← Quay lại trang sách

Chương 13 2012-Tình yêu, Lòng khoan dung, Lòng trắc ẩn, Sự yên bình

Nữ hoàng đang chầm chậm đi thuyền dọc sông Thames.

“Nữ hoàng.” Viola nói. “Bà ấy đang ở trên ti vi.” Bà đang thuật lại các sự kiện một cách đơn giản - đoàn thuyền trên sông, cơn mưa, sự nhẫn nại đáng ngưỡng mộ của hoàng tộc. “Nhưng bố không thể xem ti vi, đúng không?” Bà nói rất to và chậm rãi với Teddy như thể ông là một đứa trẻ cực kì ngốc nghếch. Bà đang ngồi trên một cái ghế bành lưng cao bên cạnh giường ông ở nhà dưỡng lão. Bà luôn thấy không thoải mái khi ngồi ở cái ghế đó. Nó được thiết kế dành cho người cao tuổi, và bà sợ mình bị tính là một trong những bậc cao niên, vì bây giờ bà đã đến tuổi có thể đăng ký những chuyến du lịch của Saga[202] và tham gia câu lạc bộ ăn trưa trong hội trường của nhà thờ, đến tuổi mặc áo khoác anorak[203] màu be và quần chun. (Không đời nào!) Bà đã đến tuổi chuyển tới Fanning Court. Lạy Chúa!

Teddy không còn ngồi ghế được nữa. Ông không thể rời khỏi giường hay làm bất cứ việc gì. Ông đang đến gần những giây phút cuối cùng trong buổi hoàng hôn của cuộc đời mình, chuẩn bị bước vào màn đêm thăm thẳm. Viola hình dung những khớp thần kinh trong đầu ông cháy bùng lên rồi lại lịm đi như cái chết từ từ của một ngôi sao. Chẳng mấy chốc Teddy sẽ cháy hết hoàn toàn, nổ tung và trở thành một lỗ đen. Viola không hiểu lắm về vật lý thiên văn, nhưng bà thích hình ảnh ấy.

Ông được gắn mác, đó là một chiếc vòng nhựa của bệnh viện đeo quanh cổ tay ông. Sunny và Bertie đều từng đeo loại vòng ấy trong phòng sản. Có những người cất giữ những vật như thế - chiếc răng sữa đầu tiên, đôi giày đầu tiên, những bức tranh đầu tiên vẽ từ thời mẫu giáo, các phiếu thành tích học tập - và coi chúng là những kỷ vật quý giá của thuở ấu thơ, nhưng Viola thì vứt bỏ tất cả. (Phải, bà hối hận với hành động đó. Được chứ?)

Trên cái vòng tay bằng nhựa của Teddy có chữ “DNR[204]”, cho thấy rằng ông chỉ còn sống lay lắt, như một vật đã quá hạn sử dụng từ lâu. Ôi Chúa ơi, cuộc sống thật khủng khiếp. Một ký ức về đêm qua trở lại với bà, mặc dù nó chưa từng biến mất. Bà rùng mình khi nghĩ về nó. Bà đã tự làm mình bẽ mặt hết sức. “Tự làm nhục mình” thì đúng hơn.

Chiều tối qua bà đã đi từ Harrogate tới York, hy vọng sẽ gặp vài người bạn. Phải, có vẻ hơi khó tin nhưng bà cũng có bạn bè. Bà sẽ gọi điện cho họ và thản nhiên nói “Gặp nhau được không? Đi uống một ly đi?”, giả vờ như đó là một ý tưởng vừa mới nảy ra, trong khi thực tế bà đã lên kế hoạch cho việc này từ vài ngày trước. Bà đang cố gắng sống ngẫu hứng hơn - bây giờ bà mới nhận ra thứ mà bà nghĩ là sống ngẫu hứng trong những năm trước đây chỉ là sự thụ động. (“Bọn mình đi biển đi?” “Ừ, ok.”) Bà cũng đang cố gắng khôi phục lại cuộc sống giao du mà bà từng có nhưng đã bỏ bê một cách đáng tiếc từ khi bà thành đạt. (“Mình bận lắm, xin lỗi cậu nhé!”)

Đã lâu lắm rồi bà không gặp những người bạn này - phải đến hàng năm trời (hàng chục năm trời) - và mối quan hệ giữa họ đã trở nên xa cách. Họ đều từng tham gia một “Hợp tác xã Phụ nữ về Thực phẩm nguyên chất”, đại khái là họ mua trấu và vỏ hạt khô đựng trong những bao tải lớn xấu xí, được gắn cho cái mác là ngũ cốc, rồi chia cho nhau. Họ không có mấy điểm chung, ngoại trừ việc cùng học trường Steiner và tham gia Chiến dịch Giải trừ Hạt nhân, nghe thì có vẻ nhiều, nhưng Viola lại không thấy như vậy.

Lúc tới York, bà mới nhận ra bà đã quên hôm đó vừa là thứ Bảy vừa là ngày lễ Ngân hàng[205], và thấy York tưng bừng trong bầu không khí lễ hội, đâu đâu cũng thấy treo cờ trang trí màu đỏ, trắng và xanh. Dịp nghỉ cuối tuần cũng là thời điểm thành phố bị vây hãm bởi những bầy hươu đực và gà mái[206] điên cuồng xuống đây từ những nơi thậm chí còn xa hơn nữa về phía bắc.

Bà thuê phòng ở khách sạn Cedar Court, vốn là trụ sở của Công ty Đường sắt Đông Bắc. Tất cả mọi thứ rốt cuộc đều trở thành khách sạn. Bụi, cát và khách sạn. Bà đã mong nhận được một phòng có tầm nhìn đẹp, quay mặt về phía Bar Walls, nhưng chẳng còn phòng nào loại đó còn trống cả. Nếu bà đang ở trong một cuốn tiểu thuyết của Forster, bà sẽ gặp tình yêu của cuộc đời mình vào thời điểm này (bà cũng sẽ trẻ hơn bốn mươi tuổi), bị rung động và cuối cùng sẽ có được tầm nhìn đẹp. Không phải là bà muốn được rung động (bà đã từ bỏ đàn ông) hay thực sự gặp tình yêu của đời mình, nhưng bà sẽ thích có được một tầm nhìn đẹp. Cô gái làm thủ tục nhận phòng cho bà ở quầy lễ tân gần như chắc chắn chưa bao giờ nghe đến cái tên Forster, nhưng có thể cô ta đã nghe danh Viola Romaine, tuy nhiên Viola không muốn thử giả thuyết đó. Viola có cảm giác bà đã dành cả đời để lội qua một biển vô tri tuy nông nhưng mênh mông không thấy bến bờ. Phải, bà đang võ đoán. Không, bà không có quyền làm vậy. Nhân viên lễ tân (cô ta chưa từng nghe nói đến Forster hay Viola Romaine, nhưng lại “thích thú” Năm mươi sắc thái, nếu Viola biết được điều này thì bà hẳn sẽ tức ói máu) đưa cho bà chiếc chìa khóa bằng thẻ từ và nói cô ta sẽ gọi ai đó tới dẫn bà về phòng. “Tôi có thể giúp gì cho bà nữa không, bà Romaine?”

Sau khi ly dị, Viola vẫn giữ họ của Wilf (và một nửa số tiền bán nhà, đương nhiên rồi) với cái cớ là nghe nó thú vị hơn hẳn cái họ “Todd” tầm thường. Một ngày kia, có người đã hỏi bà: “Từ Romaine phát âm thế nào? Giống như tên một loại rau diếp đúng không?” Cô của cha bà, tác giả của những cuốn sách gớm ghiếc dài bất tận về Augustus, đã chọn cái tên “Fox” - nghe hay ho hơn hẳn tên của một cây rau diếp, tại sao bà không nghĩ ra điều đó nhỉ? Viola Fox. Có lẽ bà sẽ dùng bút danh đó để viết một cuốn sách thuộc thể loại khác - một cuốn sách nghiêm túc tuy không bán chạy nhưng được giới phê bình tán tụng. (“Một đề tài thách thức những giả định có tính nhận thức luận của chúng ta về bản chất của tiểu thuyết.” Tạp chí TLS.)

