10. Việt Nam, con ngươi từ những bóng ma
Tôi sinh ra đã luân lạc. Hai tháng vào cuộc trần gian, tôi từ Hải Hậu chạy đói và chạy loạn lên Nam Định. Năm sau, về Văn Ấp với mẹ, tôi sống trong gia đình ông bác trong vùng tự do, tập đi thì lững chững đuổi những cô bướm áo vàng sắc lụa, những chú chuồn kim thân xanh mầu biển, tập nói thì ngọng ngịu hát... ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng. Khi Tây càn tôi chìa khẩu súng bằng gỗ do ông anh họ đẽo cho qua lỗ châu mai căn hầm bắn ra, miệng kêu đùng đoành, khiến bà chị hốt hỏang bịt lấy miệng, cấu vào tay, mặt cắt không còn hạt máu, kêu nho nhỏ im đi kẻo chết. Kinh nghiệm kháng chiến chống Pháp của tôi chấm dứt bằng sự ám ảnh im đi kẻo chết, và chẳng biết thế nào, trên những bước truân chuyên một đời, tôi lúc nào cũng mang phản xạ chống lại cái ấm ức ngậm miệng mặc cho là không nói ra thường đồng nghĩa với cách ứng xử khôn ngoan để tồn tại. Mẹ tôi dinh tê khi cha tôi từ Cao Bằng xuôi về. Cha tôi bỏ giấc mơ kháng chiến sau khi chính phủ Bảo Đại được thành lập, về họp tác và đưa chúng tôi đến nơi nhiệm sở là quận Kiến Thụy. Năm ấy tôi lên năm, bắt đầu cảm nhận được có một cái gì đó chông chênh như những nỗi buồn vô cớ khi tôi nghe chị Thược hát. Chị thời đó đã nhón chân bước vào thời con gái, dịp nghỉ học về ở chơi với thầy me, cứ khi trời mưa là ra đứng dưới mái gianh, hát nho nhỏ ‘‘… ai có nghe tiếng hát hành quân xa...mà không nhớ thương người mẹ già, ngồi đan áo cho con’’...Quận Kiến Thụy bị Việt Minh tấn công. Không khí bất ổn đưa chúng tôi lên tỉnh Kiến An. Ngày đi, tôi tìm chị Thược trao cho chị cái hộp gỗ tôi thường bắt cào cào châu chấu bỏ vào. Tại sao, chị hỏi. Tôi lúng búng, đáp không biết. Nhưng chỉ khi chị nhận tôi mới thở phào để rồi mãi những năm sau tôi hiểu ra là mình đã trả một món nợ vô hình mình tự gán cho mình. Kiến An năm sau cũng lại bị đột kích. Gia đình chúng tôi lên Hải Phòng, và năm 54 chúng tôi di cư vào Sài Gòn trên một chiếc máy bay phải nằm bò trên sàn, lắc lư, ói mửa theo độ dập dình lên mây xuống gió. Chín năm sau, tôi lại lên máy bay, lần này có ghế ngồi, bay qua Thái Bình Dương. Và đến nay, tôi đã sống 42 năm ở nước ngoài. Nhưng tôi vẫn trăn trở với những món nợ. Một người bạn chí tình bảo, cậu có nợ là nợ nơi cưu mang cậu, để cậu có dịp học hành, làm người, cớ sao cậu cứ dằn vặt mình vì những chuyện trời ơi ở cái xứ sở đã từng đuổi cậu ra ngoài như một thằng tội phạm. Những chuyện trời ơi! Không. Cái ngôn ngữ tôi cưu mang như hành trang trong cả những giấc mơ dữ lẫn lành, điều cho phép tôi xác định mình trong 6 tỉ con người ở trên trái đất? Cái lịch sử đất nước khiến tôi, khi tự hào, khi buồn tủi, vẫn là một phần lịch sử của chính tôi? Tôi không đếm số năm để cân đo sức nặng của một ràng buộc. Cái hộp gỗ trao tay chị Thược chưa đáp đền được câu hát về những bà mẹ già chờ con, những người lính đã nằm xuống trong những cuộc hành quân mà điểm hẹn cuối cùng là chốn u linh. Được mất trong cuộc trần gian đều thành vô nghĩa cho kẻ đi nhưng lại vô cùng quan hệ đến kẻ ở. Nhưng tôi, là kẻ ở lại. Tôi, một người mắc nợ. Và lại là cái nợ tự gán nên dẫu biện bạch cách nào tôi cũng không thể trốn nợ cho được.
Tôi viết những dòng chữ này để trả nợ. Nợ những người đã nằm xuống. Nợ những người còn sống. Nợ những bóng ma chưa siêu thoát. Tất cả, tôi đã gặp trên nẻo đoạn trường những con đường xa. Cái nợ khi nhân cách hóa thành là nợ những khuôn mặt trên những con đường tình cờ. Và cái nợ cuối cùng là tôi nợ một người bạn trẻ, tên Nguyễn Bình Minh, hứa sẽ trả khi chúng tôi cùng đến một cái mốc năm tháng khó quên. Sắp tới ngày 30-04. Đếm, thế là đã 30 năm từ ngày Giải Phóng. Sờ lên, đầu tôi nay chập chờn lau trắng. Tôi còn bao nhiêu thời gian? Đã là lúc ngoảnh nhìn về sau. Nhưng để làm gì?
Tôi gặp Bình Minh trong chuyến về Huế cách đây dăm năm. Đi thăm lăng Minh Mạng, lơ ngơ thế nào tôi hụt mất chiếc thuyền máy cho khách tham quan đủng đỉnh rời bến mặc cho tôi vẫy tôi gọi. Một thanh niên lễ phép đề nghị chở tôi bằng Honda rượt thuyền. Leo lên sau, xe vù đi trên những con dốc ngoằn ngoèo, leo lên rồi trượt xuống, làm xiếc mà không khán giả, đùa với những tai họa của tình cờ. Thôi em, khỏi rượt thuyền. Xe ngừng. Tôi thở ra, buột miệng, đường xa thấy nỗi sau nay mà kinh. Bình Minh trầm trồ, a...anh cũng thuộc Kiều. Chuyện trò, tôi mới biết Bình Minh người Nam Đàn, Nghệ An. Bình Minh thốt, quê Bác đấy. Tôi mỉm cười, này cậu có biết cái câu sấm Trạng Trình gì có nơi... bò rống rồi Nam Đàn sinh thánh không? Anh hỏi thật hay lỡm? Tôi đáp, thật. Tôi hỏi, cậu ở Nghệ, vô đây làm chi? Bình Minh đáp, em đi học Quản Trị ở đại học Huế. Nói đến đó, Bình Minh chép miệng, thật ra thì em thích môn Sử, nhưng đất nước mình cần làm kinh tế tốt đã! Bình Minh hỏi lại, tôi đáp tôi giảng dậy Kinh Tế, nhưng chỉ “lý thuyết” chứ chẳng thể kiếm ra tiền ức tiền triệu để mà xây dựng đất nước đâu. Bình Minh có vẻ thất vọng. Tôi thấy thế, đành nói, thì ta trao đổi chuyện Sử vậy, đó cũng là điều tôi rất quan tâm. Mắt sáng lên, Bình Minh gật đầu. Tôi lấy Kiều:
Ngoảnh nhìn một cuộc vần xoay.
Đường xa thấy nỗi sau này mà kinh...
- Những ngày này ở Huế, sinh viên được nghỉ. Nếu anh muốn, Bình Minh vui vẻ, em sẽ hướng dẫn du lịch cho anh.
Ngoảnh nhìn...
Bình Minh đưa tôi đến đàn Nam Giao, nơi vua chúa nhà Nguyễn tế lễ đất trời cho mưa hòa nắng thuận. Trời mưa sụt sùi, nay nhìn lại những tấm ảnh chụp ngày đó mà tưởng chúng vẫn còn hoen ố nước, tiêu điều dưới bầu trời nặng trĩu mây đen. Khi đó tôi buột miệng: Ai vô xứ Huế thì vô... Nay, có đâu người sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang!. Bình Minh nói tiếp, rồi nửa đùa nửa thật, lập lại câu danh ngôn, rằng nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý đó... Tôi nhẫn nại nghe Bình Minh, hỏi lại “Thế cậu có đọc Hoàng Lê nhất thống chí chưa? Cậu có để ý khi Nguyễn Nhạc gặp vua Lê, hai người còn nói với nhau là nước tôi với nước ông... Nếu bảo nước Việt Nam là một, thì chỉ bắt đầu với Gia Long, tức là từ 1802. Kể cái thời gian 80 năm bị thực dân Pháp phân ra làm 3 Kỳ, sau là 10 năm kháng chiến chống Pháp, rồi 20 năm chia cắt từ hiệp định Genève đến 1975, thì thời gian cho nước Việt Nam là một quá ít ỏi...”. Bình Minh chau mày “...còn dân tộc, là một?”. “Cũng không! Việt Nam là một lãnh thổ đa sắc tộc. Nhưng chúng ta có một ngôn ngữ chung cho đa số là người Việt. Có chung một ngôn ngữ, tức chia chung một văn hóa. Thể hiện của văn hóa là những con người sinh nhai thế nào, sống với nhau ra sao, đồng thuận cơ bản về một thể chế xã hội, một hướng nhìn tương lai, và góp tay xây dựng tương lai đó! Nhìn dưới góc độ này thì chưa là một đâu…’’
Chúng tôi lên Honda. Bình Minh đưa tôi vào Thành Nội, mặt thoáng nét băn khoăn. Đã định thôi không nói chuyện lịch sử nữa, tôi lăng nhăng hỏi qua quít này nọ, nhưng Bình Minh đáp nhát gừng. Ngừng xe, Bình Minh chỉ, đây là Ngọ Môn. Nhìn lên, tôi nghe Bình Minh nói, chỗ này là nơi Bảo Đại đọc chiếu thoái vị. Nơi đó, nay sơn son thếp vàng như một cái cổng chùa Tàu. Chạnh nghĩ đến hôm đi thăm đền vua Đinh tuần trước ở Hoa Lư, chỗ nào cũng một kiểu, bôi đỏ loe đỏ loét...Tượng thì vẽ lại, một anh cán bộ phụ trách trùng tu những di tích lịch sử bảo, phát hiện họa sĩ vẽ râu, vẽ cả cho Dương Vân Nga rồi lại phải xóa, có ai biết là đàn bà đâu! Tôi nhìn những cột gỗ lim hai người ôm. Một cột, mối ăn thủng một đầu, vứt lăn lóc cạnh lối đi, lên nước bóng loáng sau cả nghìn năm trơ gan cùng tuế nguyệt. Những chiếc cột khác, nay đều sơn son thếp vàng, vẽ rồng vẽ phượng, và nhất là những đám mây cho rồng bay phượng múa. Bật miệng, tôi nói cứ để nguyên mới đẹp. Anh cán bộ cười: ‘‘để nguyên thì lấy đâu ra ngân sách, trên Ủy Ban nhân dân bảo thế, muốn có tiền thì phải vẽ ra chuyện mà làm chứ! Truyền thống bây giờ cực hợp thời, anh ạ!’’ Tay xoa cái cột mối ăn, tôi suỵt soạt tiếc rẻ. Anh cán bộ bảo, thích lấy về mà dùng, tôi đổi anh nửa con dê. Lúc đó tôi nhìn ra chân núi. Ở Hoa Lư, người ta nuôi dê, hàng đàn. Vấn đề là làm sao chuyên chở cái cột mối ăn có thể sẽ bị chẻ ra làm củi. Đành chịu!
