PHẦN MỘT - Chương 1 (A) 1135 – 1136
Dưới chân một ngọn đồi dốc, đàng sau một dòng suối trong lành, Tom đang xây một căn nhà.
Bức tường đã xây cao được ba mét và càng lúc càng cao nhanh hơn. Hai người thợ xây của Tom đã làm vệc liên tục dưới ánh nắng mặt trời, đường bay của họ nạo, táp và vỗ nhẹ, trong khi công nhân của họ đổ mồ hôi dưới sức nặng của các khối đá lớn. Alfred, người con trai của Tom, trộn vữa, đếm to từng xẻng cát khi cậu hất nó lên tấm đan. Ngoài ra còn có ông thợ mộc làm việc trên ghế băng bên cạnh Tom, cẩn thận dùng búa và đục hoàn thành một tấm gỗ sồi.
Alfred mười bốn tuổi, to lớn như Tom. Tom cao hơn hầu hết những người khác một cái đầu, Alfred chỉ thấp hơn một chút và vẫn còn lớn. Họ giống nhau: cả hai có mái tóc màu nâu nhạt, cặp mắt xanh với tròng mắt màu nâu. Người ta nói họ là một cặp đẹp trai. Sự khác biệt giữa họ là Tom có bộ râu nâu xoăn, trong khi Alfred chỉ có một bộ lông tơ vàng đẹp. Tóc trên đầu của Alfred ngày xưa cũng có màu y như vậy, Tom trìu mến nhớ lại. Bây giờ Alfred đã lớn, Tom ước muốn cậu thích thú hơn trong công việc, bởi vì cậu còn phải học nhiều hơn nữa nếu cậu muốn trở thành một thợ xây giống bố, nhưng cho đến bây giờ Alfred vẫn không thích thú làm việc và chưa nắm vững được nguyên tắc xây dựng.
Khi ngôi nhà được hoàn thành, nó sẽ là ngôi nhà sang trọng nhất trong khu vực xung quanh. Tầng hầm là nhà kho, với mái vòm, như thế nó sẽ không bị bắt lửa. Tầng trên dùng để ở, một cầu thang từ ngoài dẫn lên trên, chiều cao của nó làm cho việc tấn công gặp khó khăn và việc phòng thủ được dễ dàng. Sát nhà ở là một ống khói. Đây là một đổi mới căn bản. Một lần duy nhất, Tom thấy một ngôi nhà có ống khói, và nó thu hút ông đến nỗi ông quyết định sao chép nó. Ở cuối ngôi nhà, bên trên phòng khách là một phòng ngủ nhỏ, đó là một phòng mà con gái các bá tước ngày nay đòi hỏi – nó thật tế nhị khi ngủ chung với đàn ông, người giúp việc và chó săn trong phòng khách lớn. Nhà bếp sẽ ở riêng trong tòa nhà khác, bởi vì trước sau gì chúng cũng sẽ bắt lửa, nên xây chúng tách biệt ra xa, rồi từ đó đem các thức ăn nóng lên nhà trên.
Tom đang xây cửa nhà. Các cột cửa được làm tròn trông giống như các cột trụ – một chút khác biệt dành cho cặp vợ chồng quý tộc sinh sống ở đây. Dõi mắt nhìn theo mô hình bằng gỗ mà ông dùng làm mẫu, ông đục khối đá cẩn thận bằng chiếc búa bằng gỗ. Một mảnh vỡ nhỏ rơi ra khỏi bề mặt, làm cho hình dáng nó tròn hơn. Chiếc cột đá đã nhẵn đủ cho một nhà thờ chính tòa.
Một lần ông đã xây nhà thờ chính tòa ở Exeter. Lúc đầu ông coi công việc này cũng giống như các công việc khác. Ông đã tức giận và khó chịu khi ông thợ xây dựng chính cảnh báo rằng công việc ông thực hiện không đủ tiêu chuẩn: ông biết rằng so với các thợ khác, ông là một thợ xây hơn trung bình. Nhưng sau đó ông nhận ra rằng bức tường của nhà thờ chính tòa không phải chỉ là tốt, mà còn phải hoàn hảo. Bởi vì nhà thờ chính tòa dành cho Thiên Chúa, và cũng bởi vì tòa nhà quá lớn nên ngay một lỗi nhỏ trong bức tường, một lệch lạc nhỏ khỏi sự cân bằng tuyệt đối, cũng có thể làm tòa nhà sụp đổ. Sự oán giận của Tom dần dần biến thành niềm đam mê. Sự kết hợp giữa tham vọng về một tòa nhà vĩ đại và sự chú ý đến các chi tiết cực kỳ nhỏ đã mở mắt cho Tom nhìn thấy sự kỳ diệu của nghề thủ công. Ông học từ người thợ xây dựng chính ở Exeter về tầm quan trọng của tỷ lệ, biểu tượng của các con số và công thức ma thuật để tìm ra đúng chiều dầy của bức tường hay góc của một bậc trên cầu thang cuốn. Những điều đó quyến rũ ông. Ông ngạc nhiên khi biết rằng nhiều thợ xây đã không hiểu được nguyên tắc xây dựng đó.
Sau một thời gian Tom đã trở thành cánh tay mặt của người xây dựng tổng thể chính, và lúc đó ông bắt đầu nhìn thấy những thiếu xót của người xây dựng chính. Người xây dựng chính là một thợ thủ công tuyệt vời, nhưng lại không có tài tổ chức. Ông bối rối khi gặp vấn đề như lo cho đủ số lượng đá theo nhu cầu của thợ hồ, theo dõi thợ rèn sản xuất các công cụ đúng thời điểm, nung đủ vôi và cát cho thợ làm vữa, chặt cây cho thợ mộc, và thu đủ số tiền từ nhà thờ để trả chi phí cho mọi chuyện.
Nếu Tom đã ở lại Exeter cho đến khi người xây dựng chính qua đời, thì có lẽ ông đã có thể trở thành người kế nghiệp; nhưng nhà thờ đã không còn tiền – một phần là do quản lý yếu kém của người xây dựng chính - và các thợ thủ công đã dời đi tìm việc ở nơi khác. Tom được giao cho việc cai quản thành trì Exeter: xây dựng, sửa chữa và cải thiện thành trì. Nó là một công việc suốt đời, nếu không có tai nạn gì xẩy ra. Nhưng Tom đã từ chối, bởi vì ông ước mơ xây một nhà thờ chính tòa.
Vợ ông, Agnes, đã chẳng hiểu quyết định này của ông. Họ có thể đã có một ngôi nhà bằng đá tốt, những người giúp việc, một căn buồng riêng và thịt trên bàn ăn mỗi buổi tối; và bà đã chẳng bao giờ tha thứ cho Tom về việc từ chối cơ hội này. Bà không thể hiểu được sự hấp dẫn không thể cưỡng lại được của việc xây dựng một ngôi nhà thờ chính tòa: sự say mê tổ chức công việc phức tạp, sự thách đố thông minh trong việc tính toán, sự cao lớn của bức tường và vẻ đẹp hùng vĩ của tòa nhà sau khi hoàn thành. Một lần Tom đã được thưởng thức thứ rượu này, Tom sẽ chẳng bao giờ hài lòng với công việc khác nữa.
Từ mười năm nay, họ chẳng bao giờ ở lại đâu lâu dài. Ông thiết kế một tu viện, làm việc một hoặc hai năm cho tòa lâu đài, hay xây một nhà phố cho một thương gia giầu có; nhưng bao lâu ông tiết kiệm được một số tiền, ông lại cùng với vợ và con cái ra đi tìm kiếm một ngôi nhà thờ chính tòa.
Từ ghế ngồi, ông nhìn lên thấy Agnes đứng trên bờ công trình xây dựng, cầm một giỏ đồ ăn trên tay và mang một bình bia bên hông phía bên kia. Trời đúng ngọ. Ông nhìn bà trìu mến. Không ai cho bà là đẹp, nhưng khuôn mặt bà đầy nghị lực: vầng trán rộng, đôi mắt nâu to, mũi cao, miệng mạnh khỏe. Mái tóc đen của bà chia ngôi ở giữa và cột lại phía sau. Bà là linh hồn của Tom.