Họ đã kết hôn sau khi gặp nhau đúng một tháng. “Một mối đam mê bỏng cháy.” Viola giải thích với hội phụ nữ của bà, những người thất vọng nhưng đố kỵ một cách kỳ lạ. Từ “đam mê” cuốn hút Viola - có lẽ nó còn cuốn hút hơn cả bản thân sự đam mê. Đó là thứ tất yếu tàn lụi, thường xuất hiện trong các tác phẩm của chị em nhà Brontëe, và bà cảm thấy bà đã không có đủ sự đam mê trong cuộc đời mình. Bà khao khát thời kỳ Lãng mạn[207]. Với Wilf Romaine, bà không có được sự đam mê hay lãng mạn, chỉ có sự mơ tưởng mà thôi.

Wilf Romaine có vẻ hăng hái trong các cuộc biểu tình, nhưng hóa ra ông ta chỉ là kẻ “thùng rỗng kêu to”. Ông ta, một nhà luận chiến, một nhà hoạt động chính trị, tham gia Chiến dịch Giải trừ Hạt nhân, thành viên của Đảng Lao động, vân vân, lúc nào cũng quan trọng hóa việc là con trai của một thợ mỏ. Nhưng, như Viola cảm thấy cần phải chỉ ra cho ông ta không lâu sau khi họ kết hôn, là con trai của một thợ mỏ không thực sự biến ta thành một thợ mỏ. Thay vì thế, ông ta là một giảng viên ngành Truyền thông (một ngành học vô nghĩa) ở một trường đào tạo nghề, mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 và nghiện rượu. Ông ta từng có vẻ bạo liệt và cao cả, nhưng cuối cùng ông ta cũng đáng thất vọng như tất cả những người khác.

“Ông ta có đánh bà không?” Gregory, bác sĩ trị liệu của bà, hỏi. Gregory tin chắc rằng bạo hành gia đình chính là nguyên nhân của vấn đề.

“Có.” Viola nói, bởi vì điều đó rõ ràng nghe thú vị hơn hẳn cái sự thật nhạt nhẽo là họ thờ ơ với nhau. Khi ta trở nên già hơn và thời gian trôi đi, ta nhận ra rằng nỗi khác biệt giữa sự thật và hư cấu không thực sự quan trọng lắm, bởi vì cuối cùng tất cả đều biến thành đống sự kiện hỗn độn, lờ mờ, chẳng còn ai nhớ đến. Về mặt cá nhân hay chính trị cũng chẳng có gì khác biệt.

Các con của Viola dọn ra ở riêng và bà chuyển tới Whitby, mặc dù nói cho đúng ra thì người dọn ra ở riêng là bà chứ không phải Sunny. Đó là khi bà trở thành một nhà văn. Ngay cả Viola cũng nhận thức được rằng bà cần phải giũ mình thoát khỏi tâm trạng biếng nhác, gắn kết với cuộc sống thực tại - đương nhiên, đó là điều mà Tiếng nói của Lý trí sẽ nói. Viết lách có vẻ là thứ mà bà hiểu biết, mặc dù bà chỉ biết về nó từ chiều ngược lại - đọc - và mất một thời gian bà mới nhận ra rằng viết và đọc là hai hoạt động hoàn toàn khác nhau - thực tế là hai thái cực đối nghịch. Và bà phát hiện ra rằng chỉ vì bà có thể viết theo lối chữ thảo không có nghĩa là bà có thể viết sách. Nhưng bà đã kiên trì, có lẽ là lần đầu tiên trong cuộc đời bà.

Bà đã được “học nghề” rất tốt - bà đọc sách rất sớm, là con một, mồ côi mẹ, và có tính tò mò cần thiết. Hồi nhỏ, bà đã lảng vảng ở các ngưỡng cửa, lắng nghe và quan sát. (“Các nhà văn chỉ là những con chim kền kền!” Tạp chí People’s Friend (Bạn của mọi người), 2009.) Bà gửi cuốn Chim sẻ ban mai đến một nhà đại diện nhưng bị từ chối, bà lại gửi tiếp đến một nhà đại diện khác, rồi một nhà đại diện khác nữa cho đến khi cuối cùng cũng có người hồi đáp và nói rằng nó “thú vị”, mặc dù từ “thú vị” ấy nghe như một lời xúc phạm nhưng cô ta đã bán được nó cho một nhà xuất bản, và nhà xuất bản ấy đã ký với bà một hợp đồng (khiêm tốn) xuất bản hai cuốn sách. Rồi chưa đây một năm sau, Chim sẻ ban mai đã trở thành một vật thể hữu hình, rắn chắc trong thế giới hiện tượng, chứ không còn là một đống ý tưởng lộn xộn trong đầu Viola. (“Tiếp theo sẽ là gì ngoại nhỉ?” Bertie nói với Teddy. “Những con lửng trong bữa sáng? Lũ thỏ giờ đi ngủ?”)

Cha bà có vẻ không ấn tượng với thành tích này như bà mong muốn. Bà đã gửi cho ông một bản in thử, rồi sau đó vào ngày phát hành cuốn sách, bà đã tới York, cha bà đã dẫn bà đi ăn ở ngoài và, ngạc nhiên thay, ông đã gọi sâm banh để “chúc mừng”, nhưng những lời phê bình của ông dành cho cuốn tiểu thuyết không được nhiệt tình lắm. Bà đã mong ông sẽ choáng ngợp và sửng sốt bởi tài năng của bà thay vì lời khen “Rất hay” với giọng điệu nghe như ngược lại. (Dường như) ông cũng không hiểu được rằng cuốn sách nói về họ - cô gái trẻ thông minh sáng dạ và già dặn cùng mối quan hệ không mấy tốt đẹp với người cha gà trống nuôi con của mình, đại loại vậy. Hẳn nhiên ông phải biết chứ? Sao ông không nói gì? Thay vì thế, trên đường về nhà, ông hát: “Và kẻ lập dị khác thường ấy, nữ tiểu thuyết gia ấy, tôi không nghĩ cô ta sẽ bị bỏ sót - tôi chắc chắn cô ta sẽ không bị bỏ sót!” Như thể toàn bộ chuyện đó thật nực cười. “Gilbert và Sullivan…” Ông nói. “… Bài hát Tôi có một danh sách nhỏ.” Chẳng phải tất cả chúng ta đều thế sao, cô nghĩ.

Chim sẻ ban mai không thành công lắm. “Quá ủy mị”, “Khá rườm rà”. Bà đã đào hố chôn mình với cuốn tiểu thuyết đầu tay, nhưng đã tự giải thoát bằng cuốn tiểu thuyết thứ hai, Những đứa con của Adam, “một tấn bi hài kịch vừa ngọt ngào vừa cay đắng về cuộc sống trong một công xã ở thập kỷ sáu mươi”. Bà đã lùi những trải nghiệm của mình về một thập kỷ hợp với trào lưu hơn và kể về nó với con mắt của một đứa trẻ bốn tuổi. “Nhưng chẳng phải đó là câu chuyện của con chứ không phải của mẹ sao?” Bertie rầu rĩ nói. Nó được rất nhiều người yêu thích (“Chẳng hiểu sao…” Bertie thắc mắc với Teddy) và được chuyển thể thành một bộ phim đậm chất Anh quốc với Michael Gambon và Greta Scacchi đóng vai chính, rồi sớm rơi vào quên lãng.

Và thế là sự nghiệp rực rỡ của bà bắt đầu.

Phòng ngủ của bà ở Cedar Court rộng rãi và khá tối, hẳn là nó đã từng là văn phòng của ai đó. Bà gọi điện cho những người bạn mà bà định gặp và thấy rằng số điện thoại của họ không còn hoạt động, điều này chỉ ra rằng bà đã không liên lạc với họ lâu đến chừng nào. Thành thật mà nói (bà cũng đang cố gắng thành thật hơn), bà thấy nhẹ nhõm. Họ sẽ không phải ép mình hàn huyên tâm sự. Và bà đã tiến rất xa kể từ những ngày đó, còn họ thì có lẽ không. Nếu bà nghĩ về họ, bà hình dung họ vẫn mặc những chiếc áo len chui đầu dày cộp cùng váy dài và đi guốc, tóc mái lòa xòa trên mặt, chia nhau loại đồ ăn dành cho ngựa trong những bao tải lớn, mặc dù thực tế một người hiện là luật sư biện hộ ở North Square còn người kia đã chết.