Bình Minh vào mua vé tham quan. Đứng đợi, tôi ngẩn ngơ nhìn, như thấy lại Bảo Đại mặc hoàng bào, trân trối nhìn lá cờ quẻ Ly kéo xuống, và cờ đỏ sao vàng kéo lên. Trao ấn kiếm cho Trần Huy Liệu, một vương triều cáo chung. Gia Long, người đã mang Bá Đa Lộc vào đất nuớc mình, dặn Minh Mạng phải coi chừng bọn Tây Dương. Thế là cấm đạo, rồi phân tháp, rồi bế quan tỏa cảng. Chỉ 60 năm sau khi nhà Nguyễn nắm quyền, thực dân Pháp đã chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam bộ. Cuộc xâm lăng tiếp tục đến 1884 thì Tự Đức không còn gì ngoài cái ảo tưởng trị vì của một ông vua chỉ còn cái ngai bằng gỗ sơn son thếp vàng. Khi Nhật biết sẽ bại trận, Bảo Đại được phép tuyên ngôn độc lập và xin trả lại Nam kỳ về một nước Việt Nam thống nhất. Nhưng chỉ một việc chuyển gạo miền Nam ra cứu 2 triệu người chết đói ở Bắc kỳ cũng không làm nổi. “Thôi, Bình Minh nói, Bảo Đại xuống cũng phải!”. Dĩ nhiên. Nhưng đừng quên công lao nhà Nguyễn. Từ thuở Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân, họ đâu ngồi yên, xua quân Nam tiến. Người Việt chúng ta cũng từng đi xâm lăng. Vương quốc Chăm bị tiêu diệt. Người Chân Lạp giạt xuống cực Nam, rồi về phía Tây, nơi này ta gọi là Campuchia. “Bây giờ lại có vấn đề ở Tây Nguyên đấy!” Bình Minh chép miệng.
Chúng tôi vào Thành Nội. Nhìn quanh, không mấy khác với Cấm Thành ở Bắc Kinh, chỉ nhỏ hơn, nghèo hơn. Nhưng khung cảnh chung quanh tuyệt vời. Tôi hỏi, nơi nào là nơi ở sông Hương mà Nguyễn Huệ chọn làm chỗ tiến công kinh thành Phú Xuân do tướng nhà Trịnh trấn thủ. Không ai biết. Bình Minh hớn hở “Tây Sơn mới là triều đại đã thống nhất đất nước, có phải không anh?”. Không. Nhưng chẳng lẽ cứ tiếp tục thế này, gì cũng không à? Lỡ rồi nên tôi tiếp, Nguyễn Lữ vào Gia Định nhưng không bao giờ ở lâu, hễ có chuyện đao binh là lại “zọt” về Qui Nhơn. Nhạc thì thích thú làm ông vua một cái thành nhỏ. Phần Huệ tham vọng lớn hơn, nhưng chỉ lên ngôi vua khi đại phá quân Thanh, về ngồi chưa kịp nóng ghế Hoàng Đế ở Phú Xuân đã vội ra người thiên cổ [2]. Cuộc khởi nghĩa nông dân là chuyện tào lao, vì dưới thời nào cũng sưu cao thuế nặng, bắt lính xung quân, bỏ con thơ vợ dại, đi đánh nhau thì đánh cho ông tướng bà chúa, làm gì có cái chuyện ý thức “giai cấp đấu tranh” đời sau tô vẽ ra [3]. Nói xong, tôi biết là Bình Minh bực bội. Không kìm được, Bình Minh hỏi “Sách vở em học, đều nói thế! Anh lấy chứng cớ gì mà cứ nói ngược?”.
Thế ai thống nhất đất nước? Bình Minh thắc mắc. Nếu gọi đất nước là từ Nam Quan đến mũi Cà Mâu thì Gia Long là người làm cái việc thống nhất đầu thế kỷ 19, tôi đáp. Sau, thì sao? Bình Minh gặng hỏi. Khi ấy chúng tôi bước về phía sau Thành Nội. Tôi không đáp, lặng nhìn một bức tường đổ nát nằm chắn ngang, sạt hai đầu, trên lổn nhổn những lỗ đạn xoáy vỡ lớp ngoài để phơi ra lớp trong mầu trắng đục như xương người. Những viên đạn đó bắn ra trong cuộc tổng công kích và nổi dậy năm Mậu Thân, để lại cho những năm sau một Huế ngổn ngang thương tích. Không thấy tôi trả lời, Bình Minh vung tay, nói như đinh đóng cột:
- Sau, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giải phóng dân tộc, giành độc lập, và thống nhất đất nước!
Tôi nhìn vào cặp mắt Bình Minh trong sáng, lòng bỗng chớm ngậm ngùi. Em đã được học gì trong lịch sử cận đại thì tôi cũng biết. Ba mươi năm qua, không hiểu bao nhiêu lần câu trên được lập đi nhắc lại đến độ tiềm thức cũng mất phản xạ, não bộ thu và nuốt thông tin không cần lý lẽ để tiêu hóa, tất cả nhằm đưa ba vòng hoa vinh quang là độc lập - giải phóng- thống nhất lên bàn thờ Tổ Quốc như của thế chấp cho những kẻ cầm quyền, bất luận thực tiễn nay ở đâu, và tương lai mai mốt thế nào. Nguy hiểm hơn, ba vòng hoa kia ngụy hóa thành ba vòng kim cô, xiết vào đầu những kẻ nào suy nghĩ chệch đường phép tắc chính thống. Tôi nhỏ nhẹ:
- Không ai phủ nhận kiểu phẩy tay bảo Đảng không công lao. Nhưng bây giờ, đâu phải lúc tranh công luận tội, chẳng ích gì. Có lẽ điều phải quan tâm là thực chất và nội dung những điều em vừa nói và cái giá phải trả, với những sự kiện lịch sử nhìn từ nhiều chiều và có thể kiểm chứng được. Phải tránh ngộ nhận, những úp mở có ý đồ đánh lận con đen, những sự thật cắt xén kiểu gọt chân cho vừa giầy...