Bà rót bia cho Tom và Alfred. Họ đứng đó một lúc lâu, hai người đàn ông vạm vỡ và một phụ nữ khỏe mạnh, cùng uống bia trong ly bằng gỗ; và thành viên thứ tư của gia đình bước ra khỏi cánh đồng lúa mì: Martha, bẩy tuổi, đẹp như đóa hoa thủy tiên màu vàng, nhưng là một đóa hoa thủy tiên mất một cánh, vì một chiếc răng bị sún và răng mới chưa mọc lại. Cô chạy lại bên Tom, hôn lên bộ râu bụi bặm của ông và xin một ngụm bia. Ông ôm cơ thể gầy gò của cô. "Đừng uống nhiều quá, nếu không con sẽ rơi xuống hố đấy," ông yêu thương nói. Cô lảo đảo đi một vòng, giả vờ như đang say rượu.
Mọi người ngồi xuống đống gỗ. Agnes đưa cho Tom một lát bánh mì, một miếng thịt nguội dầy và một củ hành nhỏ. Ông lấy một miếng bánh mì nhỏ và gọt hành. Agnes đưa đồ ăn cho các con và bà cùng ăn. Có lẽ đó là vô trách nhiệm, Tom nghĩ, khi ông bỏ công việc ở Exerte để đi tìm kiếm một ngôi nhà thờ chính tòa, nhưng mặc dù liều lĩnh, tôi vẫn luôn có thể nuôi sống gia đình tôi.
Ông lấy dao ăn trong chiếc túi da phía trước, cắt một miếng hành và ăn với một miếng bánh. Hành có vị ngọt và hăng hăng trong miệng.
Agnes nói: "Em lại có con."Tom ngừng nhai và nhìn chằm chằm vào bà. Niềm vui hồi hộp chụp xuống trên ông. Ông không biết nói gì, chỉ đần người nhìn bà. Sau vài phút bà đỏ mặt, và nói: "Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên."
Tom ôm bà vào lòng. "Tốt lắm," ông nói, miệng toe toét cười vì vui. "Một đứa bé để kéo bộ râu anh. Và anh nghĩ nó sẽ là Alfred."
"Đừng quá vui bây giờ," Agnes cảnh cáo. "Đặt tên cho đứa bé khi nó chưa sinh ra không mang lại may mắn."
Tom gật đầu đồng ý. Agnes đã sẩy thai nhiều lần, một đứa khác đã chết trong bụng mẹ và một bé gái khác, Matilda, chỉ sống được hai năm.
"Tuy thế tôi vẫn muốn một con trai," ông nói. "Bây giờ Alfred đã lớn. Khi nào sẽ sinh?"
"Sau Giáng Sinh."
Tom bắt đầu tính toán. Khung ngôi nhà sẽ xong trước khi trời trở lạnh, và các tường bằng đá phải được che phủ bằng rơm qua suốt mùa đông. Các thợ xây sẽ dành những tháng lạnh để cắt đá cho cửa sổ, mái vòm, lò sưởi; trong khi đó thợ mộc sẽ làm sàn, cửa ra vào và cửa chớp, và Tom sẽ dựng giàn giáo cho công việc ở tầng trên. Rồi mùa xuân đến, họ sẽ làm tầng hầm, nền nhà, nhà trên và lợp mái. Công việc sẽ nuôi sống gia đình cho đến lễ Chúa Lên Trời, khi đó đứa bé sẽ được nửa tuổi. Sau đó họ sẽ lại lên đường. "Tốt," ông hài lòng nói."Thật tốt." Ông ăn một miếng hành nữa.
"Em đã quá già để sinh con," Agnes nói. "Đây là lần cuối cùng."Tom nghĩ về điều bà nói. Ông không chắc bà bao nhiêu tuổi, nhưng nhiều phụ nữ vào lứa tuổi của bà vẫn còn sinh con. Tuy nhiên, sự thật là khi họ già, họ sẽ phải vất vả nhiều hơn và những đứa trẻ sẽ không mạnh mẽ. Không nghi ngờ gì, bà có lý. Nhưng làm sao bà có thể chắc chắn là bà không có thai một lần nữa? Ông ngạc nhiên. Rồi ông biết tại sao, và một đám mây phủ bóng trên tâm trạng háo hức của ông.
"Anh sẽ có một công việc tốt trong thị trấn," ông nói, cố gắng xoa dịu bà. "Một nhà thờ chính tòa hay một dinh thự. Sau đó, chúng ta sẽ có ngôi nhà lớn với sàn gỗ và một người giúp việc để giúp em và con nhỏ."
Khuôn mặt bà cứng lại, bà nói trong hoài nghi: "Có thể như vậy." Bà không thích nghe nói về nhà thờ. Nếu Tom đã không làm cho nhà thờ, bây giờ có lẽ bà đang ở trong một căn nhà phố, và với số tiền tiết kiệm chôn dưới lò sưởi, bà sẽ không còn phải lo lắng gì nữa.
Tom nhìn đi chỗ khác và lấy một miếng thịt hun khói. Họ có lý do để ăn mừng, nhưng họ đang bất hòa. Ông cảm thấy bị bỏ rơi. Ông nhai miếng thịt cứng, rồi ông nghe tiếng vó ngựa. Ông nghiêng đầu lắng nghe. Người cưỡi ngựa đến từ hướng đường, đi tắt ngang qua khu rừng, tránh con đường xuyên qua làng.
Một lúc sau, một người đàn ông trẻ tuổi xuống ngựa. Ông trông giống như một người cận vệ, một hiệp sĩ trong thời gian thực tập. "Chủ ông đang đến," ông ấy nói.
Tom đứng lên. "Ông muốn nói là chủ Percy?" Percy Hamleigh là một trong những người quan trọng nhất trong miền này. Ông là chủ thung lũng này và nhiều mảnh đất khác, và ông đang trả tiền xây căn nhà này.
"Con ông ta," người cận vệ nói ngắn gọn.
"William trẻ phải không?" Con của ông Percy dự định sau khi kết hôn sẽ về sống trong căn nhà này. Cậu ấy đã đính hôn với cô Aliena, con gái của bá tước ở Shiring.
"Đúng như thế," người cận vệ nói. "Và cậu ấy đang giận dữ."
Trái tim Tom chùng xuống. Ở thời điểm tốt nhất, giàn xếp với chủ nhà đã là khó khăn. Còn khi chủ nhà đang trong cơn giận dữ thì chuyện ấy còn khó khăn hơn nữa. "Cậu ấy đang gận dữ về chuyện gì?"
"Cô dâu từ chối lời cầu hôn của cậu ấy.”
"Con gái của bá tước?" Tom nói trong ngạc nhiên. Lòng ông nhói lên một nỗi sợ hãi: ông vừa nghĩ tương lai ông sẽ vững vàng như thế nào. "Tôi nghĩ mọi chuyện đã ổn thỏa."
"Dường như tất cả chúng ta đều nghĩ như vậy – ngoài trừ cô Aliena," người cận vệ nói. "Lúc cô gặp cậu ấy, cô loan báo sẽ không lấy cậu ấy dù được cả thế giới và con chim dẽ gà."
Tom cau mày lo lắng. Ông không muốn điều đó là sự thật. "Nhưng cậu ấy không xấu trai, như tôi được biết."
Agnes nói: "Dường như có một sự khác biệt giữa hai người. Nếu con gái bá tước được lấy người mà cô ta thích, chúng ta sẽ bị cai trị bởi nhóm người hát rong lêu lổng và nhóm người mắt đen sống ngoài vòng pháp luật."
"Nhưng phụ nữ có thể thay đổi quan điểm," Tom nói trong hy vọng.
"Cô ấy sẽ thay đổi, nếu mẹ cô ấy cho cô ấy ăn đòn." Agnes nói.
"Mẹ cô ấy đã qua đời," người cận vệ nói.
Agnes gật đầu. "Điều đó giải thích tại sao cô ấy không biết gì về thực tế của đời sống. Nhưng tôi không hiểu tại sao bố cô ấy không thúc ép cô ấy."
Người cận vệ nói: "Dường như có lần bố cô ấy đã hứa là ông sẽ không gả cô ấy cho người nào mà cô ghét."
"Một lời hứa ngu xuẩn!" Tom giận dữ nói. "Làm sao một người đàn ông mạnh mẽ lại có thể trói buộc mình theo sở thích của một cô gái theo cách đó. Việc hôn nhân của cô ấy có thể ảnh hưởng đến liên minh quân sự, tài chánh của bá tước… và ngay cả việc xây dựng ngôi nhà này."
Người cận vệ nói: "Cô ấy có một em trai, vì thế việc cô lấy ai không quá quan trọng."
"Mặc dù vậy…"
"Và bá tước là một người cứng rắn," người cận vệ tiếp tục. "Ông sẽ không thay đổi lời hứa, ngay cả lời hứa với một đứa bé." Ông nhún vai. "Người ta nói như vậy."