Bà nằm xuống giường và nhìn chằm chằm lên trần nhà. Mới sáu giờ và bực mình thay, vào tối mùa hè, ánh sáng sẽ chẳng bao giờ tắt. Bà có thể nằm đây nhìn chằm chằm lên trần nhà hoặc xem ti vi và gọi phục vụ phòng. Cả hai lựa chọn đó đều chẳng đủ sức hấp dẫn, vì vậy bà quyết định đương đầu với một buổi tối thứ Bảy ngày lễ ở York, vốn không phải một việc dễ dàng gì. Ít nhất hôm nay không phải ngày đua ngựa, một sự kiện cũng thu hút những nhóm đông phụ nữ trẻ ăn mặc lố lăng, họ có thể được phân biệt với những cô “gà mái” bình thường bởi những chiếc mũ cách điệu, một vật đội đầu trông rõ là khôi hài. Và tất cả bọn họ đều quá béo! Làm thế nào mà họ chui được vào các ngăn toilet và len được vào những chỗ ngồi trong rạp chiếu phim nhỉ? Ta có thể bị họ đè bẹp đến chết nếu không cẩn thận.

Dù vẫn còn sớm nhưng khi Viola rời khỏi khách sạn, bà nhận ra rằng những “chú hươu đực” và những “cô gà mái” đã tràn ra đầy đường, say quắc cần câu. Bà rùng mình khi nghĩ đến tình trạng của họ sau đó. Vài “chú hươu” mặc đồ hóa trang - cả một nhóm đàn ông (bà cho rằng phải gọi họ là một bầy mới đúng) mặc trang phục hình quả chuối đang tràn xuống những bậc thang dẫn vào quán bar Slug and Lettuce (Sên và Rau diếp) bên bờ sông. Tuy nhiên, phần lớn mọi người đều mặc “đồng phục truyền thống” của đàn ông - quần jean và áo phông sạch sẽ, sực nức mùi nước xoa sau khi cạo râu, cơ bắp mềm nhão. Các cô gái thì mặc áo phông đính những viên đá xếp thành tên nhóm của họ - “Bữa tiệc độc thân của Claire”, “Những cô gà mái trong thành phố”, “Con đường duy nhất là Darlington” - Theo đánh giá của Viola, nhóm được nhắc đến cuối cùng này cực kì ngây thơ. Màu hồng là màu chủ đạo của các cô gái ấy - mũ cao bồi màu hồng, áo phông màu hồng, váy xòe màu hồng, băng đeo chéo màu hồng. Họ là kiểu con gái nghĩ rằng bánh cupcake là sành điệu. Bánh cupcake là một thứ nữa mà Viola chướng mắt. Chúng chỉ là những cái bánh nhỏ thôi mà, vì Chúa! Tại sao phải quan trọng hóa chúng lên như thế? Để kiếm tiền, đương nhiên rồi.

Bà nhìn thấy những cái bờm mô phỏng râu côn trùng (đương nhiên là màu hồng) trên đầu một nhóm con gái (“Những cô gà mái rửng mỡ của Hannah”) đang tranh luận rôm rả ở cột đèn giao thông trên cầu Lendal, phân vân không biết tiếp theo nên đưa nhân vật chính của họ đến địa điểm nào. Lần cuối Viola nhìn thấy những chiếc bờm kiểu này là hồi thập niên tám mươi. Hồi nhỏ, Bertie cũng có một chiếc bờm như thế, những quả cầu bằng bạc dát kim tuyến cứ lắc lư trên cái đầu nhỏ xíu của cô bé giống như râu côn trùng. Và - Viola đột nhiên nhớ ra - đi kèm với chiếc bờm ấy là một đôi cánh dát bạc. Bertie nói cô là con ngài chứ không phải là con bướm. Tim Viola nhói lên như bị đâm nhẹ một cú. Ta phải cẩn thận với những cú đâm - nếu ta bị đâm quá nhiều, những cú đâm ấy có thể làm kết cấu của trái tim yếu đi, tạo ra những đứt gãy, kẽ nứt và vết rạn, và trước khi ta kịp nhận thức được, toàn bộ cấu trúc mong manh ấy có thể vỡ tan thành hàng nghìn mảnh nhỏ. Trái tim Viola được gắn kết bằng băng dính và hồ dán. Đó có phải là một hình ảnh thú vị không? Bà cũng không chắc nữa.

Bertie không chịu nghe theo lời khuyên của Viola, cô bé khăng khăng đeo nguyên đôi cánh bạc ấy để đi ngủ. Sáng hôm sau, khi phát hiện chúng bị vỡ nát đến mức không gắn lại được nữa, cô bé đã khóc nức nở, không ai an ủi được. “Đấy, đáng lẽ con nên nghe lời mẹ, đúng không nào?” Viola nói. “Mẹ đã nói với con chuyện này sẽ xảy ra mà.”

Gieo gió thì gặt bão, Viola. Gieo gió thì gặt bão.

Đi cuối đoàn Những cô gà mái rửng mỡ của Hannah là hai người phụ nữ lớn tuổi, trông khá chán chường - có lẽ đó là bà mẹ của cô dâu và một bà dì hoặc có thể là mẹ chồng tương lai. Cơ thể bèo nhèo của họ chật vật ních trong cái áo phông bó màu hồng, với cái tên nhóm được kết bằng đá gắn trên bộ ngực chảy sệ. (“Một chiếc coóc xê thật tốt…” Viola Romaine giãi bày với vẻ bí mật. “… Chính là bí quyết để có ngoại hình đẹp đối với phụ nữ lớn tuổi.” Báo Sunday Express (Tin nhanh Chủ nhật), chuyên mục Cuộc sống và phong cách, năm 2010. Bà không hề nói thế! Báo trích dẫn sai rồi.)

Viola tự hỏi, liệu một ngày nào đó bà có giống như họ không? Suy cho cùng, với cái phong cách nửa nghiêm túc nửa lầy lội, Bertie có thể quyết định tổ chức một bữa tiệc độc thân truyền thống (“Những cô bé của Bertie”) và gây ra sự bẽ mặt cho “đoàn tùy tùng” của mình. Đương nhiên là Bertie phải gặp ai đó để kết hôn trước đã. Viola đang bắt đầu cảm thấy bà sẽ không bao giờ có được cơ hội trở thành một người bà để chuộc lại những lỗi lầm của quãng đời làm mẹ. Sunny có thể đã trở thành một nhà tu, còn Bertie hình như chẳng hẹn hò ai cả, hoặc nếu có thì cô chắc chắn cũng chẳng kể cho mẹ cô nghe về chuyện đó.

Những cô gà mái rửng mỡ của Hannah có vẻ đã ngầm đi đến một quyết định, rồi cả “bầy” kéo nhau đi xuôi theo phố Rougier. Khi họ đi qua trước mặt Viola, bà bối rối nhận ra những cái bờm mô phỏng râu côn trùng ve vẩy trên đầu họ mà bà đang nhìn chằm chằm thực chất là hình “cái đó” của đàn ông. Chúng đột nhiên sáng lên, bắt đầu nhấp nháy và những cô “gà mái” liền hướng vào nhau mà kêu lên quang quác như thể mình là gà thật. Viola đỏ bừng mặt, vội vàng đi vào tiệm Betty’s ấm cúng thân thuộc. Một nơi ẩn náu để tránh xa những điều tệ hại, một địa điểm sáng sủa, sạch sẽ, đáng tin cậy.

Bà ăn món salad gà và uống hai ly rượu vang. Bà không còn ăn chay nữa. Nếu cứ ăn những loại đậu đó thì thật khó để giữ được vóc dáng. Một người đàn ông đang chơi piano - rất điêu luyện, anh ta không chỉ chơi những bản nhạc thường được biểu diễn trong các phòng trà mà còn chơi vài bản của Chopin và Rachmaninov. Chopin gợi cho Viola nghĩ đến mẹ mình và ký ức ấy luôn khiến bà buồn bã khủng khiếp. Viola đã bỏ chơi piano sau khi Nancy mất. Nếu bà vẫn kiên trì học đàn, có thể bà đã có sự nghiệp trong ngành âm nhạc. Một nghệ sĩ piano chơi trong dàn nhạc giao hưởng - chà, tại sao lại không nhỉ?

