← Quay lại trang sách

3. CẬU BÉ SÁT NHÂN CL Raven

Năm 1921, trong khi hầu hết các cậu bé ở độ tuổi 15 nếu không đến trường, đi làm phụ giúp gia đình thì cũng đi chơi với bạn bè, riêng Harold Jones lại dần trở nên “nổi tiếng” vì đã sát hại hai cô gái nhỏ.

Harold sinh vào tháng Một năm 1906 ở Abertillery - một thị trấn khai thác mỏ nghèo nàn ở xứ Wales - cách phía bắc thủ đô Cardiff 22km. Hắn là con trai cả trong gia đình có 4 người con. Năm 1843, ngành công nghiệp chủ yếu xuất hiện ở thị trấn và mỏ than sâu đầu tiên của khu vực ở trang trại Tir Nicholas, khu vực Cwmtillery. Abertillery phát triển nhanh chóng, từ một thị trấn nông nghiệp thành một trung tâm của vùng khai thác than miền năm xứ Wales. Theo cuộc điều tra năm 1901, dân số ở đây gần 22.000 người và lên đến gần 40.000 người vào những năm 1930. Cũng như những người đàn ông khác trong khu vực, ông Philip - cha của Harold - là một thợ mỏ và mẹ hắn làm công việc nội trợ.

Ở trường, Harold rất được mến mộ. Hắn rất giỏi thể thao và mong muốn trở thành một tay đấu quyền anh chuyên nghiệp. Hắn dành phần lớn thời gian rảnh để đọc sách hoặc chơi đàn organ tại những buổi lễ nhà thờ. Hồ sơ của hắn không hề giống với những trường hợp thường thấy trong tuổi thơ của những kẻ lớn lên sẽ giết người. Hắn không tra tấn động vật, không đốt lửa và không đái dầm. Hắn cũng không bị cha mẹ lạm dụng hay bị bạn bè bắt nạt. Hắn như bao cậu bé bình thường khác, có bạn bè, công việc và bạn gái. Năm 14 tuổi, hắn thôi học và làm việc tại cửa hàng Mortimer - một cửa hàng buôn bán dầu và hạt - gần nơi hắn sống. Hắn đi làm để hỗ trợ tài chính cho gia đình. Điều này rất phổ biến ở những thị trấn khai thác mỏ nhỏ bé tại xứ Wales - một nơi có cuộc sống khó khăn và tiền bạc khan hiếm. Harold là một người rất đúng giờ, làm việc chăm chỉ, có thể tự mình quản lý cửa hàng và được khách hàng yêu mến. Mặc dù tuổi đời còn trẻ nhưng hắn là một nhân viên hoàn hảo.

Nhưng hắn có một mặt tối.

Vào ngày 5 tháng Hai năm 1921, Frederrick (Fred) George Burnell sai cô con gái Freda Burnell (8 tuổi) đến cửa hàng Mortimer để mua túi hạt vụn và hạt gia vị gia cầm. Nhà Burnell ở số 9 phố Earl, cách cửa hàng Mortimer ở số 90 phố Cwm (bây giờ là phố Somerset) chưa đến 350km. Cô bé rời đi lúc 9 giờ 05 phút sáng và lẽ ra nên về nhà sớm. Khi đã qua một tiếng mà cô bé vẫn chưa về nhà, cha mẹ cô bé rất lo lắng nên đã đi tìm. Họ đến cửa hàng Mortimer đầu tiên vì đó là nơi cuối cùng mà người ta nhìn thấy cô bé. Harold Jones nói với họ là cô bé đến cửa hàng lúc 9 giờ 05 phút sáng. Hắn bán một túi hạt gia vị gia cầm cho cô bé, nhưng cửa hàng không còn túi hạt vụn, chỉ có hạt vụn lẻ. Vì vậy, Freda đã đi về để hỏi cha cô bé xem hạt vụn lẻ thì có đủ không.

Không ai nhìn thấy cô bé nữa.

Fred Burnell đến gặp người rao mõ. Người này báo tin cô bé mất tích cho cảnh sát lúc 1 giờ chiều. Đồn cảnh sát cách cửa hàng gần 40m. Đến 3 giờ chiều, cảnh sát mở một cuộc tìm kiếm người mất tích. Harold thuật lại những lời mà hắn nói cho cha mẹ Freda với cảnh sát.

Vào buổi tối, cảnh sát đến rạp chiếu phim và yêu cầu họ chiếu mô tả hình dáng của Freda. Nội dung phần mô tả như sau, “Ở lần cuối cùng được người ta nhìn thấy, cô bé đội một chiếc mũ bằng xéc màu đỏ và vành mũ bằng vải nhung màu xanh dương, mặc một chiếc áo khoác màu nâu, váy lộn màu xanh dương có sọc trắng, áo nịt len màu nâu, quần áo may liền nhau kiểu mới [quần áo lót thời Victoria gồm áo lót dây dính liền với quần lót dài], chân mang tất đen và ủng đen cài cúc. Tóc của cô bé được cột bằng mảnh vải sờn. Cô bé đeo một chiếc túi nhỏ màu chocolate bằng da của Hoa Kỳ, rộng hơn 30cm và bên trong túi khá sâu. Cô bé có làn da hồng hào, đôi mắt xanh dương và mái tóc màu nâu sáng. Cô bé trông nhỏ người hơn so với tuổi và nặng khoảng 22kg.”

Những người tình nguyện nhận đèn từ thợ mỏ than để hỗ trợ tìm kiếm cô bé.

Một vài nhân chứng đến và nói rằng họ nhìn thấy Freda vào buổi sáng hôm cô bé mất tích. Bà Mary Ann Wiltshire sống ở số 141 phố Somerset nói rằng khi bà đang sửa đồ đồng trên bậc cửa thì thấy một cô gái nhỏ mặc quần áo giống như những mô tả về Freda, đi ngang qua nhà bà. Cô bé mỉm cười và đi tiếp.

Anh Charles Edward Betts (24 tuổi) là thợ làm bánh ở số 20 phố Duke. Từ 9 giờ 05 phút đến 9 giờ 10 phút sáng, anh dắt ngựa và xe đẩy từ chuồng ngựa của khách sạn Cwn trên đường Alexandra tới đường Cwn Cottage. Đang đi trên đường Cwn Cottage, anh gặp Freda trên lề đường đối diện với sảnh Drill, hướng về phố Somerset. Anh biết Freda và chào bằng biệt danh mà anh đặt cho cô bé, “Chào Jenny Maud.”

Cô Doris Hathaway, người giúp việc của cửa hàng Mortimer, nói với cảnh sát lúc 9 giờ 15 phút sáng, cô la to xuống tầng dưới với Harold rằng có một vị khách đến cửa hàng, là cô bé Freda. Sau khi Freda rời cửa hàng thì cô cũng không còn thấy bóng dáng của cô bé nữa.

Thi thể của Freda được tìm thấy vào ngày hôm sau.

Chủ nhật, ngày 6 tháng Hai, Edward Thomas, người trông coi chuồng ngựa ở mỏ than, rời nhà ở số 7 phố Duke lúc 7 giờ 20 phút sáng. Anh đi bộ qua con đường nhỏ giữa phố Duke và đường Pantypwdyn thì thấy thi thể của Freda trong một bao tải để ở ngõ hẻm phía sau số 19 phố Duke, cách cửa hàng Mortimer chưa tới 300m. Rõ ràng hung thủ không hề muốn giấu xác. Edward gõ cửa nhà số 17 và nhờ Samuel Harding canh xác trong lúc Edward đến đồn cảnh xác. Harding đi theo Edward đến đồn cảnh sát. Đó là con đường đất rộng, tách biệt với phố Duke bởi bức tường đá khô thấp. Hàng rào bằng dây tạo thành vách ngăn với phía bên kia, phía sau hàng rào là cánh đồng dốc dẫn đến đường Pantrypwdyn.

Cảnh sát trưởng Henry Lewis, Trung sĩ Arnold, Trung sĩ Jones cùng hai Hạ sĩ Cox và Tucker đến hiện trường trong vài phút. Họ đưa xác Freda về nhà, cách hiện trường 100m. Đội ngũ khám nghiệm tử thi gồm Tiến sĩ Thomas Edward Lloyd ở thị trấn Abergavenny, Tiến sĩ Simon Simons ở Abertillery và Tiến sĩ Thomas Baillies Smith - Giám đốc y tế của thị trấn Abertillery.

