10. Việt Nam, (4)
Đường cùng Sa lầy vào chiến tranh trên đất Chùa Tháp, mất hậu thuẫn quốc tế, phải đối phó với nguy cơ phương Bắc, bị cô lập và cấm vận kinh tế trong khi đó cải tạo xã hội ở miền Nam theo mô hình XHCN khó khăn trầm trọng: hợp tác xã nông nghiệp kiểu “đánh kẻng” để nông dân đi làm như với miền Bắc đầu những năm 60 lại lập lại thêm một lần sự thất bại không thể phủ nhận được cuối thập niên 70. Sau Giải Phóng, sản lượng nông nghiệp trong Nam xuống trầm trọng, cái cảnh ăn độn bo-bo bắt đầu đập vào mắt, rõ ràng động cơ kinh tế là củ cà rốt chứ không thể tạo ra bằng cái gậy giơ cao đánh xuống (với ý chí điên rồ đem bỏ toàn bộ nhân dân vào một cái nhà tù khổ sai ‘‘vĩ đại” chấn chỉnh bằng roi vọt). Đầu những năm 80, Đảng đành chấp nhận 5 thành phần kinh tế và cho khoán sản phẩm, một kinh nghiệm làm chui ở Vĩnh Phúc năm 66 khi cải cách nông nghiệp trên miền Bắc thất bại. Trước, sự thất bại ta đổ tội cho chiến tranh. Nay, cũng vậy. - Tại sao Đảng lại lập lại trong miền Nam những thất bại cải cách kinh tế ở miền Bắc? Bình Minh ngạc nhiên. Tôi không biết làm thế nào để trả lời Bình Minh cho thật ngắn gọn. Hình ảnh đất nước lại chập chờn khơi lại chuyến tôi về Hà Nội 25 năm về trước. Thuở đó, Hà Nội xơ xác, điện lắm hôm bị cúp ngày 2,3 lần khi có điện thì cái máy suyệc-vôn-tơ (survolteur) kêu sè sè. Tối tối, tôi thả bộ dọc đường Trần Hưng Đạo, xót xa nhìn những ngọn đèn dầu lạc le lói chiếu những cái hòm gỗ con con để dăm bao thuốc lá bán lẻ cho khách qua đường. Đầu ngõ, những cái bảng nguệch ngoạc ‘’Nhận đan len, nuôi thỏ” hay ‘‘Qui-Gai-Xốp”, ba chữ có âm điệu Liên Xô mãi sau chúng tôi mới hiểu ra là bánh bít-qui, bánh gai...Dân Hà Nội nghèo. Nhưng điều khiến tôi ngỡ ngàng là cái thói nói chuyện đất nuớc mà cứ thì thào vào tai, mắt nhìn ra sau như sợ có người nghe. Lắc đầu, tôi ban đầu cho rằng đó là do cái thói quen bảo mật trong thời chiến, nhưng sau tôi hiểu, nó đến từ một sự sợ hãi lơ lửng đe dọa những phát ngôn lỡ ra không đúng lập trường, sai đường lối chính sách, và lung tung vô tổ chức. Nhưng khi tập thể bóp chết tư duy mọi cá nhân thì cái tập thể đó phải chăng đang mê muội lên đồng, tự thắt họng, trong cuộc hiến tế dâng xác mình cho thần chuyên chế? Thời đó là thời Đại Hội V. Nghe đâu ông Võ Nguyên Giáp có thể sẽ thành Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng thay ông Phạm Văn Đồng. Nhưng ông Giáp đòi làm cho rõ ràng hai chuyện chồng chéo là Đảng lãnh đạo và Nhà Nuớc quản lý, tức yêu cầu có một hình thức phân quyền nào đó mặc dầu lãnh đạo hay quản lý thì nhất định cứ phải là đảng viên trước đã. Hai ông Duẩn-Thọ điều ngay ông Giáp từ Ủy Ban Khoa học Kỹ thuật, một trong ba dòng thác cách mạng, sang phụ trách Sinh đẻ có Kế Hoạch. Thôi thì, cứ từ từ. Thuở đó, tôi giao tiếp với ông Phan Đình Diệu và ông Nguyễn Khắc Viện. Hai vị này ‘‘điều trần”, và phần tôi, tôi được (hay bị) ông Phạm Văn Đồng, Nguyễn Cơ Thạch và (về sau) ông Võ Văn Kiệt khuyến khích đề đạt những góp ý về vấn đề xây dựng kinh tế. Viết gửi Hội Đồng Bộ Trưởng thời đó, tôi đề xuất quan điểm xã hội như một hệ thống ‘‘mở’’, trong đó thông tin luân chuyển và có tính phản hồi, tức một hệ thống sinh động chứ không bó vào quán tính ù lì. Trên phương diện kinh tế, tôi xin đẩy mạnh ‘‘khoán” đến việc sử dụng cơ cấu giá thị trường như đòn bẩy kích thích, và giới hạn sự tham gia của Nhà Nước vào những chính sách vĩ mô liên quan đến y tế, giáo dục, quân sự, và những ngành công nghiệp cần tập trung... Về mặt vi mô, tôi cho rằng Nhà Nước phải giới hạn nền kinh tế quốc doanh vào nhiều lắm là 60% từng ngành, mở rộng tham gia cho nhiều thành phần kinh tế, và làm sao để các xí nghiệp quốc doanh cạnh tranh một cách công bằng trên cơ sở qui luật thị trường chứ không dùng ưu tiên chính trị để chèn ép những xí nghiệp thuộc những thành phần kinh tế (tu nhân) khác [28] ...Đấy là cái tội trời chưa sáng đã gáy của tôi đầu thập niên 80! Từ 82, tôi phải đợi 6 năm sau mới có giấy phép nhập cảnh Việt Nam, đơn của một người như tôi xin về đóng góp xây đựng quê hương mình phải có chữ ký chấp thuận của đến ba vị lãnh đạo là các ông Phạm Hùng, Võ Văn Kiệt và Nguyễn Cơ Thạch! Bình Minh ngắt, giọng nghiêm trang, quay lại vấn đề hệ trọng hơn: - Nhưng anh chưa đáp câu hỏi, tại sao lại lập lại những thất bại... - Tại cái câu của Lê-nin, là cướp chính quyền dễ, nhưng giữ được chính quyền mới khó! Dưới thời thực dân phong kiến, bộ máy quản lý nông thôn ở mức xã có xã trưởng, hương tuần... cộng lại đến 10, 20 người là nhiều. Nhưng với giải phóng, rất nhiều chức tước, mọc ra nhan nhản với nào là Ủy Ban nhân dân, Xã đội, công an...và thường là phình ra gấp 5, 7, thậm chí 10 lần bộ máy ngày trước. Giữ chính quyền đồng nghĩa là nuôi được và cho cái bộ máy mới này những đặc lợi. Người cầy thực ra không có ruộng, đất là sở hữu tập thể, và nông dân bán sức lao động. Đất đai có hạn, người ngày một đông, thu nhập thấp rồi sưu cao thuế nặng. Trên giấy tờ, thuế nông nghiệp Trung Ương chỉ 15-20%. Nhưng còn tỉnh, còn huyện, còn các thứ quĩ đảm phụ nào là y tế, trường học, phụ lão... cho nên khi đến tay người cầy chỉ còn độ 20-25%. Một lần tôi đi tham quan và có dịp hỏi riêng một vị tiên chỉ ở một cái xã ngoại thành Hà Nội, nếu Nhà Nước ở các cấp chỉ thu độ 40% thuế các loại, nông dân ta có làm hăng hơn không? Cụ tiên chỉ sụp xuống, kêu nếu ông lo được thế thì làng tôi xin vái ông làm Thành Hoàng. Tôi vội đỡ cụ dậy, ngậm ngùi nói “... Cụ ơi, cháu cũng là dân như cụ thôi, làm gì được!”