Viola xuống dưới nhà để vào nhà vệ sinh. Dưới đó có một mảnh kính vỡ của chiếc gương ở đằng sau quầy bar hồi còn là “quán rượu Betty” trong chiến tranh. Các tổ bay RAF từng vạch tên họ lên tấm gương đó. Cha bà từng kể về quán rượu Betty và việc ông thường uống rượu ở đây hồi chiến tranh, nhưng bà đã không thực sự lắng nghe những hồi tưởng ấy của ông. Bây giờ tấm gương ấy là một kỷ vật (bên cạnh toa lét). Hầu như tất cả những người đàn ông để lại tên mình trên ấy đều đã chết. Viola cho rằng nhiều người trong số họ đã chết từ trong chiến tranh. Bà nhìn chăm chú những cái tên gần như vẫn còn đọc được. Cha bà có để lại tên mình ở đây không? Bà ước gì mình đã hỏi về cuộc chiến của ông khi ông vẫn còn minh mẫn. Bà có thể dùng những ký ức của ông để làm nền tảng cho một cuốn tiểu thuyết. Một cuốn tiểu thuyết mà tất cả mọi người sẽ đánh giá cao. Người ta luôn coi trọng những cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh mà.

Khi bà trở lại bàn của mình, bà thấy một nhóm đàn ông hóa trang thành bao cao su đang loạng choạng bước qua quảng trường St. Helen. Họ đang ở một trong những thành phố Trung cổ được bảo tồn tốt nhất của châu Âu, vậy mà họ lại hóa trang thành bao cao su. Sao họ không đến Benidorm ấy? Hoặc Magaluf? (“Mẹ muốn mọi người cư xử tốt hơn, nhưng bản thân mẹ lại cư xử chẳng ra sao cả.” Bertie nói.)

Một trong những người đàn ông hóa trang thành bao cao su áp mình vào tấm kính lớn của quán Betty’s như một con côn trùng, rồi nhìn các thực khách với ánh mắt dâm đãng. Người nghệ sĩ đánh đàn piano ngẩng lên nhìn rồi lại bình thản chơi tiếp nhạc của Debussy. Một chiếc xe bán tải đỗ lại giữa quảng trường St. Helen và “nhả ra” mấy người hóa trang thành xác sống. Các xác sống bắt đầu đuổi theo những người đàn ông hóa trang thành bao cao su. Đám đàn ông hóa trang thành bao cao su không có vẻ kinh ngạc lắm, như thể họ đang mong đợi đám xác sống đuổi theo mình. (“Họ trả tiền cho dịch vụ đó mà.” Bertie nói.) Chuyện đó thì có gì vui? Viola thất vọng. Bà nghĩ có thể bà đã giành chiến thắng trong cuộc đua chạm tới sự kết thúc của nền văn minh. Chẳng có phần thưởng nào cả. Hiển nhiên rồi.

Nhưng cuộc đua vẫn chưa kết thúc. Vạch đích đang ở trong tầm mắt nhưng Viola còn phải băng qua nó. Bà rời khỏi quán Betty’s và len lỏi quay trở lại qua cầu Lendal, hiện giờ bầu không khí ở đây vô cùng náo nhiệt. Chẳng hiểu vì sao bà lại vô tình vướng vào nhóm Những quý cô độc thân của Amy, một “bầy gà mái” cực kì lôi thôi lếch thếch vì đã say khướt và được chính Amy cầm đầu. Chiếc vương miện của cô ta đã bị lệch, một tấm băng đeo chéo trên cái áo ống rẻ tiền tuyên bố rằng cô ta là “Cô dâu” và một tấm bảng có hình chữ “L”[208] được gắn vào cái mông nhỏ xíu của cô ta. Chuyện gì đã xảy ra với các cô gái vậy? Đây là lý do để Emily Davidson[209] lao mình ra trước vó ngựa sao? Bà ấy làm vậy để các cô gái có thể đeo hình “cái đó” sáng trưng trên đầu và ăn bánh cupcake ư? Thật sao? Mỗi lần họ gặp một người đàn ông, họ lại giơ một ngón tay lên và hét to “Đeo nhẫn vào đây đi!”, rồi bám chặt lấy nhau mà cười rũ rượi. “Tớ cười chảy cả nước mắt rồi!” Một người trong số họ ré lên.

Một “bầy hươu đực” tràn tới quanh Viola. “Vui lên đi nào, chiếc túi cũ nhàu!” Một người trong số họ hét lên với bà. “Bà có thể gặp may nếu bà ngừng tỏ ra khốn khổ.” Viola huỳnh huỵch bước đi, trong lòng sôi lên vì phẫn nộ. Những kẽ nứt và vết rạn lan ra, khiến bề mặt trái tim bà nứt nẻ. Bà giống như một cây đàn piano được lên dây quá căng, tất cả các dây đàn đều sắp đứt và bật tung ra trong cơn lũ đáng sợ của các hình ảnh ẩn dụ.

Sao người ta có thể ngớ ngẩn và ngu dốt đến vậy? (“Sao lúc nào mẹ cũng giận dữ thế?” Sunny từng hỏi bà cách đây đã lâu. “Tại sao lại không giận dữ được chứ?” Bà gắt gỏng.) Tại sao các con bà lại không yêu bà? Tại sao không có ai yêu bà? Và tại sao bà lại cô đơn, chán chường thế này và, thành thực mà nói, hoàn toàn thảm hại và…

Bà lao đi như bay, vấp vào một phiến đá lát vỉa hè, ngã phịch xuống, đầu gối va vào đá, hai tay chống xuống đất, giống như một con mèo nặng nề, trong thoáng chốc, cú sốc này đã dập tắt mọi thứ trong đầu bà. Đầu gối bà đau đến mức bà chẳng muốn nhúc nhích. Xương bánh chè của bà vỡ rồi chăng? Một “con hươu đực” buông lời bình luận tục tĩu về tư thế của bà, và một giọng nói Geordie chín chắn của một người phụ nữ đuổi hắn biến đi. Viola ngồi dậy, quỳ gối trên vỉa hè, đầu gối bà rít lên. Một cái áo phông màu hồng xuất hiện trong tầm mắt. Những viên kim cương giả xếp thành chữ “Gái hư phát khùng ở York”. Một người phụ nữ - thực ra là một cô gái, cô ta trẻ hơn so với giọng nói đặc trưng của người hút thuốc, khuôn mặt tươi cười và tỏ vẻ quan tâm - ngồi xổm xuống cạnh Viola và nói: “Cưng ổn cả chứ?”

Thực sự thì không, Viola nghĩ, hoàn toàn không. Bà òa khóc, ngay ở đó, trên những phiến đá vỉa hè của York, chiếc quần tất Wolford đắt tiền bị rách toạc, đầu gối trầy xước, rơm rớm máu. Bà không thể kìm được. Thật khủng khiếp! Những giọt nước mắt ứa ra từ bên trong bà như thể bà đã đột nhiên gõ vào một tầng ngậm nước cổ xưa chứa đầy nỗi đau. Nhưng bà hoảng hốt không chỉ vì nước mắt mà còn vì những lời thoát ra từ miệng bà. Tiếng hú gào bản năng, tiếng cầu khẩn thống thiết. Không phải tiếng gào mà là tiếng rên. “Tôi muốn mẹ tôi.” Bà lẩm bẩm. “Tôi muốn mẹ tôi.”

“Bà có thể mượn tạm mẹ tôi, cưng à.” Ai đó nói và “đàn gà mái” phá lên cười. Tuy nhiên, cảm nhận được bà là một người phụ nữ đang suy nhược, có thể là vì rượu hoặc không, họ liền túm tụm lại, vây quanh bà vẻ che chở. Người thì nâng bà dậy, người thì đưa bà một chiếc khăn giấy, người khác lại đưa bà một chai nước khoáng Evian nhưng hóa ra nó đựng vodka nguyên chất. Một “gà mái sề”, với cái cổ nhăn nheo và khuôn mặt méo mó mặc áo phông viết dòng chữ “Mẹ của cô dâu”, đưa cho Viola gói khăn ướt Wet Wipes. Họ hỏi xem bà định đi đâu và đội Gái hư dịu dàng dìu bà trở lại Cedar Court. Người gác cửa cố gắng ngăn họ lại nhưng vô hiệu, họ tràn qua ngưỡng cửa và ùa vào tiền sảnh. Viola mò mẫm tìm chiếc chìa khóa bằng thẻ từ và một “cô gà mái” đắc thắng giơ nó lên, huơ huơ nó trước mặt nhân viên lễ tân đang lo lắng.