Độc lập?
Ngày xưa, tôi rất băn khoăn với những điều Bình Minh vừa mới đề cập tới. Trước khi hoạt động phản chiến với những người trong Hội Việt Kiều Yêu Nước ở Canada, tôi bỏ ra nhiều thời gian để tìm hiểu cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhớ lại những trao đổi với bạn tôi, một người có suy tư độc lập tham gia phong trào thời đó, tôi kể:
- Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2-09-1945 là món tả pí lù, tôi phẩm bình, câu đầu lấy trong bản tuyên ngôn Mỹ, vài câu sau thì là tuyên ngôn nhân quyền của Cách Mạng Pháp, rồi 3 chữ Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc biểu trưng cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì lại từ chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên bên Tàu!
- À, bạn tôi chép miệng, quân Nhật đầu hàng, từ vĩ tuyến 16 trở ra quân Anh-Ấn đến giải giới. Còn miền Bắc là quân Tưởng Giới Thạch, có hậu thuẫn của Mỹ. Thế nên phải đánh bài ba lá, tuyên ngôn thế nào cho đẹp lòng tất cả thôi...Nhưng chuyện quan trọng hơn là Hiệp Đinh Sơ Bộ (HĐSB)!
-...?
- Mười tám vạn quân Trung Hoa Dân Quốc vào giải giới quân Nhật, theo chân là Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng Minh hội, đều là những đảng phái Quốc Gia chống Cộng, trong khi Việt Minh người ít, khí giới không có [4]! Các “vị” lãnh đạo Đảng Cộng Sản Đông Dương lo chuyện sống còn, giải tán Đảng, thành lập Chính Phủ Liên Hiệp và cố nhanh chóng hợp thức hóa Chính Phủ qua một cuộc bầu cử Quốc Hội để có cái thế chính danh mà điều đình. Cuối tháng 2, hiệp ước Hoa-Pháp ký kết, quân Tưởng rút để quân Pháp vào miền Bắc, các “vị” đành gấp rút ký HĐSB, bỏ hai chữ Quốc Gia độc lập thay vào bằng hai chữ tự do, còn quyết định về thể chế ở miền Nam thì sẽ thông qua một cuộc trưng cầu dân ý. Nhưng thật oái oăm, tự do trong HĐSB lại là tự do trong Liên Bang Đông Dương và Liên Hiệp Pháp, khi đó chưa có qui chế, rất mù mờ [5]...Hồ Chí Minh và các “vị” tìm cách tranh thủ thêm khi ký kết một Hiệp Định Pháp-Việt chính thức ở Fontainebleau với Chính Phủ Pháp!
-...và lại bất thành!
- Phái đoàn Chính Phủ Việt Nam bỏ về trước. Hồ Chí Minh ở lại, ký được bản Tạm Ước, nội dung là một bước lùi so với HĐSB, chiều hướng là Việt Nam sẽ chẳng có quân đội và ngoại giao riêng trong Liên Hiệp Pháp [6]. Một hội nghị dự định sẽ họp ở Hà Nội vào tháng 2-1947 để chính thức hóa những thỏa hiệp trong Tạm Ước. Nhưng khi Hồ Chí Minh vừa lên đường sang Pháp, anh tu xuất D’Argenlieu, Cao ủy Pháp tại Đông
Dương, đã đơn phương lập ra Chính Phủ một nước Nam Kỳ tự trị, tiến đánh Tây Nguyên và vùng thượng du Bắc Kỳ. Ở Pháp, mặc dầu đảng Cộng Sản Pháp trở thành chính đảng số một và liên minh với đảng Xã Hội để thành lập Chính Phủ phe tả, không có một dấu hiệu gì khả quan cho Việt Nam. Ai cũng biết chiến tranh rất khó tránh [7]!
- Sau là cuộc xung đột ở Hải Phòng, và lệnh Kháng Chiến Toàn Quốc vào ngày 19-12-1946. Khi đó, dân khí lên rất cao, dân ở mọi tầng lớp nơi nơi tản cư, tòng quân, về vùng tự do và các chiến khu, tiếp tục chiến đấu giành độc lập. Bốn năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp với những anh bộ đội cụ Hồ có thể là những năm đẹp nhất của cả dân tộc trong thế kỷ 20. Đẹp và lý tưởng vô cùng! Chỉ một điều đáng tiếc...
- …
-...là song song với cuộc kháng chiến chống thực dân, các “vị”lại ươm mầm cho một cuộc nội chiến. Trong cái thế đấu tranh chính trị đầu năm 46 giữa Việt Minh và những người Quốc Gia (Việt Cách và Việt Quốc), chuyện khủng bố từ cả hai bên đáng tiếc nhưng khó tránh. Nhưng sau đó, khi Quốc Gia đã bỏ chạy, Việt Minh truy kích và tiếp tục một cuộc tàn sát có thể nói là không mấy cần thiết! Số người chết có thể lên đến 4,5 vạn [8], ở chiến khu 3 của Việt Nam Quốc Dân Đảng, chiến khu Hòa Bình-Ninh Bình của Đại Việt Duy Dân, những thành viên của Đại Việt Quốc Dân đảng, nhóm đệ tứ Trốt-Kít, người của Việt Nam Quang Phục hội sau theo Việt Cách...Rất nhiều yếu nhân những đảng phái Quốc Gia bị thủ tiêu. Tạm kể, có Trương Tử Anh, Lý Đông A, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Huỳnh Phú Sổ, Khái Hưng...Tóm lại, phe Quốc Gia mất gần hết những lãnh tụ có bản lĩnh. Thực dân Pháp vỗ tay, vì sau, nếu có chính phủ Quốc Gia nào thì khả năng họ cũng chỉ làm bù nhìn, đúng như với Chính Phủ Bảo Đại thành lập ra cuối năm 1949 sau khi Pháp chấp nhận Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp với những điều kiện còn rộng rãi hơn HĐSB trên giấy tờ văn bản. Và Việt Minh, với lá cờ chống Pháp thu về tay, khi phất sẽ phất một mình, ai không theo tức không yêu nước, tức Việt gian, tức phản quốc, đúng sách lược Xứ Ủy Bắc Bộ đã vạch ra từ thời tiền khởi nghĩa, vào tháng 3-45, với “Đội Danh dự trừ gian” mà nhiệm vụ là đi ám sát...
