Chương 18 Những cuộc phiêu lưu của Augustus
“Chẳng phải đó là Augustus sao?” Cô Slee thì thầm vào tai ông Swift. Tiếng thì thầm khá to, có thể khiến những người ngồi xung quanh ngoảnh lại nhìn ta chăm chú.
Vẻ mặt của ông Swift vẫn bình thản, nhưng ông không thể kìm được chút run rẩy bởi cảnh tượng trước mắt. Cô Slee rướn người về đằng trước để gây sự chú ý với bà Swift. “Đó là Augustus, đúng không?” Cô khăng khăng, tiếng thì thầm càng to hơn. “Con trai chị.” Cô nói thêm. Đó thực sự không còn là tiếng thì thầm nữa. Là tiếng thét thì đúng hơn. Vẻ mặt bà Swift vẫn khó có thể nhìn thấu. Các khán giả còn lại cũng sửng sốt như cha mẹ Augustus bởi cảnh tượng đang trải ra trước mắt họ trên sân khấu của hội trường làng.
Hoạt cảnh “Nước Anh qua các thời kỳ” đã diễn đến cảnh hạm đội Armada của Tây Ban Nha tấn công nước Anh, và Elizabeth I đang hô hào kích động tinh thần của các binh sĩ ở Tilbury. Gloriana[247] đã trưng dụng cỗ xe của Boadicea[248] - một món đồ tự chế - và đang vung một cây đinh ba mượn từ Britannia[249]. Hai hình tượng cao quý của nữ giới này (do Phyllis, chị gái của Augustus và tiểu thư Lamington của Lâu đài đóng) không hề tự nguyện giao vật sở hữu của mình và đang đứng ở hai bên cánh gà, trừng mắt nhìn Gloriana.
Những diễn viên còn lại trong hoạt cảnh này vẫn táo bạo diễn tiếp, bất chấp sự thật rằng một nửa bối cảnh đã đổ sập, và có mấy con chó đang thơ thẩn loanh quanh trên sân khấu.
Mục sư, ngồi ở phía bên kia của bà Swift, nói với bà: “Tôi cứ tưởng bà Brewster đóng vai Nữ hoàng Elizabeth. Người đang đứng trên sân khấu kia là ai vậy?” Ông ta thắc mắc.
Bộ tóc giả màu đỏ của Gloriana đã tuột xuống một bên, và vì không có trang phục thích hợp nên “bà” đã quấn một cái áo choàng của một vị tướng La Mã. Vị tướng này cũng chẳng hề tự nguyện đưa nó cho Gloriana. Hai đầu gối Gloriana bẩn thỉu đến mức đáng kinh ngạc, chúng hiện rõ bên dưới chiếc áo choàng, và trong túi “bà” có thứ gì đó nhìn gần giống như một cây súng cao su.
Nữ hoàng Gloriana lôi thôi lếch thếch này hét lên với kiểu cách chẳng giống một nữ hoàng chút nào: “Các khanh đang làm rất tốt. Hãy “tiêu diệt” hết lũ chó này và những thứ tương tự.” “Quân Tây Ban Nha[250] chứ!” Bà Garrett rít lên từ cánh gà. Gloriana vung cao cây đinh ba của Britannia lên và hét to: “Giờ hãy tiến lên và tiêu diệt sạch những kẻ còn lại!” Một bầy trẻ con nhộn nhạo đổ xô lên sân khấu, gầm rú và la hét, có đứa còn rít lên the thé. Lũ chó sủa ầm lên khi thấy chúng. Vài đứa trẻ - không, nhiều đứa trẻ trong số đó từ trước tới nay rất ngoan nhưng bây giờ chúng có vẻ đã trúng phải thuật thôi miên của Gloriana. Nhiều khán giả dường như cũng trúng phải thuật thôi miên ấy, họ đang dõi theo Gloriana với cái miệng há hốc vì kinh hãi.
“Chẳng phải lũ trẻ này được giao đóng vai đội quân Tây Ban Nha sao?” Mục sư hỏi bà Swift. ““Quân xâm lăng”.” Ông ta nói, sau khi liếc tờ giới thiệu chương trình.