“Bà ấy hơi mệt và xúc động.” Một “gà mái” giải thích. “Bà lão tội nghiệp.” Một cô “gà mái tơ” nói. Bà lão ư! Tôi mới sáu mươi thôi mà, Viola muốn phản đối, đó là một loại tuổi bốn mươi mới. Nhưng bà chẳng còn sức để phản đối nữa.

Bà sợ rằng “bầy gà mái” đó sẽ tiếp tục tiệc tùng trong căn phòng của mình, nhưng cuối cùng, bà đã thuyết phục được họ để mặc bà ở cửa thang máy. Mẹ của cô dâu ấn thứ gì đó vào tay bà, một món quà nhỏ xíu được bọc trong chiếc khăn giấy. “Valium[210] đấy.” Bà ta nói. “Nhưng chỉ uống một nửa chỗ đó thôi nhé! Chúng mạnh lắm. Tôi đã quen với chúng rồi nên mới uống được cả liều.” Viola vẫn nước mắt lưng tròng, nấc lên cảm ơn bà ta.

Trong chốn ẩn náu của mình, bà bỏ qua thủ tục hằng đêm - tẩy trang, đánh răng, chải tóc - và mệt mỏi bò vào giữa những tấm chăn ga được hồ cứng, liều lĩnh uống hết cả liều Valium với hai chai vodka nhỏ lấy từ chiếc tủ lạnh mi ni trong phòng. Bà sợ sẽ gặp ác mộng, nhưng lại chìm vào giấc ngủ ngon đến đáng kinh ngạc. Những giấc ngủ vàng hôn lên mắt bà, những con ngài bạc bay vun vút quanh đầu bà, và bà mơ một giấc mơ có tác động mạnh mẽ đến bà.

Bà dậy sớm, tắm rửa, thay quần áo, gọi một bình cà phê lớn và đánh giá thương tổn. Bà có cảm giác như thể mình đã ở trong một cuộc chiến, hoặc nếu không thì cũng là một cuộc xung đột đẫm máu. Bà còn cảm thấy gì nữa? Bà kiểm tra khắp người mình. Hai cổ tay có vẻ bị bong gân nhẹ, còn hai đầu gối cứng ngắc, đau đớn khủng khiếp, như thể ai đó đã nện vào chúng cả đêm. Đầu bà như bị nhồi đầy len - chắc là do tác dụng của chỗ thuốc Valium mà mẹ cô dâu đã cho bà - ngoài ra không bị sứt mẻ gì. Rồi bà nhìn vào sâu trong lòng mình. Hoàn toàn thê thảm, bà kết luận.

Bà trả phòng, nhẹ nhõm cả người vì không thấy bóng dáng của nhóm nhân viên đã chứng kiến cảnh tượng đáng xấu hổ của bà tối qua. Bà tự hỏi sáng nay nhóm Gái hư thế nào rồi nhỉ? Chắc là họ vẫn còn choáng váng vì men rượu và chưa nhấc nổi mình dậy. (Mặc dù thực ra họ đang ra sức ăn lấy ăn để bữa buffet sáng kiểu Anh thuần túy trong một khách sạn cao cấp thuộc chuỗi khách sạn Travelodge và đang chuẩn bị “càn quét” Primark. Họ đến từ Gateshead và có sức chịu đựng dẻo dai.)

Viola nhờ người gác cửa gọi giúp mình một chiếc tắc xi tới Đồi Dương. Ở bên cha bà trong ngày hôm nay là một cách để bà tự sám hối về chuyện tối qua. Để tỏ lòng ăn năn hơn nữa, bà sẽ xem Đại lễ Kim cương với ông.

Cha bà rõ ràng đã chẳng còn tí sức lực nào, bây giờ hầu như ông ngủ suốt ngày, giống như một chú chó già. Tại sao ông không ra đi cho xong? Ông định cứ lay lắt thế này đến trăm tuổi sao? Kéo dài thêm hai năm nữa trong tình trạng này ư? Đây chỉ là sự tồn tại - một con a míp còn có nhiều sức sống hơn ông. “Sự chiến thắng của sức mạnh tinh thần.” Cô nhân viên mới vào làm nói. Chỉ có những người mới toanh như cô ấy mới nói đến “kết quả tích cực” và “chương trình cải thiện” - vốn là những lời an ủi chẳng có ý nghĩa gì đối với hầu hết cư dân của Đồi Dương, những người hoặc là sắp chết hoặc đã loạn trí, hoặc cả hai. Nơi này được gọi là “nhà dưỡng lão” nhưng nó chẳng giống một ngôi nhà, mà các cư dân của nó cũng chẳng được “dưỡng lão” đến nơi đến chốn, khi mà người chủ của nó cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe để thu lợi nhuận nên thuê nhân viên với mức lương tối thiểu. Ở đây cũng chẳng nhìn thấy ngọn đồi hay cây dương nào. Đây là một mối băn khoăn đặc biệt mà thi thoảng Viola lại nghĩ đến, trong khi thực sự thì vấn đề đó không đáng để phê phán, và nó chỉ khiến bà giống như một người điên trong mắt các nhân viên - chủ yếu là người nước ngoài - ở nhà dưỡng lão này. (“Nói tiếng Ba Lan và Tagalog[211].” Tập sách mỏng giới thiệu về Đồi Dương viết như vậy.)

“Trong này ngột ngạt quá!” Bà nói với Teddy. Ông lẩm bẩm gì đó, có thể là lời đồng tình. Lò sưởi được để ở nhiệt độ cao quá mức, càng tôn lên những thứ mùi đáng ghét khiến ta nôn ọe ngay khi bước vào tòa nhà, và giúp nuôi dưỡng hàng triệu con vi khuẩn hẳn đang bay lượn vòng quanh. Ở đây thường có mùi nước tiểu và phân động vật, cũng như mùi của một thứ gì đó thối rữa và thiu hỏng mà không một lượng nước sát trùng tẩy uế nào có thể khỏa lấp được. Viola đoán đó là mùi tuổi già. Khi tới thăm Đồi Dương, bà cầm theo một chiếc khăn mùi soa tẩm nước hoa Chanel để thi thoảng đưa lên mũi ngửi, giống như một bó hoa thơm để chống lại bệnh dịch[212].

Các cửa phòng đều được mở toang, do đó mỗi phòng giống như một bức tranh nhỏ, phơi bày cảnh tượng tang thương ở bên trong, giống như một sở thú khủng khiếp hoặc một bảo tàng kinh dị. Vài người nằm trên giường, hầu như không nhúc nhích, trong khi có những người lại rên rỉ, la hét. Rồi lại có những người được dựng dậy, ngồi trên ghế, đầu gục xuống ngực như những đứa trẻ đang ngủ, và ở đâu đó không nhìn thấy được, một người phụ nữ đang kêu meo meo như một con mèo. Khi đi bộ dọc theo các hành lang, ta phải luồn lách qua “những người bị thương vẫn còn đi lại được” (Viola nghĩ về họ như vậy), họ là những linh hồn lạc chỉ đơn giản lê bước đi đi lại lại suốt cả ngày, mà không biết mình là ai hay mình đang đi đâu (rõ ràng là chẳng đi đâu cả). Không ai trong số họ biết mật mã của cánh cửa đang khóa chặt của chái nhà ấy (1-2-3-4 - có gì khó đâu chứ?), nếu có biết thì họ cũng chẳng thể nhớ, và nếu có thể nhớ thì đối với họ nó cũng chỉ là những con số vô nghĩa bởi vì trí não của họ đầy các lỗ hổng, giống như đăng ten vậy. Thi thoảng Viola thấy họ tụ tập với nhau ở cửa, như các xác sống (những xác sống chậm chạp, lờ đờ sẽ chẳng đuổi theo ai, dù có được trả tiền hay không), im lặng, chăm chú hướng mắt qua lớp kính lưới thép để nhìn ra cái thế giới mà bây giờ họ đã bị cấm cửa. Họ là các tù nhân đang thụ án chung thân. Những cái xác biết đi.

Bầu không khí ở chái nhà này càng trở nên khó chịu hơn bởi tiếng ti vi choe chóe lấn át nhau phát ra từ tất cả các phòng, phòng nào phòng nấy đều vặn âm lượng rất to - Chương trình Đổi hay không đổi đang cố gắng dìm đi chương trình Về nơi thôn dã, và chẳng ai thực sự quan tâm mình đang xem gì, bởi vì họ không thể hiểu được gì cả. Lúc nào cũng có tiếng chuông ngân rất dài vang lên ở đâu đó, bởi vì một cư dân đang cố gắng gây sự chú ý của ai đó, bất cứ người nào.