Cô bé chết không phải do tai nạn. Cổ của cô bé bị siết bằng dây thừng và đầu bị chấn thương nặng. Hai cổ chân bị cột lại, khuỷu tay bị trói sau lưng và cô bé bị bịt miệng. Freda bị “xâm hại tình dục”, có nghĩa là kẻ giết cô bé cũng là kẻ cưỡng hiếp cô. Dù kẻ giết Freda là ai thì hắn cũng muốn cô bé đau khổ để thỏa mãn thú vui của hắn. Họ dự đoán thời gian tử vong của cô bé là từ 9 giờ 30 phút sáng đến 1 giờ chiều, cùng ngày cô bé mất tích. Họ tìm thấy vỏ hạt bắp trên người cô bé và trong bảo tải.

Cảnh sát khám xét khu vực, bao gồm nhà kho gần đó của cửa hàng Mortimer. Bên trong nhà kho, họ tìm thấy một chuồng gà với vỏ hạt bắp vương vãi khắp mặt đất, khăn tay của Freda và bao tải cất chiếc rìu dùng để đánh gục cô bé. Cùng với thi thể của Freda, mọi bằng chứng đã quá rõ ràng. Chiếc khăn tay sau đó được xác minh thuộc về cô bé Doris Ivy - em gái của Freda. Freda mượn nó vào buổi sáng cùng ngày cô bé mất tích. Nhà kho chắc chắn là hiện trường án mạng. Thị trấn chìm trong cú sốc. Một đứa trẻ bị giết hại dã man là chuyện chưa từng xảy ra ở thị trấn Abertillery.

Người duy nhất có chìa khóa nhà kho là chủ cửa hàng - Herbert và Rhoda, cùng với Harold. Nhân chứng nói rằng họ không thấy Harold trong khoảng thời gian từ 9 giờ 15 phút đến 9 giờ 40 phút sáng. Hai người bạn của Harold là Levi Meyrick và Francis Mortimer (con trai của Herbert và Rhoda) nói rằng lúc 10 giờ 20 phút sáng ngày 5 tháng Hai, Jones nói với họ rằng hắn cần khóa cửa nhà kho và rủ họ đi cùng. Tuy nhiên, khi cả ba đến gần nhà kho, Harold khăng khăng đến đó một mình. Họ đi qua con đường nhỏ và phát hiện một bao tải nằm trên mặt đất. Họ nói Harold đã kiểm tra và đá vào bao tải đó. Chẳng phải lúc đó xác của Freda ở trong bao tải sao? Nếu vậy, chuyện này xem ra trơ trẽn và đáng lo ngại đến không ngờ. Harold là người cuối cùng nhìn thấy Freda và hắn có chìa khóa nhà kho nên hắn bị bắt và giam giữ ở đồn cảnh sát Abertillery cho đến khi tiến hành cuộc điều tra.

Vào ngày tổ chức tang lễ cho Freda, Chuẩn tướng Thomas Cloud - chỉ huy quốc gia của Đội quân Cứu tế - đến viếng trong chốc lát bên ngoài nhà Freda. Quan tài của cô bé nằm trên chiếc kiệu khiêng trên phố, ở trên quan tài là một vòng hoa tang của cha mẹ cô bé. Ông Cloud nói, “ Quỷ Satan đã hủy hoại người đàn ông gây ra việc này và biến hắn thành một con ác quỷ tồi tệ hơn cả Ác quỷ Gadarene.” (Ác quỷ Gadarene là một linh hồn ô uế chiếm hữu thân xác của một người đàn ông đến từ vùng Gadarenes; khi Chúa Jesu đến gần và hỏi tên hắn, hắn trả lời, “Tên ta là Legion. Bởi vì chúng ta rất đông.” Chúa trừ tà con quỷ đó và ếm vào một bầy heo 2.000 con.)

Gần 100.000 người đến xem xếp hàng dài trên các con phố. Đoàn người trong đám rước dài đến 2km và mất 30 phút để đến nghĩa trang Brynithel. Những cửa hàng đóng cửa để mặc niệm. Hội đồng Quận Đô thị Abertillery quyết định tổ chức quyên góp cộng đồng chi trả cho đám tang của Freda. Bia mộ chí của cô bé ghi:

Freda, con gái của F & M Burnell, mất vào ngày 6 tháng Hai năm 1921, hưởng dương 8,5 tuổi. Cô bé ra đi để về với Chúa Jesu.Cô bé đang đợi những người thân yêu đoàn tụ cùng mình thêm lần nữa.

Trong lúc đám tang của Freda diễn ra, Harold không làm gì cả, sau đó hắn đi chơi billiards ở Sảnh Billiards Preece.

Trong suốt cuộc điều tra diễn ra vào thứ Năm ngày 24 tháng Hai, Fred Burnell nói rằng Harold Jones đến nhà thăm ông từ 6 giờ đến 6 giờ 30 phút tối hôm Freda mất tích, để hỏi xem mọi người tìm được cô bé hay chưa. Sau đó, hắn quay lại vào buổi tối và hỏi lại lần nữa. Harold từng sống ở nhà số 5, cách nhà Burnell hai căn và biết Freda, nên Fred cho là Harold có ý quan tâm.

Bởi Harold là người giết con gái Fred, nên động cơ của hắn chắc hẳn là khiến Fred đau lòng hơn. Hắn biết cô bé không thể nào còn sống.

Vài nhân chứng trong cuộc điều tra đưa ra bằng chứng rằng họ nghe thấy tiếng hét của trẻ con vào ngày Freda qua đời. Ngày mùng 4 hoặc mùng tháng Hai, lúc 9 giờ 30 phút sáng, Fanny Manuel đang ở trong bếp. Cô sống ở căn nhà số 106 phố Princess, cách nhà kho của cửa hàng Mortimer - nơi Freda bị giết hại - hai căn. Cô không thể nhớ thời điểm cô nghe thấy tiếng hét là ngày nào. Nhân viên điều tra nói, “Câu hỏi tiếp theo nghe có vẻ buồn cười, nhưng tôi có lý do để hỏi vậy. Phải chăng tiếng hét mà cô nghe được giống với tiếng của một con gà?” (Những con gà sống trong nhà kho.) Fanny trả lời, “Không thưa ngài, tôi thường nghe tiếng hét của trẻ con và tiếng hét này y như thế, nhưng nó nghe như bị nghẹt.”

Edith Evans, sống ở nhà số 10 phố Duke, nói rằng vào Chủ nhật, ngày 5 tháng Hai, lúc 9 giờ 30 phút sáng, cô đang ở sau vườn. Khu vườn này dẫn ra con đường nhỏ giữa phố Duke và phố Princess. Cô nói cô nghe thấy tiếng hét của trẻ con. Cô nghe kỹ thêm vài phút nữa nhưng không có âm thanh nào nữa.

Anh thợ mỏ Henry Arthur Duggan (23 tuổi), sống ở số 107 phố Princess, nói rằng vào ngày 5 tháng Hai, lúc 9 giờ 25 phút sáng, anh ấy ở sân sau nhà bắt gà để đưa nó vào bãi rào kín. Anh nghe thấy một tiếng hét ngắn và lớn, rồi đột nhiên tiếng hét tắt hẳn đi như bị nghẹt. Anh nghĩ tiếng hét phát ra từ nhà kho Mortimer ở phía cuối sân nhà anh. Anh áp tai lên cửa sổ bịt kín nhưng không nghe thấy gì nữa. Bằng chứng pháp y cho thấy Freda vẫn còn sống 4 tiếng sau khi bị hành hung. Chắc rằng Duggan đã trải qua một cụ suy nhược thần kinh ngay sau đó.

Bà Hannah Evans (72 tuổi) bán nhà và nhà kho cho gia đình Mortimer nhưng vẫn sống trong ngôi nhà đó. Bà nói Harold ở trong nhà kho mỗi sáng từ 9 giờ đến 9 giờ 30 phút để cho gà ăn. Cháu gái Lilian, đến phụ giúp bà vào những ngày thứ Bảy, nói rằng cô thấy Harold Jones rời nhà kho vào thứ Bảy, ngày 5 tháng Hai, lúc 10 giờ 40 phút sáng, trễ hơn một tiếng so với thường lệ.

Francis Mortimer thường giúp Harold giao hàng. Họ luôn đưa xe đẩy vào nhà kho, chất đầy thức ăn cho súc vật, sau đó tiếp tục đi giao hàng. Vào ngày Freda bị sát hại, Francis nói rằng Harold đã mở cửa, nhưng chỉ mở he hé, bởi phía trước có một bao tải. Harold tự mình vào nhà kho, lấy khoai tây, chất lên xe đẩy và nói Francis đi trước mà không cần chờ hắn. Điều này rất lạ, bởi họ luôn đi chung. Herbert và Rhoda Mortimer tin là Harold vô tội nên đã nói rằng hắn ở trong cửa hàng và làm ồn, nhưng Harold nói rằng hắn ngồi yên. Rhoda cho biết một vài bằng chứng mà con trai họ đưa ra không đúng sự thật. Chuyện này có vẻ kỳ lạ bởi bà ấy bao che cho Harold nhưng lại nói với cảnh sát rằng con trai mình nói dối.