Tom nhìn bức tường đá thấp của ngôi nhà đang thành hình. Ông chưa dành dụm đủ tiền để nuôi sống gia đình qua mùa đông. Ông rùng mình khi nhận ra điều đó. "Có lẽ cậu ấy sẽ tìm được một cô dâu khác để chia sẻ với cậu ấy trong ngôi nhà này. Cậu ấy có thể chọn lựa cô dâu trong toàn miền."
Alfred nói bằng giọng ồm ồm của chàng trai trong lứa tuổi dậy thì. "Trời ơi!, con nghĩ cậu ấy đang tới." Dõi theo mắt cậu, mọi người nhìn vào cánh đồng. Một con ngựa phi nước đại đến từ phía làng, làm bụi và đất từ con đường bay lên. Kích thước cũng như tốc độ của con ngựa làm Alfred sợ: nó vĩ đại. Trước đó Tom đã thấy con thú như vậy, nhưng có lẽ Alfred chưa bao giờ thấy. Nó là một con ngựa chiến, cao đến cằm một người đàn ông và to tương ứng với tỷ lệ. Những con ngựa chiến như thế này không được nuôi ở Anh, nhưng được nhập cảng từ nước ngoài và rất mắc.
Tom cất phần bánh dư còn lại vào trong túi da của mình, rồi nheo mắt chống lại ánh sáng mặt trời và nhìn vào cánh đồng. Con ngựa có cặp tai ngoặc lại phía sau, lỗ mũi hỉnh lên, nhưng đầu con ngựa hất lên, và đối với Tom nó là dấu hiệu con ngựa có thể điều khiển được. Điều đó chắc chắn, vì khi nó đến gần, người phi ngựa ngả người ra sau, kéo dây cương và con thú khổng lồ đi chậm lại. Bây giờ Tom có thể cảm thấy tiếng vó ngựa trên mặt đất dưới chân mình. Ông nhìn quanh tìm Martha để bế cô lên, tránh cho cô những nguy hiểm. Agnes cũng nghĩ như vậy. Nhưng Martha không thấy đâu.
"Trong cánh đồng lúa mì," Agnes nói, nhưng Tom đã tưởng tượng ra được điều đó và rảo bước theo bờ đê của cánh đồng. Ông rẽ dạt đám lúa mì với nỗi lo trong lòng, nhưng ông không tìm ra đứa bé.
Ông nghĩ chỉ còn có một việc có thể làm là tìm cách làm cho con ngựa đi chậm lại. Ông bước vào con đường, đi về phía con thú, dang rộng cánh tay. Con ngựa nhìn thấy ông, ngẩng đầu để nhìn rõ hơn và đi chậm lại. Rồi, muốn làm cho Tom khiếp đảm, người cưỡi ngựa thúc ngựa tiến lên.
"Đồ điên!" Tom hét lên, nhưng người cưỡi ngựa không nghe tiếng.
Đúng vào lúc đó Martha bước ra khỏi cánh đồng, đi vào con đường, cách Tom vài mét.
Tom đứng như trời trồng. Rồi ông nhẩy về phía trước, la hét và vẫy tay; nhưng nó là con ngựa chiến, được huấn luyện để phục vụ giữa đám đông, giữa tiếng la hét, nên nó không chùn bước. Martha đứng giữa con đường hẹp, nhìn chằm chằm như bị chết đứng vì con thú khổng lồ. Lúc đó Tom nhận ra rằng, ông không thể đến bên cô trước con ngựa được. Ông đứng trệch sang một bên đường, tay ông đụng vào lúa mì; và cùng lúc con ngựa tránh về phía bên kia. Bàn đạp nơi yên ngựa phớt trên mái tóc mềm mại của Martha, móng ngựa tạo nên một lỗ tròn trên mặt đất bên cạnh bàn chân trần của cô bé; rồi con ngựa đi xa, rẩy đầy bụi lên cả hai bố con, và Tom bế cô bé trong tay, ghì chặt cô vào trái tim đang đập thình thịch của mình.
Martha khóc. Tom đưa cô bé cho Agnes và đứng đợi William. Cậu chủ trẻ là một người cao, khỏe mạnh, chừng hai mươi tuổi, có mái tóc vàng và đôi mắt hẹp như luôn nhíu mắt nhìn vào ánh mặt trời. Cậu mặc một áo chẽn màu đen ngắn với quần đen và mang đôi giày da có dây đai đan lên tới đầu gối. Cậu ngồi vững vàng trên lưng ngựa và dường như không bàng hoàng về những gì vừa xẩy ra. Thằng bé ngu ngốc này ngay cả không biết hắn vừa làm gì, Tom nghĩ một cách chua chát. Tôi muốn vặn cổ cậu ấy.
William dừng ngựa phía trước đống gỗ và nhìn xuống công nhân xây dựng. "Ai chịu trách nhiệm ở đây?" cậu hỏi.
Tom muốn nói nếu cậu đã làm con tôi đau, tôi sẽ giết cậu, nhưng ông dằn cơn giận của mình lại. Nó giống như ông phải nuốt một ngụm đắng vào miệng. Ông đến gần con ngựa và giữ lấy dây cương. "Tôi là người thợ cả ở đây", ông nói một cách cứng rắn. "Tôi tên là Tom".
"Căn nhà này không cần nữa," William nói. "Hãy sa thải hết các thợ của ông."
Đó là điều mà Tom đang lo sợ. Nhưng ông vẫn hy vọng rằng William đang bốc đồng trong cơn tức giận, và nếu thuyết phục được, cậu ấy có thể thay đổi ý kiến. Với cố gắng, ông cất giọng thân thiện và hợp lý. "Nhưng nhiều việc đã hoàn thành," ông nói. "Tại sao cậu lại lãng phí những gì cậu đã phải trả? Thế nào cũng có ngày cậu cần đến căn nhà này."
"Đừng dạy tôi phải quản lý công việc của tôi như thế nào, thợ cả Tom à," William nói. "Tất cả các ông bị sa thải." Cậu giật mạnh dây cương, nhưng Tom đã nắm lấy nó. "Đừng đụng đến ngựa của tôi," cậu nói một cách đe dọa.
Tom chịu đựng. William muốn kéo con ngựa ngấc đầu lên. Tom rờ trong túi và lấy ra miếng bánh mì ông ăn dở. Ông giơ ra cho con ngựa và nó cắn một miếng. "Có nhiều điều chúng ta cần nói trước khi cậu đi, chủ của tôi ạ," ông nói dịu dàng.
William nói: "Nếu ông không để ngựa của tôi đi, tôi sẽ lấy đầu của ông." Tom nhìn thẳng vào ông chủ, cố gắng không để lộ vẻ sợ hãi. Mặc dù ông to lớn hơn William, nhưng nếu ông chủ nhỏ này rút gươm ra, thì sự to lớn của ông cũng chẳng giúp được gì.
Agnes sợ hãi lẩm bẩm: "Hãy làm những gì ông chủ nói, anh ạ."
Một sự yên lặng chết người. Những thợ khác đứng yên như bức tượng, lặng lẽ nhìn những gì xẩy ra. Tom biết phải thận trọng trong lúc này. Nhưng William đã sắp dẵm lên đứa con gái nhỏ của ông và điều đó làm cho Tom điên lên, vì thế ông nói khi trái tim ông đập nhanh: "Cậu phải trả tiền cho chúng tôi."
William kéo dây cương nhưng Tom đã giữ chặt dây cương, và con ngựa không còn tập trung, nó rúc vào túi da của Tom để tìm thêm thức ăn. "Hãy yêu cầu bố tôi trả tiền lương cho các ông," William nói trong tức giận.
Tom nghe giọng nói ghê tởm của một người thợ mộc: "Chúng tôi sẽ làm chuyện đó, ông chủ ạ. Cảm ơn ông nhiều lắm."
Kẻ hèn nhát, Tom nghĩ, nhưng chính ông cũng đang run. Tuy nhiên, ông vẫn cố gắng nói. "Nếu cậu muốn sa thải chúng tôi, cậu phải trả cho chúng tôi theo tục lệ. Nhà của bố cậu ở cách đây hai ngày đi bộ, và nếu chúng tôi đến nơi, có thể ông ấy không có nhà."
"Nhiều người đã phải chết vì những lý do đơn giản hơn điều này," William nói. Má cậu đỏ lên vì giận.