Còn có một sảnh sinh hoạt chung, nơi các cư dân ngồi trước một cái ti vi thậm chí còn lớn hơn và ồn ào hơn những chiếc ti vi trong phòng của mọi người. Vì một lý do nào đó mà Viola không thể hiểu thấu, trong sảnh còn có một cái lồng to nhốt một cặp vẹt xanh chẳng bao giờ được ai chú ý đến. Bà vốn không thích Fanning Court, khu cư xá dành cho người già mà bà đã dỗ dành cha mình chuyển đến gần hai mươi năm trước, nhưng so với viện dưỡng lão này - ồ, xin lỗi, nhà dưỡng lão - nơi đó chính là vườn Địa Đàng đã mất. “Ồ, đây chính là địa ngục.” Bà thủng thẳng nói với cha mình. “Con chẳng thoát được nó[213], bố cũng không.” Bà nở nụ cười tươi với một nhân viên chăm sóc đi ngang qua cánh cửa mở. Có người tỉnh táo nào lại có thể nghĩ rằng “cái chết không đau đớn[214]” là một điều tồi tệ chứ? Shipman[215] đã khiến cho tất cả mọi người nghĩ xấu về nó.

Nhưng dù Đồi Dương có tồi tệ thế nào thì nó cũng giúp Viola không phải chăm sóc cha bà, bà không phải thay bỉm, bón cháo và cố nghĩ ra những trò tiêu khiển cho ông trong những giờ phút dài đằng đẵng. Bà chưa bao giờ giỏi chăm sóc con cái, vì thế bà cũng sẽ chẳng biết cách chăm sóc một người đang ở bên kia con dốc cuộc đời. Bà không phù hợp với việc chăm sóc người khác.

Viola cho rằng bên trong bà được tạo thành từ một loại vật chất cứng rắn, như thể các mô và các cơ quan nội tạng mềm mại của bà đã bị can xi hóa vào một thời điểm nào đó từ rất lâu trong quá khứ. Sự chai sạn hóa của Viola Romaine. Một tiêu đề hay cho một cuốn sách viết về cuộc đời bà. Nhưng ai sẽ viết nó? Và làm thế nào bà ngăn họ được?

Thành thật mà nói (chí ít là với chính bản thân bà), bà không thực sự thích người khác. (““L’enfer, c’est les autres[216].” Viola Romaine cười nhẹ, nhưng rõ ràng điều đó chẳng đúng chút nào, vì bà thường viết về nhân tình thế thái với sự đồng cảm lớn.” Tạp chí Đỏ, 2011.) Để bào chữa cho bà (Viola thường nghĩ về mình ở ngôi thứ ba, như thể bà đang trình diện trước một bồi thẩm đoàn), để bào chữa cho bà, dạo gần đây bà thường xúc động đến chảy nước mắt bởi những câu chuyện về sự ngược đãi động vật, điều này chứng tỏ bà không phải là một kẻ vô lương tâm. (Bồi thẩm đoàn đang dè dặt phán xét.) Nếu ta đọc báo lá cải, một việc Viola thường làm - “Cần phải hiểu kẻ thù của mình.” Bà sẽ nói với bồi thẩm đoàn, nhưng thực ra những tờ báo khổ nhỏ ấy còn đáng đọc hơn nhiều so với những tờ báo khổ lớn cao ngạo tự mãn - ta sẽ thấy có vẻ như ở nơi nào cũng có những người đang bỏ đói những chú ngựa đến chết, hoặc ném những con chó con vào máy sấy khô quần áo, hoặc nhét những con mèo con vào lò vi sóng như thể chúng là đồ ăn vặt.

Những câu chuyện này khiến Viola cảm thấy kinh hoàng, nhưng bà lại chẳng có cảm giác như vậy đối với những câu chuyện, ví dụ như, về sự ngược đãi trẻ con. Bà phải giấu giếm sự thật này, nó là một điều cấm kỵ, giống như việc bỏ phiếu cho Đảng Bảo thủ. Ngay cả Gregory, bác sĩ trị liệu cho bà, cũng không biết. Bà đặc biệt không thể để Gregory biết, vì nếu anh ta biết, anh ta sẽ dựa vào nó để thao thao bất tuyệt dạy đời bà. Con người bí mật của nàng: Cách che giấu bản chất thật của mình, tác giả Viola Romaine.

Bà bào chữa rằng (Bà có cần bào chữa không? Có lẽ là có) bà đã bị trục xuất khỏi lãnh địa của tình yêu sau khi mẹ bà qua đời. Nếu là cha bà, ông sẽ nói “Sau khi tôi mất vợ”, như thể Nancy là một món đồ mà ông sơ suất làm thất lạc. Bị trục xuất khỏi lãnh địa tình yêu, đó là tiêu đề một trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Viola. “Một câu chuyện chua xót về sự đấu tranh và mất mát.” Tạp chí Woman’s Own nhận xét. Những cuốn sách bà viết là nơi người ta có thể tìm thấy những gì tốt đẹp nhất của bà. (“Gần như ngang ngửa với nữ nhà văn Jodi Picoult.” Trang web Mumsnet nhận định.) Các độc giả của bà (chủ yếu là phụ nữ) - và bà có rất nhiều độc giả trung thành - đều nghĩ bà là một người tốt, không, một người tuyệt vời. Điều đó thật đáng ngại. Nó khiến bà cảm thấy tội lỗi, như thể bà đã hứa hẹn những điều mà bà không thể thực hiện được.

Ba năm nay, tuần nào bà cũng đến thăm Đồi Dương, mặc dù bà chẳng muốn đặt chân đến nơi này chút nào, nhưng bà không muốn bị coi là người vô trách nhiệm. Viola chẳng thích thú gì việc ở bên cha mình. Bà đã luôn giữ khoảng cách với ông vì lý do này hay lý do khác, nhưng bây giờ ông đã là một phế nhân, giống như một đứa trẻ, bà cảm thấy ông vô cùng xa lạ. Ông lão thủy thủ[217] thật may mắn - con chim hải âu của ông ta đã chết trước khi nó bị treo quanh cổ ông ta.

Hôm nay bà đi tàu hỏa từ Harrogate tới đây bởi vì bà đang trên đường đến một nơi khác. Bà thầm ghi nhớ trong đầu. Trên đường đến một nơi khác - một tiêu đề hay ho. Harrogate là nơi thuộc dạng thắng các cuộc thi làm vườn Britain in Bloom và là nơi sự nghèo đói bị quét sạch khỏi tầm mắt. Viola vẫn ấp ủ sự tiếc nuối vì bà chưa bao giờ vượt ra khỏi biên giới của Yorkshire, chưa bao giờ được sống cuộc sống sành điệu và thị thành ở London (bà tưởng tượng đó là một cuộc sống như vậy).

Bà không tính khoảng thời gian lưu trú ngắn ngủi của mình cùng với Dominic vô công rồi nghề trong một ngôi nhà mà họ chiếm dụng bất hợp pháp. Lúc đó họ ở khu Islington, khi ấy nó còn chưa trở thành một khu hạng sang, và bà hầu như không bước chân ra khỏi nhà. “Chứng trầm cảm sau sinh.” Sau này bà nói với mọi người như vậy, một cái mác bệnh tật hợp pháp để phô với mọi người, mặc dù thực chất đó chỉ là sự trầm cảm thông thường. (“Tôi nghĩ tôi bị trầm cảm bẩm sinh.” Bà nói với cuốn tạp chí Psychologies (Tâm lý). “Tôi nghĩ nó khiến tôi thấu hiểu mọi người hơn.”)

Nếu sống ở London vào thời điểm này, bà sẽ được mời đến các bữa tiệc, những buổi ăn trưa và liên hoan. Sách của bà bán quá chạy (“bà là tác giả ăn khách trên thế giới”) nên giới sành sỏi sẽ không vây quanh bà, nhưng không nên nghĩ rằng bà là một tác giả đại chúng hoang dã đang đập rầm rầm cánh cổng dẫn vào London[218]. (“Tôi là người phương Bắc và tôi tự hào vì điều đó.” Bà nói trong cuộc phỏng vấn với tờ Daily Express (Tin nhanh hằng ngày), tháng Ba năm 2006. Có thật thế không? Không hẳn thế.)