Giấy chứng tử của Freda viết:

1. Nguyên nhân gây ra cái chết của cô bé là do (a) bị cưỡng hiếp hoặc bị cố ý cưỡng hiếp và tổn thương ở âm hộ cùng với màng trinh, (b) bị tổn thương ở cổ và một phần bị bóp cổ, (c) bị thương ở trán, (d) bị sốc thần kinh và sợ hãi.

2. Và cũng nói thêm với các vị bồi thẩm đoàn rằng thủ phạm mà chúng tôi vẫn chưa biết là ai, đã cố ý thực hiện và cố ý sát hại cô bé Freda Elsie Maud Burnell được nhắc đến trước đó.

Walter Walters - hiệu trưởng trường Church - nói rằng, “Những giáo viên phụ trách cậu bé [Harold] và bản thân tôi không có gì để phàn nàn về cậu bé cả. Chúng tôi cho rằng cậu bé là một người mẫu mực, lễ phép và có tư cách đạo đức tốt.”

Cuộc điều tra bắt đầu từ ngày mùng 7 tháng Ba. Harold đưa ra bằng chứng, nhưng hắn có vẻ bối rối và có những lời giải thích mâu thuẫn nhau. Nhân viên điều tra trở nên khó chịu và yêu cầu hắn nói sự thật. Harold nói, “Tôi biết mọi chứng cứ đều hướng vào tôi, nhưng tôi không bao giờ làm chuyện đó.” Mặc dù thiếu vật chứng, nhưng cảnh sát hài lòng khi họ đã bắt được kẻ giết người và Harold bị giam giữ đến khi hắn lên tòa vào ngày mùng 5 tháng Tư. Hắn chính thức bị buộc tội giết người, không được bảo lãnh và đưa về nhà tù Usk để điều tra thêm cho đến khi mở phiên xét xử.

Vào ngày 2 tháng Sáu năm 1921, phiên xét xử bắt đầu ở Monmouthshire Assizes. Harold Jones không nhận tội. Hắn bình thản và điềm tĩnh khi trình bày trước tòa, ngay cả khi bị thẩm vấn - trái ngược hẳn với thái độ của hắn trong cuộc điều tra. Henry Mortimer nói rằng ông nghe nói Harold và Frencis làm việc trong cửa hàng, sau đó cả hai rời đi giao một bao tải khoai tây cho một khách hàng lúc 10 giờ sáng, rồi quay lại làm cho xong ca. Ông Philip - cha của Harold - nói rằng con trai ông đi làm từ lúc ông xong việc cho đến buổi sáng hôm sau. Câu chuyện này khác hẳn so với những gì mà Levi Meyrick và Francis Mortimer - bạn của Harold - đã nói. Mẹ của Harold đồng tình với lời khai của Philip về bằng chứng ngoại phạm của Harold. Bà nói rằng con trai của họ luôn đối xử lễ độ với các cô gái trẻ. Thậm chí, Harold có một em gái tên là Flossie. Chẳng có vấn đề gì trong cách giáo dưỡng của gia đình hoặc tính cách của Harold ám chỉ hắn có thể là một kẻ giết trẻ con.

Sau năm tiếng, bồi thẩm đoàn phán hắn vô tội.

Harold sum họp với gia đình trong nước mắt. Sau đó, họ ăn mừng một bữa tại một nhà hàng. Harold ngang nhiên đứng trên bàn và chỉ vào đám đông, “Tôi cảm ơn tất cả mọi người. tôi không hề oán giận người dân thị trấn Abertillery vì những khó khăn mà tôi đã trải qua.” Một kẻ được tuyên trắng án về tội giết người lại hành xử kỳ lạ như vậy. Hắn quay về thị trấn Abertillery bằng một loại xe kéo bằng ngựa, không có mui, được trang trí bằng cờ nhiều màu và hoa diên vĩ. Hắn được chào đón như một người hùng. Người dân của thị trấn Abertillery không tài nào tin được một cậu bé dễ mến ở thị trấn nhỏ này lại nhẫn tâm giết một cô gái. Chuyện này chắc chắn phải do người bên ngoài gây ra, mặc dù không có bóng dáng của một người lạ nào và cảnh sát cũng không tìm được người nào khác. Harold được tặng một chiếc đồng hồ bỏ túi bằng vàng để ăn mừng hắn được tha bổng. Người hàng xóm George Little nói với Harold, “Tốt lắm chàng trai. Chúng tôi biết không phải cậu làm mà.” Sau đó, George đã hối hận về chuyện này khi Florence - con gái ông - bị sát hại vào 17 ngày sau.

Vào ngày mùng 8 tháng Bảy, Harold nhìn thấy em gái của mình - Flossie - đang chơi nhảy lò cò với cô bạn hàng xóm tên Florence Little (11 tuổi). Hắn đưa Flossie tiền để mua một chai nước ngọt có ga ở cửa hàng và dụ Florence vào nhà, nói rằng muốn nhờ cô làm giúp hắn một việc vặt. Nhưng hắn siết cổ Florence, lôi cô bé vào nhà bếp, dùng tấm ván gỗ đánh vào đầu cô bé, sau đó túm tóc Florence và giữ đầu cô bé trên bồn rửa, rồi rạch cổ họng Florence bằng con dao bỏ túi của Philip. Hắn lấy một chiếc áo sơmi quân phục màu xám, quấn đầu và cổ của cô bé trước khi giấu thi thể thiếu vải lên gác mái. Hắn dọn dẹp vết máu trên bồn rửa,tường, sàn nhà và cửa sập gác mái trước khi tự tắm rửa sạch sẽ. Harold rõ ràng là một kẻ giết người vô tổ chức và biết chờ thời. Hắn không hề vạch ra kể hoạch giết người tỉ mỉ nhưng lại hành động nhanh chóng và tàn bạo khi nhu cầu hoặc cơ hội xuất hiện, chẳng hạn như ở một mình cùng một cô gái nhỏ chính là lúc “tâm ma” của hắn trỗi dậy.

Lúc 11 giờ 15 phút tối, cảnh sát bắt đầu gõ cửa từng nhà để tìm Florence. Hàng trăm tình nguyện viên, bao gồm Harold và ông Philip - cha hắn - vào rừng và lên núi tìm cô bé. Còn cách nào tốt hơn để xoa dịu nghi ngờ của mọi người bằng việc đi tìm nạn nhân bị chính mình sát hại? Khi cảnh sát hỏi Harold có nhìn thấy Florence không, hắn trả lười rằng cô bé đứng ở trước cửa nhà hắn rồi chạy đi. Hắn đã nói dối với mẹ hắn y như vậy.

Ngày hôm sau, lúc 8 giờ sáng, Philip Jones cho phép cảnh sát khám xét nhà. Ông đã nghi ngờ con trai mình, đặc biệt là sau khi ông tạo bằng chứng ngoại phạm giả cho Harold trong án mạng của Freda. Trong khi cảnh sát lục soát nhà của gia đình Jones, Harold lén trốn và đi gặp một người bạn. Cảnh sát phát hiện ra vết máu trên cửa sập gác mái và mở nó ra. Họ phát hiện thi thể của Florence nằm ngang trên xà nhà. Xác cô bé gần như cạn máu. Họ tiếp tục lục soát nhà và tìm thấy một con dao dính máu, một cái chảo chiên trứng chứa nước và máu bên dưới bồn rửa, một tấm ván gỗ dính máu được giấu bên dưới nồi đun và một cái bàn cũng dính máu gần cửa sập gác mái. Mặc dù Harold cố gắng hết sức để xóa sạch tội chứng, nhưng hắn xử lý quá tệ. Lý do có lẽ vì hắn thiếu kinh nghiệm, hoặc hắn quá vội vàng, hoặc hắn bất cẩn. Hành vi giấu xác Florence trên gác mái cho thấy hắn quá non nớt và hấp tấp. Liệu hắn có dự tính di dời thi thể Florence khi giấu xác cô bé ở gác mái? Liệu hắn có hi vọng gia đình không chú ý tới việc hắn giấu xác?