“Tôi không chắc tôi biết ai được phân đóng vai gì nữa.” Bà Swift nói, quẫn trí bởi cảnh tượng gớm ghiếc: mái tóc giả màu đỏ tuột xuống thấp hơn trên mặt con trai bà.
“Có phải bọn trẻ đó…” Mục sư hỏi. “… Cũng đã đóng vai quân Saxon, Viking và Norman? Khó mà nhận ra được vì bây giờ chúng đều quết sơn xanh lên khắp người rồi. Theo bà thì việc này tượng trưng cho cái gì? Đất nước Anh xinh tươi xanh ngát chăng?”
“Tôi không nghĩ vậy.” Bà Swift nói và khẽ thốt lên một tiếng kêu hoảng hốt khi cỗ xe của Boadicea, vốn không chắc chắn lắm, đột nhiên bị sập, và Gloriana ngã nhào xuống sân khấu một cách nhục nhã, kéo đổ những phông cảnh còn sót lại theo mình. Một con chó sục nhỏ vùng cao nguyên phía Tây chạy lên sân khấu, vừa khéo ngoạm lấy bộ tóc giả màu đỏ và chạy biến đi trong tiếng rít của ai đó sau cánh gà.
“Đó chính là Augustus.” Cô Slee nói.
“Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thằng bé đó trong đời.” Ông Swift quả quyết.
“Tôi cũng thế.” Bà Swift nói.
Nghĩ lại thì, ông Swift rầu rĩ nói, ta có thể thấy rằng nó chắc chắn kết thúc trong thảm họa.
“Và nó đã khởi đầu rất tốt.” Bà Swift nói.
“Lúc nào chẳng vậy.” Ông Swift nói.
Cả ngôi làng đã vô cùng phấn khích. Ông Robinson, người điều hành hội lịch sử địa phương, đã phát hiện ra rằng ngôi làng cổ kính hơn bất cứ ai từng nghĩ, bằng chứng nằm ở tàn tích của một biệt thự La Mã vừa được khai quật trên một cánh đồng ngoài rìa ngôi làng. “Bằng chứng đó cho thấy nó đã bị những kẻ chinh phạt người La Mã chiếm đóng từ rất sớm.” Ông Robinson nói.
“Một bệt[251] thự.” Augustus thông báo với nhóm bạn nhỏ của mình. Những “kẻ đồng lõa” của cậu - Norman, George và Roderick - vừa mới quyết định đặt cho nhóm mình một cái tên. Chúng đã cân nhắc rồi loại bỏ mấy cái tên như Những gã cướp biển, Những kẻ ngoài vòng pháp luật và Những tên cướp, và sau nhiều cuộc tranh luận (có thể nói là những cuộc tranh cãi bất tận) và một, hai cuộc ẩu đả nhỏ, cuối cùng chúng quyết định rằng cái tên Thổ dân Apache thể hiện được sự can đảm, táo bạo của chúng. (Sự khát máu thì đúng hơn, ông Swift nói.)
“Những cây dẻ ngựa[252] La Mã.” Augustus giải thích thêm. Các “thổ dân Apache” lầm rầm thích thú. Hằng năm, cứ đến mùa thu, sân trường của chúng lại trở thành bãi chiến trường cho Cuộc chiến Dẻ ngựa thường niên, một cuộc chiến cực kì hoang dã có kết cục tất yếu là sẽ có vài kẻ bị thương phải tới phòng y tế.
Ông bà Swift đã mời ông Robinson đến ăn tối cùng với mục sư - một mẫu mục sư tốt bụng, hơi lẩm cẩm, rất phổ biến ở vùng này, và cô Slee - một gái già thẳng thắn, khá nam tính, có sở thích là cuối tuần nào cũng “đi chơi”. (“Đi chơi?” Augustus khinh khỉnh nói với bố mẹ. “Sao việc đó lại được coi là một sở thích được? Bố mẹ lúc nào cũng nói với con rằng “Đừng có đi chơi đi bời nữa, Augustus” rồi thì…” Cậu kéo ve áo của một cái áo choàng luật sư tưởng tượng. “Rồi thì bố mẹ nói “Sao con không có sở thích nào lành mạnh hơn vậy, Augustus?”.”)