Bà muốn được lớn lên ở những quận hạt sang trọng bao quanh London, bà muốn được lớn lên ở Góc Cáo, nơi bây giờ gần như chỉ còn là huyền thoại trong trí nhớ của bà, trong trí nhớ của tất cả mọi người. Năm bà lên sáu thì Sylvie mất và ngôi nhà bị bán đi. Vài năm sau, Quạ Gáy Xám, ngôi nhà thời thơ ấu của mẹ bà, cũng tiếp bước nó khi bà Shawcross trở nên già yếu và chuyển đến Dorset để sống nốt những ngày còn lại cùng với Gertie nhẫn nại. Đó là lỗi của cha bà, sau chiến tranh, ông đã chọn nơi đây để an cư. Bà chưa bao giờ hỏi lý do. Giờ thì đã quá muộn rồi. Tất cả đều đã quá muộn rồi.

Nữ hoàng vẫn tiếp tục đi thuyền giữa trời mưa gió một cách quả cảm. “Đại lễ Kim cương của bà ấy đấy.” Viola nói với Teddy. “Bà ấy đã ngự trên ngai vàng được sáu mươi năm. Đó là một khoảng thời gian dài. Bố có nhớ lễ đăng quang của bà ấy không?” Viola còn chưa tròn một tuổi khi Nữ hoàng lên ngôi và bà chưa bao giờ biết một vị vua nào khác. Bà cho rằng bà sẽ được chứng kiến Thái tử Charles lên ngôi, hoặc có thể là Hoàng tử William nếu bà sống đủ lâu, nhưng bà sẽ không được chứng kiến đứa trẻ bụ bẫm con của anh trở thành Vua George VII. Cuộc sống là hữu hạn. Các nền văn minh mọc lên rồi sụp đổ và cuối cùng mọi thứ đều trở thành cát bụi, kể cả đứa trẻ hoàng gia bụ bẫm ấy. Chẳng thứ gì tồn tại mãi. Có lẽ chỉ trừ các khách sạn.

Viola chìm vào tâm trạng u ám khi nghĩ về sự tồn tại (bà tự cho phép mình làm vậy), và chỉ được kéo ra khỏi đó khi cha bà bắt đầu nghẹn thở. Bà hoảng hốt, cố giúp ông ngồi dậy. Cái bình trên bàn của ông hầu như không còn giọt nước nào, mặc dù theo quy định nó phải luôn được rót đầy. Các “cư dân” (một từ lố bịch, như thể họ đã lựa chọn sống ở đây vậy) có lẽ đều đang phải chịu cảnh thiếu nước như thế này. Chưa kể còn bị đói nữa. Trên trang web của Đồi Dương có viết “Ba bữa ăn đầy đủ dưỡng chất mỗi ngày”. Hằng ngày trên bảng thông báo đều đính các thực đơn - khoai tây nghiền nướng thịt bò băm, cá và khoai tây áp chảo, thịt gà hầm. Nghe cứ như các món ăn thực thụ, trong khi thực tế tất cả những bữa ăn mà Viola nhìn thấy chỉ có một loại xúp lõng bõng màu be và món tráng miệng là một loại thạch. Cha bà dường như không ăn gì nữa, ông đã được ngầm định là một người Breatharian[219]. Viola từng bị hấp dẫn bởi chủ nghĩa Breatharianism trong một thời gian ngắn (rất chóng vánh, hiển nhiên rồi), như đối với tất cả những trào lưu, giáo phái khác. Sống dựa vào việc hít thở không khí có vẻ là một cách giảm cân hiệu quả. Đó là một ý tưởng kỳ cục và bà bào chữa rằng - bà quay sang bồi thẩm đoàn - bà từng phải trải qua một “quãng thời gian cực kì tồi tệ” trong cuộc đời. Chuyện này xảy ra trước khi bà phát hiện rằng tất cả những gì ta phải làm để giảm cân là ăn ít đi. (“Thon thả.” Theo lời tờ Mail on Sunday (Thư Chủ nhật). “Và vẫn là người chủ sở hữu đầy hãnh diện của một cặp chân tuyệt đẹp, mặc dù bây giờ bà đã đi xe buýt theo vé tháng.” Không phải. Bà đi tắc xi chứ. Và thuê xe có người lái. Và bà sẽ thích hơn nếu họ dùng từ “tuyệt diệu” thay vì “tuyệt đẹp”.)

Viola rót chỗ nước cặn trong bình vào một cái cốc nhựa, rồi bỏ vào đó loại phụ gia tạo đặc có thể biến bất cứ chất lỏng nào thành một chất sền sệt trông rõ là ghê tởm, nhưng được cho là có tác dụng chặn đứng cơn nghẹn của cha bà. Bà kề chiếc cốc vào môi ông để ông có thể nhấp một ngụm chất sền sệt đó.

“Bà thấy tuổi già là một điều đáng ghét.” Gregory hỏi. “Hay chỉ riêng tuổi già của cha bà thôi?”

“Cả hai.” Bà nói.

“Cả tuổi già của chính bà?”

Phải, đúng thế, bà rất sợ già đi. (“Mẹ già rồi mà.” Bertie nói.) Số phận của bà ở cuối “cuộc chơi” cũng sẽ thế này ư? Các câu lạc bộ ăn trưa, những cái ghế dành cho người cao tuổi và cuối cùng là bị một người nói tiếng Tagalog bón cho thứ chất lỏng sền sệt? Một người không thực sự quan tâm đến bà. Cha bà thường nói gieo gió ắt gặt bão. Bertie chắc chắn sẽ không chịu sống chung với bà. Có lẽ bà sẽ đến Ball để sống cùng Sunny. Con trai bà là một Phật tử, tôn giáo của nó bắt buộc nó phải có lòng trắc ẩn, không phải sao? “Nó giống một tín ngưỡng hơn là một tôn giáo.” Bertie nói.

Thử tưởng tượng xem nếu đó là một bộ luật và tất cả mọi người đều phải tuân thủ nó. Những khuôn mặt tươi cười, tỏ vẻ quan tâm xuất hiện ở khắp nơi, hỏi thăm liệu ta có ổn không. Liệu cuộc sống đó sẽ giống như địa đàng chốn nhân gian hay chỉ khiến ta thấy bực bội?

Đã mười năm rồi bà chưa gặp Sunny. Một thập kỷ! Sao chuyện đó lại xảy ra chứ? Loại mẹ gì mà cả một thập kỷ chưa gặp con mình? Mấy năm qua bà đã thử gặp Sunny vài lần. Chẳng hạn như khi bà đang đi quảng bá sách ở Australia, nhưng Sunny nói sẽ “đến Thái Lan” trong thời gian bà ở đó. Bà nói bà có thể dừng chân ở Thái Lan trên đường về. Sunny nói sẽ “đi bộ đường dài ở miền Bắc” và bà sẽ không thể gặp được anh. “Con thấy mẹ không cố gắng hết mình.” Bertie nói. Thẳng thắn, giống hệt ông ngoại nó, đương nhiên rồi.

“Mẹ đã bỏ anh ấy.” Bertie nói. Đúng vậy, bà đã giao con trai mình cho mấy người nhà Villiers độc ác kia. “Nhưng đó là vì…” Tuy nhiên các thành viên của bồi thẩm đoàn không thèm nghe nữa.

Con tàu Linh hồn của Chartwell neo lại gần Cầu Tháp. “Nữ hoàng đã dừng lại.” Viola thông báo với cha mình. “Trời vẫn mưa như trút. Bố sẽ ngưỡng mộ sự khắc kỷ của bà ấy nếu có thể nhìn thấy bà ấy.”