Tom liếc nhìn thấy người cận vệ đặt tay lên đuôi kiếm. Tom biết rằng đã đến lúc ông phải dừng lại và hạ mình xuống, nhưng sự giận dữ quặn lại trong bụng ông, vì thế mặc dù rất sợ ông vẫn không buông cương ngựa. "Hãy trả cho chúng tôi trước, rồi hãy giết tôi," ông nói một cách bất cần. "Cậu có thể bị treo cổ hay không; nhưng sớm muộn gì cậu cũng chết, và khi đó tôi sẽ ở trên thiên đàng, còn cậu ở dưới hỏa ngục."
Lập tức nụ cười mỉa mai trên khuôn mặt William biến mất và mặt cậu tái đi. Tom ngạc nhiên: điều gì đã làm cho thằng bé này sợ đến thế? Chắc chắn không phải vì ông đã nhắc đến chuyện treo cổ: vì một bá tước khó có thể bị treo cổ vì tội giết một thợ thủ công. Hay ông sợ hãi trước hỏa ngục?
Họ nhìn nhau chằm chằm. Tom ngạc nhiên và lòng cảm thấy nhẹ nhàng khi thái độ giận dữ và khinh thường của William biến mất và thay vào đó là sự sợ hãi kinh hoàng. Sau cùng, William lấy túi tiền trong thắt lưng ra, ném cho ông người cận vệ và nói: "Hãy trả cho họ."
Tom đẩy vận may của mình. Khi William kéo cương ngựa, con ngựa ngẩng đầu rồi bước sang bên, Tom bám vào ngựa, giữ chặt dây cương và nói: "Một tuần lương cho việc đuổi việc, đó là phong tục." Ông nghe thấy hơi thở của Agnes ngay đàng sau lưng ông, và ông biết, bà nghĩ là ông điên nên mới kéo dài cuộc giằng co này. Nhưng ông nhấn mạnh thêm. “Và sáu xu cho công nhân, mười hai cho thợ mộc và thợ hồ, và hai mươi bốn xu cho tôi. Tất cả là sáu mươi sáu xu." Ông có thể cộng tiền nhanh hơn bất cứ người nào mà ông đã biết.
Người cận vệ nhìn ông chủ dò hỏi. William tức giận nói: "Được."
Tom buông dây cương và lùi lại.
William quay ngựa và thúc mạnh, con ngựa lao nhanh về phía cánh đồng lúa mì.
Bất ngờ Tom ngồi xuống trên đống gỗ. Ông ngạc nhiên về những gì mới xẩy ra. Có điên thì mới dám thách thức chủ William như thế. Ông cảm thấy may mắn vì vẫn còn sống.
Tiếng chân ngựa chiến của William như tiếng sấm xa dần, và người hầu cận trút toàn bộ túi tiền trên mặt phản. Tom cảm thấy một gợn sóng của chiến thắng khi các đồng xu bạc lăn ra trong ánh sáng mặt trời. Đó là ngu dại, nhưng nó đem lại kết quả: ông đã đòi được tiền lương cho chính ông và nhân viên của ông. "Ngay cả bá tước cũng phải theo tục lệ," ông nói như để khích lệ mình.
Agnes đã nghe ông nói. "Mong rằng anh sẽ chẳng bao giờ làm việc cho William nữa," bà nói chua chát.
Tom mỉm cười với bà. Ông hiểu rằng, bà nói cáu kỉnh vì bà quá sợ. "Đừng cau mày quá, nếu không em sẽ chẳng còn gì, ngoài sữa chua trong ngực khi con mình sinh ra."
"Em không thể nuôi cả gia đình được, trừ khi anh tìm được một công việc trong mùa đông."
"Còn lâu mùa đông mới đến," Tom nói.
II
Suốt mùa hè họ ở lại trong làng. Sau đó, họ mới nhận ra rằng quyết định này là một sai lầm kinh khủng, nhưng vào thời điểm đó nó hợp lý, bởi vì Tom, Agnes và Alfred, mỗi người đều có thể kiếm được một xu cho một ngày làm việc trên cánh đồng vào mùa gặt. Khi mùa thu đến, họ phải lên đường, mang theo một bao tiền xu nặng và một con heo mập.
Đêm đầu tiên họ ngủ trong mái vòm của cổng ngôi nhà thờ làng, vào đêm thứ hai họ tìm thấy một tu viện trong vùng quê và họ tạm trú trong nhà khách tu viện. Ngày thứ ba họ ở giữa khu rừng Chute, một dải đất rộng gồm những bụi rậm và rừng cây, trên một con đường không rộng hơn chiều rộng của một chiếc xe bò, giữa hàng cây sồi ở hai bên đường.
Tom mang theo những công cụ nhỏ trong một túi khoác vai và đeo chiếc búa bên dây thắt lưng. Ông bó chiếc áo choàng dưới cánh tay trái và cầm một cây sắt nhọn trong tay phải, dùng nó như chiếc gậy đi đường. Ông vui vì lại được lên đường. Công việc sắp tới có thể ông sẽ tìm được ở một nhà thờ chính tòa. Có thể ông sẽ là thợ xây dựng chính và ở lại đó suốt đời, và xây một ngôi nhà thờ thật tuyệt vời để nó bảo đảm ông sẽ được lên thiên đàng.
Agnes đựng một vài vật dụng nội trợ trong chiếc nồi và đeo nó sau lưng. Alfred mang theo những công cụ làm việc mà họ cần dùng để xây một ngôi nhà mới ở một nơi nào đó: một cái rìu, một cái rìu lưỡi vòm, một cái cưa, một cái búa nhỏ, một cái dùi để đục lỗ qua da hoặc gỗ và một cái xẻng. Martha còn quá nhỏ để mang theo bất cứ đồ gì, nhưng cô cài chén ăn cơm và dao ăn vào thắt lưng và đeo áo choàng mùa đông trên lưng. Ngoài ra, cô còn có nhiệm vụ dắt theo con heo cho đến khi có thể bán nó ở chợ.
Tom để mắt quan sát Agnes khi họ băng ngang khu rừng bao la vô tận. Thời kỳ mang thai đã qua một nửa, bây giờ bà mang trong bụng một trọng lượng đáng kể, giống như gánh nặng bà mang trên lưng. Nhưng bà tỏ ra không mệt mỏi. Alfred cũng vậy, mọi sự đều ổn: cậu ở lứa tuổi mà các chàng trai có quá nhiều năng lực mà các cậu không biết phải làm gì với chúng. Chỉ có Martha là mệt mỏi. Đôi chân gầy của cô được sinh ra để chạy nhẩy vui chơi hơn là để đi những đoạn đường dài. Cô luôn luôn lẽo đẽo theo sau, vì thế lâu lâu mọi người phải dừng lại chờ cho cô và con heo theo kịp.
Trên đường đi, Tom nghĩ về ngôi nhà thờ chính tòa mà ông sẽ xây một ngày nào đó. Như mọi khi, ông bắt đầu hình dung một mái vòm. Nó rất đơn giản: hai cột chống giữ một nửa vòng cung. Rồi ông tưởng tượng cái thứ hai cũng giống như vậy. Sau đó, ở trong đầu, ông đẩy hai mái vòm vào với nhau thành một mái vòm sâu. Rồi ông cộng thêm một cái nữa, rồi một cái nữa, rồi nhiều cái nữa, cho đến khi ông có một hàng mái vòm, tất cả dính vào nhau tạo thành một đường hầm. Đây là kiến trúc căn bản của tòa nhà, còn lại là mái nhà che mưa và hai bức tường đỡ mái. Một ngôi nhà thờ chính ra là một đường hầm, rồi cải tiến cho nó đẹp.
Một đường hầm thường rất tối, vì thế mà sự cải tiến cần thiết đầu tiên là cửa sổ. Nếu bức tường đủ mạnh, người ta có thể tạo ra những lỗ trong nó. Các lỗ sẽ tròn ở đầu, hai bên thẳng và một bệ cửa phẳng – nói chung nó có cùng hình dáng với mái vòm. Dùng cùng hình dáng cho mái, cửa sổ và cửa ra vào là một trong những yếu tố làm cho tòa nhà đẹp. Đều đặn là yếu tố khác nữa, và Tom tưởng tượng ra mười hai cửa sổ giống nhau, đều nhau, nằm dọc theo bức tường của đường hầm.
Tom cố gắng hình dung phần trên cửa sổ, nhưng sự tập trung của ông bị chi phối vì ông cảm thấy mình đang bị theo dõi. Đó là một ý tưởng ngu ngốc, ông nghĩ, nếu có dĩ nhiên là ông bị theo dõi bởi chim, cáo, mèo, sóc, chuột, chồn và chuột đồng đầy rẫy trong rừng.