Sau khi cảnh xác tìm thấy thi thể Florence, ông Philip đến phố Mitre và bắt gặp Harold đang nói chuyện với người khác. Ông gọi, “Lại đây Sonny. Họ tìm thấy cái xác trên gác nhà mình rồi.” Harold trả lời, “Thưa cha, con không làm.” Philip đáp, “Họ sẽ đổ cho con hoặc cha, hãy đến và đối mặt với chuyện này đi.” Thật kì lạ vì có bẻ ông Philip khá điềm tĩnh về việc một đứa trẻ bị sát hại được tìm thấy trên gác mái nhà mình. Philip Jones đưa Harold về nhà và cảnh sát đã đến bắt giữ hắn.

Khi nghe tin hắn bị bắt, một đám đông 500 người tập hợp trước đồn cảnh sát, yêu cầu thả Harold. Họ vẫn không chấp nhận được việc một cậu bé địa phương tốt tính lại làm những việc ghê tởm như thế và họ cáo buộc nhân viên cảnh sát đã gài cậu bé. Cảnh sát trưởng Lewis nói với đám đông, “Tôi đã tìm thấy xác của một đứa trẻ bị sát hại dã man trên gác mái nhà của Harold Jones và tôi bắt giữ Harold Jones. Tôi nghĩ đó là tất cả những gì mà tôi có thể nói với mọi người và việc mà mọi người có thể giúp chúng tôi là giải tán, ai về nhà nấy.”

Có tin đồn rằng sau khi Harold được tuyên trắng án về tội sát hại Freda, William Thorne - người được cấp phép kinh doanh khách sạn Lamb - mời Harold đến ăn tối. William bác bỏ tin đồn này. Vài ngày sau khi Harold được tuyên trắng án, Nanny (10 tuổi) - con gái của William - đang đứng bên ngoài khách sạn với hai người bạn là Florence Little và Margaret Simons thì Harold đến bắt chuyện với họ. Cô bé nói rằng Florence băng qua con phố, chỉ vào Harold và nói, “Tôi biết anh giết Freda.” Margaret biết rõ về Freda và Florence, cô bé nói rằng Florence liên tục chế nhạo Harold đã thoát tội sát hại Freda. Phải chăng hắn giết Florence để bịt miệng cô bé? Những người dân còn lại của thị trấn tin hắn vô tội, nhưng Florence thì không.

Cuộc điều tra về cái chết của Florence Little bắt đầu từ ngày 11 tháng Bảy. Nguyên nhân cái chết là do vết thương ở cổ bị mất máu quá nhiều. Bà Elsie - mẹ của Florence - khai rằng khi bà gõ cửa nhà gia đình Jones, phải hai phút sau Harold mới mở cửa, hắn lấy lý do đang tắm. Bà cũng hỏi hắn có thấy con gái Flornece của bà không và Harold cười trước khi trả lời, “Florrie có tới đây nhưng cô bé đã đi qua con đường phía sau.” Chắc hẳn bà Elsie đã đến gõ cửa không lâu sau khi hắn giết Florence và rửa sạch đôi tay dính máu, nhưng hắn vẫn đủ bình tĩnh để không khiến bà Elsie nghi ngờ. Cuộc điều tra bị hoãn lại đến ngày 23 tháng Bảy. Sau 30 phút, bồi thẩm đoàn phán hắn phạm tội cố ý sát hại Florence Little. Harold lập tức phản đối và kháng cáo cho sự vô tội của mình. Một lần nữa, hắn bị giam giữ ở nhà tù Usk để chờ phiên xét xử.

Tại phiên xét xử, Harold đã nhận tội, mặc dù sau đó thẩm phán nói với hắn, “Khoan nhận tội trong lúc này.” Ngài St. John Gore Micklethwait - luật sư bào chữa cho Harold - đã can thiệp và yêu cầu thẩm phán chấp nhận lời tự biện hộ này. Theo Luật Trẻ em, bằng cách chấp nhận lời nhận tội của Harold, thẩm phán có thể tuyên án giam giữ Harold trong một nhà tù ở Anh. Tuy nhiên, nếu hắn không nhận tội và phiên xử kéo dài qua ngày 11 tháng Một - khi Harold vừa tròn 16 tuổi, nếu bị kết tội giết người, hắn sẽ bị treo cổ. Mặc dù Harold luôn tuyên bố mình vô tội, nhưng hắn phải nhận tội để cứu lấy mạng sống của chính mình.

Ông Philip mang một số quần áo của Harold đưa cho cảnh sát. Trong túi quần của hắn có 7 chiếc khăn tay không phải của hắn. Chiếc khăn tay của Freda đã bị bỏ lại ở hiện trường nơi cô bé bị sát hại. Harold dùng khăn của mình tạo thành một sợi dây dài để kéo xác Florence lên gác mái. Cảnh sát hiển nhiên có trong tay nhật kí của Harold, mặc dù trong phiên xét xử, không ai nhắc đến nó. Nhật kí ghi lại rất nhiều tên của những cô gái - chị em Caroline, Maud và Minnie Lowman. Lucy May Malsom - một cô gái 14 tuổi có bằng chứng chống lại Harold trong suốt phiên xét xử vụ án sát hại Florence. Có thể đoán được đây là “danh sách những cô gái nằm trong tầm ngắm” của Harold. Cảnh sát rõ ràng đã hủy cuốn nhật kí. Có vẻ đáng ngờ khi họ lại hủy đi bằng chứng quan trọng mà không trình lên phiên xét xử. Phải chăng những chiếc khăn tay là những chiến lợi phẩm mà Harold lấy từ các bé gái? Có vẻ như người ta quan tâm đến danh tiếng của Harold hơn là vụ sát hại bé gái kinh hoàng.

Vào ngày 17 tháng Chín, Harold viết bản thú tội sát hại Florence.

“Tôi - Harold Jones - thú nhận rằng vào ngày 8 tháng Bảy, tôi đã cố ý và có chủ tâm sát hại Florence Irene Little, khiến cô bé chết dù chưa sẵn sàng gặp Chúa. Lí do tôi làm vậy vì khao khát muốn giết người.”

Phiên xét xử bắt đầu ở Monmouthshire Assizes vào ngày mùng 1 tháng Mười một năm 1921, với sự tham gia của Thẩm phán Bray. Bên công tố cho rằng Harold phạm tội giết người, vì hắn thích thú với cảm giác được chú ý từ phiên tòa trước và được tuyên bố trắng án, cũng như hắn đã cố gắng che giấu bằng chứng trong nhà mình. Điều đó cho thấy hắn biết điều hắn đã làm là sai trái.

Phiên xét xử chỉ kéo dài 1 tiếng. Jones bị giam giữ trong một nhà tù ở Anh. Hắn chỉ 15 tuổi - độ tuổi quá trẻ để bị tuyên án tử hình. (Án tử hình bị bãi bỏ ở Anh vào năm 1969, và thời điểm người cuối cùng bị treo cổ là năm 1964). Sau phiên xét xử, một bản thú tội khác được viết trước phiên xét xử, nêu rõ:

“Tôi - Harold Jones - vào ngày mùng 5 tháng Hai năm 1921, đã cố ý và có chủ tâm sát hại Freda Burnell ở nhà kho Mortimer. Lí do tôi làm vậy là vì khao khát muốn giết người.”

Theo tờ Sunday Chronicle, sau khi Harold bị kết án, ông Philip - cha hắn - nói, “Con trai tôi là một nhà vô địch và tôi cũng thế. Trước khi thằng bé 21 tuổi, nó sẽ được trả về với tôi. Chỉ cần thay tên đổi họ và tìm một nơi ở mới, rồi mọi thứ sẽ ổn thôi.” Giang sơn dễ đổi bản tính khó dời, Philip Jones tin rằng con trai mình vô tội hoặc ông chẳng quan tâm con mình có tội.

Trong suốt thời gian thực hiện những vụ giết người, Harold đã quan hệ tình dục với Lena (13 tuổi) - cô con gái của nhà Mortimer. Không rõ nhà Mortimer có biết chuyện này không, nhưng chắc chắn nếu họ biết, họ sẽ không giúp Harold tạo bằng chứng ngoại phạm cho vụ sát hại Freda. Trong tù, Harold thú nhận hắn không cần quan hệ tình dục hoặc thực hiện hành vi tấn công tình dục để thỏa mãn tình dục, bởi những hành vi tàn độc và giết chóc cũng đủ thỏa mãn hắn rồi.

Người dân thị trấn Abertillery đã sai lầm. Chính một kẻ trong số họ mới là tên sát nhân.

