Cước chú
Một số những trạm tham khảo trong bài viết là: AMVC: amvc.free.fr; BBC: www.bbc.co,uk/vietnamese; Diễn Đàn: zdfree.free.fr/diendan/; Talawas:www.talawas.org; Thông Luận: www.thongluan.org; Hợp Lưu: www.hopluu.net [1] Trần Trọng Kim,Việt Nam Sử Lược, Saigon, NXB Tân Việt, 1956, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1971. [2]Tạ Trí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam (1771-1802), NXB An Tiêm, 1991. [3] George Dutton, Rethinking the Tây sơn era, UCLA working paper, 2004. [4] Huỳnh Kim Khánh, Vietnamese Communism 1925-1945, Cornell University Press, Ithaca(USA), 1982. [5] Devillers Philippe, Histoire du Việt Nam de 1940-1952, Edition du Seuil, Paris 1952 và Võ nguyên Giáp, Những chặng đường Lịch Sử, NXB Văn Học, Hà Nội, 1977 [6] Devillers Philippe, Paris-Saigon-Hanoi (1944-1947), Edition Gallimard-Julliard, Paris, 1988. [7] Salan Raoul, Fin d’un Empire, Edition Presse de la Cité, Paris, 1970. [8] Goscha Christopher và Benoit de Tréglodé, The Birth of a Party-State: Việt Nam since 1945, edition Les Indes Savantes, Paris, 2004. Tham khảo chương 4, Shaw McHale, Freedom, Violence, and the Struggle... và nhất là chương 10, François Guillermont, Au coeur de la fracture vietnamienne. Tiến sĩ Guillermont dựa trên nhiều tài liệu Nhà XB Công an Nhân Dân (NXBCAND) của các Bộ Công An, Bộ Nội vụ Việt Nam (cục Cảnh Vệ, cục Tình báo) cũng như hồi ký của những nhân vật chỉ đạo công an và tình báo như Lê Giản, Lê văn Viễn... Đặc biệt trong thời gian 45-54, xin tham khảo Công an Thành Phố Hà Nội, Những chặng đường lịch sử, NXB CAND, 1990. [9] Dương Trung Quốc, ‘‘Tư tưởng coi thường Hiệp Định Genève là một sai lầm”, VietnamNet, 21-07-2004. [10] Devillers Philippe (sđd, 1988). [11] Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, NXB Quân đội Nhân Dân, Hà Nội, 2001. [12] Về HĐ Genève, tạm chia diễn biến ra 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 (8/5 - 23/6): Đây là giai đoạn các bên trình bày lập trường của mình về cách giải quyết vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Thay mặt đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng đã trình bày lập trường 8 điểm tại hội nghị: 1- Pháp công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia. 2- Ký một hiệp định về việc rút quân đội nước ngoài ra khỏi 3 nước Đông Dương trong thời hạn do các bên tham chiến ấn định. Trước khi rút quân, đạt thỏa thuận về nơi đóng quân của lực lượng Pháp hay Việt Nam trong một số khu vực hạn chế. 3- Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong 3 nước nhằm thành lập Chính phủ duy nhất cho mỗi nước. 4- Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố ý định xem xét việc tự nguyện gia nhập Liên hiệp Pháp và những điều kiện của việc gia nhập đó. 5- Ba nước Đông Dương thừa nhận các quyền lợi kinh tế, văn hóa của Pháp tại mỗi nước. Sau khi Chính phủ duy nhất được thành lập, các quan hệ kinh tế và văn hóa được giải quyết theo đúng các nguyên tắc bình đẳng và củng cố. 6- Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh. 7- Trao đổi tù binh. 8- Các biện pháp nói trên sẽ được thực hiện sau khi đình chỉ chiến sự.
