9. Gấu chợ -
1 Không biết thế nào mà ngay khi gặp anh tôi nghĩ đến loài gấu. Lạ, quả là lạ. Đi tìm xem gấu là gì trong tự điển. Là loài có vú. Gấu trắng sống trên Bắc Cực, ăn cá. Gấu nâu hoặc đen, ở lục địa Á và Mỹ, ăn hoa quả và rất thích mật ong. Chay tịnh thế, gấu vẫn nặng từ 3 đến 6 trăm kí, bề ngoài ục ịch nhưng lại rất nhanh, chạy có thể đến 7 hay 8 mươi cây số giờ. Gấu thuần hòa, nhưng khi nổi cơn thì phải coi chừng. Bình thường, gấu dễ thương, cho nên con trẻ chơi gấu bông, loại nhồi mút bán ở phi trường hay những nhà hàng đồ chơi. Có bé gái mua về chăm chút, ôm gấu khi đi ngủ, gọi gấu là em, là chị, thậm chí là mẹ...và hẳn vào độ dậy thì chắc cũng có nàng gọi gấu là người yêu, người tình, hoàng tử của lòng tôi. Ở Canada, gấu rất nhiều, độ hè gấu có thể lạc vào những thành phố gần rừng khi đi kiếm ăn, nếu thấy yêu cầu gọi số khẩn 911 báo ngay, nhân viên trách nhiệm sẽ đến bắn thuốc gây mê gấu rồi thả về rừng. Còn nếu bạn yêu thiên nhiên đi cắm trại thì cẩn thận. Thứ nhất, đừng để đồ ăn trong lều mình ngủ. Hãy để ra ngoài, gấu có tới chúng sẽ thôi không ăn bạn, để bạn yên, chỉ tha đồ ăn đi. Thứ hai, đang lững thững mà gặp gấu, chớ giơ chân giơ tay la thét. Tốt nhất là làm những tiếng kim khí, tỉ như lấy xoong đập vào nồi, lấy nồi đập vào chảo, và chớ phát những âm thanh bài bản có tính thơ phú, triết học, thậm chí chính trị, vì gấu thường ít quan tâm đến những tư duy trừu tượng, rất hiện thực và thuần bản nặng nhất là lúc đánh hơi thấy chất đường trong các loại đồ uống kiểu 7-up Coca hay Pepsi. Thứ ba, gặp gấu đừng leo lên cây tìm an toàn. Bạn chắc cũng như 90% loài người, cứ tưởng gấu không biết trèo. Bạn nhầm, nếu có môn điền kinh leo cây ở Thế Vận Hội cho muôn loài, hẳn gấu vào chung kết với khỉ, con người thì chắc sẽ lẹt đẹt đằng xa, chưa chắc qua đuợc vòng loại. Thứ tư, rất quan trọng, không bao giờ đứng giữa gấu mẹ và gấu con cho dẫu gấu mẹ có là một trang tuyệt sắc thiên kim vì bản năng mẹ gấu sẽ tấn công bạn tức thì để bảo vệ gấu con, mặc bạn nói gì thì nói, với ngôn ngữ nào cũng vậy. Ơ mà này, thế thì tại sao tôi gặp anh lại nghĩ ngay đến loài gấu? Không tìm được lý lẽ trong kiến thức phổ thông, tôi quay sang truyền thống văn hóa. Nghĩ mãi, nào là mật gấu trị bệnh trật tay sái gân rất hay, tay gấu cực bổ, lớp da tay dầy để đối phó với loài ong rừng khi gấu đi tìm mật, ăn vào cường dương mà vẫn trường thọ. Vẫn không, không phải the. Hay là, a nó đây, cái thành ngữ hỗn như gấu, yếu tố duy lý độc nhất giải thích sự liên tưởng của tôi từ Lê Đạt đến loài gấu, và ngược lại. 2 Nếu hỗn thì quả anh hỗn thật. Ngay sau khi hòa bình lập lại, kỷ cương chưa ra làm sao, anh đã kêu ” Đem bục công an đặt giữa trái tim người/ Bắt tình cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước”. Anh kêu trong Nhân Văn số 1, mấy tháng sau khi Giai Phẩm mùa Xuân bị tịch hồi, trong đó anh hò ”bay thật cao, bay thật xa”, được Tố Hữu người phụ trách Tuyên Huấn của Đảng, khuyên đen, hỏi bay đi đâu, bay vào Nam à? Mặc dầu anh cũng trong ban Tuyên Huấn Trung Ương nguyên làm Thư Ký cho Trường Chinh, đảng viên trẻ năng nổ có tiếng là sâu xắc, và nhậy cảm. Nhưng chính cái nhậy cảm đó hại anh. Nếu là nhậy cảm để bắt gió quyền lực thì chắc chắn anh sẽ thăng quan tiến chức chẳng kém một ai, nhưng không, anh lại nhậy cảm với thơ. Chết chưa gặp Trần Dần đầu năm 50 trên chiến khu, hai anh đã bàn nhau đào mồ chôn thơ Tiền Chiến. Kẻ danh vọng nhất khi đó lại là Tố Hữu, thế mà các anh đè xuống chiếu thơ, phê tập Việt Bắc, cho thơ Tố Hữu là thơ sùng bái lãnh tụ, nói đến ai hay cái gì thì cái ai cái gì đó nhỏ đi, gây phản cảm. Và khi thơ Tố hữu trổi nét thì chỉ thuần vay mượn ca dao, không có một chút sáng tạo, vân vân. Khi đó, anh lại là phụ trách Thường Trực báo Văn Nghệ, thế có ghê không. Phan Khôi bảo với anh, Tố Hữu gọi bọn Giai Phẩm là lũ phản động! Thế mà, ông anh thân mến, ông anh vẫn cứ cười hềnh hệch trong đợt kiểm thảo sau Tết năm Mùi, không chịu lên án Trần Dần ngay cả khi anh Lành (tên tục Tố Hữu) bảo đã được thông báo ‘‘nội bộ” rằng Dần là người của địch. Mất cảnh giác đến thế là cùng! Cái cười Lê Đạt. Người mới quen, ai cũng thấy anh cười hồn nhiên. Để ý, lâu mới biết đi kèm tiếng cười ấy đôi khi là những câu nói hóm và hỉnh, hóm vì rất thông minh, nhưng hỉnh bởi thế nào cũng có chất cường toan axít đâu đấy. Axít nên cái vị một khi trôi qua cổ có thổ cay, chua, thậm chí bỏng cổ rát lưỡi. Anh lại bô bô tính mình nó ba lơn như thế, trời sinh cả! Anh Đạt ơi, chính cái cười của anh hại anh, lắm lúc còn hại hơn cả những lời anh nói. Cứ hình dung xem những chiến tướng thơ Tiền Chiến như các vị Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận...xung quanh Tố Hữu đối phó với cái cười của anh thế nào. Họ nghĩ anh làm chính trị nhưng là kẻ ném đá dấu tay, lãnh đạo ngầm, thứ chất xám điều khiển sự manh nha của một quyền lực đối kháng có ý đồ cướp cờ chính thống. Đầu tiên, anh bị khai trừ khỏi Đảng, nhưng quyền lực chưa rút phép thông công, còn chờ gió lên để phất cờ. Anh vẫn tiếp tục công tác ở Hội Nhà Văn vì khi đó phe ta, phe XHCN sau báo cáo KrútSốp bên Liên Xô, đang có những biến động ở Hung, ở Ba Lan. Phương Bắc, người cầm lái vĩ đại họ Mao phát động phong trào Trăm Hoa Đua Nở, cho nhà văn nhà thơ đua tiếng, chẳng hiểu sẽ rẽ phải hay rẽ trái. Tình thế quốc tế như vậy cho nên quyền lực ở Hà Nội, sau sai lầm Cải Cách Ruộng Đất, vẫn chập chờn, và nhân thời cơ, Nhân Văn ra đời, sau đó Giai Phẩm mùa Xuân tái bản, rồi Giai Phẩm mùa Thu, mùa Đông...Hẳn khi đó, các anh hể hả trong lòng mong xây dựng một xã hội công bằng và nhân bản, xông lên đánh vào cái nền chuyên chính vô sản mới kết nhụy. Nhưng quyền lực hậu thuẫn các anh ở đâu? Các anh chẳng có cái nhậy cảm chính trị đó dồn hết tinh anh vào chữ nghĩa, loại quyền lực ảo, không hậu thuẫn, nóng vội tự mình lên thập tự dang tay ra chờ. Chỉ ít lâu sau. người ta mang búa đến đóng đinh, nhưng bắt chết một cách tinh vi hơn cái chết của đấng Cứu Thế. Các anh bị phân tán, kẻ nọ tố kẻ kia ở Thái Hà, rồi tự xỉ vả mình trong những bài kiểm thảo được phổ biến đến quần chúng và sau là bị gạt ra bên lề xã hội mà chẳng một ai dám thương tiếc. Dăm tháng đã thay đổi đời anh từ trắng sang đen. Anh có cười đấy, nhưng những người sau này cười lâu nhất không phải là anh. Thật mà nói, oan nghiệt kia hóa ra chuyện Tái Ông mất ngựa. Nhưng mất mà không được gì, vẫn cứ là các chị. Chị Thúy, vợ anh. Chị Yến vợ Hoàng Cầm, chị Khuê vợ Trần Dần, chị Thoa vợ Phùng Cung... Lê Đạt có bài thơ ‘‘Vợ Nhân Văn”, bao giờ thì anh công bố để trả nợ đây? Các chị cũng bị gạt lề vì cứ tiếp tục làm vợ các anh, trở thành thứ tội phạm liên quan, hạng hai, nhưng sống trong sự quẫn bách khí trời, đến thở cũng dè sẻn, chăng dám thở mạnh có thể khiến người đời chú ý. Riêng chị Thúy mới 