Họ ngồi xuống bên cạnh một con rạch vào buổi trưa. Họ uống nước sạch, ăn thịt nguội và táo dại mà họ nhặt được trong rừng.
Vào buổi chiều, Martha mệt mỏi. Có lúc cô ấy ở đàng sau họ cả trăm mét. Đứng chờ cho cô ấy bắt kịp, Tom nhớ lại khi Alfred ở tuổi đó, cậu đã là một đứa trẻ đẹp, mái tóc vàng, mạnh mẽ và táo bạo. Tình thương và sự tức giận trộn lẫn trong Tom khi ông quan sát Martha la mắng con heo vì quá chậm chạp. Rồi một nhân vật bước ra khỏi bụi rậm ngay trước mặt cô. Những gì xẩy ra sau đó quá nhanh, đến nỗi Tom không thể tin được. Người lạ vừa xuất hiện trên đường giơ một cây gậy cao trên đầu. Một tiếng kêu kinh hoàng thoát ra từ cổ họng Tom, nhưng trước khi ông có thể thốt ra, người lạ đã đập cây gậy xuống Martha. Hắn đập trúng vào phía bên đầu của Martha và Tom còn nghe thấy âm thanh ghê tởm của những cú đập tiếp nối sau đó. Cô ngã xuống đất như một con búp bê rơi xuống.
Tom chạy lại, chân ông thình thịch trên mặt đất cứng giống như bước chân con ngựa chiến của William. Ông ước mong đôi chân có thể mang ông đi nhanh hơn. Khi chạy, ông thấy những gì đang xẩy ra giống như ở một bức tranh được vẽ cao trên tường nhà thờ, bởi vì ông có thể nhìn thấy, nhưng ông không thể thay đổi được nó. Kẻ tấn công chắc là kẻ sống ngoài vòng pháp luật. Hắn lùn, chắc nịch, mặc áo dài màu nâu, đi chân trần. Hắn nhìn thẳng vào Tom, và Tom có thể nhìn thấy một khuôn mặt tàn tật kinh dị: môi hắn bị cắt, có lẽ bị trừng phạt vì tội nói dối, và miệng hắn bây giờ là một nụ cười xếch ghê rợn thường xuyên được bao quanh bởi nhiều vết sẹo. Cảnh tượng kinh khủng đã làm Tom quên đi thân thể Martha đang nằm bất động trên mặt đường.
Kẻ tội phạm rời mắt nhìn Tom và chăm chú vào con heo. Trong nháy mắt, hắn cúi xuống, bắt con heo lên, kẹp con vật dưới cánh tay và lao trở lại vào bụi cây, mang theo tài sản giá trị duy nhất của gia đình Tom.
Tom quỳ xuống bên cạnh Martha. Ông đặt bàn tay to lớn của mình lên ngực nhỏ bé của cô và cảm thấy nhịp tim của cô ổn định và mạnh mẽ, và nỗi lo của ông vơi đi; nhưng đôi mắt của cô vẫn khép kín và trong mái tóc bạch kim của cô có dòng máu đỏ tươi.
Một lúc sau, Agnes quỳ xuống bên cạnh ông. Bà sờ vào ngực, cổ tay và trán cô, rồi bà nhìn Tom một cách cứng rắn. "Con sẽ sống," bà nói bằng giọng cương quyết. "Hãy lấy lại con heo."
Tom nhanh chóng tháo chiếc bị đựng đồ nghề và bỏ chúng lại trên mặt đất. Bằng tay trái, ông lấy chiếc búa sắt từ trong thắt lưng. Trong khi tay phải ông vẫn giữ cây gậy nhọn bằng sắt. Ông còn nhìn thấy những bụi cây bị chà đạp nơi kẻ trộm đến và đi, và ông có thể nghe tiếng lợn kêu trong rừng. Ông lao vào bụi cây.
Con đường mòn dễ đi. Kẻ tội phạm là người vạm vỡ, lại chạy với con heo vùng vẫy dưới cánh tay nên hắn để lại dấu vết qua vườn rau, bụi cây và những cây non. Chạy đàng sau, lòng đầy ước muốn man rợ, Tom muốn tóm cổ tên trộm và đập cho hắn bất tỉnh. Ông bị ngã nhào xuống qua bụi cây bạch dương, lăn xuống sườn đồi, té văng qua vũng bùn lầy vào một con đường hẹp. Ở đó, ông dừng lại. Kẻ trộm có thể đã đi về phía trái hay phải, và bây giờ không có đám cỏ dập nát chỉ cho ông đường đi. Tom cảnh giác và nghe thấy tiếng heo kêu đâu đó bên phía trái. Ông cũng nghe thấy tiếng chân của người nào đó vượt qua khu rừng phía sau ông – Alfred, có lẽ. Cậu đang đuổi theo con heo.
Con đường đưa ông xuống chỗ trũng, rồi quanh gấp và bắt đầu lên cao. Bây giờ ông nghe rõ tiếng heo kêu. Ông chạy lên dốc, thở mệt mỏi – những năm dài hít bụi đá đã làm phổi ông suy yếu. Bất ngờ đường trở lại bằng phẳng và ông nhìn thấy tên trộm, chỉ cách ông hai mươi hay ba mươi mét, đang chạy như bị ma đuổi. Tom chạy nước rút, cố bắt được hắn. Nếu ông có thể tiếp tục chạy, ông phải bắt kịp hắn, vì một người ôm con heo thì không thể chạy nhanh hơn người tay không. Nhưng bây giờ ngực ông đau. Kẻ trộm chỉ còn cách xa mười lăm, rồi mười hai mét. Tom giơ cao chiếc gậy sắt giống như giơ ngọn giáo trên đầu. Chỉ gần hơn một chút nữa là ông có thể phóng nó. Mười một mét, mười -
Trước khi ngọn giáo rời khỏi tay, ông liếc thấy một khuôn mặt gầy, đội chiếc mũ lưỡi trai màu xanh, xuất hiện từ trong bụi cây bên đường. Đã quá trễ để tránh. Một thanh gỗ to được ném ra đường trước mặt ông, ông vấp vào nó và ngã xuống.
Ông đánh rơi chiếc thanh sắt, nhưng ông vẫn còn chiếc búa. Ông lộn vòng và ngồi dậy trên đầu gối. Ông nhìn thấy hai người: một người đội mũ xanh và một người đầu hói với bộ râu trắng. Chúng chạy về phía Tom.
Ông tránh sang một bên và vung búa xuống tên đội mũ xanh. Hắn tránh nên búa sắt lớn chỉ giáng xuống trên vai hắn. Hắn kêu lên rồi gục xuống đất, giữ chặt vai như thể nó bị gẫy. Tom không còn đủ giờ để vung búa lên cho hắn thêm một đòn chí tử nữa, vì trong lúc đó tên đầu hói đến gần. Tom đâm đầu búa vào tên đầu hói, làm gẫy xương má hắn.
Cả hai quằn quoại với vết thương và chạy trốn. Tom biết không ai trong chúng còn có thể chiến đấu. Ông nhìn quanh tìm kiếm. Tên trộm vẫn chạy trên đường. Tom chạy theo hắn, cố quên sự đau đớn trong ngực. Nhưng chỉ sau vài mét, ông nghe thấy một giọng quen thuộc đàng sau ông.
Alfred.
Ông ngừng chạy và nhìn lại.
Alfred đang đánh nhau với cả hai tên trộm. Cậu dùng cả tay lẫn chân. Cậu đấm ba bốn cái lên đầu tên đội mũ xanh, rồi đá vào chân tên đầu hói. Nhưng hai người đàn ông đã bao vây cậu, xiết chặt vòng vây đến nỗi cậu không còn đủ chỗ để đấm và đá mạnh được. Tom do dự giữa việc đuổi bắt lấy lại con heo hay trở lại cứu con. Sau đó tên đầu hói đá trúng đàng sau cẳng chân Alfred, cậu ngã xuống đất. Hai người nhào xuống trên cậu và đấm đá xuống trên mặt và thân thể cậu.
Tom chạy lại, tấn công tên đầu hói, ném hắn vào trong bụi rậm, rồi quay lại và bổ búa xuống tên đội mũ xanh. Lần trước hắn đã cảm nhận được sức nặng của chiếc búa và một cánh tay vẫn còn đau. Hắn né tránh cán búa đầu tiên, rồi quay lại và nhẩy vào bụi cây, trước khi Tom có thể giáng xuống lần thứ hai.