. Trong khi đó, nông nghiệp là khâu các nước tiên tiến phải có chính sách bù lỗ mới giữ được nông dân canh tác thì ở nước ta thuế má như vậy, tôi kêu lên những người lãnh đạo. Kêu thôi, nhưng chính trị thống soái, và Đảng vẫn giữ bộ máy cồng kềnh của chính quyền để đảm bảo cho sự tồn tại của mình! Ở trung tâm xã hội kiểu XHCN thời đó, quyền lực tập trung vào bộ máy giữ chính quyền, kinh tế chỉ là chóp băng bề mặt, và sâu dưới đáy là văn hóa kềm giữ bằng cách bóp chết thông tin khiến trí tuệ không oxy chết ngạt... Và rêu rao kẻ thù bên ngoài với khả năng chiến tranh là cái gậy thần đưa toàn dân vào cái thế cúi đầu ngậm miệng trước giặc trong ! Đó là thời mà một ông bạn tôi, con nhà nòi Cách mạng thuộc thế hệ có đào tạo và có thể là lớp kế thừa, khi thấy người ta giữ chính quyền mà bỏ cho dân đói, đã để lại vợ và hai con đi vượt biên! Và từ lúc có lao động thế nào đi nữa thì ăn cũng chẳng đủ no, chỉ sau hai năm khoán hộ, miền Nam thoát khỏi cảnh ăn độn bobo, đã có khả năng chỉ viện lương thực cho miền Bắc xưa nay vốn hiếm không tự túc được. - Thì bây giờ cũng đầy giặc trong, giặc chỉ chuyển từ nông nghiệp qua những dự án xây dựng hạ tầng cơ sở và khâu gia công trong công nghiệp nhẹ, phải không anh? Bình Minh thở dài, quay mặt như tránh câu trả lời. - Bây giờ có khác, ta sẽ có dịp nói sau, nhưng cái gì thì cùng cũng tắc biến... Đổi Mới hay là Chết! Cùng tắc biến, nếu không mang tính hiện thực thì cũng là một câu mở cửa về phía tương lai. Nhưng biến tắc thông trong Kinh Dịch thì chẳng chắc. Đại hội VI, với các vị lãnh đạo tối thượng nay trở thành cố vấn, để ông Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng Bí Thư Đảng. Chiến tranh Campuchia là chuyện quá khứ. Quan hệ với Trung Quốc đỡ căng, về phía Liên Xô,Glatsnost và Perestroiska với Gorbachov báo hiệu một cách nhìn mới trên phương diện tổ chức chính trị. Việt Nam tung khẩu hiệu đổi mới tư duy, bước đầu là cởi trói cho văn nghệ sĩ, điều tướng Trần Độ ấp ủ từ Đại hội V, nhưng sau bị Trưởng ban Tổ Chức Lê Đức Thọ gạt đi [29]. Thật ra, cái nhu cầu cởi trói đã có từ năm 1979, gần như lập lại nhu cầu thời Nhân Văn-Giai Phẩm 25 năm về trước. Để tuyên xưng lòng can đảm và tình yêu sự trung thực cũng như trí tuệ của những người dám nhắc nhở những điều bức thiết, không có gì hơn là trích lại Đề Cương Đề Dẫn thảo luận ở Hội Nghị Đảng Viên bàn về Sáng tác Văn học 1979 [30] do Hội Nhà Văn chủ trì: ‘‘...Cho đến cuộc cách mạng tư sản thì sự khẳng định cá nhân con người trở nên quyết liệt nhất, sự ‘‘giải phóng’’, ‘‘làm chủ’’ của cá nhân trở nên rực rỡ nhất, nhưng dần dần cũng trở nên cực đoan nhất, sự đối lập của cá nhân với xã hội cũng trở nên triệt để nhất, mỗi một cá nhân đối lập quyết liệt, triệt để với toàn thể xã hội. Và tấn bi kịch kéo dài suốt lịch sử đến đây trở nên thảm khốc hơn bao giờ hết. Chưa bao giờ con người tự thấy năng lực của nó to lớn đến thế, chưa bao giờ nó làm chủ được những lực lượng vật chất khổng lồ đến thế, thì đồng thời cũng chưa bao giờ nó cũng trở nên bơ vơ, cô đơn đến thế. Sự tha hoá của con người đạt đến mức cùng cực. Cuối cùng nó rơi vào trong cái vực thẳm của chính nó. Chúng ta đã từng thấy tình trạng bi đát cùng cực này được phản ánh như thế nào trong nền văn học tư sản, dưới mọi màu sắc. Đó là tình trạng của con người trong cái đêm trước của buổi bình minh chủ nghĩa xã hội. Bài toán đó, tất nhiên, cũng đặt ra đối với chúng ta khi chúng ta bước vào chủ nghĩa xã hội với những đặc điểm riêng của đất nước ta. Từ sản xuất nhỏ đi thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta đang giải đáp bài toán này như thế nào? Bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta "bỏ qua", chúng ta tránh cho con người chúng ta phải rơi vào tấn thảm kịch mà xã hội tư sản đã lâm vào. Song, cái công việc khẳng định toàn diện của cá nhân, phát triển đến cao nhất mọi năng lực của mỗi con người, giải phóng mọi sức mạnh và cá tính sáng tạo phong phú, độc đáo của từng con người, thì từ con người của nền sản xuất nhỏ đi lên phải chăng chúng ta nhất thiết phải làm, hơn nữa phải làm rất mạnh, rất nhiều, rất toàn diện. Bước lên vũ đài lịch sử, một trong nhiệm vụ to lớn và đẹp đẽ nhất của chủ nghĩa xã hội, về mặt con người, là nó phải - và chỉ có nó mới làm được công việc này - chấm dứt cuộc xung đột lâu dài giữa con người và xã hội đó, trả con người trở lại với toàn xã hội, với tập thể, đưa con người thống nhất trở lại với tập thể. Nhưng đây là một sự thống nhất có chất lượng hoàn toàn mới mẻ, một sự thống nhất không xóa nhòa cá nhân, một sự thống nhất trong đó mỗi cá nhân không phải là một đơn vị vô danh, mù mờ, không màu sắc; trái lại mỗi cá nhân đều long lanh những sắc màu riêng độc đáo nhất, được tự do phát triển và do đó năng lực sáng tạo to lớn của mỗi cá nhân đều đạt đến chỗ cao nhất. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thật sự là chủ nghĩa xã hội chân chính nếu nó đảm bảo sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân. Và mỗi một con người chỉ thật sự là con người xã hội chủ nghĩa khi được phát triển đến cao nhất bản sắc của riêng nó, nó lại hoà hợp với toàn xã hội ở mức độ rất cao... Xã hội, có thể nói, lần đầu tiên thực sự là xã hội loài người. Đó là một bài toán cực kỳ khó khăn, cũng cực kỳ lý thú, đẹp đẽ mà chủ nghĩa xã hội phải trả lời. Nhìn từ góc độ ấy chúng ta dễ nhận rõ cuộc đấu tranh xây dựng con người trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa về cơ bản là cuộc đấu tranh xây dựng mối quan hệ mới về chất giữa cá nhân và xã hội, giữa từng con người và tập thể. Những lời đẹp đẽ vừa kể phải chăng chỉ là tô vẽ về một xã hội huyễn vọng lý tưởng? Nhưng có xã hội nào không còn huyễn tưởng mà đáng để cho những con người sống là mong vượt lên trên giới hạn của cá nhân mình để cùng đồng loại tiến đến một cái gì tốt đẹp hơn? Sau Đại hội, cuộc cởi trói cắt rốn đã khai sinh một số những tác phẩm văn học có chất [31] với những tên tuổi như Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Nhật Tuấn... Đùng một cái, biến cố Thiên An Môn ở Trung Quốc, rồi sự sụp đổ như những lá bài Tây xếp lá này dựa vào lá kia làm bức thành XHCN của Liên Xô và những nước Đông Âu cứ lả tả ngả xuống. Thế là co lại [32]. Thế là quay ngoắt sang ‘‘chiến lược” dựa vào Trung Quốc để chống âm mưu ‘‘diễn biến hòa bình” của Đế quốc Mỹ, hoảng sợ đẩy nhanh cuộc thương lượng bình thường hóa quan hệ Việt-Trung qua cách đem bán đứng Campuchia trong cuộc hội nghị cấp cao ở Thành Đô và bị đánh lừa một cách bi hài! Than ơi, lại mẹo Trạng, nhưng lần này thì Trạng hết thiêng, cái láu lỉnh ứng biến vô nguyên tắc không thể thay được một cách nhìn có bề sâu và có chiều dài [33]. Nhân dân lấy Kiều, Trăm năm trong cõi người ta. Co vào rồi lại bung ra, mấy hồi! - Nhưng có khác được không? Bình Minh lại hỏi. - Trung Quốc từ 1976 của Đặng Tiểu Bình bắt