19 lần xuân, một tài năng trên sân khấu kịch nghệ, đành phải bó thân...về với nỗi đau Lê Đạt. 3 Chị Thúy khi xưa sắc nước hương trời. Ngày tôi mới quen, chị đâu ngoài bốn mươi, dáng vẫn thướt tha nhưng mặt đôi lúc có thoáng nét thất thần. Mỗi khi từ giả Hà Nội, anh Đạt thường dặn, đến chào chị, chị ấy hay tủi thân. Tôi cảm nhận được sự trìu mến của anh đối chị, và sự thân tình của chị đối với tôi, bởi tủi thì ai lại hoài công đi tủi thân mình với người dưng nước lã. Lần tôi về năm 02, đến chơi, thấy căn số 10 Hai Thượng Lãn Ông nay quả ít là 50 lần số mặt hàng năm 1982, khi tôi mới quen anh chị. Kinh tế thị trường có khác, còn định hướng thì vì cửa hàng quá chật nên mặt hàng nọ đè lên mặt hàng kia, nếu không có cái nét rất truyền thống là thông minh cần cù thì đố ai tìm ra chỗ này để giấy toa-lét (chứ không chùi...bằng nhật báo như xưa), chỗ kia xếp T-Shirt có in quả táo (giống NewYork) kèm hàng chữ I’Love V, giữa đống ngổn ngang khăn tắm, khăn tay, xà phòng bột, xà phòng thơm và trăm thứ linh tinh đố cả những người tự cho là mình nhiều tưởng tượng đếm nhẩm ra cho hết. Và đố có thưởng, trong phòng riêng ở tầng hai của nhà thơ Lê Đạt có gì? Sách dăm ba quyển trong một cái tủ con, dĩ nhiên. Chiếc màn mầu sữa ố nhầu nát xếp xó giường, cái gối kê đầu, vài chú bút bi lăn lóc trên chiếu, tách nước uống dở, và xung quanh, chất đến tận trần nhà...vẫn giấy toa-lét, xà phòng, T-Shirt, khăn mặt, khăn tay... Thân lắm, anh mới tiếp trong phòng riêng, chứ khách người dưng, thường cậu con anh đáp " ông ấy... đi vắng”, hoặc nếu không thì anh xuống tay vẫy, miệng cười, rủ ta đi đến đầu đường uống cốc cà-phê đi! Gấu ở chợ, có thích của ngọt như cà-phê đường cũng chẳng thể thoát qui luật thị trường, hàng hoá trao đối trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi, dĩ nhiên anh mạnh thì vẫn lợi hơn anh yếu. Quả thế, mặt hàng nhiều, nhưng hầu như tất cả đều made in China, hàng nội cũng có nhưng hiếm vì cạnh tranh, bị hàng ngoại giết cả, trừ bia Hà Nội, và trừ... thơ Lê Đạt. Chị Thúy hôm ấy xuống nhà, và ba chúng tôi ngồi quanh cái bàn nhỏ xíu nhân một buổi cửa hàng thưa khách, uống chè Lipton nhé, cho nó sang. Dạ, nhưng không có chè Thái Nguyên à? Có, nhưng tiếp khách xa thì phải Lipton. Anh Đạt cười cái cười của gấu trong nhà, lành và hơi ngường ngượng. Chị Thúy nâng tách, miệng bảo, mời chú rồi mắt bỗng long lanh, nói nửa tỉnh nửa mê, như nói chỉ cho mình nghe. ‘‘Đấy, tất tần tật cũng chỉ vì văn hay chữ tốt ấy mà. Ối giời, ông ấy tưởng thu được vào tay ông ấy cả, nhưng giời có mắt, thản nhân cũng mang một ít cho cả những người dốt nát như tôi... Đọc vài câu cho chú nghe nhé...” Ann quay mặt, buồn nhưng cố nén thờ dài, nhẫn nhục im lặng. Tất nhiên tôi cảm thấy hơi hướng cái thảm kịch vợ Nhân Văn, và đoán có lẽ từ ngày anh được phục hồi thì tao nhân mặc khách lại chào mời, có ai còn nhớ đến những nỗi tủi nhục mà các chị phải chịu đựng suốt một đời. Chị tiếp ‘‘cứ ăn hiền ở lành thì giời cho, chữ nghĩa cũng giời cho cả, thần thánh ốp vào tức văn hay chữ tốt ngay thôi... Bây giờ, mấy chị em chúng tôi có bà Khuê vợ Trần Dần, bà Băng vợ Văn Cao... Chúng tôi thỉnh thoảng gặp nhau rồi đọc thơ cho nhau nghe, có kém gì ai đâu!” Nhưng thần thánh ở đâu hở chị? Tôi hỏi giọng bỡn cợt để đổi cái không khí có chiều ngột ngạt. Chị chỉ tay, da diết, nói như rít ‘‘... Ở mọi nơi, ở Văn Miếu đàng kia, ở trên trời chứ còn ở đâu nữa! Mai tôi với mấy bà ấy ra Thanh Hoá đi lễ Mẫu, thế nào cũng phải hỏi lại, cho ra lẽ...Bây giờ tự do rồi, không tin thần tin thánh thì tin ai vào đây, hở chú!”