi vẫn là chính mình, cô nghĩ.) “Ngay cả một con chó anh cũng không nỡ để nó phải chịu đựng như vậy, vì thế làm ơn đừng để em rơi vào cảnh ngộ ấy.”

“Em muốn anh tiêm cho em một mũi tiêm nhân đạo sao? Giống như tiêm một con chó ư?” Anh giận dữ nói.

“Em không nói thế. Anh biết là không phải thế.”

“Nhưng em muốn anh giết em còn gì?”

“Không phải. Mà là anh giúp em tự giết chính mình.”

“Thế thì có gì khác biệt chứ?”

Nancy vội nói tiếp: “Chỉ khi em không thể làm nổi vì đã trở thành tàn phế thôi. Morphine hoặc thuốc viên hoặc thứ gì đó đại loại thế em cũng không chắc nữa.” Hoặc chỉ đơn giản chèn một cái gối lên mặt em, vì Chúa, và kết thúc mọi chuyện, cô nghĩ. Nhưng đương nhiên, cách đó không phù hợp. “Rõ ràng phải do chính tay em làm.” Cô nói. “Nếu không, anh sẽ bị kết tội giết người.” (Giờ thì một từ khủng khiếp đang lơ lửng trước mặt anh.)

“Như nhau cả thôi.” Anh nói. “Anh thực sự không thấy gì khác biệt.”

Hai bàn tay anh đang siết vào nhau và anh nhìn chúng chằm chằm, như để đánh giá liệu chúng có thể làm được việc đó hay không. Sau hồi lâu im lặng, anh nói: “Anh không chắc là anh có thể làm được.” Anh không nhìn cô, anh có thể nhìn khắp nơi nhưng không nhìn cô, nỗi đau đớn hiện rõ trên mặt anh. Anh đã hứa rồi, Nancy nghĩ, anh đã hứa sẽ làm bất cứ điều gì. Anh còn hứa một điều khác nữa, cô nghĩ. Dù tốt đẹp hay tồi tệ. Và bây giờ chúng ta đã rơi vào hoàn cảnh tồi tệ. Tồi tệ nhất. Và một ý nghĩ xấu xa nảy ra trong đầu cô - anh đã giết bao nhiêu người trong chiến tranh?

“Đừng bận tâm.” Cô nói, vươn tay qua bàn với vẻ độ lượng và đặt lên hai bàn tay đang siết chặt đến cứng ngắc của anh. “Có thể rốt cuộc nó sẽ không trầm trọng đến thế, chúng ta sẽ phải chờ xem.” Anh gật đầu vẻ biết ơn như thể cô vừa mới ban phúc cho anh.

Anh là một kẻ hèn nhát khủng khiếp. Anh đã gieo rắc sự hủy diệt xuống đầu hàng nghìn người, trong đó có cả phụ nữ và trẻ em - những người không khác gì vợ anh, con anh, mẹ anh, chị gái anh. Anh đã giết người từ độ cao hơn sáu nghìn mét, nhưng giết một người duy nhất, một người đang cầu xin được chết thì sao? Anh đã từng chứng kiến Keith chết dần trước mắt anh, anh không biết mình có thể làm được điều đó một lần nữa không. Nhất là đối với Nancy. Anh đã biết cô từ thuở lên ba (thanh mai trúc mã), anh đã biết cô suốt cả cuộc đời mình, liệu anh có thể trở thành người hành quyết cô không?

Anh đã tưởng tượng ra cảnh họ bình yên già đi bên nhau. Anh không thể hình dung ra chính mình, nhưng anh có thể mường tượng ra Nancy khi đó, eo cô dày hơn, cằm cô tròn hơn và mái tóc đã ngả màu xám. Hơi giống bà Shawcross. Cô sẽ phải căng mắt ra để đan và chơi ô chữ trên tờ Telegraph. Anh sẽ đào khoai tây, cô sẽ nhổ cỏ dại. Cô không giỏi làm vườn nhưng cô chẳng thể ngồi không. Họ sẽ là những người bạn đồng hành tốt của nhau và lặng lẽ qua đời cùng nhau, vậy mà bây giờ cô lại ra đi sớm như vậy. Anh nhớ đến sự tức giận của Sylvie trước cái chết bất ngờ và dễ dàng của Hugh. Ông ấy cứ lẳng lặng mà đi, chẳng nói một lời! “Kết thúc cuộc đời vào lúc nửa đêm không chút đau đớn[196].” Teddy nghĩ. Chẳng phải Nancy xứng đáng với điều đó sao?

Cô nhận ra cô sẽ phải tự tìm kiếm sự khuây khỏa. Cô đang nằm trên giường của Viola, Viola đang ngủ trong vòng tay cô. Nancy cảm thấy không thoải mái, đây vẫn là giường dành cho trẻ con, chẳng bao lâu nữa Viola sẽ cần một cái giường lớn hơn, nhưng người mua nó sẽ không phải là Nancy. Dạo này cô đang đọc cho Viola nghe truyện Anne tóc đỏ dưới Chái Nhà Xanh. Cô bé Anne cũng đã phải rèn luyện một tinh thần thép. Thi thoảng Viola sẽ đọc cho Nancy nghe nếu cô bé không quá buồn ngủ. Viola rất thích đọc sách, cô bé là một con mọt sách - một cụm từ mà cô bé rất ghét. “Đám giun dế sâu mọt ấy thì có gì tốt đẹp chứ?” Viola nói. Mẹ sẵn sàng làm giun dế sâu mọt nếu đó là cách duy nhất để mẹ được tồn tại, Nancy nghĩ rồi cười nhạo mình vì đã thê thảm đến mức như vậy. “Nếu không có mấy con giun thì chúng ta sẽ không thể trồng được lương thực, và tất cả mọi người sẽ chết đói.” Nancy giải th?