chuột, mèo đen hay mèo trắng đều được. Nhưng ngoài chuyện kinh tế bắt chuột thì Đặng xua xe tăng vào Thiên An Môn bắt sinh viên Bắc Kinh biểu tình đòi nới ra cái không gian chính trị ngột ngạt của một chế độ toàn trị. Việt Nam co lại theo con đường đó, tức tốc giải tán 2 đảng Xã Hội và Dân Chủ, mặc dầu thật ra 2 đảng này cũng chỉ là loại sản phẩm phụ của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Về mặt tư tưởng, người ta khuyên nhau, ai ơi chớ có huyên thuyên, đa thê thì đặng đa nguyên thì đừng. Ông Trần Xuân Bách là Ủy viên ban Bí thư chỉ tương đối cởi mở chứ chưa kịp đa nguyên đã bị hất ngay ra khỏi vòng quyền bính. Còn tôi, phận mỏng, vừa về đến Nội Bài hè năm 90 thì được mời ra khỏi phi trường ngay, có hai vị đại tá công an sách hộ vali đưa đến tận cửa máy bay Air Thai chờ tôi nên không được cất cánh, mặc dầu tôi có Visa và cả giấy mời về ‘‘đóng góp” với Ủy Ban Vật Giá. Ơ hay, tôi có đa nguyên hoặc định diễn biến hòa bình hay không? Đúng là năm 89 tôi có phát biểu với một cấp lãnh đạo nghe đâu sắp với đến chức Tổng Bí Thư Đảng rằng chẳng nên giải tán 2 cái đảng vệ tinh nói trên. Chắc “Đảng” cho là tôi có cú đá hậu của Ngựa bộc tệch trong truyện Lục Súc tranh công chăng? Và trâu bò húc nhau, thôi thì để cứ để cái thằng tôi ruồi muỗi hóa ra đệm bông đấu đá (proxy fight), nhân tiện thành ‘‘điển hình” làm gương răn đe cho bọn trí thức lắm điều! Còn câu Bình Minh hỏi có khác được không thì có khả năng lắm chứ. Quan hệ Mỹ-Trung khi đó căng, Việt Nam thì vào cuộc đổi mới trễ vẫn đang kiệt quệ, còn bị cấm vận và khá cô lập. Thời cơ lúc ấy là cởi mở với phương Tây, hòa nhập về kinh tế, nới không gian chính trị, để thế giới thấy Việt Nam không cứng ngắc giáo điều và nhắm mắt làm chư hầu một Trung Quốc đang tìm cách bành trướng bá quyền. Chỉ 6 năm sau, Việt Nam làm thế thật, tức là co vào rồi lại bung ra, nhưng không còn cái thế tạo ra một thứ Nam Tư ở Á châu, quá muộn và mất hậu thuẫn của nhiều nước, kể cả nước láng giềng mình bội ước. Dĩ nhiên nói thế không có nghĩa là giải pháp vừa kể không có vấn đề, và cái chính là vấn đề nội bộ các vị lãnh đạo. Đa số họ không nắm vững tình hình địa dư chính trị vùng cũng như xu hướng của thế giới, vừa đa nghi vừa bào thủ, co lại bảo vệ những điều đã đạt được, tức là quyền lực của họ. Trí nhớ họ khi đó chắc kém: họ quên Chu Ân Lai ép cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 17 năm 54, Mao Trạch Đông đầu thập niên 60 thúc họ đánh Mỹ, sau khi gặp Tổng Thống Mỹ Nixon năm 72 lại khuyên họ là thôi, con hổ giấy có móng có vuốt, đánh nhau với nó làm gì! Đổi mới hay là chết? Người Việt lại tiếu với nhau, không chết, vẫn ngắc ngoải như cũ, rồi cười. Quái thật, cái gì cũng cười được, người mình có cái thói lạ! Giải phóng dân tộc Khi chúng tôi đến Bến Ngự, chợ bắt đầu tàn. Hàng quán đóng cửa, chỉ còn những người bán rong đang thu xếp quang gánh. Men dòng sông An Cựu, chúng tôi vừa đi vừa hỏi, lát sau tìm được nơi xưa kia cụ Phan Bội Châu đã bị Pháp giam lỏng hàng chục năm. Trong vườn nhà ông già bến Ngự, bức tượng đồng, tác phẩm của nhà điêu khắc Lê thành Nhơn, trơ vơ giữa phong rêu thách thức, chòm râu trên chiếc cằm bạnh ra oai phong, sắc đồng xanh han rỉ khiến vầng trán ông nhăn lên những nếp suy tư hằn theo tháng năm dâu bể. Không có lấy một nén hương thắp lên, chúng tôi chỉ còn biết im lặng, và tưởng nhớ. - Cụ sống giờ này không biết cụ nghĩ chi, hả anh? - ... khỏi cái ách thực dân rồi, chắc cụ sẽ nghĩ đến xây dựng đất nước, như tất cả chúng ta! Sinh thời, cụ ít khi đề cập đến chuyện này, và nếu có, thì cụ theo Tân Thư. Đồng thời với cụ là Tây Hồ Phan Chu Trinh. Tây Hồ tranh đấu giải phóng qua cái sách ‘‘hưng dân trí”. Giải Phóng Dân Tộc như vậy đối với Tây Hồ là một vấn đề văn hóa. - Trong những bài giảng Lịch Sử, Giải Phóng Dân Tộc cứ được nhắc đi nhắc lại là công lao của Đảng... - Giải Phóng Dân Tộc phải là giải phóng người người khỏi giặc dốt và giặc nghèo. Thật ra, nghèo vì dốt, cho nên giặc dốt là cái thứ giặc ghê gớm nhất. Từ những năm 50, Đảng đã bưng vào Việt Nam cái mô hình văn hóa tư tưởng vừa Xtalin vừa Mao-ít, tức là thứ văn hóa lưỡi gỗ với trí tuệ giáo điều đóng khung trong sáu tấm ván thiên, phản ánh một xã hội toàn trị, nói ra viết ra thì lập trường giai cấp là câu đầu miệng. Trong một môi trường văn hóa như vậy, trí tuệ bị xơ cứng, và nỗi sợ khiến con người đâm ra vong thân - tha hóa, nghĩa là mất mình, và trở thành một kẻ khác, một con nguời xa lạ với chính mình. Đầu thập niên 80, tôi cảm nhận thấy ở Việt Nam trong mỗi người có đến hai, ba con nguời: con người ở cơ quan, vâng dạ, miệng lề lối, lấm lét tìm cách nếu không thể tiến thân thì khép nép cầu an; con người trong vòng gia đình bè bạn, bất lực như bị hoạn, yếm thế, thì thầm, lúc nào nói thật thì ngoái cổ ra đằng sau sợ có người nghe; và con người trong xã hội phố phường, rất sĩ diện rất mẽ, sống hời hợt với sự giả tạo bề ngoài. Tóm lại, đó là con người bị xé làm 3 mảnh, song song tồn tại dưới 3 khuôn mặt, gì cũng thật nhưng gì cũng ảo, và cái tập hợp những con người như vậy thật ra không có một chất keo gắn bó họ vào cái chúng ta gọi là xã hội XHCN, nghịch lý thay phi xã hội hóa con người, biến họ thành những cá nhân yếu đuối, trí trá với mọi người và với cả chính mình, sống với cái ám ảnh lúc nào cũng có thể trở thành tên tội phạm của quyền lực quơ trên đầu lưỡi dao ‘‘tập thể”... - Thế hệ cha em, thì thế thật! Bình Minh chép miệng. - Và biến con người ra nông nỗi ấy thì giải phóng là cái gì? Tất cả là vì cái xã hội toàn trị cả! - Nó là cái gì mà ghê thế anh? Nó là gì [34]? Xã hội là tập hợp của các hệ thống kinh tế, văn hóa và chính trị. Trong chế độ toàn trị chỉ tồn tại có một hệ thống, đấy là chính trị. Hệ thống chính trị đã nuốt chửng những hệ thống khác, xóa xã hội dân sự, tất cả đã bị khuất phục bởi Nhà Nước, tức Đảng cầm quyền. Tất cả các mặt của đời sống xã hội bị trộn lộn làm một. Đặc điểm quan trọng nhất của chế độ toàn trị là sự hợp nhất một cách tuyệt đối tất cả các lĩnh vực của đời sống. Chế độ toàn trị cố gắng xóa nhòa ranh giới giữa cá nhân, gia đình, xã hội, nhà nước, lãnh tụ, đảng, quần chúng. Văn hóa tinh thần, bao gồm văn học