. Vâng, thưa chị. Bao nhiêu cái cấm đoán ấm ức trói buộc nay già néo đứt dây, đứt để đổ tuột vào sông vào biển những vị thần linh trên giấy báo Học Tập. Nay, ta quay về truyền thống và bản sắc với bà Chúa Liễu, ông Hoàng Mười, hội Phủ Giày hàng năm. Anh Đạt thì thào, Thúy dạo này yếu, hơi bị tâm thần. Rất có thể. Nhưng đâu chỉ vì yếu. Ta nghĩ xem. Này, anh Văn Cao được thưởng huy chương hạng ba (hay tư?). Rồi các anh Nhân Văn được phục hồi hội tịch, lãnh lương bù gần ba chục năm bị người ta bẻ bút. Sau, các anh đi Đại Hội bầu lại (lại...mãi từ cái ngày đánh Nhân Văn và Giai Phẩm) Tổng thư ký Hội Nhà Văn vẫn cứ là đồng chí Nguyễn Đình Thi, và dẫu có chút gì như “hàng thần lơ láo” nhưng các anh còn có cái hy vọng từ nay sẽ được sinh hoạt bình thường để in ra những điều các anh ấp ủ. Nhưng còn các chị vợ Nhân Văn, các chị được gì để cân bằng với những mất mát 30 năm liền sống bên rìa xã hội giữa sự xa lánh dè bỉu của cả ruột rà làng nước? Bài thơ Vợ Nhân Văn đâu anh Đạt? Hãy trả Cesar những cái gì thuộc về Cesar...Còn cát bụi? Nếu cái thuộc về Vợ Nhân Văn chỉ cát bụi thôi thì cũng phải trả lại cát bụi, để đời này (chứ chớ đợi đời sau) biết là đàng sau mọi sự nghiệp đều có những giọt nước mắt không cần tên tuổi. 4 Thú thật thơ Lê Đạt vào thời Nhân Văn Giai Phẩm là thơ chính trị. Chẳng hạn như Nhân câu chuyện mấy người tự tử. Một bình luận thời sự, sắc và thâm, nhưng tôi không cảm như thơ. Thời đó, có lẽ chỉ bài Cha tôi là thơ, sau phục hồi thì anh cho in lại năm 94 với những bóng chữ viết suốt thời gian anh đi đầy trên 36 phố phường trong lòng một Hà Nội lặng lẽ cưu mang những đứa con rơi của thời thế. Nhưng với Bóng Chữ thì thơ Lê Đạt kết tinh từ cô đơn tủi nhục thành thơ, và đó là câu chuyện Tái Ông mất ngựa tôi nhắc ở trên: Chia xa rồi anh mới thay em Như một thời thơ thiếu nhỏ Em về trắng đầy cong khung nhớ Mưa may mùa mây mấy độ thu Vườn thức một mùi hoa đi vắng Em vẫn đây mà em ở đâu Chiều Âu Lâu bóng chữ động chân cầu Chữ đắt, là điều nhận thấy tức thì trong thơ. Trắng đầy cong khung nhớ, khó lầm vào ai khác Lê Đạt. Và Bầy em én tin xuân tròn mẩy áo Hội kênh đầy chân trắng ngần sông quê Nắng mười tám má bờ đê con gái Cây ải cây ai gió sải tóc buông thề thì, mẩy áo, hội kênh, chân trắng ngấn sông quê, gió sải...là những hình tượng không đến từ sự ngẫu hứng dễ dãi mà là tìm tòi, cân đong từng chữ, và nhất là cấy ghép chúng với nhau. Cái mới trong thơ anh ở công phu cấy ghép đó. Thử đọc: Ông lão trạm bơm miệng o tròn ria chóp nón Ô trời lòng cổ thụ bỗng tình tang Máy kéo gặm xứ đồng tơ ơ cỏ Nghé sắt buồn lưng sáo đá xon xon. Đọc liền 2 câu đầu, rồi 3 câu sau. Rõ cấu trúc thơ trong bài này là thơ cổ. Nhưng tưởng như nhìn thấy mấy con sáo xon xon trên một chiếc máy kéo ví với con nghé sắt đang gặm cỏ...Lê Đạt, như anh thú, đúng là phu chữ. Cái tuyệt nghệ công phu khuân chữ về ghép lên hoa trái mới trong ngôn ngữ thơ Việt Nam của Lê Đạt thật có một không hai. Mời kẻ yêu thơ nhẩm lại trong đầu những bài thơ sau: Chim ức lửa Rouge gorge! Rouge gorge! Dân ca Pháp Em vụt đến như mảnh tinh cầu vỡ Ơi con chim ức lửa môi đòng Thả đỏ đốt xứ đồng không anh nhớ Một thoáng đào nhen mấy độ hồng Sương khói Bích Câu chiều ai có giáng