Trả giá nào cho một chiến thắng?
Chúng tôi bước lên thềm điện Thái Hòa. Ngai vua, nay cũng lại sơn son thếp vàng, trơ trẽn nằm giữa một cái thảm đỏ xung quanh chăng dây chặn không để khách tham quan đến gần. Chiếc ngai nhỏ, chắc xưa các vị vua triều Nguyễn không cao lớn gì, vừa vặn với cái tầm nhìn không quá được tháp chuông chùa Thiên Mụ, chẳng bì được với Minh Trị Thiên Hoàng, kẻ kịp thời canh tân nước Nhật giữa thế kỷ 19. Bước vòng vòng theo chân một đám du khách, tôi nói cái ý ngộ nghĩnh đó rồi im lặng. Bình Minh có vẻ nóng ruột, tấp tểnh rủ ra ngoài, tôi trù chắc thế nào cũng hỏi thêm về nước Nhật canh tân. Nhưng tôi đoán nhầm. Nhìn sau không còn thấy ai, bấy giờ Bình Minh lấy giọng nghiêm trọng:
- Nhưng rồi đến chiến thắng Điện Biên, cả thế giới khâm phục ta! Rõ ràng là Pháp thua, phải ký Hiệp Định Genève nhé...
- Tôi cũng khâm phục, như nhiều người, dĩ nhiên! Nhưng chúng ta trả cái giá nào cho chiến thắng ấy?
- Cái gì mà không có giá của nó. Đúng là ta thiệt hại rất nhiều, nhưng Tướng Giáp đâu có dùng chiến thuật biển người kiểu các cố vấn Tàu đề nghị...
- Tôi không định chỉ đề cập đến cái giá trả bằng sinh mạng và thương tật của hàng vạn con người. Đúng là khi nghĩ đến những chiến sĩ đã hy sinh, dẫu có đau lòng nhưng chúng ta chấp nhận rằng chiến thắng nào mà chả dựng trên vô số những nấm mồ của những kẻ nằm xuống. Tôi định nói đến những chuyện khác, oái oăm hơn...Có 2 điều. Thứ nhất, chiến thắng ở Điện Biên Phủ (ĐBP) lẽ ra phải dẫn đến những thắng lợi ngoại giao ở Genève, nhưng thực ra Hiệp Định (HĐ) Genève lại là một thất bại khó chối cãi [9]. Tại sao? Bởi dẫu chiến thắng quân sự,Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa của các “vị” lại thất bại trên mặt ngoại giao vì nước ta mất không hẳn có độc lập. Từ đó, thứ hai là, cũng vì vậy, trong giai đoạn 53-56, Việt Nam phải tiến hành một cuộc Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ), một mặt vì nhu cầu vận động nông dân đóng góp vào cuộc chiến đổi lấy giấc mơ muôn đời là người cầy có ruộng, mặt khác vì bị Trung Quốc và Liên Xô áp đặt mô hình XHCN thời đó. CCRĐ đã phá nát truyền thống đạo lý, gây ra những nứt rạn không hàn gắn được trong xã hội, nhất là ở nông thôn. Chuyện này dẫu dấu nhẹm trong một thời gian, sau này ai cũng biết!
Bình Minh lắc đầu chau mày:
- Sách em học lại viết rằng ngay sau khi ký kết, ngày 22-07-1954, Bác Hồ nói: "... ngoại giao ta đã thắng lợi to ” cơ mà!
- Phải nhìn lại cái thế của ta trong bối cảnh toàn cục thế giới. Nhưng ngoài tinh thần anh dũng của bộ đội và tài năng của tướng Giáp, ta cần gì mới có thể đoạt được chiến thắng Điện Biên Phủ? Súng, đạn, lương thực...Và một hậu phuơng chắc chắn, là Trung Quốc, năm 49 đã về tay Đảng Cộng Sản và Mao Trạch Đông. Chúng ta không thể đánh giặc với tay không! Trước năm 50, với chính sách của Pignon, Pháp đã có ý đồ Việt Nam hóa chiến tranh. Đến năm 51-52, lực lượng người Việt trong quân đội cũng như Bảo Chính Đoàn, gọi là Quân Đội Quốc Gia, lên trên 220.000 người [10]. Đó là chưa kể số quân nhân Pháp, Marốc (Maroc), Sênêgan (Sénégal)...trong những binh chủng chính qui, được Mỹ trang bị vũ khí tối tân, với không quân và hải quân cũng như những lực lượng cơ động áp đảo hoàn toàn trên trời và dưới biển. Tháng 2 năm 50, ông Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh rồi Mạc Tư Khoa, đề nghị với những nước “anh em”(!) chính thức công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một Quốc Gia, và giúp ta trong chiến tranh chống Pháp. Dĩ nhiên, cái giá phải trả là quay theo cái quĩ đạo của những nước Cộng Sản [11]. Đổi lại, là khí giới và, ở một mức nào đó, cả lương thực... Chỉ sau Chiến dịch Biên giới, thế giằng co với lực lượng quân đội Pháp mới có chiều thay đổi. Pháp thua, rồi trận cuối cùng là ĐBP Thế nhưng 9 năm máu xương kháng chiến ta lấy lại được gì? Một nửa đất nước với HĐ Genève. Chia cắt đất nước đau lòng lắm chứ. Trưởng phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng đề nghị chấp nhận một Việt Nam thống nhất sẽ tiếp tục ở lại trong Liên Hiệp Pháp [12, tức là quay lại khởi điểm 9 năm trước, ngày Hiệp Định Sơ Bộ ký kết vào 6-03- 1945. Nhưng quan muốn Pháp buông tay ở Đông Dương cho Mỹ nhảy vào
-...còn bối cảnh quốc tế anh có đề cập tới? Bình Minh ngắt.