Harold Jones bị kết án tù chung thân nhưng được thả sau 20 năm giam giữ, mặc cho lời khuyên của một bác sĩ tâm thần rằng hắn vẫn là một kẻ nguy hiểm. Ngày mùng 6 tháng Mười hai năm 1941, hắn được tha có điều kiện ở nhà tù Wandsworth (London). Hắn gia nhập đội tàu buôn. Sau khi chiến tranh kết thúc, hắn chuyển tới Newport – một thị trấn công nghiệp ở South Wales - cách Abertillery 29km. Hắn hiển nhiên đến thăm cha mẹ, ở nhà họ vài ngày và chơi đàn dương cầm. Vài trang web đưa tin hắn đến viếng mộ những nạn nhân, nhưng chuyện này chưa được xác minh. Người dân địa phương giữ con cái trong nhà cho đến khi hắn rời thị trấn. Vào năm 1948, hắn đổi tên thành Harry Stevens và chuyển tới khu Fulham ở London. Hắn kết hôn, có một cô con gái và sống một cuộc đời có vẻ bình thường như một công nhân sản xuất kim loại tấm, mà không một ai, kể cả vợ hắn, biết hắn đã từng sát hại hai cô bé lúc hắn còn thiếu niên.

Ngày mùng 2 tháng Một năm 1971, Harold Jones qua đời ở tuổi 65 vì căn bệnh ung thư xương. Hắn từng làm người gác đêm dưới cái tên Harry Jones, nhưng trước khi chết, hắn nói với vợ mình rằng tên của hắn trên giấy chứng tử phải là Harold Jones. Phải chăng hắn muốn mang tiếng xấu? Hắn được chôn ở nghĩa trang Hammersmith tại London.

Không lâu sau khi cô bé Florence Little bị sát hại, Herbert Mortimer bán cửa hàng và chuyển đi nơi khác cùng gia đình. Mặc dù hoàn toàn ủng hộ Harold, nhưng người dân địa phương lại tẩy chay Mortimer vì giúp Harold làm giả bằng chứng ngoại phạm. Mortimer phải đền tội, bởi điều này đã “tiếp tay” cho hắn giết người.

Cả hai cô bé bị Harold sát hại được chôn cất ở nghĩa trang Brynithel, dù cho phần mộ của họ đã hư hỏng. Hai người mẹ của Freda và Florence rất khổ tâm trước tình trạng của những ngôi mộ. Vào năm 2018, tác giả địa phương Neil Milkins đã quyên góp 4.000 bảng Anh để trùng tu phần mộ của hai cô bé.

Cũng vào năm 2018, trong một bộ phim tài liệu truyền hình của hãng BBC - Dark Son: The Hunt for a Serial Killer5, Giáo sư David Wilson - cựu quản giáo kiêm chuyên gia hàng đầu ở Anh về những tên sát nhân hàng loạt - đã đã ra trường hợp mà Harold Jones cũng phải chịu trách nhiệm - “Những vụ giết người khỏa thân ở Hammersmith” vào những năm 1960. Có sự sai lệch về số nạn nhân bị sát hại. Hầu hết mọi người đều đồng tình rằng chắc chắn có 6 người phụ nữ bị sát hại trong hai năm 1964 và 1965, nhưng những người khác cho rằng 2 vụ án mạng xảy ra vào năm 1959 và năm 1963 do cùng một hung thủ thực hiện. Vụ án năm 1963 chắc chắn có vài điểm tương đồng với những vụ án mạng sau đó. Thi thể của những người phụ nữ được tìm thấy ở sông Thames bị siết cổ và không mặc quần áo. Điều này khiến cánh báo chí đặt cho tên sát nhân cái tên “Jack lột đồ” (Jack the Stripper). Tên này là tên sát nhân hàng loạt “điên cuồng” mà hiếm người biết đến.

5. Tạm dịch: Đứa con trai tội lỗi: Cuộc săn lùng kẻ sát nhân hàng loạt

Trong cùng thời điểm và cùng con phố ở khu Harold sống, một người đàn ông bị tình nghi phạm tội giết người. Những cô gái “ăn sương” đều bị bóp cổ tới chết và bị bẻ răng; còn xác của họ thì bị vứt ở bãi rác hoặc ở sông Thames trong tình trạng khỏa thân. Cùng với Ngài Bernard Knight - cựu chuyên gia Nghiên cứu về bệnh học của Bộ Nội vụ, Trưởng Thanh tra điều tra đã về hưu Jackie Malton và những tình nguyện viên - Giáo sư Wilson tổ chức một cuộc điều tra về những vụ giết người của “Jack lột đồ.” Họ đã lập trụ sở ở một nhà thờ nhỏ tại thị trấn Abertillery. Người dân địa phương kết bạn với họ và kể cho họ nghe hồi ức về Harold Jones và những vụ án mạng.

Giáo sư Wilson tin rằng, một khi được thả ra khỏi tù, Harold sẽ tiếp tục giết người. Những vụ án mà hắn thú nhận thực hiện đều giống nhau. Có những bằng chứng gián tiếp khiến người ta tin Harold Jones là kẻ sát nhân: hắn sống cách ba trong số những nạn nhân vài con phố và hắn là một công nhân sản xuất kim loại tấm, vì thế, hắn đã dùng một loại sơn công nghiệp được tìm thấy trên thi thể của bốn nạn nhân cuối cùng. Giáo sư Wilson và nhóm người của ông tìm được con gái của Harold. Cô ấy không biết cha mình thật sự là ai và mô tả Harold là “người đàn ông khiêm tốn của gia đình.” Tính cách trầm lặng và khiêm tốn đã tạo cho hắn cơ hội sát hại hai cô gái và khiến cả thị trấn tin hắn vô tội.

Trong loạt chương trình truyền hình Fred Dineage Murder Casebook6, nhà báo kiêm phát thanh viên Dineage, đồng thời là người viết thuê My Story và Our Story về anh em sinh đôi nhà Kray (Anh em sinh đôi Ronnie Và Reggie Kray là những tay xã hội đen khét tiếng nhất ở London vào những năm 1950 và 1960), đã thực hiện một tập phim trong tuyển tập Murder That Shocked a Nation7 với tựa đề “Harold Jones: Kẻ giết trẻ em xứ Wales.” Cũng giống Neil Mlikins đã viết vào năm 2011 trong cuốn sách Who Was Jack the Strippers?: The Hammersmith Nudes Murders8, trong tập phim đó, ông cho rằng Harold phải chịu trách nhiệm cho những vụ án mạng ở London. Trong khi Milkins đang nghiên cứu những vụ án mạng ở xứ Wales để viết cuốn sách Every Mother’s Nightmare: Abertillery in Mourning9, ông phát hiện ra rằng Harold Jones đã chuyển tới đại lộ Hestercombe ở khu Fulham vào cuối những năm 1940 và ở đó mãi đến năm 1962 thì hắn biến mất lần nữa. Những người phụ nữ “ăn sương” bị sát hại trong ba năm, cùng thời điểm không ai biết chỗ ở của hắn.

6. Tạm dịch: Fred Dineage: Hồ sơ án mạng

7. Tạm dịch: Những vụ án giết người gây chân động một quốc gia

8.Tạm dịch: Ai là “Jack lột đồ”?: Những vụ giết người khỏa thân ở Hammersmith

9.Tạm dịch: Ác mộng của mỗi người mẹ: Nỗi tang thương ở thị trấn Abertillery

Mặc dù cảnh sát đã tra hỏi 7.000 nghi phạm, nhưng họ chưa bao giờ tra hỏi Harold Jones. Liệu họ có biết một kẻ giết người đã bị kết án sống gần đây? Bức ảnh nhận dạng theo sự mô tả của các nhân chứng mà cảnh sát đưa ra có nét tương đồng nổi bật với Harold. Những cô gái “ăn sương” không bị cưỡng hiếp nhưng họ phải chịu bạo hành dữ dội. Vụ án mạng cuối cùng xảy ra khi Harold 58 tuổi, vậy thì lúc đó có phải hắn đã quá già rồi không? Những kẻ giết trẻ em thường không chuyển sang giết người lớn, nhưng có lẽ hắn giết hai cô bé ở thị trấn Abertillery bởi vì lúc đó hắn còn quá nhỏ để chế ngự một người phụ nữ trưởng thành. Liệu hắn đã mắc bệnh ung thư vào thời điểm xảy ra vụ giết người ở London chưa? Nếu vậy, liệu việc chẩn đoán mắc bệnh ung thư có phải là nguyên nhân? Liệu có phải hắn cảm thấy hắn không còn gì để mất? Nếu hắn thực sự mắc bệnh ung thư, hắn sẽ một lần nữa thoát khỏi “sợi dây thòng lọng?, nhưng lần này là cái chết. Tất cả những cô gái “ăn sương” bị sát hại đều có vóc người thấp bé, có lẽ vì vậy mà hắn dễ dàng khống chế họ hơn. Tuy nhiên, cả Freda và Florence Little đều bị thương ở phần đầu, và Florence bị rạch cổ họng.