[9] Dương Trung Quốc, ‘‘Tư tưởng coi thường Hiệp Định Genève là một sai lầm”, VietnamNet, 21-07-2004. [10] Devillers Philippe (sđd, 1988). [11] Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, NXB Quân đội Nhân Dân, Hà Nội, 2001. [12] Về HĐ Genève, tạm chia diễn biến ra 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 (8/5 - 23/6): Đây là giai đoạn các bên trình bày lập trường của mình về cách giải quyết vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Thay mặt đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng đã trình bày lập trường 8 điểm tại hội nghị: 1- Pháp công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia. 2- Ký một hiệp định về việc rút quân đội nước ngoài ra khỏi 3 nước Đông Dương trong thời hạn do các bên tham chiến ấn định. Trước khi rút quân, đạt thỏa thuận về nơi đóng quân của lực lượng Pháp hay Việt Nam trong một số khu vực hạn chế. 3- Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong 3 nước nhằm thành lập Chính phủ duy nhất cho mỗi nước. 4- Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố ý định xem xét việc tự nguyện gia nhập Liên hiệp Pháp và những điều kiện của việc gia nhập đó. 5- Ba nước Đông Dương thừa nhận các quyền lợi kinh tế, văn hóa của Pháp tại mỗi nước. Sau khi Chính phủ duy nhất được thành lập, các quan hệ kinh tế và văn hóa được giải quyết theo đúng các nguyên tắc bình đẳng và củng cố. 6- Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh. 7- Trao đổi tù binh. 8- Các biện pháp nói trên sẽ được thực hiện sau khi đình chỉ chiến sự. Giai đọan 2 (24/6 - 20/7): Trưởng đoàn Pháp và Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đàm phán trực tiếp để giải quyết các vấn đề cụ thể. Đoàn đại biểu VNDCCH kiên trì đấu tranh cho mấy vấn đề cơ bản bao gồm: quyền tham gia hội nghị của các đại biểu chính phủ kháng chiến Lào và chính phủ kháng chiến Campuchia; chọn vĩ tuyến để khẳng định giới tuyến quân sự thạm thời ở Việt Nam và thời hạn tổ chức tổng tuyển cử tự do thống nhất nước ta. Hai vấn đề chủ chốt phía sau mãi đến gần lúc Hội nghị kết thúc mới được giải quyết. Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève về Đông Dương bắt đầu được ký kết với nhiều văn kiện, chủ yếu là: 1- Ba hiệp định đình chỉ chiến sự tại 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia; 2- Bản tuyên bố riêng ngày 21/7/1954 của Mỹ tại Hội nghị Genève, đã không ký vào HĐ; 3- Bản tuyên bố của chính phủ Pháp ngày 21/7/1954 trong đó nêu rõ Pháp sẵn sàng rút quân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, Lào, Campuchia theo lời yêu cầu của chính phủ những nước có liên quan trong một thời gian do các bên thỏa thuận; 4- Những hiệp định về Việt Nam với nội dung: i- Các nước tham gia hội nghị tôn trọng quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam ii- Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương; iii- Vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời chia cắt Việt Nam làm hai miền. Pháp rút quân về phía nam vĩ tuyến đó; iii- Tổng tuyển cử tự do trong cả nước sau hai năm để thống nhất nước Việt Nam. [13] Devilliers P (sđd, 1988). [14] Hoàng Tranh, Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc của Nguyễn Ái Quốc, Diễn Đàn, 121.09-2002. [15] Xin tham khảo Nguyễn Minh Cần, Xin đừng quên, nửa thế kỷ trước: vấy máu Cải Cách Ruộng Đất, Thông Luận, 01-2003; Dương Thu Hương, Những thiên đường mù, 1987 ; Lê Lựu, Chuyện Làng Cuội, 1991; Tô Hoài, Chuyện ba người (chưa xuất bản), Trần Dần, Ghi 1954-1960, td mémoire, Paris 2001. [16] Xem Lê Đạt, Nói về Nhân Văn Giai Phẩm, phỏng vấn do Thụy Khuê thực hiện, Hợp Lưu, 81, 2005, và Trần Dần (sđd, 2001). [17] Hồ Chí Minh Toàn Tập, NXB Sự Thật, 1976. [18] Trần Văn Trà, Hòa Bình hay Chiến Tranh, NXB QĐND, Hà Nội, 2003. [19] Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Văn Nghệ, California, 1977. [20] Nguyễn Minh Cần (sđđ, 2003) [21] Mann.R (sđd) [22] Tham khảo Mann. R (sđd), Kissinger H, Years of Upheaval, Boston:Little, Brown, 1982, và Nixon