- À, thế này: Đầu năm 1954 Liên Xô đề nghị giải quyết vấn đề Đông Dương. Khi đó, tại hội nghị Berlin, ngoại giao Pháp, Mỹ đồng ý sẽ bàn chuyện Đông Dương ở Geneve, có thêm: Trung Quốc và Ấn Độ tham gia.Thủ tướng Ấn kêu gọi hai bên ngưng chiến nhưng lực lượng đặc biệt của Pháp với 500 cố vấn Mỹ vẫn muốn thực hiện kế hoạch Navarre, bất ngờ bị pháo kích của Việt Minh, và kéo theo bước leo thang của Mỹ trong giúp đỡ về máy bay vận tải và ném bom. Để vận động dư luận và Thượng Viện, tổng thống Mỹ Eisenhower tuyên truyền chủ thuyết Domino. Bộ Trưởng Ngoại Giao Mỹ Dulles thậm chí còn ngỏ lời với Bộ Trưởng Pháp là Bidault về khả năng dùng bom nguyên tử ở Điện Biên Phủ. Tuy nhiên, không chỉ các nuớc Xã hội chủ nghĩa, mà ngay cả các nước trung lập cũng muốn hội nghị Geneve khai mạc đúng hạn. Và thế là hội nghị Geneve được tổ chức từ 26-04 đến 21-07, với nghị trình đầu là chuyện Triều Tiên, sau đó mới đến Việt Nam vào ngày 8-05, đúng một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Ngày 10-05, phó thủ tướng Phạm Văn Đồng đưa ra quan điểm của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đòi Pháp công nhận quyền độc lập và tự chủ của Việt Nam, nhưng cũng xác nhận sẵn sàng gia nhập Liên Hiệp Pháp. Khi ấy, hai khối mang tên Thế giới Tự Do và Xã Hội Chủ Nghĩa đã cắt đôi nước Triều Tiên, và thế là hai nước “anh em” Trung Quốc và Liên Xô ép một giải pháp tương tự với Việt Nam. Nhưng cắt Việt Nam ở đâu? Ta đòi vĩ tuyến 13, rồi lùi dần...Chu Ân Lai, người ngày xưa mai mối và dự lễ cưới của Hồ Chí Minh với Tăng Tuyết Minh [14], nay gặp lại ông Hồ ở Quảng Châu thuyết phục để vĩ tuyến 17 trở thành vết chém ngang lưng Tổ Quốc.
- Sao thời đó ta không đánh tiếp? Bình Minh gần, giọng ấm ức.
- Súng đạn là do ‘‘anh em” cung cấp thì thắng bại là có phần “anh em” quyết định! Khi đó, cái kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên cho thấy Mỹ đã đổ quân trực tiếp tham chiến, từ phía Nam đánh bật lên phía Bắc Triều Tiên, chắc ‘‘anh em” không muốn phiêu lưu thêm một bước!
-...và hai năm sau là Tổng Tuyển Cử theo như HĐ Genève!
- Chuyện này thì nói để mà ‘‘chơi” thôi! Hoa Kỳ không ký tuyên cáo chung, chỉ xác nhận là có ghi nhận văn bản này, trừ điểm số 13, tương tự như phái đoàn của chính phủ miền nam Việt Nam Ngô Đình Diệm. Ý đồ như thế thì trẻ con cũng có thể đoán ra. Nghe kể, khi ăn bữa ‘‘liên hoan” chia tay sau hội nghị ‘‘đạt thắng lợi”, ngồi giữa hai vị trưởng đoàn của hai Chính Phủ miền Nam và miền Bắc, Chu Ân Lai hỏi ông miền Nam có đệ đơn xin vào Liên Hiệp Quốc không, và nếu có, Trung Quốc sẵn sàng ủng hộ. Ông miền Bắc, tức Phạm Văn Đồng, nghe mà chết sững... Chỉ tội cho tiếng sáo trên hồ Léman!
-???
- Một người họ Võ vấn tóc mặc áo the đến ngồi bờ hồ Léman gần nơi diễn ra Hội Nghị thổi sáo để nói cho nhân loại biết cái nỗi đau của vết chém ngang lưng. Bình Minh có nghe có biết nhà thơ Trần Dần không?
- Không! Nhưng Bình Minh sáng mắt lên, tiếp, nhưng em rất thích thơ...
- Ông Dần viết năm 56 bài thơ Nhất định thắng trong Giai Phẩm mùa Xuân khiến sau ông bị treo bút hơn 30 năm liền ấy mà...
- Em...chẳng biết gì cả. Anh nhớ được, đọc đi..
-...Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc.
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng máu nhỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
A, cái lưỡi dao cùn!
Không đứt được mà đau
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ôi! Cả Nước! Nếu mà lưng tôi lạnh
Hãy nhìn xem: có phải vết dao
Không đứt được mà đau!