Thật không may, mặc dù vụ án này là một trong những vụ săn lùng thủ phạm lớn nhất trong lịch sử của Scotland Yard, nhưng vẫn chưa giải quyết xong và nhiều bằng chứng đã bị phá hủy hoặc mất đi.

Cái tên Harold Jones sẽ mãi mãi khiến người dân thị trấn Abertillery nhớ đến với những kí ức kinh hoàng. Hai cô bé bị sát hại dã man bởi niềm đam mê bệnh hoạn. Với vẻ ngoài đáng tin và dễ nhìn, hắn đã đánh lừa cả thị trấn, khiến họ tin rằng hắn vô tội. Họ không hề hay biết có một con quái vật ở bên cạnh họ cho đến khi mọi chuyện kết thúc trong muộn màng.

LẤY MẠNG NGƯỜI CHỈ VỚI MỘT NHÚM THẠCH TÍN GIÁ HAI MƯƠI XU. Edward Butts

Tyrell Tilford (35 tuổi) - tài xế xe tải chở rác - sống ở thị trấn Woodstock, bang Ontario – ngã bệnh vào ngày 21 tháng Ba năm 1935. Anh mắc bệnh tim mãn tính từ lâu, nhưng đột nhiên cơn bạo bệnh này bộc phát không sao giải thích được. Vào ngày mùng 1 tháng Tư, anh qua đời. Tiến sĩ Hugh Lindsay viết trong giấy chứng tử rằng nguyên nhân cái chết là viêm cơ tim (chứng sưng viêm cơ tim), trở nặng do bệnh cúm và bệnh vàng da viêm gan (nay được gọi là viêm gan A). Bác sĩ cho rằng không cần khám nghiệm tử thi. Tyrell được chôn cất ở nghĩa trang Hillview ở Woodstock. Bên cạnh phần mộ của anh là cha mẹ già đau khổ - ông James và bà Mary, anh chị - William, Frank, Tom, Edward, Annie, Florence và Agnes, cùng người vợ Elizabeth. Ngoài ra, người hàng xóm William Percy Balke cũng có mặt. Người ta tình cờ nghe được hắn gọi Elizabeth bằng cái tên rất thân mật.

Mộ Tyrell vẫn chưa “xanh cỏ” thì tin đồn Elizabeth đã đầu độc chồng mình bắt đầu truyền khắp Woodstock. Những lời đồn hiểm độc truyền từ miệng người này sang tai người kia rằng bà Tilford (Elizabeth) đã không còn tình cảm với người chồng kém mình 15 tuổi vì Tyrell đã hết khao khát. Có nhiều câu chuyện về mối quan hệ giữa Elizabeth cùng những người đàn ông khác và những lời thì thầm về tiền bảo hiểm nhân thọ của Tyrell. Elizabeth được cho là đã tự tin nói với những người phụ nữ khác rằng ả có thể giết Tyrell. Hơn nữa, Tyrell có lẽ đã nói với gia đình mình rằng vợ anh đầu độc anh. Câu chuyện trở nên hiểm ác hơn khi có lời nói bóng gió ám chỉ Elizabeth từng hạ hạ sát hai người chồng trước.

Ba tuần sau đám tang của Tyrell, những tin đồn đến tai Luật sư đại diện chính phủ R.N.Ball. Chỉ có những chi tiết vu vơ chứng minh cho tin đồn này và ông Ball có lẽ đã gạt bỏ chúng. Thế nhưng, ông cảm thấy mình có trách nhiệm xem xét vấn đề và liên hệ với Chi nhánh Điều tra Tội phạm của Cảnh sát bang Ontario (OPP) ở thành phố Toronto. Thanh tra E.D.L.Hammond - một trong những điều tra viên giỏi nhất ở OPP - được điều đến Woodstock. Chỉ một vài người được chọn trong thị trấn nhận ra sự xuất hiện của vị thanh tra này. Nhiệm vụ của Hammond được giữ bí mật với mọi người dân, đặc biệt là góa phụ của Tyrell.

Elizabeth Tilford sinh năm 1885 ở KayeStockton-onTees và có tên khai sinh là Elizabeth Anne. Cuộc hôn nhân đầu tiên của ả là với người chồng Fred Yaxley ở tuổi 15. Sáu tháng sau, Yaxley bỏ ả để lấy người khác. Sau đó, Elizabeth kết hôn với anh họ của mình, William Walker, mặc dù cuộc li hôn với người chồng đầu tiên vẫn chưa được luật pháp công nhận. Một khoảng thời gian sau cuộc hôn nhân thứ hai, Fred Yaxley chết. Trong suốt Thế chiến thứ nhất, Elizabeth được đào tạo thành một nữ y tá trưởng.

William và Elizabeth di cư đến Canada vào năm 1928 và sinh sống ở Woodstock - một cộng đồng dân cư gồm khoảng 11.000 người và nằm cách phía tây nam Toronto gần 130km. Mặc dù Woodstock có nền công nghiệp đang phát triển, nhưng nó vẫn còn là một thị trấn nông nghiệp, với vị trí ở giữa trang trại có đất đai sụt lở và vùng chăn bò sữa. Lúc Elizabeth và William đến nơi này, ả đã sinh 9 đứa con, nhưng chỉ 4 đứa còn sống. Gia đình của đôi vợ chồng và những đứa con tràn đầy hi vọng về cuộc sống tốt ở một đất nước mới. Thế nhưng, vào năm 1929, William đột nhiên bị mù lòa và không thể làm việc. Cùng năm đó, anh qua đời. Các bác sĩ cho rằng nguyên nhân là do anh có một khối u não.

Elizabeth luôn là một tín đồ Cơ đốc sùng đạo. Khi còn ở Anh, ả thường tham gia vào các hoạt động tôn giáo. Trong nhiều năm, ả đảm đương các vị trí như quản lý của một trường Chúa Nhật và đội trưởng của Nữ Thiếu sinh Hướng đạo. Ở thị trấn Wookstock, ả là thành viên dàn hợp xướng của nhà thờ. Cũng chính nhờ dàn hợp xướng này, ả đã gặp người đồng đội Tyrell Tilford và sau này trở thành chồng mình. Lúc đó, anh 29 tuổi, còn ả đã 44 tuổi và là một người phụ nữ trung niên đẫy đà. Vào năm 1930, Tyrell và Elizabeth nên duyên vợ chồng, mặc cho cha mẹ của Tyrell, ông James phản đối cuộc hôn nhân này và không tham dự lễ cưới. Cặp đôi cùng Isabella và John Walker - hai đứa con nhỏ nhất của Elizabeth - chuyển đến một ngôi nhà trong trang trại nhỏ ở ngoại ô thị trấn Woodstock. Cuộc hôn nhân kết thúc với cái chết đột ngột của Tyrell 5 năm sau đó.

Vào tối ngày 25 tháng Tư năm 1935, những hành động kì lạ ở nghĩa trang Hillview khiến người dân trong khu vực lân cận hoảng hốt. Họ nhìn thấy những ánh đèn lồng di chuyển giữa những hàng bia mộ và thi thoảng nghe được âm thanh lanh lảnh của xẻng xúc đất. Bí ẩn mãi chưa sáng tỏ cho đến ngày 11 tháng Năm, báo chí đăng tin rằng dưới sự chỉ đạo của Thanh tra Hammond, một nhóm cảnh sát đã khai quật thi thể của Tyrell Tilford và lấy mẫu dịch dạ dày. Nhân viên phòng thí nghiệm ở Toronto phân tích và phát hiện trong đó có một ít thạch tín.

Thi thể người quá cố được đưa về mộ phần nhưng lại không được yên nghỉ quá lâu. Câu chuyện trở nên phức tạp bởi trong mẫu phân tích có chất ướp xác. Họ cần làm thêm xét nghiệm nên đã khai quật thi thể thêm một lâng nữa vào giữa tháng Năm. Trong khi đó, trên tờ Woodstock Sentinel-Review xuất hiện một tuyên bố khiến thị trấn lao xao. Ông James Tilford chỉa sẻ, “Thằng bé đã đến gặp tôi vào sáng thứ Sáu trước ngày nó mất và nói: ‘Cha, con về rồi đây, con sắp chết rồi. Cả cơ thể con nhiễm thạch tín.’Nó kêu tôi nhìn lưỡi của nó. Nguyên cái lưỡi rách tươm và nổi gân lên hết.”