R, No more Việt Nam, NewYork:Abor House, 1985. [23] Trần Quang Cơ, Quan hệ Việt-Mỹ: 1977, thời cơ bỏ lỡ, Diễn Đàn, 136, Paris, 2004. [24] Đoàn Thêm, Những ngày muốn quên (1975-1983), Tổ Hợp XB Miền Đông Hoa Kỳ, 1992 [25] Tạ Chí Đại Trường, Một khoảng Việt Nam Cộng Hòa nối dài, NXB Thanh Văn, California, 1993. [26]Ngô Nhân Dụng, Tại sao nhiều người Việt giàu thế, Talawas, 2004. [27] BBC, 2-12-2004, Lê Quỳnh, Ban Việt Ngữ. [28] Nguyễn Mạnh Hùng, vấn đề ổn định, Hợp lý hóa và Phát Triển Kinh Tế nước ta (Đề trình gửi Ông Phạm Văn Đồng, Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng ), 1982 (tài liệu riêng). [29] Trần Độ, Hồi Ký (1955-1996), Talawas 2003. Tập2, chương 3, đề cập đến Nghị Quyết 5 (1987) cởi trói: Tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa, văn nghệ, để phát triển tài năng. Trong lịch sử Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc giành được độc lập, tự do và đã mang lại quyền tự do sáng tác chân chính cho văn nghệ sĩ. Bản chất quyền tự do sáng tác của văn nghệ sĩ nằm trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo và được quy định bởi trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội... Tác phẩm văn nghệ không vi phạm pháp luật, không phản động (chống lại dân tộc, chống lại chủ nghĩa xã hội, phá hoại hòa bình), và không đồi trụy (truyền bá tội ác, sự sa đọa, phá hoại nhân phẩm) đều có quyền được lưu hành và đặt dưới sự đánh giá, phán xét của công luận và sự phê bình. Đảng và Nhà nước khuyến khích thảo luận, tranh luận công khai để tìm ra chân lý. Cần tạo một không khí hồ hởi trong sáng tác, khêu gợi nhiều cảm hứng sáng tạo cao đẹp trong các văn nghệ sĩ....Nhưng đây mới nới nửa vòng thì hai năm sau vắt lên cổ văn nghệ sĩ! Và sau đó họ tự kiểm duyệt đến độ còn gay gắt hơn thời trước! [30] Đề Cương Đề Dẫn thảo luận ở Hội Nghị Đảng Viên bàn về Sáng tác Văn học 1979, Talawas, 2004. [31] Nam Dao, Trách nhiệm nhà văn giữa lối đi lầy vết, Phỏng vấn do Mai Ninh thực hiện, Hợp Lưu, 80, 2004 [32] Thành quả về văn học, trừ thời kháng chiến chống Pháp, không được như mong mỏi (xem ghi chú 30 và 35 ở dưới), lý do chính là lập trường thắt họng văn chương và quan điểm sáng tác theo hiện thực XHCN. Xin tham khảo Phan Huy Đường, vẫy gọi nhau làm người: Gặp gỡ cuối năm, khi lập trường thắt họng văn chương, http://amvc.free.fr. Xem thêm cước chú 35 ở dưới. [33] Trần Quang Cơ, Hồi ký (trích Hồi Ức và Suy Nghĩ), Diễn Đàn, 2003 [34] Nadegda Kutznetsova, Nhà Nước Toàn Trị (Nguyên Trường dịch), Talawas, 2004. [35] Chính sự tồn tại của giai cấp quan liêu nắm quyền lực chính trị này là nguyên nhàn sinh ra hiện tượng sùng bái lãnh tụ. Lãnh tụ toàn trị được gán cho những tính chất siêu phàm: không bao giờ sai, biết hết, có khả năng suy nghĩ cho tất cà mọi người...Sự chuyên chính của một đảng nhất định sẽ dẫn tới một hệ tư tưởng chính thức buộc mọi người phải công nhận và xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống. Hệ tư tưởng toàn trị trước hết là phương tiện tranh thủ quần chúng đê củng cố quyền lực của bộ máy đảng, phản ánh chủ yếu quyền lợi vật chất của tầng lớp nắm quyền lực chính trị và xuyên tạc các mối quan hệ xã hội, che dấu bản chất thật sự của chính xã hội đó. Chính tầng lớp chóp bu nắm quyền đứng trên học thuyết của mình và chẳng có mối quan hệ gì với nó cả. Những lãnh tụ toàn trị đều biết rằng để nô dịch tất cả các phong trào quần chúng họ đều cần huyền thoại. Mussolini, thủ lãnh phát-xít Ý, đã phát biểu về quan hệ của lãnh tụ toàn trị và tầng lớp ưu tú đối với hệ tư tưởng - huyền thoại mà nó tuyên truyền như sau: "Chúng tôi tạo ra huyền thoại; huyền thoại là niềm tin, là lòng nhiệt tình; nó không phải là hiện thực, nó là động lực và hy vọng, là niềm tin và lòng dũng cảm’’. Nhưng huyền thoại là phương tiện tư tưởng làm sợi dây sỏ mũi đám đông. Hành động của các viên chức quan liêu của đảng thường thường không được quyết định bởi hệ tư tưởng chính thức mà được quyết định bởi mục tiêu củng cố và phát triển quyền lực của mình. [36] Dã Tượng, Văn học, Nội lực, trong-ngoài và một vài tra vấn... với nhà văn Nguyên Ngọc, Hợp Lưu, 2003. [37] Tham khảo Phụ Lục đính kèm dưới đây. [38] Tham khảo P Đ Chí và TB Nam (chủ biên) Đánh Thức con Rồng ngủ quên, Kinh Tế Việt Nam đi vào thế kỷ 21, bài 24: về chênh lệch thu nhập theo Vùng và giữa Thành Thị- Nông Thôn, Nguyễn Mạnh Hùng, NXB TP Hồ Chí Minh, Vapec, và Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, 2001. [ 39] Vũ Quang Việt, Kinh Tế Việt Nam năm 2004, Diễn Đàn 2-2005. Xin trích: Nền kinh tế hiện nay chủ yếu là phát triển sản xuất hàng hóa theo đơn đặt hàng không đòi hỏi công nghệ cao phục vụ thị trường nước ngoài do đó xuất khẩu tăng nhanh, nhưng ngược lại nhập khẩu tăng mạnh hơn vì nhu cầu nhập nguyên liệu, máy móc làm hàng xuất khẩu và phục vụ tiêu dùng cũng như đầu tư của nhà nước. Đồng Việt Nam lại ở mức giá cao so với đồng Mỹ trong nhiều năm qua nên có tính khuyến khích nhập khẩu. Việt Nam là một ưường hợp khá ngoại lệ so với nhiều nước khác ở khu vực. Kinh tế dựa vào ngọai thương nhưng họ thì cán cân ngọai thương thừa còn Việt Nam thì cán cân ngày càng thiếu hụt cao. Trần Văn Thọ trong Thời Đại Mới số 3, www.thoidai.org, đã nếu lên một lý do, đó là sự thiếu gắn bó giữa sản xuất xuất khẩu và sản xuất nguyên liệu phục vự sản xuất xuất khẩu, đặc biệt là trong hai ngành may mặc và xe máy. Theo điều tra các công ty có vốn nước ngoài, 75 % nguyên vật liệu và phụ tùng là nhập từ nước ngoài, các công ty có 100 % vốn nước ngoài thì nhập khẩu gần như 100 %. Thống kê cho thấy hầu hết hàng nhập là có mục đích sản xuất (được ưu tiên mức thuế thấp), không phải hàng tiêu dùng, nhưng thực chất là để tiêu dùng, thí dụ như việc sản xuất xe máy cho thấy, linh kiện nhập để sản xuất xe máy chủ yếu nhập nhằm mục sản xuất hàng tiêu dùng trong nước. Lắp ráp ô tô, hàng điện tử cũng thế. Chính vì thế, với hối suất thấp, với mức thuế ưu đãi, nhập khẩu tiếp tục cao. Thống kê không nói lên điều này vì những linh kiện này được xếp vào nguyên liệu sản xuất, còn gần như không có nhập hàng xe máy và thành phẩm điện từ tiêu dùng. [40] Xem cước chú 37. [41] Trần Quế Đệ -Xuân Đào, ‘‘Điều tra Nông Dân Trung Quốc”, Talawas, 2005(một tài liệu quan trọng). [42] Một cái nhìn về viễn cảnh chính trị ở Việt Nam, BBC 2005, thực hiện phỏng vấn M Gainsbourg về cuốn sách “Changing Political Economy of Việt Nam: the case of HoChiMinh City”, Routledge Curzson, 2003 và tóm tắt bài “Political Change in Việt Nam in search of the midle class challenge to the State”, Asian Survey, 2002. [43] Xin tham khảo tham luận của GS Hoàng Tụy, và GS Bùi Trọng Liễu, trong Hồ Sơ Tài liệu Diễn Đàn, http://zdfree.free.fr/die../dossiers/dossiers.html [44] Đặng Quốc Bảo, Năm khuyết tật lớn của ĐCSVN, Diễn Đàn, 2004. Xin trích: Than ôi, nền giáo dục của chúng ta bị băng hoại. Có 4 nhược điểm cơ bản của giáo dục mà không thoát được. Đảng không lãnh đạo thoát được thì ảnh hưởng đến toàn bộ lớp trẻ chúng ta đào tạo. Thứ nhất là nền giáo dục tạo nên sản phẩm giả và lưu hành sản phẩm giả từ cấp cơ sở đến ông tiến sĩ, đến ông giáo sư, lưu hành và trộn lẫn với nhau. Cuối cùng thì chết thằng