nghệ thuật, triết học, đạo đức thậm chí cả khoa học đều bị hệ tư tưởng Đảng toàn trị ngốn nghiến. Công cụ quan trọng nhất để biến xã hội thành đám đông vô tổ chức, thành các cá nhân ‘‘hạt nhân”, là khủng bố. Sau khi mất hết các mối liên hệ theo chiều ngang giữa người với người, các cá nhân trở thành đơn độc, trở thành một mình đối diện với Đảng-Nhà Nước, dĩ nhiên là hoàn toàn bất lực. Đặc điểm của chế độ toàn trị là ngoài hệ thống chính trị ra, tất cả các hệ thống khác của đời sống xã hội đều không tồn tại. Chúng đã bị trộn lộn vào làm một, được một hệ tư tưởng duy nhất cố kết, và được chỉ huy và kiểm soát từ một trung tâm. Từ đó, có thể rút ra một nguyên tắc, là chế độ này không có mối liên hệ phản hồi giữa quyết định của chính quyền và phản ứng của xã hội. Hệ thống chính trị của chế độ toàn trị bao gồm bộ máy chính trị quan liêu và một loạt phương tiện (tuyên huấn, công an mật, v.v.) để đảm bảo cho nó tiếp tục nắm giữ quyền lực. Phương tiện quan trọng nhất là của hệ thống chính trị này là tính độc đảng, và phù hợp với nó là tư tưởng nhất nguyên. Sau khi đã tiêu diệt các đảng phái khác, sau khi đã hợp nhất bộ máy đảng với bộ máy nhà nước và đàn áp sinh hoạt có tính chất tự trị trong nội bộ đảng, chính đảng toàn trị này trở thành trụ cột của bộ máy nhà nước với bộ máy quản lý nằm trong tay những nhân vật chóp bu của Đảng. Trong hệ thống toàn trị, đảng chính là con đường cho người ta thăng tiến vì nó nắm toàn quyền trong việc chỉ định các chức vụ từ lớn đến bé. Chỉ có đảng viên mới được giữ các chức vụ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước, trong các đơn vị sản xuất, trong quân đội, trong lĩnh vực ngoại giao và tất cả các lĩnh vực khác. Giai cấp cầm quyền này (ở Liên Xô gọi là "nomenklatura") tồn tại không phải trên cơ sở, sở hữu tài sản mà là trên cơ sở nắm giữ quyền lực. Nếu trong các xã hội tư bản, theo Karl Marx phân tích, thu nhập của một người trong giai cấp bóc lột phụ thuộc trực tiếp vào số tài sản mà hắn sở hữu thì trong chế độ toàn trị thu nhập phụ thuộc vào mức độ tham gia của hắn vào bộ máy quyền lực và nhất là vào quyền lực mà hắn nắm giữ [35]. Trong chế độ toàn trị, công tác tư tưởng đúng hàng đầu, có nhiệm vụ thực hiện: (1) Chức năng hợp thức hóa chế độ hiện thời, thường xuyên biện giải cho việc nắm quyền của đảng và lãnh tụ, tán dương quá khứ, vẽ ra tương lai tươi sáng mà đảng và lãnh tụ đang toàn tâm toàn ý xây dựng, gán ghép những qui luật qua đó mà dường như chế độ là diễn trình tất yếu. Hòn đá tảng trong hệ tư tưởng toàn trị là lời khẳng định rằng chế độ xã hội hiện thời được thiết lập là do qui luật tất yếu của lịch sử và tự nhiên. Trong trường hợp chủ nghĩa cộng sản thì đấy là chiến thắng tất yếu của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản, và chế độ xã hội chủ nghĩa nhất định sẽ thay thế chế độ tư bản. Theo qui luật biện chứng duy vật sử quan, chủ nghĩa toàn trị xuất hiện là do nhu cầu của lịch sử (chủ nghĩa cộng sản), hoặc do nhu cầu sinh học (chủ nghĩa phát xít). Nó chỉ thực hiện ý chí của lịch sử hay tự nhiên khi tiến hành tiêu diệt "các giai cấp bóc lột" hay các "chủng tộc hạ đẳng" vì một chế độ hoàn thiện hơn mà thôi; (2) Chức năng thứ hai là động viên quần chúng thực hiện các nhiệm vụ do chế độ đặt ra. Chế độ toàn trị cố gắng giữ cho quần chúng luôn ở trong tình trạng khích động vì khi tình trạng căng thẳng xã hội giam thì sẽ xuất hiện vấn đề tự do chính trị. Vì vậy chế độ toàn trị luôn luôn giữ vững và hướng dẫn tính tích cực quần chúng bằng cách tìm ra những kẻ thù mới, chuẩn bị chiến tranh hay các phong trào, có khi là phong trào thực hiện những kế hoạch kinh tế vĩ đại. Việc động viên quần chúng dĩ nhiên là được thực hiện từ trên xuống bằng biện pháp cưỡng ép hoặc lừa mị tư tưởng; (3) Chúc năng thứ ba, là "làm tê liệt về đạo đức", nhằm biến một người được giáo dục theo truyền thống đạo lý biến thành công cụ trong tay chế độ toàn trị. Để buộc những người này thực hiện các kế hoạch của chế độ thì cần phải cung cấp cho họ một tập hợp các tiêu chuẩn đạo đức mới. Từ đó, hệ tư tưởng toàn trị gần giống với tôn giáo, có xu hướng không chỉ cải biến hiện thực khách quan mà cải biến cả bản chất con người. Xtalin từng tuyên bố: "Chủ nghĩa Marx là tôn giáo của giai cấp, là biểu tượng của đức tin". Còn cương lĩnh của đảng là "biểu tượng chính trị của niềm tin". Hệ tư tưởng toàn trị đã trở thành một cái gì đó giống như tôn giáo của nhà nước với những giáo lý đặc biệt, những cuốn kinh, những vị thánh, những tông đồ, những lãnh tụ không bao giờ sai lạc, và các buổi lễ trọng cờ quạt.... Hệ tư tưởng toàn trị biện hộ cho tham vọng giải quyết được mọi vấn đề vì nó xác định nó chính là chân lý cuối cùng. Nhưng rõ ràng rằng khi tuyên bố là chân lý tuyệt đối trong chính trị, nó đã tiêu diệt tính đa nguyên của các quan điểm, tiêu diệt tự do lựa chọn. Tuyên bố chân lý tuyệt đối trong chính trị nhất định sẽ dẫn đến phủ nhận tự do, phủ nhận dân chủ. - Nhưng nói gì thì nói, Việt Nam ta cũng phân quyền, có Đảng, Nhà Nước và Quốc Hội... Bình Minh phản đối, mặt đỏ lên. - Ta thì gì mà chẳng có, nhưng đôi khi chỉ danh mà không thực. Tôi nhẹ giọng, biết không thể một sớm một chiều mà nói hết được. Thấy tôi ngần ngại, Bình Minh nhếch một nụ cười vẻ giục giã. Tôi tiếp: - Một đặc điểm nữa của hệ thống chính trị trong chế độ toàn trị là việc hợp nhất cả ba nhánh chính quyền là lập pháp, hành pháp và tư pháp vào tay một nhóm ưu tú của đảng. Nhóm đương quyền của Đảng chọn ra thành phần của quốc hội giả hiệu lập pháp, ủng hộ mọi việc làm và thông qua mọi điều luật mà bộ máy quan liêu của đảng cần. Bộ máy hành pháp quan liêu này lại chuyển các ý nguyện của Đảng thành nghị quyết, nghị định của chính phủ, cũng gồm toàn các quan chức đảng viên. Đảng cũng kiểm soát công tác của tòa án, nhiều khi viết sẵn cho các quan tòa các bản án, đấy là nói khi Đảng cảm thấy cần có tòa án. Một đặc điểm nữa của chế độ toàn trị là việc bất bình đẳng giữa các công dân trước pháp luật. - Như vậy nghĩa là ba nhánh quyền lực chỉ là những mắt xích dây xiềng... của Đảng, cũng giống như các tổ chức như Mặt Trận Tổ Quốc, Đoàn Thanh niên, Phụ Nữ, Công Đoàn... Bình Minh thốt