Lưng Tổ Quốc hôm nay rớm máu...
Bình Minh bần thần, mím môi, im lặng. Chúng tôi ra khỏi Hoàng Thành, men con đường Cách Mạng Tháng Tám, rẽ phố Tống Duy Tân, bước cạnh một cái viện bảo tàng trên sân lổn nhổn đủ loại loại xe tăng, nào là T175, M 113..., ta đoạt được của Mỹ-Ngụy trong mặt trận Quảng Trị, Đông Hà...và chiến dịch Đại Thắng Mùa Xuân. Nghĩa là sau Genève 20 năm.
A, cái lưỡi dao cùn? Nhưng súng đạn hai bên lại rất hiện đại. Và khiến trên dưới bốn triệu người cả quân lẫn dân hai bên đã mạng vong trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước? Những bóng ma vẫn đâu đây. Của Huế Mậu Thân. Của An Lộc tử thủ. Của thành cổ Quảng Trị thương tích với gạch đá hoang tàn. Bóng ma họ Võ bên bờ hồ tuốt trời Tây, cây sáo cong queo nằm trong rẩy bụi vấy sương. Bóng ma Trần Dần, với vết sẹo cứa cổ rắp ranh trốn sổ đoạn trường, nhưng không thành nên lại một mình khập khễnh đi, không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ, suốt trên dưới bốn mươi năm. Tôi bước, đâu đó những bóng ma quây quanh, tai chợt nghe thấy tiếng sáo văng vẳng ven sông đệm cho những lời thơ của một người đã từng cứa cổ vì không chịu khuất phục. Bỗng Huế rải vào thế gian những bụi mưa, rất Hà Nội... Bình Minh buột miệng như để tự trấn an:
- Đình chiến để có thời gian xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa là một sách lược đúng, phải không anh?
Đất bằng sóng dậy!
Không đáp câu hỏi giọng có chớm chút hoài nghi, tôi chỉ một quán ven sông, rủ Bình Minh vào uống nước. Chọn một góc vắng nhìn ra cầu Tràng Tiền, chúng tôi nghe mưa nặng hột gõ như cười trên mái tôn. Nhìn dăm con đò ủ dột xuôi dòng để lại những vòng nước xoáy hờ bên mái chèo, tôi không biết nói gì cho người bạn trẻ yên lòng. Bình Minh hỏi lại, mắt bỗng dưng ánh lên nét lo lắng. Tôi đáp:
- Chỉ 5 năm, làm sao xây dựng gì ngay được trên cái nền một xã hội đã hàng ngàn năm phong kiến, lại mới thoát ách thực dân? Trở lại cái vế thứ hai, là khi phải dựa vào hai nước ‘‘anh em” để chiến thắng ĐBP, ta không còn độc lập trong vấn đề xây dựng xã hội như ta mong muốn. Tài liệu do chính Đảng sau này khéo léo phổ biến khiến người dân có thể nghĩ rằng ông Hồ Chí Minh không cưỡng nổi áp lực của Staline và Mao trong phương sách tiến hành những cải tạo xã hội kiểu XHCN giáo điều. Ngay 1953, Việt Nam ta đã phát động một chính sách điền địa bắt chước kiểu Mao bên Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc. Bắt đầu là 4 đợt Giảm Tô Giảm Tức, rồi sau là 5 đợt Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ), chấm dứt vào 56, tức 2 năm sau Genève. Song song với CCRĐ là phong trào Chỉnh Đốn Tổ Chức (CĐTC), tiến hành với sự chỉ đạo của các cố vấn Trung Quốc có kinh nghiệm là La Quí Ba về chính trị, Vi Quốc Thanh về quân sự và Kiều Hiểu Quang về CCRĐ. Chính sách thành phần-lý lịch ra đời, với giai cấp nông dân là đội quân chủ lực xây dựng XHCN. Các đội Cải Cách về nông thôn thăm nghèo hỏi khổ, bắt rễ, xâu chuỗi, tranh thủ bần nông cốt cán để phóng tay phát động đấu tranh chống giai cấp địa chủ, tàn dư phong kiến và (nhân tiện!) bọn Việt gian Quốc Dân đảng, bọn phản động, bọn làm ‘‘gián điệp” tay sai cho những thế lực ngoại xâm, vân vân...Rập khuôn Trung Quốc, ta cũng phải tìm cho bằng được 5% địa chủ cường hào, tịch thu của cải - gọi là quả thực - để phân phát cho bần nông. Nhất đội nhì Trời. Và qui thành phần, đem đấu tố, rồi mang trước Tòa Án Nhân dân mà kết tội, nhẹ thì tù đầy cải tạo, nặng thì tử hình. Ai không chịu tham gia, tức có liên quan thành phản, và thế là cũng có tội, bị cách ly với quần chúng cách mạng, bị ruồng bỏ. A, cái chi tiêu 5% khó làm sao! Và chỗ nào cũng thi đua đấu tố, cũng đạt thắng lợi, cũng nêu thành tích...nên địa phương nào không có, hay không đủ, địa chủ cường hào thì ‘‘đánh lên” thành phần. Tiếng hát vang vang ‘‘Nông dân là quân chủ lực”, lẫn trong tiếng trống ếch thiếu nhi, biến nông thôn thành nơi bần nông có kẻ ‘‘tố điêu”, có người ‘‘ tố vấy”, rủ nhau hôi của, tranh cửa cướp nhà. Bấy giờ, không thiếu những chuyện vợ tố chồng, con tố cha, anh em, chú bác tố nhau, giết nhau. Làng xã Việt Nam, nền tảng truyền thống