thật. Không phải không có thằng thật. Trộn lẫn như vậy thì thằng giả chi phối. Hiện nay có bao nhiêu tiến sĩ giả, giáo sư giả. Ông Vũ Đình Cự nói với tôi: theo tôi ước lượng vào khoảng 70 %. Tôi không có số liệu cụ thể về chuyện này. Nhưng nhiều người có trách nhiệm nói về hiện tượng đáng lo ngại. Đua nhau và theo 2 hướng: một là, mua danh; hai là để kiếm chút địa vị và biến nó trở thành một thứ hàng hóa để lưu hành. Tất cả chuyện này trộn lẫn với nhau. Hiện tượng thứ hai: Hệ thống giáo dục trở thành thị trường không lành mạnh. Tất cả các thành phần của giáo dục trở thành một thứ hàng hóa mang giao bán, tất cả các kỳ thi, các chứng chỉ. Mười năm rồi nhưng tất cà các hiện tượng này chưa được khắc phục, mỗi ngày một nghiêm trọng hơn. Hiện tượng thứ ba: hệ thống thầy giáo rất thiêng liêng, tuy không phải là tất cả, nhưng có xu hướng là người kinh doanh, mà kinh doanh rất tàn nhẫn, đào tạo theo mẫu và không có trách nhiệm. Cho nên báo chí đưa ra đầu vào rất khó, nhưng đầu ra rất dễ. Đào tạo thế thôi, tức là một giáo trình có thể tồn tại 10 năm, 15 năm mà không thay đổi. Tôi có thằng cháu được vào Bách Khoa một cách ưu tiên, nhưng nó không vào, nó đi ra nước ngoài để học. Một cậu ở Bách Khoa nói với tôi: may mắn là cháu đi học, bởi vì tôi là Hiệu phó phụ trách về giáo dục thì thấy không kiểm soát được, vì có tiền là có điểm thôi... Hiện tượng thứ tư: nội hàm của trí thức thì nội hàm hiện đại rất yếu, mà kiến thức cổ cách đây 50 năm. Đây là lực lượng gọi là con người, mạnh nhất phải vươn lên để dẫn đầu khu vực. Nhưng con người nằm trong hệ thống đào tạo thì đang khủng hoảng giống như thầy phù thủy triệu âm binh nhưng không điều khiển được âm binh. Nền giáo dục của ta có điều khiển được không? Hệ quả tai hại không phải là con người Việt Nam đang thiếu trí tuệ. Hệ thống điều hành làm cho nó tê liệt đi. Nhưng nếu cùng con người ấy cho ra ngoài thì nó nên người. Nhưng than ôi, ngay ra nước ngoài cũng thế. [45] Điều 4 Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều 30 Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hóa phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục. Điều 33 Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Nghiêm cấm những hoạt động văn hóa, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam. [46] Trích Đặng Quốc Bảo: Kinh nghiệm cổ kim đông tây và kinh nghiệm của cả nhân loại có một điểm: mọi sự độc quyền đều dẫn đến tha hóa, bất kể dưới dạng nào. Trong đó kể cả Đảng ta. Tất cả mọi sự độc quyền đều vắng bóng dân chủ. Nhưng cũng có ở một thời điểm lịch sử nhất định phải có một sự độc quyền nhất định thì mới có thể thay đổi được tình huống. Nhưng sự độc quyền ấy nếu kéo dài ra vĩnh cửu thì nhất định dẫn đến tha hóa. Đây là bài toán ta phải lý giải được. Tôi nghĩ rằng sớm muộn sự xuất hiện những lực lượng đối trọng ở dạng này, dạng khác nhất định sẽ diễn ra, đó là cái tất yếu, nhưng là lúc nào thôi, là đối trọng lành mạnh, chứ không phải là đối trọng ác ý. Mọi sự độc quyền đều dẫn đến chuyên chế. Đây là vấn đề hết sức lớn, ta có thừa nhận không. Tôi có kiến nghị cụ thể như thế này, trước hết trong nội bộ Đảng tạo nên một không khí có đối trọng. (...) [47] Trích Đặng Quốc Bảo: vấn đề thứ tư của Đảng có nguy cơ rất lớn, tức là trong Đảng hình thành một tầng lớp giầu có và có lợi ích riêng. Ngành nào cũng thế, địa phương nào cũng thế. Xã hội hiện nay có 2 lực lượng. Một là lực lượng xã hội đen (Năm Cam cũng như Lã Thị Kim Oanh là một biểu hiện của xã hội đen, đang mọc lên như nấm), chúng ta thấy được một chừng mực nào. Nhưng xã hội đen