Giáo sư Jocelyn Rogers - nhà phân tích của bang - thực hiện lần xét nghiệm thứ hai để kiểm tra thi thể Tyrell kỹ lưỡng hơn. Ông phát hiện trong lông, tóc, dạ dày, gan, tim, thận và phổi có liều lượng thạch tín nhiều hơn bình thường dùng để giết một người. Nhiêu đây bằng chứng đủ để triệu tập nhân viên mở một cuộc điều tra. Cuộc điều tra bắt đầu vào ngày 6 tháng Sáu và kéo dài hai ngày, với sự có mặt của Tiến sĩ M.M.Crawford - Điều tra viên trưởng của bang. Họ tra hỏi nhân chứng và báo chí liên tiếp trích dẫn những câu nói giật gân.

Ông James và bà Mary Tilford đều chứng thực rằng con trai họ có đến nhà và tuyên bố, “Chúng giết con bằng thạch tín. Con sẽ không thể khỏe được nữa. Con bị nhiễm thạch tín nặng lắm.”

Hai ông bà Tilford thề rằng Tyrell tố cáo Elizabeth đầu độc mình. Ả từng “giải quyết” hai người chồng trước bằng cách này và anh là người thứ ba. Hai ông bà còn nói rằng khi ả đến nhà, Tyrell đứng trước mặt ả và nói: “Lizzie, cô biết rõ cô đầu độc tôi bằng thạch tín, cô biết tôi sẽ không bao giờ khỏe hơn được và nếu cô muốn cô có thể ở cùng người đàn ông khác.”

Hutcheson Keith - một dược sĩ địa phương - chứng thực rằng vào ngày 20 tháng Ba, Elizabeth Tilford gọi điện đến hiệu thuốc và đặt mua thạch tín để diệt chuột. Anh nhận ra ả qua chất giọng Anh bản xứ. Bất kì ai cũng có thể mua thạch tín, nhưng anh có hồ sơ ghi chép những người mua nó. Victor King - nhân viên giao hàng đến nhà Tyrell - nói rằng đứa con gái Isabella (16 tuổi) của Elizabeth nhận gói hàng. Cô bé trả 20 xu và ký nhận vào “cuốn sổ ghi chép những người mua thuốc độc”.

Frank Tilford chứng thực rằng nhà của Tyrell chẳng bao giờ có chuột. Edward Tilford nói rằng, trước mặt Elizabeth, Tyrell đã đưa cho anh một cái lọ, yêu cầu anh đem nó đi phân tích và nói, “Em bị đầu độc rồi.”

Edward nói với em trai rằng lời nói đo thật khủng khiếp và hỏi Tyrell có bằng chứng không. Tyrell nói trong nhà có những viên thuộc mà Elizabeth đưa cho anh uống. Elizabeth sau đó đã đưa Edward đi lấy gói thuốc trên bàn trang điểm trong phòng ngủ và nói với anh rằng chỗ thuốc này do bác sĩ của Tyrell kê đơn.

Khi Elizabeth được yêu cầu cung cấp bằng chứng, ả chỉ nói, “Tôi không có bất cứ lời nào để nói về cái chết của chồng minh. Tôi chỉ có thể nói anh ấy chết tự nhiên thôi.”

Việc Elizabeth từ chối trả lời câu hỏi hoặc không thừa nhận lời buộc tội của gia đình người chồng quá cố chỉ càng khiến mọi nghi vấn đổ dồn vào ả hơn. Sau đó, sự xuất hiện của một đại diện từ Công ty bảo hiểm nhân thọ Metropolitan khiến tình hình của ả trở nên tồi tệ hơn. Anh ta nói với ban hội thẩm của điều tra viên rằng ngay sau cái chết của Tyrell, Elizabeth đã đòi tiền hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của chồng mình. Nhưng ả phải thất vọng rồi vì Tyrell đã làm thanh lý hợp đồng, nên ả chỉ có thể đòi được một khoản tiền 309 dollas Canada. Quan điểm tiền có thể là động cơ giết người hoàn toàn phù hợp với tin đồn lan truyền trước khi Tyrell chết. Elizabeth phàn nàn rằng chính phủ đã ngưng gói trợ cấp cho góa phụ mà cô ta được nhận từ cái chết của người chồng thứ hai - William Walker.

Ban hội thẩm của điều tra viên đưa ra quyết định rằng Tyrell chết là do bị đầu độc nhưng họ chưa biết ai là thủ phạm. Elizabeth vẫn chưa chính thức bị buộc tội, nhưng Thanh tra Hammond đã không đề cập đến tên ả khi nói với báo chí rằng ông mong sẽ sớm bắt được hung thủ. Trong khi đó, OPP đã khai quật thi thể Walter để phân tích xem thi thể có bị đầu độc bằng thạch tín hay không.

Vào ngày 10 tháng Sáu, Thiếu tướng V.O.S. William – Trưởng Chi nhánh OPP – ban hành lệnh bắt giữ Elizabeth Tilford với tội danh giết người. Lệnh bắt giữ được Thanh tra Hammond và Cảnh sát Clack thực hiện lúc 9 giờ 15 phút tối tại Tilford. Trong nhà có Elizabeth cùng các con Isabella, John (10 tuổi), hai đưa con lớn William (22 tuổi) và Norman (26 tuổi).

Isabella giàn giụa nước mắt và muốn đi cùng mẹ, nhưng Elizabeth nói cô bé chỉ khiến bản thân lâm vào tình cảnh khó khăn hơn. Ả nói, “Mẹ không có tội và không việc gì phải lo lắng. Mẹ sẽ về trong vài ngày khi mọi chuyện kết thúc.” Ả hướng dẫn con mình đóng cử sau khi đi và nói chúng đừng để bị ai chụp hình.

Một đám đông tụ tập khi Elizabeth bước ra khỏi nhà với hai sĩ quan cảnh sát hộ tống hai bên. Đầu ả trùm khăn choàng và ả không nói gì khi bị áp giải vào xe cảnh sát. Một đám người hoang mang nhìn người góa phụ tai tiếng đã qua ba đời chồng. Họ đang chờ ở Tòa án quận Oxford và nhà tù khi Hammond và Rogers xuất hiện cùng tù nhân.

Sáng ngày hôm sau, sau sự xuất hiện ngắn ngủi của ả để nghe thẩm phán đọc bản cáo trạng chính thức, Elizabeth được phép nói chuyện với báo chí. Ả nói với một phóng viên ở tờ Sentinel-Review rằng, “Tôi chẳng sợ gì cả. Tôi sẽ bước ra khỏi nơi này với tư cách là một người phụ nữ tự do…Họ có thể nói rất nhiều về một người. Bây giờ họ sẽ chứng minh điều đó…Họ có thể giam tôi ở đây 12 tháng nhưng tôi sẽ sớm trở ra và có tự do.”

Một phiên điều trần sơ bộ được tổ chức vào ngày 24 tháng Sáu. Người đại diện của Elizabeth là Frank Regan - Luật sư được bổ nhiệm làm việc cho chính phủ (KC) ở Toronto - một trong những luật sư hình sự nổi tiếng nhất ở Ontario. Người hỗ trợ anh ta là Charles W.Bell - một luật sư hàng đầu khác và cũng là một KC ở Hamilton. Khi bắt đầu phiên điều trần, Elizabeth chắc chắn phải hầu tòa ở Fall Assizws (phiên tòa xét xử tội phạm được tổ chức định kì tại một khu tư pháp), vì vậy Regan và Bell bắt đầu trình bày cơ sở cho lời bào chữa. Lời khai của Isabella dẫn đến một diễn biến thú vị. Cô bé nói rằng chính cô, chứ không phải mẹ mình, đã ra ngoài vào lúc đó, đã gọi điện đến hiệu thuốc và đặt mua thạch tín. Chất giọng Anh bản xứ mà Keith nghe được là giọng của cô. Hơn nữa, Isabella nói rằng cha dượng đã kêu cô gọi điện và dặn cô không được kể với mẹ mình. Isabella nói khi Victor King đến giao hàng, cha dượng đã đưa cô hai hào để trả tiền. Sau đó, cha dượng đem thạch tín đi vào kho để diệt chuột.

Cảnh sát trưởng A.T.Moore của lực lượng cảnh sát thị trấn Woodstock phủ nhận lời khai của Isabella. Ông nói rằng khi ông tra hỏi Isabella, cô khai cô không biết ai đặt mua thạch tín. Tuy nhiên, Moore lại không viết lại lời khai của Isabella lúc tra hỏi cô bé, mà ông phải nhớ lại rồi trích dẫn trên tòa. Điều này để lộ khả năng ông không lặp lại chính xác từng câu từng chữ của cô bé. Regan cho rằng chuyện này cũng không có gì lạ, khi một cô bé tuổi thiếu niên sợ sệt và bối rối, nên lời khai có thể không nhất quán trong một tình huống đau thương như vậy.