và đạo lý của xã hội, bị xới tung lên, chẻ nát ra, cùng với những con người không còn gì ngoài cái bản năng mà phần thú tính nghiền phần nhân tính ra thành những mảnh vỡ khó lòng hàn gắn lại [15]. Đồng thời, CĐTC được tiến hành, thực chất là Đảng của các ‘‘vị” thanh trừng nội bộ để sắp xếp lại bộ máy quyền lực từ trên xuống dưới. Bao nhiêu đảng viên oan, bao nhiêu chết, bao nhiêu gia đình tan nát? Ông Võ Nguyên Giáp nói độ 8.000 người. Có kẻ bảo 20.000. Con số đích xác thì Đảng biết, nhưng 60 năm qua rồi vẫn cứ "bảo mật”. CCRĐ đưa đến những công phẫn ngay trong giai cấp nông dân chủ lực. Nạn nhân đấu tố là cường hào ác bá địa chủ thì đã đành, nhưng chỉ 5% và đã bị đấu. Nhưng còn chuyện quả thực chia không công bằng. Ruộng thấp ruộng cao ruộng xấu ruộng tốt phân cho bần cố cũng không công bằng. Hỏi ai đây? Nhưng cứ nhất Đội thì hỏi Trời cũng vô ích. Trời hạng nhì, vả lại qui thành phần thì qui thế nào? Tháng 9 năm 1956, Trung Ương Đảng họp để tổng kết thành quả CCRĐ. Đại Tướng Giáp, người anh hùng ĐBP, thay mặt Đảng ra nhận sai lầm trước nhân dân. Nhưng số nạn nhân là bao nhiêu ở miền Bắc? Không ai trong những kẻ có thẩm quyền nói gì cả. Cứ coi như nông thôn miền Bắc khi ấy độ 10, 12 triệu người, thế thì 5% số người chắc phải xấp xỉ 600,000 nạn nhân, với có thể khoảng 60,000 người bị sát hại? Lạy trời rằng không phải thế!
Nghe tôi bật miệng lậy trời, Bình Minh quay mặt dấu nỗi xúc động. Bây giờ, gió xào xạc thốc vào quán nước. Cô tiếp đãi viên kéo áo len lên che cổ, nhìn chúng tôi, đôi mắt long lanh như thấm nước mưa của Huế da diết, Huế đế đô ngày xưa, và Huế hôm nay nghèo nàn tức tửi những tiếng hò mất hút cuối một thời sắc hương phai nhạt. Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách! Tôi ngậm ngùi, cần chi phải nhắc sắc bất ba đào...trên cái đất nước ba đào này, chòng chành đến chóng mặt!
- Rồi sửa sai thế nào, anh?
- Sửa thì có Đội sửa sai về thay Đội cải cách. Sai có, và sửa thì ông Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng và Chủ nhiệm ủy ban Cải Cách thành Chủ Tịch Quốc Hội. Ông Hoàng Quốc Việt, phó chủ nhiệm đặc trách CCRĐ, đưa qua nắm Ban Kiểm Sát. Ông Lê Văn Lương, phó chủ nhiệm lo CĐTC, về nhậm chức Chủ tịch UBND Thành Phố Hà Nội. Riêng Hồ Viết Thắng, Ủy viên thường trực của Ủy ban CCRĐ thì có xuống, bị văng ra khỏi Trung Ương nhưng lại về trách nhiệm Ủy ban Kế Hoạch Nhà Nước. Hồ Chí Minh thành Tổng Bí Thư Đảng, cứ như người vô can! Và sai gì thì sai, có sai là chỉ chấp hành sai chứ về ‘‘cơ bản vẫn đúng”, đã ‘’cào bằng’’, chia bình quân ruộng đất cho nông dân canh tác trong giai đoạn đầu, và sẽ ‘‘vào hợp tác” trong tương lai một xã hội đúng bài bản xã hội chủ nghĩa. Dân đùa, có sai có sửa, sai đâu sửa đấy, nhưng sai đấy sửa đâu!
- Vào hợp tác là thế nào? Bọn em sinh sau đẻ muộn, không biết là gì!
- Ban đầu, ở mức thấp cho mươi mười lăm gia đình, hợp tác với những tổ đổi công. Sau, ở mức cao hơn, là Hợp Tác Xã, lao động tính theo công điểm, và từ đó qui ra thu nhập của nông dân. Năm 60, hợp tác trong nông nghiệp được hoàn thành về cơ bản. Chỉ ít năm sau, sản lượng xuống, dân bắt đầu ăn độn. Không đổ cho thời tiết được, trong chiến tranh người ta bảo là vì bom Mỹ. Đâu cũng một giọng, chiến tranh là cách đổ tội để biện minh cho sự thất bại của những cải cách thời bình. Nhưng ngoài chiến tranh, cái nghiệp dĩ của dân tộc từ suốt mấy trăm năm nay, còn những chuyện khác...
- Chuyện gì?
- Sự thủ tiêu một xã hội dân sự. Với cái khẩu hiệu ‘‘chính trị là thống soái”, phương thức tổ chức một nền chuyên chính vô sản kiểu Lênin, lại kèm vào liều lượng Maoít xuất phát từ truyền thống, phong kiến Trung Quốc. Từ đó, xã hội được tổ chức theo kiểu một trại tập trung. Và như thế, lại cần đến chiến tranh, điều kiện ‘‘khách quan” để xây dựng một xã hội-trại lính!
Bình Minh chằm chằm nhìn, đợi tôi nói tiếp. Lúc ấy mưa tạnh hột. Trời bắt đầu tối dần, ánh đèn bên kia bờ sông Hương đã nhấp nháy thắp sáng. Cô tiếp đãi viên nhìn chúng tôi, vẻ muốn đóng cửa quán, thu xếp lăng quăng như giục chúng tôi đi. Nhìn Bình Minh, tôi nói khẽ.
- Ta đi...Tìm cái gì ăn. Em có biết quán cơm Âm Phủ không?