lên như khám phá ra được điều gì lý thú. - Nếu các cuộc cách mạng tư sản tuyên cáo quyền bình đẳng giữa các công dân trước pháp luật thì cách mạng Bolsevich tuyên cáo sự bất bình đẳng và tước quyền công dân của "những kẻ bóc lột". Ngay trong Hiến pháp đầu tiên được ban bố năm 1918 ở Liên Xô đã nói rằng những người sống "không phải bằng lao động", những người buôn bán, các doanh nhân, giới tăng lữ bị tước tất cả các quyền công dân. Và không chỉ người chủ mà tất cả các thành viên của gia đình họ đều bị tước hết quyền y như thế. Cho đến giữa những năm 1930, những người có gốc gác "tư sản" vẫn không được vào đại học, không được tham gia công đoàn, bị hạn chế trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Tòa án bị bộ máy đảng và bộ máy đàn áp kiểm soát một cách toàn diện và triệt để, tòa án chỉ có mỗi một việc là thi hành chỉ thị của đảng mà thôi. Năm 1921 Lê-nin đã từng tuyên bố: "tòa án của chúng ta mang tính giai cấp, chống lại bọn tư bản". Như vậy là trong chế độ toàn trị không có chuyện bình đẳng của tất cả các công dân trước pháp luật và tòa án, không có chuyện nhà nước đối xử một cách bình đẳng với các công dân mà không phụ thuộc vào nguồn gốc, thành phần giai cấp, xã hội, tôn giáo, chủng tộc, quan điểm chính trị.... Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền XHCN. Trong khi đó thành phần lãnh đạo và lãnh tụ của các chế độ toàn trị lại đứng trên và đứng ngoài pháp luật. Pháp luật nhà nước không có hiệu lực đối với đảng và các đảng viên. Quyền lực của lãnh tụ và nhóm đầu sỏ cầm quyền là vô giới hạn vì không có lực lượng nào có thể ngăn cản và buộc họ phải tuân thủ pháp luật gì cả. Thấy Bình Minh ngơ ngẩn nhìn lên bức tượng cụ Phan Bội Châu như còn hoài nghi, tôi nhẹ nhàng: - Nếu xã hội hiện là kiểu toàn trị như vừa trình bày thì quả là Đảng... khó mà bảo đã giải phóng những con người Việt Nam trong cuộc dâu biển 60 năm qua. Cứ nhìn thành quả mỏng mảnh của nền văn học hiện thực XHCN trong 40 năm trời thì khắc biết [36]. Khi văn hóa bị xiềng bị xích, làm gì có con người giải phóng. Và không giải phóng được những con người thì hòng nói gì đến Giải Phóng Dân Tộc! Chúng tôi rời khu vườn nhà ông già Bến Ngự. Lối ra cỏ hoang mới được phát quang, nhưng bàn tay thu vén chắc khá vội vàng, đất xới lên mầu đen đủi như số phận những cái ta gọi là văn hóa và lịch sử trong một nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN trước ngưỡng cửa cuộc hội nhập toàn cầu. Bình Minh mời tôi ăn bữa tối "gia đình", với Hoàng Oanh, người yêu của Bình Minh từ ngày ra Huế đi học. Giọng có chút ngượng ngập, Bình Minh cười: - Nhà Oanh bán bánh bèo, bánh khóai...nên ăn uống giản tiện lắm. Em chạy bàn, còn Oanh đổ bánh, phần anh, anh nói cho bọn em nghe về chuyện kinh tế, anh hỉ! Hội nhập kinh tế:?! Quán ở tầng chệt, sáu bàn, ngay sau là bếp. Tầng trên là nơi gia đình Hoàng Oanh ở, có mẹ và hai người anh lớn, một người nay đi làm xa. Nghe đâu cha Oanh đã hy sinh bên Campuchia, mấy mẹ con bỏ xứ Quảng về quê mẹ làm ăn từ khi Oanh lên năm. Bà mẹ Oanh đon đả: - Mời chú vô, mấy em nói về chú, nghe nói chú giảng dạy Kinh Tế phải không hà? Tôi chưa kịp đáp, Oanh chen vào: - Nhờ anh chỉ dạy, em cuối năm nay ra trường quản trị kinh doanh, nhiều thắc mắc lắm hè. Em xin nói trước, em người Quảng Nam hay cãi... nghen, có chi anh bỏ qua! Anh Minh nói, chuyện trò với anh học được... Tôi ngắt lời Oanh: - Tôi không làm nghiệp vụ giảng dạy chi hết, trao đổi bình đẳng chứ nếu không thì ta nói chuyện nắng mưa ở Huế thôi! Ngồi ăn, tôi nghe mẹ Hoàng Oanh phân biệt bánh khoái và bánh xèo, nhưng thú thật không nắm được gì. Nhưng bánh bèo ở đây thì tuyệt vời, và ngôn ngữ chịu, không thể chuyển cái ngon đến đầu lưỡi, có giỏi cũng chỉ khêu gợi được sự tò mò của thứ vị giác được chưng cất bằng tưởng tượng. Bất ngờ, Hoàng Oanh hỏi: - Nghe anh Minh kể thì dường như anh chống chế độ? A, cô em người Quảng khai pháo, và bắn là bắn tới đích chứ không vòng vo. Tôi chựng lại một giây, nhưng lại rất thích cái thái độ rất ngay thẳng của Oanh. Nhìn Bình Minh không giấu được chút ngỡ ngàng, tôi cả cười: - Trời, cô em, hỏi chi đâu mà khó dữ! Nói theo, thì không hoàn toàn thành khẩn, và dẫu bây giờ có nói nhưng chẳng mấy ai tin. Nhưng nói chống, thì rất chung chung. Theo gì, chống gì và nếu có, chống ra sao mới là vấn đề... - Thế anh chống cái gì... - Chống những điều đang đục ruỗng hiện tại khiến tương lai xã hội đâm ra chênh vênh. Và không chống bằng bạo lực hay kêu gọi bạo lực, mà bằng lý lẽ của mình, nhưng đồng thời vẫn chấp nhận lắng nghe lý lẽ người khác và sửa đổi khi thấy mình sai! Em nghe vậy có được không? Nhoẻn miệng, Oanh hạ một câu: - Tức là “diễn biến hòa bình”... - Em không thấy đất nước ta chiến tranh quá nhiều rồi ư? Câu hỏi ngược khiến Oanh bật cười thành tiếng, dịu giọng: - Em chọc anh một chút thôi! Bây giờ ta nói chuyện tích cực trước. Từ ngày đổi mới, về kinh tế Việt Nam mình bung ra, tỉ lệ tăng trưởng hàng chục năm cứ từ 6 tới 8%, sau chỉ sau Trung Quốc, và sẽ thành một con Rồng châu Á, anh có đồng ý không? - Những con số vừa kể tự nó không nói lên được gì nhiều đâu. Nhưng trên căn bản so sánh với những nước cùng mức độ phát triển, có lẽ ta sẽ có một hình ảnh sát sao hơn. Dựa trên bảng những số liệu [37] thống kê, chúng ta có thể so sánh Việt Nam với Thái Lan và Trung Quốc (TQ) từ thời bung ra năm 1985-86 cho đến năm 2000. Về GDP/đầu người: Việt Nam tăng 2 lần, Thái tăng 3 lần, TQ tăng 4.3 lần. Về đầu tư, Việt Nam tăng từ 11% lên 20.1% GDP, Thái từ 23% lên 27.2% GDP, TQ từ 29.8% lên 36.1%. Nhưng quan trọng hơn là tính cơ cấu: một nước có phát triển sẽ chuyển từ nông nghiệp qua công nghiệp và rồi dịch vụ như thường thấy. Từ 1975-2000, - Về phân bố lao động vào nông nghiệp ở Việt Nam bất biến ở mức 70-73% của tổng lực lao động, trong khi đó giảm từ 75.3% đến 51.3% ở Thái, va từ 76.3% đến 47.4% ở TQ. - Về phân bố lao động vào công nghiệp, Việt Nam giảm từ 13.6% xuống 12.6%, trong khi Thái tăng từ 8.1 % lên 17.7%, và TQ tăng từ 12.1% lên 20.4%. - Về phân bố lao động trong khâu dịch vụ, Việt Nam ở mức 14-16%, trong khi Thái thì 31% và TQ, 32.3% của tổng lực lao động. Cơ cấu kinh tế phản ánh rõ trong khâu xuất khẩu: năm 2000, 45.7% xuất của Việt Nam là nông thực phẩm, Thái là 33.7%, và TQ chỉ 8.6%. Cán cân ngoại thương thặng dư ở Thái từ 1985, chưa bao giờ thiếu hụt ở TQ trong 25 năm vừa qua, nhưng với Việt Nam, cán cân này luôn luôn âm, có nghĩa là số nợ nước ngoài ngày một tăng. Còn số nợ năm 2000 của Việt Nam là 22.5 tỉ đôla, xấp xỉ tổng sản lượng nội địa, tức ở mức báo động. - Nói vậy, tức là nước ta với Kinh Tế Thị Trường có định hướng XHCN không tạo ra được một cơ cấu mới à? Hoàng Oanh hỏi, giọng ngạc nhiên. - Vào đầu thập niên 90, mở cửa nền kinh tế là một bắt buộc, và dĩ nhiên qui luật thị trường ‘‘thuận mua vừa bán” là qui luật chung chứ ai ép được ai! Nhưng Kinh Tế Thị Trường không giải quyết được một số vấn đề cơ bản: thứ nhất, có những loại sản phẩm xã hội không thể điều chỉnh băng giá, nhất là cho một Quốc Gia nghèo đang phát triển như Giáo Dục, Y Tế xã hội, Môi Trường... Thứ nhì, cơ chế thị trường không thể bảo đảm được một sự phân bố lợi tức xã hội hài hòa, và phân hóa giàu-nghèo, phân hóa lợi tức giữa thành thị-nông thôn, giữa các vùng địa dư [38]… có cơ nguy tạo ra những bất bình đẳng dẫn đến những hậu quả xã hội và chính trị khó lường. Khi nghe đến cụm từ ‘‘có định hướng XHCN”, chúng ta có thể lầm tưởng chính quyền có những chính sách thích ứng về sự phân bố lợi tức hoặc những sản phẩm xã hội không thể ‘‘tư hóa” được. Sự thật thì không phải thế: với cái định hướng vừa nói, chính quyền chỉ có mục đích giữ khâu xí nghiệp quốc doanh, thậm chí làm nó phình ra, và bất chấp nó có hay không hiệu năng kinh tế cần thiết để tồn tại. Bình Minh lo lắng: - Nhưng gần đây thì sao, anh? - GDP giảm tốc độ tăng, từ hơn 9 % xuống mức thấp nhất là 4,8 % năm 1998, nhưng năm 2004 tốc độ tăng phục hồi và đạt mức 7,5 %. Như vậy là 3 năm qua, kinh tế đạt mức tăng trên 7 % một năm. Mức tăng trên cơ bản là do đầu tư của nhà nước. Năm 2004, đầu tư lên trên 35 % GDP khoảng gần 16 tỷ USD, một tỷ lệ đầu tư ở mức cao nhất thế giới hiện nay, nhưng lại tràn lan, thiếu chất lượng và hiệu quả. Nhưng đầu tư tràn lan để tạo cơ hội tham nhũng. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, tham nhũng tăng chính là con đẻ của việc nhà nước đầu tư tùy tiện bất chấp hiệu quả kinh tế thực sự. Đầu tư của nhà nước đã nằm trong chiến lược kích cầu một cách vô trách nhiệm. Ngân sách thu không cung cấp đủ thì ngân hàng cấp vốn. Vốn của ngân hàng cấp cho quốc doanh qua tín dụng tăng năm 2003 hơn 30 %. Việc tăng tín dụng cho doanh nghiệp nhà nước và các công trình xây dựng là đầu mối của lạm phát đột biến vào năm 2004, ở mức 9,5 %. Đầu tư vào khu vực nhà nước trước năm 1997 ở mức dưới 50 % tổng mức vốn đầu tư xã hội. Sau năm 1997, đầu tư vào khu vực nhà nước tăng mạnh và đưa tỷ lệ trên lên cao, năm cao nhất là 58.7 %, và hiện nay, 80% tín dụng đổ vào những xí nghiệp quốc doanh. Đầu tư của tư nhân dù tăng nhanh với chính sách mở rộng hiện nay vẫn chỉ chiếm 26 % tổng đầu tư xã hội. Về đầu tư của nước ngoài, tỷ lệ vốn đổ vào đã giảm từ cao điểm 30 % xuống khoảng 17 % hiện nay. Chính sách tín dụng nhằm kích đầu tư dẫn đến tình trạng lạm phát: theo dự báo thì 2 tháng đầu năm 2005 giá sẽ tăng khoảng 3,5% (bằng cả năm 2003), mở màn cho lạm phát tiếp tục cao năm nay, và sẽ làm giảm mức thu nhập của tuyệt đại đa số dân chúng lao động Việt Nam. Lương sẽ điều chỉnh tăng 10 % năm nay, xem ra nhanh hơn một chút so với lạm phát 9,5 % năm 2004, nhưng không bù được việc giá lương thực, thực phẩm trong năm đã tăng 17 %, mà đây là chi phí chính của dân chúng. Để kìm được độ tăng giá dưới 10 %, nhà nước đã phải bù lỗ 10.000 tỷ (khoảng 640 triệu USD) trong năm 2004, giải pháp mang một hình thái chẳng có tính chất gì của nền kinh tế thị trường như rêu rao. Một hiện tượng mất quân bình đáng lưu tâm là khâu ngoại thương. Xuất khẩu đạt 26 tỷ USD, tăng gần 29 % so với năm trước. Tuy nhiên nhập khẩu là 31,5 tỷ, cũng tăng mạnh đưa thiếu hụt cán cân thương mại với nước ngoài 5,5 tỷ USD, bằng 21 % xuất khẩu và lên tới hơn 12 % GDP. Đây là những tỷ lệ thiếu hụt rất lớn chứng tỏ sự mất quân bình trầm trọng trong nền kinh tế. Thiếu hụt cán cân thương mại phản ánh tính yếu kém, thiếu khả năng cạnh tranh của của nền kinh tế [39]. Hiện nay thiếu hụt cán cân ngoại thương chưa tạo vấn đề vì được bù đắp bởi đầu tư nước ngoài và kiều hối. Kiều hối gửi về qua hệ thống chính thức lên tới 3.4 tỷ USD năm 2004 nhưng thực tế có thể nhiều hơn. Số tiền này lấp vào thiếu hụt cán cân ngoại thương, nhưng đồng thời nó cũng có tác hại làm đồng Việt Nam cao giá và tạo sự ỷ lại của những người làm chính sách kinh tế. Vì có thể thu hút được khoản ngoại tệ không làm mà có này, họ thiếu quan tâm giải quyết yếu kém của ngoại thương mà một phần không nhỏ là do vấn đề tỷ giá mất quân bình kéo dài suốt từ năm 1990 đến nay. Riêng về tỷ giá hối xuất, thời điểm cho cơ hội giải quyết thuận lợi là khi giá cả trong nước gần như không tăng. Thời điểm đó nay qua rồi, bây giờ lạm phát cao, việc xử lý tỷ giá có khả năng tạo lạm phát phi mã. Chính sách phát triển kinh tế có cả chất lẫn lượng không phải chỉ nhằm tăng GDP mà còn cần tăng công ăn việc làm cho dân chúng. Điều này hết sức quan trọng để làm giảm phân hóa giầu nghèo giữa nông thôn và thành thị. Năm 1990, tỷ lệ dân nông thôn khoảng 80 % và thành thị là 20 %. Năm 2003, tỷ lệ dân nông thôn là 74 % và thành phố là 26 %. Ở Trung Quốc, hiện nay đã có 40 % dân sống ở thành thị, đó là vì việc làm ở đó tăng. Ngược lại, ở Việt Nam, số lao động có việc làm thêm hàng năm ở thành thị rất thấp, năm 2004 chỉ có thêm 360,800 việc làm. Tổng số lao động tăng thêm năm 2004 là 1,131 triệu, nhưng con số này không nói lên gì nhiều vì lao động tăng ở nông thôn có thể chủ yếu là thất nghiệp trá hình. Ngay cả con số hơn 1,1 triệu việc làm mới cũng vẫn thấp so với chỉ tiêu 1,5 triệu lao động dự trù sẽ tăng theo như Quốc hội quyết định cho năm 2004. Kinh tế Việt Nam có khởi sắc, nhưng cũng đầy những mất quân bình cơ cấu, cần điều chỉnh để đưa vào quĩ đạo phát triển không chỉ lượng mà phải có chất và có tính bền vững. Việc chạy theo tăng tốc GDP qua đầu tư tràn lan tạo tình trạng thiếu hiệu quả, gian giảo, và tham