Cùng ngồi nhấm nháp ly rượu sherry của ông bà Swift là ông bà Brewster vừa mới dọn đến làng và Đại tá Stewart, người thường bất mãn với tất cả mọi người và cực kì không thích mấy cậu nhóc. “Một bữa tiệc tối ư?” Bà Brewster reo lên khi được mời. “Thật là tuyệt.” Bà Brewster là một người khá nổi bật. Bà có vóc dáng cao ráo, mái tóc xoăn đỏ ấn tượng và khá điệu bộ, màu mè. Có vẻ như bà rất thích kịch nghiệp dư.
“Không chỉ người La Mã đâu.” Ông Brewster nói, nhìn bình rượu sherry gần cạn với vẻ lo lắng. “Còn có cả người Angle, Saxon, Viking, Norman, hết bè lũ xâm lược này đến bè lũ xâm lược khác.” Theo lời bà Carlton, một gái già lớn tuổi có khuôn mặt chuột chù đã nhìn thấy ông Brewster liếc bình rượu, vợ chồng Brewster là một “nhà giàu mới phất”. Bà là một “người bài rượu”, điều này có vẻ khiến bà trở nên dễ cáu kỉnh. Bà đã thuyết phục Augustus và những người còn lại trong bộ lạc nhỏ của cậu thề rằng sẽ không bao giờ uống rượu bằng cách cho chúng những ly nước chanh giá nửa xu. “Được ạ.” Nhóm “thổ dân Apache” đồng ý. Người cuối cùng “chốt sổ” trong bữa tiệc tối của nhà Swift là người hàng xóm sát vách nhà họ, bà Garrett.
“Trước kia…” Ông Robinson lại bắt đầu nói. “… Chúng ta chỉ có thể truy nguyên lịch sử của mình ngược về thời ban hành Địa bạ Anh[253].”
“Ngày phán quyết[254].” Augustus lẩm bẩm với vẻ tán thưởng. “Ngày phán xét.” Cậu thích những từ có nhiều cách gọi. Việc nghe lén của cậu bị phá ngang một cách thô bạo khi bà đầu bếp gõ cái thìa xúp vào đầu cậu - món vũ khí bà yêu thích - và đuổi cậu đi. “Thằng bé đó rất hay nấp ngoài cửa rình mò.” Cậu từng nghe thấy bà ta phàn nàn với Mavis, cô hầu gái nhà họ. “Nó đúng là một tên gián điệp nhí.” Augustus cảm thấy khá hài lòng với lời khen này. Đương nhiên, khi nào cậu lớn, cậu sẽ trở thành một gián điệp. Cũng như phi công, người lái tàu, nhà thám hiểm và “nhà sưu tầm”.
“Sưu tầm những gì?” Bà Swift đã hỏi khi họ đang ngồi ở bàn ăn vào sáng hôm đó, và lập tức hối hận vì câu hỏi đó khi Augustus hồ hởi nêu ra cả một danh sách dài ngoằng bao gồm xương chuột, những đồng pha đin bằng vàng, động vật thân mềm, dây bện, kim cương và nhãn cầu bằng thủy tinh.
“Bố chưa bao giờ nghe nói đến những đồng pha đin bằng vàng.” Ông Swift nói.
“Đó là lý do con sẽ sưu tầm chúng. Chúng sẽ đáng giá cả một gia tài.”
“Nếu chúng không tồn tại thì sao?” Ông Swift hỏi.
“Thế thì chúng sẽ càng đáng giá hơn nữa.”
“Em đã đánh rơi nó đập đầu xuống đất hồi nó còn bé à?” Ông Swift hỏi mẹ của Augustus. Bà Swift lẩm bẩm gì đó nghe như “Giá mà em làm vậy”, và nói thêm, to hơn: “Đừng có ngoáy lọ mứt cam nữa, Augustus.”