không. Át cơ Anh tìm về địa chỉ tuổi thơ Nhà số lẻ phố trò chơi bỏ dở Mộng anh hường tim môi em bói đỏ Giàn trầu già Khua những át cơ rơi... Nhịu tình Sự đằng ngà tâm tuyết trắng dưa lê Vườn truyện ngọt Đàn từ ngon âm hé cong mỏ hót Lòng nhịu tình ngôn ngữ loài chim Đánh ngải Chớ rửa lông mày chết cá ao anh Ca dao Mắt xưa xanh mưa mành sương liễu sóng Mùa sang may thu đánh ngải lông mầy Mây nổi trắng ao say Ai ruốc mộng ban ngày Đệm Bước đệm đưa tình xanh khúc phố Nốt chân xuân đàn cò lạ phím lùa Chập chững dương cầm bè lạc ngã tương tư để cùng nhà thơ nhặt những tấm chữ: Anh rình trắng nghìn trăng nghiêng ngõ mộng Bước thị thơm chân chữ động em về đặt vào cấu trúc Đường thi truyền thống, nhưng đố mà tìm được cái tứ thơ hương thắp gọi không đáp lửa, và hỏi, hồn ở nhà hay bát mộ đi xanh Thanh minh Lúa con gái làm rùng rình nỗi gió Lá hát tình nắng tỏ bạch đàn chanh Nợ cũ khối xương rồng hoa trả đỏ Hương thắp gọi ba lần không đáp lửa Hồn có nhà hay bát mộ đi xanh A, Lê Đạt. Chữ anh quả tài tình. Anh đúng là một phu chữ tiên tiến, và chắc anh chả cần ai phong cho anh 4 chữ anh hùng lao động. Nhưng cẩn thận! Hỡi những nhà thơ, hãy cẩn thận: đừng bao giờ đứng giữa Lê Đạt và những con chữ. Cũng như, tôi đã nói, đừng đứng giữa gấu mẹ và gấu con. Mặc dầu gấu là gấu chợ. 5 Vụ việc Nhân Văn Giai Phẩm thế mà đã ngót nghét 50 năm. Trong một thiên niên đất nước chúng ta đầy biến động tang thương, cứ kể thêm một nỗi đau, lại thêm một lần ngậm ngùi, thêm những đêm mất ngủ. Nhưng thêm một cơ hội để ngẫm chuyện xưa hòng tránh cho ngày sau những u tối đớn đau, những trói buộc thắt cổ tương lai trong cái tròng của giặc nghèo và giặc dốt. Tôi từng nói với Lê Đạt, thế nào cũng phải một lần nói về cái tinh thần Nhân Văn cuối thập niên 50. Thật ra, cái tinh thần ấy nằm trong bài báo cáo của Nguyễn Mạnh Tường, đặt lại vấn đề "chính trị thống soái”, đòi hỏi ít nhiều tính dân chủ ở phân công để người nào việc nấy với trách nhiệm việc mình làm, và một xã hội pháp trị rạch rồi với một nền tư pháp cần phải có pháp luật nghiêm minh. Thật ra, cái tinh thần ấy là tinh thần của lớp nguời Tây học với giá trị nhân văn Âu Châu, trộn vào truyền thống Nho giáo, cái gốc của phương Đông đang chập chững chuyển mình bước vào hội nhập với thế giới. Và cho đến tận bây giờ, năm 2005, cái tinh thần vừa đề cập vẫn ăm ắp tính thời sự, thậm chí cấp bách hơn tronp sự sống còn ngày một ngặt nghèo của dân tộc, và như một sự đặng chẳng đừng, sẽ thành hiện thực. Đấy là tinh thần. Trong bóng đêm o ép của những năm văn chương lưỡi gỗ uốn éo chốn cung đình, ngọn lửa Nhân Văn dẫu bị dập vùi nhưng tro than còn đủ sáng để hắt các anh lên vách như những chiếc bóng của hy vọng. Cho đến khi Bến Lạ của Đặng Đình Hưng, Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm, Cổng Tỉnh rồi Mùa Sạch của Trần Dần, Lá của Văn Cao, Xem Đêm của Phùng Cung... góp tiếng vào đời, những hy vọng kia đã đơm hoa nẩy nhụy. May thay! Nhưng đau khổ khốn nạn của các anh không vô ích. Chính bóng đêm Nhân Văn đã đội lên đầu các anh vòng hào quang của những kẻ tử vì đạo. Cái đạo văn chương, không chỉ đơn giản hạ bút xuống viết với cái vốn tài hoa trời cho là xong, mà còn … với những giọt nước mắt của tai ương mà ngày xưa, đã có Tố Như dặn dò, chữ tài liền với chữ tai một vần. 6 Chúng tôi đã gặp nhau 25 năm, đủ để có dịp lang thang bên dòng sông Seine, ngồi uống Cà-phê trước