Tom quay lại và nhìn thấy tên đầu hói đang chạy trốn xuống đường. Ông nhìn vào hướng khác: không còn thấy bóng dáng kẻ trộm và con heo đâu nữa. Ông buông lời chửi rủa cay đắng: con heo là một nửa những gì ông đã cứu vớt lại được trong mùa hè này. Ông khụy xuống đất và thở dốc.
"Chúng ta đã đánh đuổi được cả ba tên," Alfred hào hứng nói.
Tom nhìn cậu. "Nhưng họ đã lấy mất con heo của chúng ta," ông nói. Sự tức giận đốt cháy lòng ông giống như rượu táo chua. Họ đã mua con heo vào mùa xuân, vừa khi họ tiết kiệm đủ những đồng xu, và họ đã nuôi béo nó trong suốt mùa hè. Một con heo mập có thể bán được sáu mươi xu. Chỉ cần một vài bắp cải và một bao thóc nữa, nó có thể nuôi sống cả gia đình trong suốt mùa đông và mua được một đôi giày da, cũng như một hoặc hai bóp ví. Mất con heo là một thảm họa.
Tom nhìn Alfred một cách ghanh tị. Cậu đã phục hồi sau cuộc rượt đuổi và đánh nhau, và đang sốt ruột chờ bố cậu. Bao nhiêu năm trước đây, Tom nghĩ, tôi cũng đã có thể chạy nhanh như gió mà không cảm thấy tim mình đập mạnh. Khi đó tôi ở lứa tuổi… hai mươi. Nó dường như đã trở thành quá khứ.
Ông đứng lên.
Khi họ đi bộ trên con đường về, Tom để tay ông lên đôi vai rộng của Alfred. Cậu vẫn còn thấp hơn bố một bàn tay, nhưng chẳng bao lâu nữa cậu sẽ bắt kịp và có thể còn cao lớn hơn. Tôi hy vọng đầu óc nó cũng phát triển theo, Tom nghĩ và nói: "Bất cứ người ngu nào cũng có thể tham gia đánh nhau, nhưng người khôn ngoan thì biết cách tránh xa chúng." Alfred nhìn ông xa vắng.
Họ ra khỏi đường, vượt qua khu lầy lội và bắt đầu leo dốc, đi theo dấu vết tên trộm để lại. Khi họ đi ngang qua bụi dương, Tom nghĩ đến Martha, và cơn tức giận lại quặn lên trong lòng ông. Kẻ tội phạm đã đánh cô không thương tiếc, bởi vì cô không có gì để chống cự lại hắn.
Tom vội bước nhanh hơn và chẳng bao lâu sau, ông và Alfred đã ra đến đường đi. Martha vẫn nằm chỗ cũ, không cử động. Mắt cô vẫn đóng, và máu đã khô trong tóc cô. Agnes ở bên cạnh cô – và bên cạnh họ, trước sự ngạc nhiên của Tom, có một phụ nữ và một bé trai. Ông chợt hiểu rằng thật chẳng có gì ngạc nhiên khi ông cảm thấy bị theo dõi trong rừng trước đây. Ông cúi xuống, đặt tay lên ngực Martha. Cô thở bình thường.
"Chẳng bao lâu nữa cô ấy sẽ tỉnh," người đàn bà lạ nói bằng một giọng uy quyền. "Rồi cô ấy sẽ nôn mửa. Sau đó cô sẽ khỏe lại."
Tom tò mò nhìn bà. Bà ấy quỳ, cúi mình trên Martha. Bà ấy còn trẻ, có lẽ trẻ hơn Tom cả chục tuổi. Chiếc áo da ngắn của bà để lộ thân thể rám nắng mềm mại. Bà có một khuôn mặt đẹp, có mái tóc nâu đen xõa xuống trên trán. Tom cảm thấy một day dứt thèm khát. Rồi bà ngẩng lên, liếc nhìn ông: đôi mắt sâu, tinh anh, có màu vàng mật ong khác thường, một đôi mắt làm cho khuôn mặt bà có một vẻ huyền bí, và ông cảm thấy chắc rằng bà cũng biết ông đang nghĩ gì.
Ông quay nhìn chỗ khác tránh bối rối, và ông bắt gặp ánh mắt Agnes. Bà đang bực bội nhìn ông. Bà hỏi: "Con heo đâu?"
"Còn có hai kẻ tội phạm khác nữa," Tom nói.
Alfred nói: "Chúng ta đánh bại họ, nhưng người ăn cắp con heo thì chạy mất."
Agnes cau mặt nhìn, nhưng không nói gì.
Người đàn bà lạ nói: "Một cách nhẹ nhàng, chúng ta có thể di chuyển bé gái vào trong bóng râm." Bà đứng lên, và Tom nhận ra rằng bà ấy nhỏ con, ít nhất là nhỏ hơn ông một cái chân. Ông cúi xuống, cẩn thận bế Martha lên. Cơ thể trẻ thơ của cô dường như nhẹ hẫng trên tay ông. Ông bế cô dọc theo con đường vài mét, rồi đặt cô xuống bãi cỏ dưới bóng mát của một cây sồi già. Cô vẫn còn yếu.
Alfred thu lượm các công cụ đã bị phân tán rải rác trên đường trong cuộc ẩu đả. Đứa con trai của người đàn bà lạ chăm chú nhìn, mắt cậu to và miệng mở rộng, không nói gì. Cậu trẻ hơn Alfred khoảng ba tuổi và dễ nhìn, Tom quan sát, nhưng không có nét đẹp gợi cảm của mẹ. Cậu có làn da tái xanh, mái tóc đỏ cam và đôi mắt xanh hơi cong. Cậu có cái nhìn ngớ ngẩn của một người đần độn, Tom nghĩ; những đứa trẻ như thế này thường hay chết yểu hay sẽ lớn lên trong làng dành cho người ngốc nghếch. Alfred cảm thấy không thoải mái trong cái nhìn chằm chằm của cậu bé.
Trong khi Tom đang quan sát, cậu bé giật lấy cái cưa từ tay Alfred mà không nói gì, rồi xem xét nó như thể nó là một cái gì đó kỳ lạ. Alfred tức giận vì thái độ vô lễ của cậu bé, cậu giật nó lại, và cậu bé vẫn thờ ơ để cho Alfred giật lại. Bà mẹ nói: "Jack! Hãy giữ tư cách của con." Bà ấy có vẻ xấu hổ.
Tom nhìn bà. Đứa trẻ không giống bà chút nào. "Bà có phải là mẹ nó không?" Tom hỏi.
"Vâng, tôi là Ellen."
"Chồng bà đâu?"
"Chết rồi."
Tom ngạc nhiên. "Bà đi một mình sao?" ông hoài nghi hỏi. Khu rừng này đủ nguy hiểm cho đàn ông giống như ông: một người đàn bà đi một mình sẽ khó có hy vọng sống sót.
"Chúng tôi không phải là người qua đường," Ellen nói. "Chúng tôi sống trong rừng."
Tom bị sốc. "Bà muốn nói bà là –" ông ngưng lại, không muốn xúc phạm bà.
"Người sống ngoài vòng pháp luật," bà nói. "Vâng, ông nghĩ rằng mọi kẻ tội phạm đều giống như Faramond Openmouth, người đã lấy trộm của ông con heo ư?“
"Đúng vậy," Tom nói, mặc dù chính ra ông định nói rằng tôi chẳng bao giờ nghĩ một người sống ngoài vòng pháp luật lại có thể là một phụ nữ xinh đẹp như bà. Không thể kiềm chế được sự tò mò, ông hỏi: "Bà bị phạm tội gì?"
"Tôi nguyền rủa một linh mục," bà nói, rồi quay đi.
Đối với Tom, đó không phải là tội phạm, hay có lẽ vị linh mục đó có nhiều quyền lực hay chuyện này quá nhậy cảm; hay có lẽ Ellen đã không muốn nói sự thật.
Ông nhìn Martha. Một lúc sau cô mở mắt. Cô bối rối, pha lẫn chút sợ hãi. Agnes quỳ bên cạnh cô. "Con được an toàn rồi," bà nói. "Mọi chuyện sẽ tốt đẹp."
Martha ngồi thẳng lên và nôn mửa. Agnes ôm chặt cô cho đến khi cơn co thắt qua đi. Tom rất cảm kích: dự đoán của Ellen đã thành sự thật. Bà cũng nói là Martha sẽ lành và có lẽ chuyện ấy cũng đáng tin nữa. Ông cảm thấy nỗi lo nhẹ đi và ông ngạc nhiên một chút về sức mạnh cảm xúc của chính ông. Tôi không thể chịu đựng được nếu mất đứa con gái nhỏ bé này, ông nghĩ; và ông phải chiến đấu để ngăn dòng nước mắt lại. Ông bắt gặp cái nhìn thiện cảm của Ellen, và một lần nữa ông cảm thấy đôi mắt vàng nhợt của bà ấy có thể nhìn thấu trái tim ông.