Regan và Bell đưa ra giả thuyết Tyrell Tilford không phải bị sát hại mà là muốn tự tử. Anh tự đầu độc mình, rồi đổ tội cho người vợ mà anh cho là không chung thủy. Họ cho rằng có thể Elizabeth không hề biết trong nhà có thạch tín. Nhiệm vụ của họ là thuyết phục bồi thẩm đoàn.

Phiên xét xử bắt đầu vào ngày 24 thánh Chín và kéo dài 9 ngày, với sự có mặt của Ngài Thẩm phán A.C.Kingstone. Công tố viên đại diện cho Chính phủ là Luật sư đặc biệt Cecil L.Snyder. Ông có ý phác họa bị cáo là một người phụ nữ máu lạnh, toan tính, giết người vì tiền. Elizabeth đã bị tòa án dư luận kết tội. Khi những tờ báo đưa tin không có chút thạch tín hay thuốc độc nào khác trong cơ thể William Walker, nhưng hầu hết người dân ở thị trấn Woodstock vẫn cho rằng Elizabeth đã sát hại anh ta.

Thành viên nhà Tilford là những nhân chứng chính của Chính phủ. Họ nói Elizabeth có quan hệ với Bill Blake - một người đàn ông giàu có sở hữu hai trang trại. Annie, chị gái của Tyrell khai rằng hai ngày trước khi qua đời, người em trai quá cố đã than vãn với cô chuyện Blake và Elizabeth đã “cãi nhau một trận long trời lở đất” trong chính căn nhà của anh.

Người nhà Tilford nói Elizabeth muốn ly thân với Tyrell và ả yêu cầu được hoàn trả số tiền 1.900 dollas Canada mà ả chi cho ngôi nhà. Họ khai rằng ả vẫn cảm thấy chưa đủ khi ả là người duy nhất thụ hưởng di chúc của Tyrell. Họ còn nói ả đã dọa đưa James Tilford ra tòa và “lấy đi từng đồng mà ông ấy có.”

William Tilford cho biết anh đã đến nhà Tyrell khi nghe tin em trai mình ngã bệnh trên giường. Cả anh và Elizabeth đều ngồi kế bên giường khi Tyrell nói, “Vô ích thôi Bill. Vợ em đã đầu độc em.”

William kể rằng Elizabeth đã đứng dậy và nói với giọng điệu kích động, “Bill, anh có tưởng tượng nổi không? Chồng em cáo buộc vợ mình đầu độc minh đấy!”

Sau đó, William trình bày thêm rằng Elizabeth nói nếu Tyrell bị đầu độc thì đó là do anh ta thu gom những cái thùng phuy hóa chất cũ từ một nhà máy địa phương.

Annie Tilford khai nhận hai ngày trước khi Tyrell qua đời, em trai cô có đến nhà nhưng bệnh nặng đến nỗi không thể đứng được. Mọi người phải giúp anh nằm lên trường kỷ. Giữa từng đợt vật lộn trong cơn ói mửa, anh cáo buộc vợ đầu độc mình bằng thạch tín. Anh ôm lấy mẹ và muốn một cái hôn vĩnh biệt của mẹ, bởi anh biết mình sắp chết.

Sau đó, Annie kể rằng Elizabeth đến nhà, dang tay ôm lấy Tyrell và nói, Anh yêu, anh không nên bỏ em mà đi.”

Theo lời Annie, Tyrell đẩy Elizabethra và nói, “Lizzie, cô giết tôi. Cô đã giết ba người, nhưng cô sẽ không giết thêm ai nữa…Khi tôi chết đi, cô có thể ở cùng một người đàn ông khác, đó là Bill Blake.”

Elizabeth căm phẫn đáp trả, “Chà, tôi thích điều đó!” Ả đi thẳng đến chỗ điện thoại, gọi cho nhà thuốc và nói với người nhà Tilford, “Bây giờ, mấy người làm chứng nhé.” Ả nói vào điện thoại, hỏi nhà thuốc có bao giờ gửi thạch tín đến nhà ả không. Người nhà Tilford không thể nghe thấy phản hồi từ người ở đầu dây bên kia.

Annie cho hay Tyrell nói sau khi anh chết, gia đình hãy đem dạ dày của anh đi phân tích. Cô nói rằng cô đã đề nghị đưa em trai đi bệnh viện, nhưng Elizabeth giậm chân và tuyên bố, “Anh ta sẽ không đi bệnh viện gì cả! Nếu anh ta sắp chết, anh ta sẽ chết tại nhà.”

Sau đó, Annie nói Elizabeth bôi cho Tyrell “một ít dầu” và bảo với người nhà Tilford rằng tất cả mọi người có thể đi ngủ. Ả sẽ ngồi trông chồng suốt đêm. Buổi sáng, khi cả nhà thức dậy, Elizabeth và Tyrell đã đi mất.

Florence Tilford chứng thực chuyện Elizabeth gọi điện đến nhà vào buổi sáng hôm đó để nói với mọi người rằng ả đã đưa Tyrell về nhà. Buổi sáng hôm tiếp theo, Elizabeth lại gọi điện với thái độ đau khổ tột cùng và nói Tyrell cố siết cổ ả. Sau ngày hôm đó, Elizabeth tiếp tục gọi điện tới nhà Tilford và thông báo Tyrell đã chết.

Người nhà Tilford muốn khám nghiệm tử thi nhưng Elizabeth từ chối ký vào tài liệu cần thiết. Hơn nữa, ả còn đe dọa sẽ kiện họ 3.000 dollas nếu họ cố khám nghiệm tử thi mà không có sự đồng ý của ả. Bà Catherine Argent - hàng xóm của Tyrell và Elizabeth - chứng thực rằng sau khi Tyrell chết, bà đã nhận được một bức thư ngắn bí ẩn, cảnh cáo bà không được “làm lớn chuyện này.” Theo hướng dẫn trong bức thư nặc danh này, bà đã đốt nó.

Agnes - chị gái của Tyrell - khiến tòa án giật mình khi cô xác nhận trong suốt thời gian canh xác người chồng đã khuất, Elizabeth nói cô ả đã đưa thi thể chồng mình ra khỏi quan tài và kiểm tra. Agnes trích nguyên văn câu nói của Elizabeth, “Tôi đã lấy thi thể anh ấy ra khỏi quan tài. Họ sẽ không lấy thi thể người khác để lừa tôi. Tôi cũng lấy thi thể của người chồng khác ra khỏi quan tài và kiểm tra cái xác của anh ấy nữa…Tôi lật người anh ấy lại. Tôi thấy anh ấy mặc quần lót rồi.”

Lời khai sau đó của các thành viên nhà Tilford cho thấy Elizabeth nghi ngờ họ đang cố mổ bụng người chồng đã chết của mình khi anh nằm trong quan tài, ả cho là họ đã lấy mẫu dịch dạ dày của cái xác để đem phân tích.

Trong suốt phần lớn thời gian nhân chứng Chính phủ trình bằng chứng, Elizabeth tỏ ra bình tĩnh, mặc dù ả liên tục siết chặt rồi thả lỏng hai tay. Sau đó, trong khi Annie mô tả lần cuối cùng cô nhìn thấy em trai mình còn sống, giọng cô nghẹn ngào vì đè nén những tiếng nức nở, thì Elizabeth đột nhiên bật khóc. Ả dường như mém ngất xỉu. Những người hầu tòa đến đỡ ả và thẩm phán yêu cầu nghỉ giải lao cho đến khi ả lấy lại bình tĩnh.

Regan và Bell không gọi bất cứ nhân chứng nào để bào chữa. Họ cũng không có ý định để Elizabeth trình bày trước tòa. Thay vào đó, họ buộc những nhân chứng bên công tố thực hiện đối chất gắt gao.

Regan ám chỉ rằng có điều gì đó bất thường trong toàn bộ chuỗi sự kiện xung quanh cái chết của Tyrell do những nhân chứng Chính phủ mô tả. Ông hỏi Annie tại sao cô không gọi báo cảnh sát ngay khi nghe em trai mình nói anh bị đầu độc. Annie trả lời, “Tôi không tưởng tượng được…Tôi không muốn tin em trai mình bị đầu độc.”

Mary Tilford chứng thực thông tin Tyrell nói với bà, “Con biết con bị nhiễm thạch tín rồi. Lizzie đầu độc con. Cô ta đã giết hai người chồng và con là người thứ ba, nhưng con chắc