Odéon trên Boulevard St Germain. Đủ để tôi thấy Lê Đạt đúng một lần lãng mạng kiểu tình già Phan Khôi, đúng một lần say, chẳng biết say tình hay say rượu, ngồi sau cô bé đèo anh bằng mô tô ngã sóng xoài giữa Paris cho anh đo đường, rồi anh nôn thốc tháo cạnh miệng cái Métro trước cửa một rạp chiếu bóng. Đủ để nay về Hà Nội, cứ 5 giờ sáng tôi đến gọi cửa số 10 Hải Thượng Lãn Ông, rồi hai anh em đi quanh bờ hồ, một vòng, hai vòng... cứ mỗi vòng là chúng tôi đến gần hơn con mụ già định mệnh chúm chím như định gọi tên Đạt dạo này yếu. Có một thời gian anh bị mất ngủ, và điện thoại về, câu đầu tôi hỏi là dạo này anh ngủ được chưa? Hà hà, cũng được, được rồi! Nhưng đừng tưởng Lê Đạt già. Tôi xin trích một cuộc phỏng vấn của báo Sinh Viên Việt Nam: ‘‘Phản đề’’ dành cho người Việt trẻ Nhà thơ Lê Đạt, dù tuổi đã ngoài 70 vẫn là một người trẻ lạ lùng. Trẻ, ở trong tâm hồn và tính cách lẫn những cách tân trong thơ ca Việt -cho dù cuộc đời ông như chính nhà thơ thừa nhận là rất ‘‘ly kỳ’’ và chịu nhiều thăng trầm dâu bể. Trẻ, ở chính cái cách mà ông nhìn nhận rất ‘‘thiện chí’’ và cởi mở về lớp trẻ, về thế hệ trẻ hiện nay... Báo Sinh viên Việt Nam (SVVN) đã có cuộc trò chuyện cùng ông trong một ngày đông cuối năm ở một ngôi nhà phố cổ Hà Nội về những câu chuyện của người Việt trẻ trong xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa đồng thời phát triển những giá trị truyền thống dân tộc. Và làm sao để loại bỏ được những lực cản khách quan và chủ quan, những ‘‘tảng đá’’ giáo điều đeo đẳng trên lưng, những mặc cảm nhỏ nhen, những kiến thức và tình cảm vụn vặt để những người Việt trẻ sẵn sàng cho một cuộc ‘‘leo núi’’ đỉnh cao như nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn từng ao ước. Câu chuyện bắt đầu từ khát vọng và ước mơ của những người trẻ. SVVN: Tất nhiên tuổi trẻ ai cũng đầy mơ mộng và khát vọng, nhưng có nuôi được và biến nó thành thực tế không mới là chuyện đáng nói.... Trong thơ ông, tôi cũng đọc được: ‘‘Những ước mơ xưa/Như con chim gãy cánh/ Rũ đầu chết ngạt trong bùn/ Năm tháng mài mòn/ Bao nhiêu khát vọng’’... LĐ: Tôi cho rằng để sự mơ mộng và khát vọng trở thành hiện thực phải đòi hỏi rất nhiều ở sự can đảm và kiên trì. Ở đó, không có "đất" cho sự thực dụng và những toan tính tầm thường, ở đó cũng không có cơ hội cho những người thiếu lòng đam mê và dũng cảm. Để nuôi khát vọng, nó đòi hỏi sự đam mê thành thật, thậm chí vác cả sự đam mê trên vai mà trèo đèo lội suối để biến nó thành sự thật. Với những người trẻ tuổi tôi có một lời khuyên chân thành: đừng bao giờ sống 50%, đừng bao giờ yêu 50% và cũng đừng bao giờ làm 50%. Sự nửa vời cũng là một trong những lý do để người trẻ phản bội lại ước mơ của mình....Tuổi trẻ mà không có khát vọng tức là chưa kịp trẻ họ đã già hay ngược lại là đã già ngay từ khi còn trẻ. Họ là những đứa trẻ chết già. SVVN: Những khát vọng nào của tuổi trẻ đáng được biểu dương nhất? LĐ: Có rất nhiều khát vọng đẹp, nhưng tôi thích nhất ở những người bạn trẻ tuổi là khát vọng lên đường, khát vọng đi tìm những miền đất mới những lĩnh vực mới. (Xã hội nên có những động thái tốt đẹp dành cho những người tìm đường). Và tôi nghĩ, càng có nhiều khát vọng lên đường, tuổi trẻ càng dễ phá bỏ được những định kiến, những cái cũ ở ngay trong chính bản thân họ cũng như xã hội bên ngoài... SVVN: Ngoài chuyện thiếu khát vọng, sự dễ hài lòng và sống 50%, theo