nhũng. Nếu sự mất quân bình tiếp tục tăng thì một lúc nào đó chỉ có một cuộc khủng hoảng lớn và kéo dài mới giải quyết được nó. Đó là chưa kể đến tình trạng phân hóa về lợi tức và mức sống ngày càng lớn giữa thành thị và nông thôn [39], sẽ đưa đến nguy cơ bất ổn xã hội trầm trọng [40] Đi về đâu? Nhìn về phía Bình Minh rồi quay lại, Hoàng Oanh dịu giọng nhỏ nhẹ nói với tôi: - Tóm lại.... - Nhìn lên bề mặt, kinh tế Việt Nam tóm lại không phải là phương diện cho phép lạc quan: gần 20 năm từ thời kỳ Đổi Mới, cơ cấu kinh tế vĩ mô vần: (41) là một nền kinh tế chủ yếu sản xuất hàng hạ đẳng (nông nghiệp, tài nguyên...với ti lệ thặng dư thấp); (42) lượng lao động do thất nghiệp hoặc lãng công quá cao ở nông thôn (60% năm 2000); (43) nhập siêu liên tục, hàng nhập là hàng tiêu dùng, và hàng công nghiệp nhẹ (vải vóc) dùng trong những doanh nghiệp sử dụng lao động rẻ để xuất khẩu (tức là, trên thực tế, Việt Nam gián tiếp xuất khẩu lao động mà thôi); (44) khâu quốc doanh, với những hoạt động được quyền lực bao che quá lớn so với khâu tư doanh, đầu tư tràn lan, vì chính đầu tư vào những công trình tầm cỡ mới cho phép ăn hớt, tức là tham nhũng ở mức độ cao (có thể lên 40% dự chỉ theo Ngân hàng Thế giới); (45) năng xuất kinh tế vì thế rất kém, thiếu sức cạnh tranh, và sẽ đặt ra vấn đề trong quá trình hội nhập. Ghê gớm hơn, là cho đến nay, khi nhảy từ nền kinh tế kế hoạch tập trung qua cái ta gọi là nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN, chính quyền đánh bóng một cụm từ mù mờ để che đi cái thực tế đã nói, là dùng khâu quốc doanh để biển lận, có lẽ mục đích là tạo ra một tầng lớp nay người ta gọi là tư bản đỏ. Lớp người này tập hợp trong những tập đoàn có mầu sắc địa phương và mang hơi hướm phân chia quyền lực trong Đảng, tích lũy tiền biển thủ từ những công trình và đề án có tài trợ dưới dạng đi vay tư bản nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Dĩ nhiên tiền đó thất thoát ra ngoài, hoặc biến thành đầu cơ trong bất động sản kiểu gà què Việt Nam ăn quẩn cối say, khiến giá đất ở phố cổ Hà Nội trong một nước nghèo cao ngang với giá đất khu trung tâm Tokyo, NewYork... là một nghịch lý khiến ai có chút kiến thức kinh tế cũng lắc đầu. Có thế, con gái ông Chủ Tịch Quốc Hội mới có thể chi 75 ngàn đôla US cho một buổi tối sinh nhật như báo chí loan tin. Có thế, cậu quý tử con ông thứ trưởng phân quota may mặc mới quát công an, mày không biết bố tao là ai à! Có đất, thu địa tô. Có quyền, thu quyền tô. Nhưng quyền không bền, nên phải chụp giựt khiến quyền tô rất cao, có thể lên đến 30 - 40% những món nợ “quốc gia”. Ai trả nợ, tôi hỏi? Một nhân vật trong tầng lớp tư bản đỏ tiếp tôi trong một buổi tối tôi được đãi ăn cơm tây với dao nĩa bằng vàng thản nhiên đáp, con cháu sau này! Cuộc đánh cướp thời này là cướp cả những thế hệ chưa kịp sinh ra nhưng đã mắc nợ. Có kẻ trong đám mới giầu lên lại hão huyễn đưa ra cái viễn tưởng rằng những thay đổi tích cực như tinh thần dân chủ, đạo lý và công chính sẽ từng bước được khôi phục với “giai cấp tư bản”. Xin thưa rằng không, không thể có chuyện này: tiến bộ theo xu hướng dân chủ xưa nay chưa bao giờ đến từ những ông chủ đất, và cái giai cấp tư bản hoàn thành nhiệm vụ mang nền dân chủ - nhân quyền đến nhân loại ở phương Tây là những kẻ chống lại quyền lợi những ông chủ đất đứng đằng sau những chế độ quân chủ phong kiến [46]. Kinh Tế Thị Trường nhưng quốc doanh chơi luật quyền lực chính trị. Định hướng XHCN chẳng qua là cách Đảng khẳng định vai trò độc tôn và độc quyền thống soái tài sản quốc gia. Việt Nam không hề có một sách lược phát triển nào trong 30 năm qua. Chính quyền hài lòng với những tỷ lệ tăng trưởng GDP nào là 6, 7 hay 8% và cho thế là đạt được những thành tựu lớn! Thực ra, vấn đề phát triển, ổn định và hội nhập phức tạp hơn. Nhìn quanh, từ Nam Hàn, Đài Loan, Ấn Độ... cho đến những nền kinh tế của những quốc gia- đô thị như Singapore, Hong Kong, người ta đều tìm được những ưu thế kinh tế đặc biệt để len vào tìm chỗ đứng trong nền kinh tế toàn cầu. Nam Hàn từ thập niên 70 đã thành số 1 hay 2 trong công nghiệp đóng tàu. Đài Loan thúc đẩy phát triển công nghiệp điện tử, Ấn Độ khởi động công nghiệp “chất xám”, Hong Kong và Singapore thì tập trung vào dịch vụ, ngân hàng, tài chính trong vùng, v..v...Hội nhập ở mức độ vùng kinh tế hay ở mức độ toàn cầu đều có nghĩa là có phân công kinh tế, và sự phân công đó liên hệ đến, và dựa trên, ưu thế tuơng đối một nền kinh tế này đối với những nền kinh tế khác. Ưu thế của Việt Nam là gì? Hỏi, chúng ta sẽ chỉ nghe đi nghe lại bài người Việt thông minh cần cù chịu đựng, nhưng ít ra nay cũng không còn đèo vào câu đất nước chúng ta được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng bạc biển! - Không sách lược, Bình Minh đắn đo, nhưng.... - Không sách lược, nhưng Việt Nam chẳng thiếu khẩu hiệu: dân giầu nước mạnh, ấm no hạnh phúc, sống nếp sống văn minh với truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc... Đồng thời, những khâu lẽ ra không phải là hàng hóa trao tay qua cơ chế thị trường như giáo dục, y tế... được ‘‘xã hội hóa’’ ở cái nghĩa là Nhà Nước phủi tay, để xã hội lo: như một bước lùi trong lịch sử những định chế về giáo dục [47] chẳng hạn, thế hệ bây giờ có thể mua luận án, bằng giả, đút lót các cô các thầy để kiếm chút danh hờ...Và thế là đâu đâu cũng đầy những tiến sĩ, phó tiến sĩ, giáo sư...in trên danh thiếp [48]. Như vậy, ta đi về đâu khi trong thiên niên kỷ này thế giới đang chuyển sang kinh tế trí thức? Vấn đề đào tạo con người trong những xã hội đang tìm cách vượt thoát nghèo dốt trong bối cảnh hiện nay là vấn đề hàng đầu. Và những con người trong xã hội chúng ta bây giờ ra sao? Đọc báo trong nước, rõ là đạo lý suy thoái! Xã hội chúng ta nay đầy rẫy những anh Xuân tóc đỏ, chị Xuân tóc hung, những bà Phán Phom tóc muối tiêu, nhân vật của một Vũ Trọng Phụng đã nằm xuống quá sớm nên hụt mất cái thời buổi đầy chất liệu. Hình như con người bây giờ không còn ý thức xã hội, sống chết mặc bay, ai nấy lo làm ‘’giàu’’ vinh thân phì gia, hành xử theo một thứ chủ nghĩa thực dụng thô thiển hời hợt để biện minh tất cả, nhưng thật là chỉ cho cá nhân mình. Luật chơi