“Đi chỗ khác chơi.” Bà bếp nói với cậu. Bà vẫn đang hết sức phẫn nộ vì món Charlotte Russe[255] mà bà tính dành làm “món tráng miệng”. Họ thường làm những món tráng miệng cầu kỳ mỗi khi nhà có khách, còn bình thường họ chỉ đơn giản ăn bánh pudding mà thôi. Augustus nói rằng cậu chẳng có lỗi gì khi ăn hết những cái bánh xốp hình ngón tay. Cậu chỉ định ăn đúng một cái thôi nhưng không hiểu sao khi cậu nhìn lại, chúng đã hết sạch! Sao lại thế nhỉ? (Sao chuyện đó xảy ra thường xuyên thế nhỉ?) Trong nỗi thất vọng, bà bếp đành phải biến món Charlotte Russe thành một món bánh mousse tầm thường hơn. “Họ sẽ nghĩ gì đây?” Bà càu nhàu.
“Họ sẽ nghĩ họ cực kì may mắn.” Augustus nói, hiểu nhầm từ “mousse” là “moose”, có nghĩa là nai sừng tấm, nghe có vẻ là một món ăn thú vị hơn hẳn những món thường được dọn lên trên bàn ăn nhà Swift. Trên thực tế, nai sừng tấm là con mồi mà thổ dân Apache có thể săn bằng cung tên trước khi nướng bằng một cái xiên trên ngọn lửa trại. (Cung tên của Augustus hiện đã bị tịch thu vì một tai nạn không may.)
“Ở đất nước này làm gì có nai sừng tấm.” Ông Swift chỉ ra.
“Sao bố biết…” Augustus nói. “… Khi mà bố chưa từng nhìn thấy con nào?”
“Con có năng khiếu của một nhà chủ nghĩa kinh nghiệm đấy.” Bố cậu đã nói với cậu sau một cuộc tranh luận cực kì sôi nổi về những quả bóng cricket và tấm kính ở nhà kính. (“Nếu bố không thấy ai ném quả bóng thì làm sao bố biết đó là con?” Ông Swift mệt mỏi nói: “Bởi vì thủ phạm lúc nào cũng là con.”)
Bà Garrett đột nhiên vỗ tay và nói: “Một hoạt cảnh!” (Augustus đã trở lại, lảng vảng ngoài cửa, một thìa xúp không thể làm nhụt chí của một thổ dân Apache.) “Chúng ta nên có một hoạt cảnh để tôn vinh lịch sử của làng.”
Nhóm người ở bàn ăn đều đồng tình ngay lập tức. “Nó sẽ miêu tả lại toàn bộ lịch sử của nước Anh từ góc nhìn của một ngôi làng Anh quốc điển hình.” Bà Garrett tán tụng.
“Chính tôi đây…” Bà Brewster nói. “… Từng đóng vai nữ hoàng vài lần trong các vở kịch.”
Bà Swift lẩm bẩm gì đó không ra tiếng.
“Nhưng tất cả những thằng nhóc khủng khiếp đó không được tham gia.” Đại tá Stewart nói.
“Ôi, Chúa ơi, không! Tôi đồng ý.” Bà Carlton nói. “Ồ, tôi xin lỗi.” Bà vội vàng nói với ông Swift: “Trong số chúng có một đứa là con trai anh, đúng không?”
“Ờ…” Ông Swift ngần ngại. “Thực ra chúng tôi đã nhặt được nó trên ngưỡng cửa trước nhà.” Augustus cau mày trước “sự phản bội” này của cha. Những tiếng lầm rầm thông cảm vang lên quanh bàn và bà Swift tán thành. “Dĩ nhiên là không phải. Đó là ngưỡng cửa sau nhà.” Mọi người cười ồ lên vì câu nói này. Augustus càng nhíu mày chặt hơn. Bố mẹ cậu nhặt được cậu trên ngưỡng cửa thật sao? Cửa trước hay cửa sau cũng chẳng quan trọng. Cậu là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi. Cậu khá mừng trước ý nghĩ đó. Có lẽ cha mẹ đẻ của cậu cực kì giàu có, và họ vẫn đang đi tìm cậu kể từ lúc vô tình bỏ lại cậu trên bậc cửa nhà ông bà Swift.