ông có những lực cần nào nữa kéo sự phát triển của người trẻ lại? LĐ: Có những tính cách xấu lâu ngày biến thành những khuyết điểm của người Việt Nam, đó là không có ý thức về sự hoàn chỉnh, thói quen không có kỷ luật, không đi đến tận cùng cái mình đang có, dễ hài lòng và chấp nhận thực tại, căn bệnh tiểu nông, tiểu thủ công nghiệp manh mún giật gấu vá vai... Điều này dần đến một thói ứng xử xấu nữa là dễ tặc lưỡi cho qua. Một người già chép miệng hoặc tặc lưỡi cho qua đôi khi còn thông cảm được vì sự ‘‘lực bất tòng tâm’’ nhưng với một người trẻ thì rất nguy hiểm. Tại vì khi chép miệng là lúc anh bước từ một cõi thực tế sang một ‘‘cõi’’ ảo, một ‘‘cõi’’ đầu hàng, buông xuôi. Khoảng cách giữa chúng rất nhanh nhưng lâu dần nó cuốn anh đi rất xa. Nếu nói, điều tôi ghét nhất trong tính cách của người Việt là thói chép miệng, nghe thì có vẻ đơn giản nhưng thực ra khi anh chép miệng, phần nhân tính trong anh đã bị buông xuôi và anh đã dễ dàng ‘‘đồng hoá’’ với sự thất bại, với thói xấu. SVVN: Trong một lần trò chuyện, nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng lớp trẻ ngày nay có vẻ hơi ‘‘vô thần, vô đạo’’, thực ra thì theo ông, lớp trẻ có nên nuôi trong mình những ‘‘tín điều’’ không? LĐ: Vô thần thì nên, nhưng vô đạo thì không nên. Con người nên có những tín điều nhưng không nên thờ thần tượng vì thần tượng là sự xuống cấp của tín điều. Nhìn lịch sử tiến triển của loài người mình phải đứng trên vai của quá khứ mới thấy được tương lai chứ núp bóng quá khứ thì tương lai không bao giờ thấy được. SVVN: Vậy thì theo nhà thơ, lớp trẻ nên ‘‘núp bóng thần tượng’’, ‘‘đạp đổ thần tượng’’ hay ‘’đứng trên vai thần tượng’’? LĐ: Bản thân của sự phát triển văn hoá là chống lại thần tượng. Nói như Trang Tử là ‘‘vứt trí bỏ thánh’’ để trở lại suy nghĩ của chính ta. Nói đạp đổ thần tượng thì nghe có vẻ hơi phạm thượng nhưng tôi nghĩ rằng không sai và nói gì thì nói, nếu được coi là thần tượng tức là họ đã ghi được dấu ấn giá trị trong lịch sử, hiện tại và tương lai nên để lớp trẻ khai phá. Tốt nhất, là đứng trên vai thần tượng vì ở trong hoàn cảnh đó, thần tượng đã làm được một việc có ích là giúp lớp trẻ có một cái nền cao ráo và vững chắc. SVVN: Trước đây, nhà thơ Lưu Quang Vũ than ‘‘Tôi chán cả bạn bè/ Mấy năm rồi họ chẳng nói được câu gì mới’’. Gần đây, cả Văn Cầm Hải và Phan Huyền Thư đều nói đến "Những giấc mơ của lưỡi". Nhà thơ Dương Tường thì nhận xét "Có nhiều người nghĩ khác, nhưng ít ai sống tận cùng với cái khác của mình"...Một trong những điều mà giới trẻ tự chán mình là họ đang càng ngày càng cũ, càng nhạt? Ông có cảm thấy điều đó? LĐ: Tôi chống lại sự nhàm chán nhưng không có nghĩa là tôi sống khác với tôi. Hãy sống thật với chính anh thì anh sẽ khác với những người khác chứ không phải ‘‘chủ trương’’ để sống khác. Vì nếu khi anh sống khác anh tức là anh không thật với chính mình. Còn nếu khi anh tự chán mình, chán bạn bè mình là lúc anh đang khao khát để thay đổi, khao khát sự ‘‘vận động” của lưỡi. SVVN: Vậy ông ‘‘khuyến khích điều gì trong cách sống của giới trẻ’’! LĐ: Tôi khuyến khích sự lao động cần cù và kiên trì của lớp trẻ, từ bỏ cách nghĩ cách làm việc "ngắn hạn", "ăn xổi" và bệnh "khoa trương", "ồn ào". Tập cho mình những tầm nhìn "dài hạn" và đi đến tận cùng cái "tư duy dài hạn" ấy. Trong cuộc sống, thư giãn hãy "bình thường tâm", đừng "phân thân" nhiều quá. "Khi đói ta ăn, khi