trở nên trò chèn ép, mánh mung, ăn cắp ăn trộm vặt. Trong cái phồn vinh giả tạo đô thị, người ta quên đói nghèo của đồng bào đồng loại, thản nhiên trước những cảnh gái quê lên thành phố chầu chực để những người đàn ông Đài Loan chọn làm con hầu mang đi, và thế có khác gì bán thân hòng đem lại chút tiền nuôi mẹ, nuôi em? Sự ô nhục của một dân tộc bây giờ được đánh đồng với một trận đá bóng, đội nhà thua trước một đội nước ngoài, và chỉ thế là người ta kêu, than, vật vã vì “danh dự tổ quốc”! Tại sao? Phải chăng thất bại hiển nhiên nhất của một chế độ là sự thất bại trong xây dựng con người? Trồng cây, 10 năm. Trồng người, 100 năm. Cây xanh ta chặt, môi trường ô nhiễm, lũ lụt hàng năm ven Trường Sơn, sẽ lấy gì để hy vọng một chính sách phát triển bền vững. Còn đám trẻ vừa đến tuổi hát đồng dao trong phố phường bụi bậm hay trên ruộng đồng ngày một chật vì người mỗi lúc một đông, ta bớt ngay những hy vọng một cuộc sống có ăn có học, có tình người với nhau, có một hiện tại ổn định và một tương lai để chia chung! Có phải người Việt Nam chúng ta kém trí tuệ, thiếu khả năng? Không. Cộng đồng người Việt lưu lạc ở hải ngoại chứng minh rằng người Việt có những thành tựu không thua kém bất cứ một cộng đồng di dân khác. Tuổi trẻ Việt Nam ở nước ngoài có thể nói rằng khá thành công trong các trường Đại Học, các doanh nghiệp công, tư...Như vậy, lý luận đơn giản cho thấy thì ra chỉ trong nước mới có những vấn đề con người ở mức độ báo động. Hoàng Oanh lo âu, ngước mắt: - Giờ phải làm chi anh? Tôi không biết nên trả lời thế nào! Chẳng lẽ tôi lại nói, bỏ điều 4 trong Hiến Pháp. Hay nới ra những cái nghiêm cấm trong điều 30 và 33 [49] để cởi trói tư duy và cho thông tin báo chí có nhiều tự do hơn. Chẳng lẽ tôi nhắc lại lời ông Đặng Quốc Bảo, yêu cầu trong nội bộ Đảng CSVN có đối trọng [50], tức ít nhất đảng viên có quyền suy tư và hành động chính trị theo một phương hướng khác với sự áp đặt nhân danh một tập thể hạt nhân độc đoán không dung hợp bất cứ gì khác mình? Hay chẳng lẽ tôi cũng lên tiếng tố cáo cái xã hội đen nay là con do Đảng sinh thành [51]... Những điều hiển nhiên này, nói ra đâu cần có tôi. Phải chăng đã đến lúc phải nghĩ lại là xã hội Việt Nam ta cần có những thay đổi nào để tạo ra cơ sở thuận lợi ngõ hầu hội nhập vào thế giới. Ngày nay, diễn trình tiến hóa của lịch sử không còn rập theo cách vận động dựa trên hình thái đấu tranh giai cấp. Hai mươi năm vừa qua, những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ kỹ thuật thông tin và tự động cho phép nhìn thấy một viễn cảnh trong đó lao động, kể cả lao động chất xám, có khả năng được thay thế bằng những phương tiện máy móc hiện đại. Giai cấp công nhân ở những nước tiền tiến ngày một teo tóp lại, đồng thời ý thức giai cấp cũng như cuộc tranh đấu theo mẫu hình công đoàn bị đẩy lùi từ sau chiến tranh lạnh. Hiện nay, 500 tập đoàn tư bản kiểm soát 2/3 tổng sản lượng kỹ nghệ thế giới, và dẫu có cạnh tranh nhưng cũng biết kết hợp để chiếm độc quyền đặc lợi. Từ 15 năm qua, nhiều consortium tài lực đã hình thành, hoạt động đa dạng, đa ngành, mang tính toàn cầu, với những cơ quan có chức năng quốc tế (như World Bank, IMF, WTO...) đứng hậu thuẫn và đảm bảo một thứ pháp chế đứng trên và chi phối những quyền lợi quốc gia cá biệt. Công nghiệp mức trung và nhẹ cần sử dụng nhiều lao động được chuyển giao từng bước cho những nước đang phát triển, nhưng trong điều kiện thế giới thừa lao động với chất lượng và tay nghề có thể nhanh chóng đào tạo, công nhân không thể tạo ra những áp lực đáng kể với những xí nghiệp đa quốc gia với vốn tư bản khổng lồ và có thể chuyển dịch bất cứ lúc nào đến những nơi ít biến động. Cho nên, nền chuyên chính một giai cấp công nhân vô sản có rất nhiều khả năng là sự không tưởng cuối cùng của nhân loại. Xã hội toàn trị chuyên chính chắc chắn sẽ tiêu ma. Nhưng trong thiên niên kỷ này, yếu tố nào sẽ là yếu tố vận động lịch sử? Thế giới mai sau sẽ tập trung vào những đơn vị văn hóa-chính trị-kinh tế siêu quốc gia? Hay sẽ tách thành những xã hội nhỏ có khả năng co cụm tồn tại với những đặc thù và bản sắc cá biệt? Dù với khả năng nào đi nữa, xu hướng trên thế giới là tiến tới những xã hội dân chủ dựa trên nền tảng một số quyền cá nhân bất khả xâm phạm. Trong hướng đó, có lẽ Việt Nam chúng ta phải động não tìm ra những viên gạch xây từ đầu nền tảng cho một cơ sở dân chủ - xã hội phù hợp với truyền thống lịch sử và văn hóa của chúng ta [52]. Muốn thế, đầu tiên con người phải trở lại làm người với nhau để cấu thành một xã hội. Và xã hội phải thiết lập lại định chế dân sự với những quyền công dân cơ bản [53]. Bình Minh giục: - ... Nhưng anh ơi, phải làm chi đây anh? Có người nói dân chủ là dẫn đến năm bè bảy mối, chia rẽ xung đột, rồi lại bạo loạn, như bên Phi Châu... - Không phải thế! Loạn là do xã hội không pháp chế luật lệ. Những nước dân chủ trên trái đất này loạn hết à? Nhưng quá tình tiến đến một xã hội dân chủ thì quả có những yếu tố bất ổn. Đó là vì người Việt Nam chưa hề biết thế nào là tự do bởi hàng trăm năm nay chúng ta phải sống qua chế độ phong kiến, thực dân, rồi hai cuộc chiến dài, và sau đó là thời gian mò mẫm xây dựng xã hội theo một mô hình chẳng mấy thích hợp sau giải phóng. Vì không tự do, nên mỗi người chúng ta đều ít ý thức cá nhân, nhất là cá nhân như một phân từ xã hội, biết tôn trọng những cá nhân khác. Và chưa có thói quen cũng như tinh thần đối thoại với nhau nên ta dễ sa đà vào những thuộc tính bầy đàn phe phái thường dẫn đến những hành xử quá khích, thậm chí bạo lực. Vì vậy, cần một cái khung để thực hiện quá trình dân chủ. Nhưng dân chủ là gì? Đâu phải dân chủ là chỉ là đi bầu cử ra người đại diện định kỳ cho mình! Trước hết, dân chủ là một giá trị tinh thần trên cơ sở đó con người đồng thuận xây dựng với nhau một xã hội. Tinh thần dân chủ đòi hỏi mỗi cá nhân - tự do và có những quyền con người bất khả xâm phạm - đều tôn trọng những cá nhân khác, cũng tự do và cũng có những quyền cơ bản như mình. Với tinh thần đó, xã hội dân chủ tất nhiên là sự kết hợp của những con người cố tự do và có những quyền con người bình đẳng với nhau... Hoàng Oanh mất kiên nhẫn, xin lỗi ngắt lời, hỏi thẳng mộ