Ông lẩm bẩm gì đó. Miệng ông như chứa đầy đá. Mắt ông đã mờ đến mức không còn xem ti vi được nữa, và ngay cả khi ông có thể xem, ông cũng khó có thể liên kết khoảnh khắc này với khoảnh khắc tiếp theo, như thể mọi thứ đều vỡ tan ngay khi ông cố gắng giữ chặt chúng. Ông cũng không thể đọc sách. Trước khi ông bị viêm phổi đợt vừa rồi, ông vẫn có thể đọc những cuốn sách in khổ lớn, nhưng có lần bà phát hiện ông cứ đọc đi đọc lại chương đầu tiên của cuốn Những tòa tháp Barchester, lần nào cũng như mới đọc lần đầu tiên. Có lẽ, theo thời gian, bộ não ông cũng hoạt động cầm chừng hơn, bảo tồn những gì ít ỏi còn sót lại khi nó đến gần những ngày cuối cùng của mình. Nhưng chẳng phải thời gian là một khái niệm do con người tạo ra sao? Mũi tên của Zeno[220] đang chệnh choạng bay tới một điểm đích tưởng tượng trong tương lai. Trên thực tế, mũi tên đó không có đích, họ không phải đang ở trong một cuộc hành trình nào cả, và cũng chẳng có những điểm đến cuối cùng, nơi mọi thứ đột nhiên trở nên rõ ràng và những bí ẩn được tiết lộ. Họ đều chỉ là những linh hồn lạc, lang thang trên các hành lang, lặng lẽ tụ tập ở cửa. Không có miền đất hứa nào, không có thiên đường nào. “Thật vô nghĩa!” Bà nói với cha bà, nhưng có vẻ ông đã ngủ thiếp đi. Viola thở dài và dọn đi thứ chất lỏng sền sệt chưa được đụng đến trên cái bàn gấp gắn ở trên giường ông.

“Và bây giờ, những chiếc tàu thuyền đang băng qua trước mặt bà ấy. Đủ mọi loại khác nhau. Trông chúng đến là tẻ nhạt.” Điện thoại của Viola reo lên. Chữ “Bertie” hiển thị trên màn hình. Viola định không trả lời nhưng rồi lại bắt máy.

“Mẹ đang xem đám rước trên sông Thames với ngoại Ted ạ?” Bertie hỏi.

“Ừ, mẹ đang ở trong phòng của ông.”

“Đúng là vớ vẩn mẹ nhỉ? Tội nghiệp Nữ hoàng, bà ấy gần già bằng ngoại Ted, vậy mà phải chịu đựng chuyện này.”

“Ở đây không mưa. Nữ hoàng sẽ chết mất trong cái thời tiết đó.” Viola nói. Gần như cả cuộc đời người lớn của mình, bà đã hùng hồn thao thao bất tuyệt về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng hòa, nhưng gần đây bà lại bộc lộ sự yêu mến kỳ lạ đối với hoàng gia. Và bà đã bỏ phiếu cho Đảng Bảo thủ trong cuộc bầu cử vừa rồi, mặc dù người ta phải tra tấn bà thì may ra bà mới tiết lộ sự thật đó. “Tôi nhận thấy đó là một lá phiếu khôn ngoan.” Bà giải thích với bồi thẩm đoàn. Họ không bị thuyết phục. Đảng Độc lập UKIP vẫn chưa được chấp nhận, nhưng chẳng ai nói trước được điều gì. Người ta không chín chắn hơn khi về già, họ chỉ đơn giản mục rữa đi, như những gì Viola có thể nhận thấy.

“Thôi.” Bertie nói, ám chỉ rằng cô đã hết chuyện để nói với mẹ. “Mẹ chuyển điện thoại cho ngoại Ted được không?”

“Ông sẽ không hiểu con nói gì đâu.”

“Mẹ cứ chuyển cho ông đi.”

Nếu Viola có thể bắt đầu lại - làm gì có cơ hội thứ hai chứ, cuộc sống không phải là một sự diễn tập, hay đại loại vậy - đúng thế, nhưng nếu bà có thể, nếu bà có thể bắt đầu lại cuộc hành trình mà thực ra vốn không phải là một cuộc hành trình, bà sẽ làm gì? Bà sẽ học cách yêu thương. Học cách yêu thương, một cuộc hành trình chuộc lỗi đầy đau đớn nhưng cần thiết, bộc lộ sự ấm áp và lòng trắc ẩn khi tác giả học cách vượt qua nỗi cô đơn và tuyệt vọng. Những biện pháp mà bà chọn để hàn gắn mối quan hệ với các con đặc biệt đáng tuyên dương. (Bây giờ một nửa thành viên của bồi thẩm đoàn đã ngủ gật.) Bà đã cố gắng, bà thực sự đã cố gắng. Bà đã tự cải thiện mình. Nhiều năm trị liệu và làm lại từ đầu, mặc dù cũng chẳng có việc gì thực sự đòi hỏi bà phải bỏ quá nhiều công sức. Bà muốn ai đó tạo ra sự thay đổi nơi bà. Tiếc là ta không thể chỉ tiêm một mũi gì đó là mọi thứ đột nhiên trở nên ổn thỏa. (“Mẹ thử heroin đi.” Bertie mỉa mai nói.) Bà vẫn chưa hướng về nhà thờ, nhưng bây giờ bà đã bỏ phiếu cho Đảng Bảo thủ (thật tài tình!), có lẽ tiếp theo sẽ là việc sử dụng các từ ngữ thuần Anh. Nhưng dường như bất kể Viola làm lại từ đầu bao nhiêu lần, bà luôn thấy mình giậm chân tại chỗ, và bất kể bà cố gắng thế nào, khuôn mẫu đầu tiên của bản thân bà vẫn luôn có vẻ lấn át những phiên bản sau này. Vậy thì tại sao phải bận tâm đến việc thay đổi mình chứ? Đúng không?

“Vô nghĩa.” Bà lại nói khi cố mở cửa sổ rộng hơn, nhưng nó có một cái chốt ngăn nó dịch chuyển quá năm phân, như thể những người quản lý ở đây đang cố ngăn ngừa những chú lùn tí hon rơi ra ngoài, thay vì những người già có vóc dáng bình thường, dù có hơi quắt queo. Họ đang ở trên tầng hai và nhìn ra những thùng rác công nghiệp khổng lồ chứa những loại rác thải mà có Chúa mới biết là hôi hám đến mức nào.

Hẳn là cha bà đang nhớ không khí trong lành lắm, ông đã luôn thích ở ngoài trời. Ông yêu thiên nhiên. Một tia thương cảm dành cho ông chợt lóe lên trong bà, nhưng rồi bà dập tắt nó ngay.

Hồi bà còn nhỏ, hầu như cuối tuần nào họ cũng lái xe về vùng nông thôn và đi bộ hàng dặm đường, vừa đi ông vừa nhồi nhét vào đầu bà thông tin của các loài hoa, động vật, cây cối. Ôi Chúa ơi, bà căm ghét những chuyến đi đó làm sao! Ông từng viết bài cho một chuyên mục trên một tờ tạp chí đồng quê ít tên tuổi trong nhiều năm trời. Đương nhiên, nếu bà lắng nghe ông, bà đã có thể học được vài điều hữu ích, nhưng bà bướng bỉnh không chịu lắng nghe, bởi vì dù ông có nói gì chăng nữa cũng chẳng thể bù đắp được cho việc ông đã đánh mất mẹ bà. Con muốn mẹ. Tiếng gào khóc tuyệt vọng của một đứa trẻ trong đêm. (“Ôi, vì Chúa, mẹ hãy vượt qua chuyện đó đi.” Bertie nói. Theo đánh giá của Viola, Bertie đã tỏ ra gay gắt một cách không cần thiết.)

“Trước đây bà đã dùng từ “giữ khoảng cách” khi nói về cha bà.” Gregory nói. Đương nhiên, anh ta cũng là một hiện thân của Tiếng nói của Lý trí, cái giọng nói đã đeo đẳng bà cả đời.

“Tại sao lại giữ khoảng cách?” Anh ta thúc giục bà.

“Tôi đã dùng từ đó à?”

“Vâng.”

Bà cho rằng anh ta đang nghĩ bà từng bị lạm dụng, hoặc gặp phải một bi kịch nào đó đau đớn và ám ảnh tương tự như thế, rồi anh ta cố gắng dụ dỗ bà kể ra. Nhưng điều khiến bà muốn giữ khoảng cách với cha mình lại chính là cái tính hay lo xa của ông. Cả sự khắc kỷ (phải, từ này đã bị lạm dụng quá nhiều) và sự tằn tiện tự nguyện của ông - nuôi ong, nuôi gà, trồng rau. Những công việc phải làm (“Bố sẽ giặt quần áo nếu con phơi chúng”). Thức ăn thừa phải được tận dụng hết. (“Chà, xem nào, trong tủ lạnh có một miếng giăm bông và ít khoai tây ngu