Ông bẻ một cành cây sồi, tước lấy lá và dùng chúng để lau mặt Martha. Cô vẫn còn rất tái.
"Cô ấy cần nghỉ ngơi," Ellen nói. "Hãy để cô ấy nằm xuống đó một lúc, bằng khoảng thời gian của một người đi bộ ba dặm."
Tom liếc nhìn mặt trời. Trời vẫn còn rất sáng. Ông ngồi xuống chờ đợi. Agnes ru Martha dịu dàng trong vòng tay. Cậu bé Jack bây giờ chuyển sự chú ý qua Martha và nhìn chằm chằm vào cô với cùng vẻ ngu ngốc. Tom muốn biết nhiều về Ellen. Ông tự hỏi, không biết Ellen có bị thuyết phục để kể câu chuyện về bà. Ông không muốn bà đi khỏi.
„Chuyện đó xẩy ra làm sao?" ông hỏi bà một cách phỏng chừng.
Bà nhìn vào mắt ông, rồi bắt đầu kể.
Bố bà là một hiệp sĩ, bà ấy kể với họ. Ông là một người to lớn, mạnh mẽ và hung bạo. Ông muốn có một người con trai, một người có thể cùng phi ngựa, đi săn và vật lộn với ông, một người cùng uống rượu và say sưa qua đêm với ông. Về khía cạnh này ông là một người đàn ông thiếu may mắn, vì ông không có con trai mà là có Ellen, và rồi vợ ông qua đời. Ông cưới thêm người vợ nữa, nhưng bà vợ thứ hai này hiếm muộn. Ông coi thường bà vợ kế này và đuổi bà đi. Ông đúng là người đàn ông tàn nhẫn, nhưng ông không đối xử như thế với Ellen, người luôn ngưỡng phục ông và cùng chia sẻ với ông quan điểm khinh thường vợ hai của ông. Khi mẹ kế đi khỏi, Ellen sống và lớn lên trong một ngôi nhà toàn đàn ông. Bà cắt tóc ngắn, mang một con dao găm và học không được chơi với mèo hay chăm sóc con chó già. Vào lứa tuổi của Martha, bà đã nhổ xuống đất, ăn hột táo và thúc vào bụng ngựa. Bà biết rằng tất cả đàn ông không thuộc băng của bố bà được gọi là 'người nịnh hót' và các bà không theo họ được gọi là 'ngu như lợn', mặc dù bà không biết chắc – và không quan tâm lắm – những điều nhục mạ này có nghĩa gì.
Lắng nghe giọng bà trong làn gió nhẹ của buổi chiều thu, Tom nhắm mắt lại, tưởng tượng một người con gái ngực phẳng với khuôn mặt bụi bặm, ngồi chung bàn với bọn côn đồ của bố, uống rượu mạnh, cụng ly và hát những ca khúc về chiến tranh, kể chuyện cướp bóc và hãm hiếp, về ngựa, lâu đài và trinh nữ cho đến khi bà ngủ thiếp đi, gục đầu với mái tóc ngắn trên chiếc bàn gỗ thô.
Nếu như bà cứ mãi mãi có bộ ngực phẳng thì có lẽ bà sẽ hạnh phúc suốt đời. Nhưng thời gian đến, khi các đàn ông nhìn bà một cách khác. Họ không còn cười khi bà nói: "Tránh đường cho tôi đi, nếu không tôi sẽ cắt trứng của các ông cho heo ăn." Một vài người trong số họ nhìn chằm chằm khi bà cởi áo dài len và đi ngủ với quần áo lót bằng lụa. Khi đi tiểu ở trong rừng, họ phải quay lưng lại phía bà, một điều mà trước đây họ chẳng bao giờ làm.
Một ngày kia bà thấy bố bà nói chuyện với cha sở một cách chăm chú - một chuyện hiếm khi xẩy ra – và cả hai người cứ nhìn bà, như họ đang nói về bà. Sáng hôm sau bố bà nói với bà: "Đi với Henry và Everard, và làm những gì mà họ bảo." Sau đó ông hôn lên trán bà. Bà tự hỏi, chuyện gì đã làn bố bà thay đổi – có phải ông dịu hiền hơn trong tuổi già của ông? Bà thắng yên con ngựa đua màu xám – bà không muốn cưỡi con ngựa của đàn bà hoặc con ngựa con của trẻ nhỏ - và lên đường với hai người đàn ông bên cạnh.
Họ đem bà đến một tu viện nữ và bỏ bà lại đó.
Khi hai người đàn ông ra về, cả nơi đó vang lên lời chửi rủa thô tục của bà. Bà đâm vị tu viện trưởng rồi đi bộ cả đoạn đường về lại nhà bố. Ông cột chân tay bà vào yên con lừa và gửi bà trở lại tu viện. Bà bị nhốt trong phòng phạt cho đến khi vết thương của vị tu viện trưởng lành. Căn phòng lạnh, ẩm thấp và tối như đêm đen, và bà có nước để uống nhưng không có đồ ăn. Khi bà được ra khỏi phòng đó, bà lại đi bộ về nhà. Bố bà lại gửi bà đi, và lần này bà bị đánh trước khi bị nhốt vào trong phòng.
Sau cùng họ hoán cải được bà, dĩ nhiên, và bà mặc áo tập sinh, sống theo quy luật và học cầu nguyện, mặc dù trong tâm hồn bà ghét các nữ tu, coi thường các Thánh và không tin bất cứ điều gì người ta nói với bà về Thiên Chúa bằng lý thuyết. Nhưng bà học đọc và viết, bà thành thạo về âm nhạc, toán và vẽ. Ngoài tiếng Pháp và tiếng Anh mà bà đã nói trong gia đình, bà học thêm tiếng Latin.
Đời sống trong tu viện không quá xấu. Nó là một cộng đoàn gồm các cá nhân độc thân với các quy định đặc thù và các nghi thức, và đó chính là lối sống mà bà đã quen. Tất cả các nữ tu phải làm việc chân tay và Ellen được phân công lo cho ngựa. Chẳng bao lâu sau bà phụ trách chuồng ngựa.
Sự nghèo khó không làm bà bận tâm. Sự vâng phục không dễ dàng gì, nhưng cuối cùng bà cũng theo. Quy luật thứ ba, sự trinh khiết, bà chẳng coi trọng lắm, và có những lúc để thách thức vị tu viện trưởng, bà khai tâm cho một hay nhiều nữ tu tập sinh về những thú vui của –
Vào lúc này Agnes gián đoạn câu chuyện của Ellen. Bà mang Martha theo, đi tìm nguồn suối để lau mặt cô và giặt chiếc áo của cô. Bà đem cả Alfred theo, để bảo vệ, mặc dù bà nói bà sẽ không đi quá xa. Jack đứng lên theo họ, nhưng Agnes cứng rắn nói cậu ở lại và dường như cậu hiểu, vì cậu lại ngồi xuống. Tom nhận ra Agnes đã muốn đem các con đi để chúng không nghe được câu chuyện vô đạo và sỗ sàng này, và bà cũng không muốn để Tom ở lại một mình với Ellen.
Một ngày nọ, Ellen tiếp tục, con ngựa nhỏ của vị tu viện trưởng bị què cách tu viện vài ngày đường. Tu viện Kingsbridge tình cờ ở gần đó, vì thế bà mượn một con ngựa khác ở đó. Sau khi trở về, bà nói Ellen đem trả lại ngựa và lấy con ngựa què về.
Ở đó, trong chuồng ngựa của tu viện, nằm trong bóng ngôi nhà thờ chính tòa cũ kỹ đổ nát của Kingsbridge, Ellen gặp một thanh niên trẻ, trông giống như một con chó con bị đánh đập. Cậu có sự mềm mại và cái mũi cảnh giác của một con chó con, nhưng cậu sợ hãi và nhút nhát như thể tất cả thú vui chơi đã bị đánh bật ra khỏi cậu. Khi bà nói, cậu không hiểu gì. Bà thử bằng tiếng Latin, nhưng cậu không phải là tu sĩ. Sau cùng bà nói vài chữ bằng tiếng Pháp, khuôn mặt ông vui tươi rạng rỡ và ông trả lời lại trong cùng một ngôn ngữ.