này lại nằm ngay trong nội bộ của chúng ta - không phải là tất cả -nhưng ngành nào cũng có và ở ngành quan trọng. [48] Tham khảo Phan Đình Diệu. Một số suy nghĩ về tiếp tục con đường đổi mới của đất nước ta, 2004, Hồ Sơ Tài Liệu Diễn Đàn, http://zdfree.free. fr/dien dan/dossiers/. Trích:... tôi xin mạnh dạn đề xuất của vài biện pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp đổi mới đã đi được một chặng đường dài của đất nước ta: 1. Phát triển đầy đủ kinh tế thị trường và hoàn thiện cơ chế thị trường theo thông lệ quốc tế cho nền kinh tế nước ta. Có lẽ ở đây điều mấu chốt chỉ còn ở một số vấn đề như thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân và thực hiện quyền bình đẳng kinh doanh của mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ các đặc quyền (phi lý) của các doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao và trí thức, hoàn chình sớm hệ thống luật pháp về kinh tế theo chuẩn mực của kinh tế thị trường. Có các giải pháp minh bạch hóa và chống tham nhũng cùng các tiêu cực khác; 2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội dân chủ. Trong nhiều năm qua ta đã xây dựng được một hệ thống luật pháp khá đầy đủ về tổ chức Nhà nước, về các luật dân sự và hình sự. Vấn đề quan trọng nhất ở đây là thật sự tôn trọng các quyền tự do dân chủ mà Hiến pháp và pháp luật đã qui định, đặc biệt là các quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do báo chí, tự do lập hội, tự do ứng cử và bầu cử, là những quyền dân sự rất nhậy cảm, thước đo dễ nhận thấy của một xã hội dân chủ. Nếu các quyền này được thật sự tôn trọng, và một xã hội dân sự được phát triển, thì tôi tin rằng xu hướng đồng thuận xã hội sẽ được xác lập và tăng cường, đời sống văn hóa tinh thần của đất nước ta sẽ được đơm hoa kết quả, góp phần không nhỏ vào cuộc sống văn minh của đất nước. Như vậy, về bản chất, Nhà nước ta sẽ trở thành một Nhà nước xã hội chủ nghĩa dân chủ; 3. Còn một vấn đề khó nói nhất là về vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong gần hai thập niên qua, ở cương vị lãnh đạo, Đảng ta đã giữ được cho đất nước ổn định để thực hiện giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Đến nay, sự nghiệp đổi mới đòi hỏi những nội dung mới và chất lượng mới, để tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo của mình thì bản thân Đảng phải có những đổi mới cơ bản, rõ ràng lý luận về chủ nghĩa cộng sản và về chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác-Lênin không còn thích hợp với đòi hỏi mới của cuộc sống nữa. Nhiều Đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ và ở nhiều nước khác trong thời gian qua đã chuyển thành các Đảng xã hội dân chủ, và sau một thời gian “khủng hoảng” đã trở lại là một lực lượng chính trị quan trọng trong sự phát triển mới. Tôi hy vọng là Đảng sẽ tự biến đổi thành một Đảng xã hội dân chủ để lãnh đạo nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa dân chủ, như vậy thì cả vấn đề giữ quyền lãnh đạo cho Đảng và tạo ra một nền dân chủ của xã hội đều được giải quyết một cách trọn vẹn, và do đó. nước ta sẽ sớm thực hiện được mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, hội nhập vào quốc tế. Nếu không được như vậy, tức là Đảng vẫn kiên giữ nguyên như hiện nay, thì vì quyền lợi của dân tộc. Đảng phải tôn trọng quyền dân chủ, kể cả quyền lập đảng, của xã hội, và ta sẽ có một chế độ đa đảng hoạt động trong phạm vi luật pháp.Trước sau gì thì một nền dân chủ cũng phải là đa nguyên thôi, vì đa nguyên luôn luôn là điều kiện cần của dân chủ, đó là điều mà cả về lý luận lẫn thực