“Ồ, tôi chắc chắn chúng ta có thể tìm ra thứ gì đó cho tất cả lũ trẻ làm.” Bà Garrett nói. Bà Garrett là một nhân vật khá phiền phức trong thế giới của Augustus. Trước kia bà chỉ là một bà góa thân thiện và khá can đảm. Bà quý trẻ con (một tính cách khác thường ở một người lớn) và có một nhà kính rất tuyệt vời trồng đầy đào và nho, các “thổ dân Apache” luôn cố gắng đột nhập vào đó trước sự phẫn nộ của thợ làm vườn nhà bà. Bà cũng rất hào phóng, hay cho bọn trẻ kẹo bánh (lại một thói quen khác thường ở một người lớn). Nhưng, rủi thay, bà cũng là lãnh đạo “chi nhánh” địa phương của tổ chức Afor Arod. Bà Garrett nói đó là từ Saxon, có nghĩa là “mạnh mẽ” và “can đảm”, hai đức tính mà chẳng thành viên nào của tổ chức đó có được. Nếu bạn có thể tưởng tượng ra một nhóm hướng đạo sinh bao gồm rặt những kẻ bị đám con trai cho ra rìa, thì đó chính là tổ chức Afar Arod: những kẻ hay lên mặt đạo đức, béo ú, bợ đỡ, học gạo - và đám con gái.
Theo lời bà Garrett, một thành viên tích cực của Hiệp hội Bảo đảm Hòa bình, Afar Arod là một phiên bản yêu hòa bình của tổ chức Hướng đạo “khá quân phiệt”. “Tinh thần hợp tác và hòa hợp với mọi người.” Bà nói. Mẹ Augustus nghĩ điều này sẽ “tốt” cho Augustus vì đây là những tính cách mà cậu “đang thiếu trầm trọng”. Không đúng! Cậu phản đối. “Mẹ thử nhìn vào nhóm Thổ dân Apache mà xem.”
“Đúng.” Bà Swift nói và kéo cậu tới một cuộc họp.
Thật là không công bằng, cậu cay đắng nghĩ khi nhìn một nhóm trẻ con nhảy nhót theo một vòng tròn. Nhảy nhót! Thế mà trước đó chẳng ai nhắc đến nhảy nhót cả.
“Ồ, một người bạn mới của chúng ta!” Bà Garrett tuyên bố như thể bà chưa bao giờ nhìn thấy cậu, mặc dù trên thực tế bà gặp Augustus gần như hằng ngày.
Và rồi Augustus gặp “khắc tinh” của mình. Cậu để ý đến một cô bé ở góc phòng, một cô bé có mái tóc xoăn tít và hai lúm đồng tiền dễ thương nhất mà cậu từng thấy. “Xin chào, mình là Madge.” Cô bé đang khâu cái gì đó. “Mình đang thêu một cái phù hiệu, cậu có muốn mình làm cho cậu một cái không, Augustus?” Augustus lặng lẽ gật đầu, trông cậu còn ngốc nghếch hơn thường lệ.
Và bây giờ, cậu lúc nào cũng nơm nớp lo sợ những thành viên còn lại trong nhóm Thổ dân Apache bắt quả tang cậu đang tham gia những trò gớm ghiếc của tổ chức Afor Arod: nhảy nhót, khâu vá, hát và làm thơ. Đi bộ giữa thiên nhiên - nhưng hóa ra không phải là sục sạo các tổ chim hoặc dùng súng cao su bắn bừa bãi vào mọi thứ, thực tế là không được phá hoại bất cứ thứ gì.
Toàn bộ chuyện này thật đáng ghét nhưng cậu không kìm được, phục tùng Madge vô điều kiện. (“Ồ, cảm ơn cậu vì đã quấn len giúp tớ, Augustus.”)
“Một hoạt cảnh.” Cậu thông báo với nhóm Apache. “Quân xâm lăng.” Cậu nói thêm. Cậu đẩy viên kẹo lê từ khoang miệng bên này sang khoang miệng bên kia, động tác này thường ám chỉ rằng cậu đang suy nghĩ rất lung. “Mình có ý này.” Cậu điềm nhiên nói. “Nếu chúng ta…”
“Ồ, chị thôi đi!” Teddy nói với Ursula.
“Cậu ta chẳng giống em chút nào, em biết mà.” Chị cậu cười nói.
“Em biết.” Teddy nói. “Nhưng làm ơn đừng đọc nữa.”
HẾT