Ellen chẳng bao giờ trở lại tu viện nữa. Từ đó bà sống trong rừng, trước hết trong một túp lều bằng cành lá, sau đó trong một hang động khô ráo. Bà không quên khả năng của đàn ông mà bà đã học được ở nhà bố: bà vẫn có thể săn nai, bắt thỏ, bắn thiên nga bằng cung; bà có thể mổ thịt, làm sạch và nấu chín; và bà còn biết cạo, thuộc da và dùng chúng may quần áo. Như một trò chơi, bà ăn trái cây rừng, các loại hạt và rau cỏ. Còn những vật khác cần thiết như muối, quần áo len, chiếc rìu hay con dao mới, bà phải ăn cắp.
Thời gian tồi tệ nhất là khi Jack được sinh ra…
Nhưng anh chàng người Pháp ra sao? Tom muốn hỏi. Có phải ông ấy là bố của Jack không? Và nếu như vậy, ông ấy đã chết lúc nào? Và ra sao? Nhưng nhìn vào khuôn mặt bà, ông biết bà không muốn kể về phần này của câu chuyện, và bà là người không dễ bị thuyết phục, vì thế ông giữ những câu hỏi này cho riêng mình.
Vào thời điểm đó, bố bà qua đời và nhóm người xung quanh ông tản mác đi, vì thế bà không còn người thân hoặc bạn bè nào trên thế giới. Khi Jack được sinh ra, bà đốt lửa suốt đêm ở cửa hang. Bà có đồ ăn, nước uống, và có dao, cung tên để chống sói và chó hoang; và ngay cả bà có một chiếc áo choàng dầy màu đỏ mà bà đã ăn cắp của một giám mục để quấn cho đứa nhỏ. Nhưng bà không chuẩn bị cho sự đau đớn và sự sợ hãi của việc sinh nở, và trong một thời gian dài bà nghĩ rằng bà sẽ chết. Tuy nhiên, đứa nhỏ được sinh ra khỏe mạnh và bà được sống sót.
Ellen và Jack đã trải qua một cuộc sống thô sơ, đơn giản trong mười một năm sau đó. Rừng cho họ những gì họ cần, miễn là họ phải thận trọng tích trữ đủ táo, các loại hạt và thịt ướp muối hoặc hun khói cho các tháng mùa đông. Ellen thường nghĩ rằng nếu giả sử như thế giới không có vua, bá tước, giám mục và cảnh sát thì mọi người có thể sống như thế này và hoàn toàn hạnh phúc.
Tom hỏi bà đã xử lý như thế nào với những người sống ngoài vòng pháp luật khác, những người như Raramond Openmouth. Điều gì sẽ xẩy ra nếu họ đè lên bà vào ban đêm và cưỡng hiếp bà? Ông tự hỏi và khi nghĩ như vậy, chỗ thắt lưng của ông bị kích thích, mặc dù ông chẳng bao giờ cưỡng hiếp người đàn bà nào, ngay cả vợ ông.
Các kẻ tội phạm khác sợ Ellen, bà kể cho Tom, ngước nhìn Tom bằng đôi mắt trong sáng và ông hiểu tại sao: họ nghĩ bà là một phù thủy. Chỉ đối với những người lữ hành qua rừng, những người biết rằng họ có quyền ăn cắp, cưỡng hiếp và giết chết những tội phạm mà không sợ bị pháp luật trừng phạt – những người đó Ellen phải tránh. Tại sao bà lại không tránh Tom? Bởi vì bà thấy một đứa trẻ bị thương và bà muốn giúp đỡ, vì chính bà cũng có một đứa con.
Bà đã truyền đạt cho Jack kiến thức về vũ khí và săn bắn mà bà đã học trong nhà của bố bà. Sau đó bà dạy cậu những gì bà học được từ các nữ tu: đọc và viết, nhạc và toán, tiếng Pháp và tiếng Latin, cách vẽ và ngay cả những câu truyện về Kinh Thánh. Và trong những đêm dài mùa đông, bà truyền lại cho cậu di sản của chàng trai người Pháp, người biết nhiều câu truyện, thơ và bài hát hơn bất cứ một người nào khác trên thế giới.
Tom không tin rằng Jack có thể đọc và viết. Tom có thể viết tên mình, và một vài chữ như xu, mét và giạ; và Agnes, con gái của một mục sư, biết nhiều hơn, mặc dù bà ấy viết chậm và lưỡi bà cứng đơ trong cửa miệng; và Alfred không viết được chữ nào, ngay cả không nhận ra tên mình; còn Martha không biết gì. Có thể nào một đứa bé nửa ngu nửa dại này lại có thể đọc và viết hơn cả gia đình Tom?
Ellen nói Jack viết, và cậu san phẳng mặt đất rồi viết lên đó. Tom nhận ra được chữ thứ nhất, Alfred, nhưng không biết các chữ khác, và ông thấy mình ngu dốt; Ellen cứu sự bối rối của ông bằng cách đọc to cả câu: "Alfred lớn hơn Jack." Rồi Jack vẽ nhanh hai hình người, một người lớn hơn người kia, và mặc dù nét vẽ thô sơ người ta vẫn có thể hiểu một người có bờ vai rộng nhìn khó chịu, và người nhỏ hơn cười toe toét. Tom là người có khả năng phác thảo, ông cũng ngạc nhiên về sự đơn giản và có sức thuyết phục của bức tranh vẽ trên đất.
Nhưng đứa trẻ dường như là một đứa ngốc.
Ellen đã nhận ra điều đó, bà thừa nhận, như đoán được ý nghĩ của Tom. Jack chẳng bao giờ có bạn cùng lứa, hoặc sự thân thiện của người khác, ngoại trừ mẹ cậu, và kết quả là cậu lớn lên như một con thú hoang. Mặc dù đã học tất cả, cậu vẫn không biết cư xử với người khác. Đó là lí do tại sao cậu im lặng, cứng đầu và chộp giật.
Khi bà kể điều này, lần đầu tiên thấy bà bị tổn thương. Bà đánh mất đi sự tự lập bất khả xâm phạm của mình, và Tom nhìn thấy bà bối rối, hầu như thất vọng. Vì Jack, bà cần tham dự vào xã hội, nhưng bằng cách nào? Giả sử bà là đàn ông, bà có thể thuyết phục vài lãnh chúa để xin thuê một nông trại, nhất là khi bà nói dối là bà trở về từ một chuyến hành hương đến Giêrusalem hay Santiago de Compostela. Có một vài nông dân phụ nữ, nhưng họ là các góa phụ sống với con trai lớn của họ. Không có lãnh chúa nào cung cấp trang trại cho một phụ nữ với con nhỏ. Không người nào muốn thuê bà làm việc cho họ trong thành phố cũng như nơi miền quê; bên cạnh đó bà không có nơi ở, và công nhân không chuyên nghiệp thường không được cho chỗ ăn nghỉ. Bà không có căn tính.
Tom thông cảm bà. Bà đã cho con bà mọi thứ bà có thể cho, nhưng nó vẫn chưa đủ. Nhưng ông không biết cách nào để bà thoát khỏi nghịch cảnh này. Mặc dù bà xinh đẹp, tháo vát và mạnh mẽ, nhưng bà đã bị kết án phải trải qua suốt quãng đời còn lại trốn tránh trong rừng với đứa con lập dị này.
Agnes, Martha và Alfred trở về. Tom nhìn Martha lo lắng, nhưng cô ấy trông như là không có gì tồi tệ đã vừa xẩy ra cho cô, ngoài khuôn mặt mới được gột rửa. Trong một thời gian dài, Tom đã chìm đắm trong vấn đề của Ellen, nhưng bây giờ ông nhớ đến hoàn cảnh của chính mình: ông đang thất nghiệp và con heo đã bị ăn cắp. Buổi chiều lên. Ông thu thập tài sản còn lại của mình.
Ellen hỏi: "Ông định đi đâu?"
"Winchester," Tom nói với cô. Winchester có một pháo đài, một cung điện, nhiều tu viện, và quan trọng nhất trong tất cả – một ngôi nhà thờ chính tòa.
"Salisbury gần hơn," Ellen nói. "Và lần sau cùng khi tôi ở đó, họ đang xây lại ngôi nhà thờ chính tòa, mở rộng hơn xưa."
Trái tim Tom nhẩy múa. Đó là cái mà ông đang tìm kiếm. Nếu ông tìm được một công việc trong một dự án xây nhà thờ, ông tin rằng sau đó ông sẽ có thể trở thành người xây dựng chính. "Đường nào dẫn tới Salisbury?" ông há