tiễn ta không có cách gì có thể bác bỏ được. [49] Tham khảo Lê Chí Quang. Góp ý sửa đổi Hiến Pháp 1992, Thư gửi Ban Soạn Thảo và Sửa Đổi Hiến Pháp Quốc Hội nước Việt Nam, 2001. Trích: Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: Việt Nam đã gia nhập Công ước quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị của LHQ ngày 24/9/1982. Tuy nhiên, việc ký kết này chỉ nhằm làm hài lòng các quốc gia phương Tây, để xin viện trợ của nước ngoài. Thực tế, ở VN, người dân chưa hề được biết khái niệm nhân quyền đích thực. Họ chỉ được tuyên truyền về sự đối lập với các giá trị phổ quát của nhân quyền phương Tây, các điều kiện và quan điểm khác nhau về nhân quyền, nhằm biện minh cho sự duy trì vĩnh viễn một học thuyết, một chế độ đã lỗi thời, phản tiến bộ. Đừng giả dối, chỉ cố tô vẽ những lời hoa mỹ vào Hiến pháp nhưng thực tế thì luôn dùng bạo lực và nhà tù để đàn áp những người khác chính kiến. Quyền chính trị nhiều khi còn mang những giá trị lớn lao hơn là những quyền về kinh tế. Cùng với quyền kinh tế, quyền chính trị tại mỗi quốc gia cho phép ta đánh giá chất lượng toàn bộ hệ thống xã hội, nó xác định bản chất chế độ chính trị đó là dân chủ hay độc tài. Một nền dân chủ chân chính đòi hỏi phải khắc phục những quan niệm giáo điều, đố kỵ về bản chất tôn giáo và nhu cầu tồn tại tất yếu của nó trong xã hội. Cũng như tính tất yếu của tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo phải là hiện thân cuộc sống. Điều 69 viết: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp,lập hội,biểu tình theo quy định của pháp luật." Mệnh đề theo quy định của pháp luật rất dễ bị chính quyền sử dụng như là chiếc khóa, khóa chặt tất cả các quyền ở trên rồi. Chính vì vậy nên điều 12 của luật báo chí thẳng thừng quy định chỉ có nhà nước mới có quyền được xuất bản báo chí. Bên cạnh đó, điều 88 và điều 226 của bộ Luật Hình sự lại hùn thêm vào để tước nốt quyền được nhận và trao đổi thông tin. (Thế mới đúng quy định của pháp luật chứ! )Cho nên, Điều 69 cần được sửa là: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được nhận và trao đổi thông tin bằng bất cứ hình thức nào; có quyền hội họp; lập hội; quyền được thành lập đảng phái của mình; quyền được biểu tình, đình công "Về tự do tư tưởng: So với Công Ước Quốc Tế mà ta tham gia ký kết, điều 70 của Hiến pháp 1992 đã bỏ mất dòng chữ "mọi người đều có quyền tự do tư tưởng...". Nói chung trong toàn bộ bản Hiến pháp 1992, mấy chữ tự do tư tưởng được xem là huý kỵ. Một cách trắng trợn, Đảng buộc toàn dân tộc phải là nô lệ tư tưởng của Đảng. Điều này cần được sửa lại là: "Công dân có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, và tôn giáo; có quyền không theo hoặc theo một tôn giáo do mình lựa chọn; tự do bày tỏ, hoặc tuyên truyền về tôn giáo cho từng cá nhân hoặc nơi đông người. Các tôn giáo được bình đằng trước pháp luật. Nơi thừa tự của tín ngưỡng và tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Quyền này chỉ bị hạn chế khi nó xâm phạm đến các quyền tự do cơ bản khác của công dân, hoặc các quy định về an toàn sức khoẻ, trật tự công cộng. "Về điều 72: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực phápluật. Người bị bắt giam, bị giam giữ bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt giam, giam giữ truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.". Theo đúng như điều này thì Nghị định 31/CP ban hành ngày 14/4/1997 là hoàn toàn vi hiến. Yêu cầu xin hủy bỏ ngay nghị định 31/CP, đồng thời thả ngay những người bị xử lý sai và truy tố những người ra các quyết định vi phạm Hiến pháp.
.