mệt ta nghỉ" như lời dạy của một thiền sư, chứ đừng khi ăn lại nghĩ đến chuyện khác và khi nghỉ cũng nghĩ đến những chuyện khác. SVVN: Và trong tâm hồn, trong thơ ca? Là một nhà thơ không ngừng cách tân thơ Việt, cuối cùng ông nghiệm ra điều gì quý giá nhất ở thơ ca? LĐ: Thơ là mỹ học và đạo đức học. Cái đẹp trong câu thơ kêu gọi sự cao thượng. Và nên hiểu thơ ca cũng là một sự lao động ngôn ngữ đầy gian khổ chứ không chỉ là cảm xúc thẩm mỹ thuần tuý (Chữ bầu nên nhà thơ). Nhà thơ, nhất là các nhà thơ trẻ hãy tập cho mình một cách sống gian khổ (chứ không phải cực khổ), một sự "ly kỳ" trong tinh thần. Nhưng đáng buồn nhất cho những nhà thơ ‘‘ly kỳ” trong đời thật nhưng lại tẻ nhạt trong đời chữ! SVVN: Sự "ly kỳ" trong đời người, đời chữ của ông, nếu được nói bằng thơ..? LĐ: Thơ ca, cuối cùng với tôi vẫn là cảm xúc mỹ học và cái đẹp của sự cao thượng. Tôi thích những câu thơ giàu cảm xúc: Vườn thức, một mùa hoa đi vắng/ Em ở đây mà em ở đâu/ Hay Tim lặng lạnh góc bồ đề mưa cũ / Chim gõ mõ kiếp xưa, chưa rũ hết lụy tình... SVVN: Điều cuối cùng, nhân dịp mùa xuân mới, mùa như các nhà thơ nói ‘‘ươm mầm, chồi xuân, lộc nõn...’’, nhà thơ có một lời chúc nào dành cho những người bạn trẻ? LĐ: Tết ở ta có một tục lễ cổ truyền rất hay là xông đất. Tôi chúc các bạn trẻ đầu năm mới hãy ‘‘xông đất’’ nhiều hơn, ‘‘xông đất’’ nhiều lĩnh vực mới hơn nữa... 7 ‘‘...thế hệ trẻ à? Tôi cứ đợi mãi. Nó bị trong vòng vây của văn chương cung đình, tôi sốt ruột đợi lớp trẻ đủ sức lớn lên để chôn bọn tôi, như chúng tôi đã chôn Tiền Chiến!” là lời Trần Dần khi anh vào thăm anh em Sông Hương mười lăm năm về trước. Anh sốt ruột, đợi và năm anh rời chân về nơi thiên cổ thì chắc anh vẫn còn đợi. Chôn thơ Tiền Chiến, không dễ nhưng có Nhân Văn. Chôn thơ Nhân Văn cũng chẳng dễ, nhưng văn xuôi thì không khó. Đầu tiên, Dương Thu Hương mang cuốc xẻng tới dọn đất với tinh thần bất úy trong hành trình tiểu thuyết. Rồi Nguyễn Huy Thiệp đào một lỗ huyệt khá rộng với Truyện Ngắn. Sau, Phạm Thị Hoài đến cời đất, thắp hương. Và Nhật Tuấn, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thân...lục đục khua chuông gõ mõ trong nước. Đấy là chưa kể bên ngoài, dòng văn hải ngoại dẫu gì cũng đỡ ngột ngạt hơn, với tiểu thuyết Nguyễn Mộng Giác, bút ký Cao Xuân Huy, truyện ngắn Trần Vũ, Mai Ninh, Vũ Quỳnh Hương... Đồng thời, mươi năm gần đây, văn xuôi trong nước có thêm Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Viện... Truyện ngắn, sau Đỗ Phước Tiến và Nguyễn Thị Ám, nay xuất hiện Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu... Về thơ, chôn Nhân Văn khó nhưng có Thanh Thảo, Hoàng Hưng...Rồi Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Quốc Chánh, Nguyễn Hữu Hồng Minh...Ngoài nước cũng có chẳng hạn Khế lêm, Chân Phương, Đỗ K... Họ đi một hàng dài mặc T-Shirk quần zin, và rất mong ngày hạ huyệt với kèn saxo, đàn trống Yamaha và một cây Đại Huyền Cầm búng dây nổ rền rền thứ thanh âm của sấm chớp. Chỉ sợ chưa đến mùa giông. Nhưng đã đến lúc chúng ta nên thòng dây buộc áo quan tiễn vào lòng đất một thời đã qua. Và nếu thật sự làm được như vậy trong Thơ, thì chỉ khi đó những nhà thơ hậu Nhân Văn mới đáp đền mong đợi của những kẻ đi trước vẫn cứ còn sốt ruột đợi ba thước đất vùi mình. Để cho nàng Thơ tiếp tục bay cho cao bay cho xa, như ước vọng Lê Đạt trong Giai Phẩm Mùa Xuân Tết Bính Thân 50 năm xa xưa về trước.