Chương 1 (B)
III - Ngày họ mất con heo cũng là ngày cuối cùng của thời tiết êm dịu. Họ qua đêm trong một nhà kho, và khi họ ra khỏi nhà kho vào buổi sáng, bầu trời có màu của mái nhà lá, và có một cơn gió lạnh mang theo mưa. Họ lấy áo khoác dầy bằng nỉ ra khỏi bọc, mặc chúng vào, thắt chặt dưới cằm và kéo mũ ra phía trước để mưa khỏi rơi vào mặt. Họ ra đi trong một tâm trạng ảm đạm, bốn bóng ma âm thầm trong cơn mưa bão, đôi guốc gỗ của họ gõ nước tung tóe dọc theo con đường đầy nước và bùn lầy.
Tom thắc mắc không biết ngôi nhà thờ chính tòa Salisbury ra sao. Nhà thờ chính tòa là một nhà thờ, trong căn bản, giống như các nhà thờ khác: nó đơn giản là một nhà thờ, nơi vị giám mục đặt ngai tòa của ngài. Nhưng trong thực tế, nhà thờ chính tòa lớn nhất, giầu nhất, vĩ đại nhất và phức tạp nhất trong vùng. Nhà thờ chính tòa ít khi chỉ là một đường hầm với các cửa sổ. Hầu hết chúng có ba đường hầm, một cái cao ở giữa và hai cái nhỏ hơn ở hai bên cạnh, tạo thành một gian giữa với lối đi hai bên. Hai bên tường của đường hầm giữa được đơn giản đi, chỉ còn lại hai hàng cột liên kết bởi mái vòm, tạo thành một đường mái vòm. Đường đi hai bên dùng cho các cuộc rước kiệu – rất ngoạn mục trong nhà thờ chính tòa – và cũng cung cấp không gian cho các nhà nguyện nhỏ hai bên dành riêng cho các vị Thánh đặc biệt, những vị Thánh thu hút thêm tiền dâng cúng. Nhà thờ chính tòa là tòa nhà mắc nhất thế giới, còn hơn cả dinh thự và lâu đài, và chúng cũng cần tiền để bảo trì.
Salisbury gần hơn là Tom nghĩ. Vào giữa buổi sáng họ trèo lên đồi, và thấy một con đường trước mặt dẫn xuống một khúc quanh dài, rồi xuyên qua một cánh đồng, phùng lên giữa đồng bằng như một con thuyền nhô lên trên mặt hồ. Từ đó họ có thể nhìn thấy thành phố Salisbury kiên cố trên đồi. Thành phố chìm trong mưa, nhưng Tom có thể nhìn thấy nhiều tháp, bốn hoặc năm cái, cao hơn bức tường thành. Ông lên tinh thần khi thấy nhiều công trình bằng đá.
Một cơn gió lạnh thổi qua cánh đồng, làm mặt và chân tay họ buốt lạnh khi họ đi theo con đường vào cổng phía đông. Bốn con đường gặp nhau dưới chân đồi, ở giữa khu nhà được la rộng ra từ thị trấn, và nơi đây có nhiều lữ khách cùng đi với họ, bước đi với tấm lưng còng và đầu cúi xuống băng ngang thời tiết tới nơi trú ẩn sau bức tường.
Trên sườn dốc dẫn đến cổng thành, họ gặp một xe bò chở đầy đá – một dấu hiệu rất hy vọng cho Tom. Người phu xe cúi xuống sau xe bằng gỗ thô, đẩy xe bằng vai của mình, dùng sức mình phụ lực với hai con bò để đẩy chiếc xe lên dốc. Tom thấy cơ hội tốt để làm bạn. Ông ra hiệu cho Alfred, cả hai đặt vai vào sau xe và giúp đẩy xe lên.
Các bánh xe bằng gỗ to lớn đi ầm ầm qua cây cầu bằng gỗ bắt ngang một con hào khô rất lớn. Công sự đào đắp bằng đất thật là kinh khủng: phải đào đất, lấy đất đi để tạo thành bức tường thành, điều đó phải cần đến hàng trăm công nhân, Tom nghĩ, một công trình còn to lớn hơn là đào nền móng cho một nhà thờ chính tòa. Cây cầu bắc ngang con hào lúc lắc và kêu cọt kẹt dưới sức nặng của chiếc xe và hai con thú to lớn.
Độ dốc giảm đi và xe bò có thể di chuyển dễ dàng hơn khi họ đến gần cổng vào. Người phu xe đứng thẳng lên, Tom và Alfred cũng làm như vậy. "Cảm ơn lòng tốt của các ông," người phu xe nói.
Tom hỏi: "Ông chở đá làm gì vậy?"
"Cho nhà thờ chính tòa mới."
"Xây mới sao? Tôi nghe nói chỉ nới rộng thêm thôi mà?"
Người phu xe gật đầu. "Đó là những gì họ nói cách đây mười năm về trước. Nhưng bây giờ nó mới nhiều hơn cũ."
Đó là một tin tốt cho Tom. "Ai là thợ xây dựng tổng thể chính?"
"John thành Shaftesbury, mặc dù Giám mục Roger có công nhiều trong việc thiết kế."
Nó là điều bình thường. Rất ít khi giám mục để thợ xây dựng chính làm việc một mình. Một trong những vấn đề của thợ xây dựng chính là làm dịu những tưởng tượng nóng bỏng của hàng giáo sĩ và đặt ra những giới hạn thực tế cho những tưởng tượng mơ hồ của họ. Nhưng chính John thành Shaftesbury là người chịu trách nhiệm về việc thuê nhân công.
Người phu xe gật đầu khi nhìn thấy túi đồ nghề của Tom. "Thợ xây?"
"Vâng, đang đi tìm vệc."
"Ông sẽ tìm được," người phu xe nói chung chung. "Nếu không tìm được ở nhà thờ chính tòa, có lẽ cũng tìm được ở lâu đài."
"Ai chỉ đạo ở lâu đài?"
"Cũng vậy. Roger vừa là giám mục vừa là người cai quản thành trì."
Dĩ nhiên, Tom nghĩ. Ông đã nghe về quyền lực của Roger vùng Salisbury, người từ lâu đã được coi là thân cận với nhà vua.
Họ đi qua cổng vào thành. Quảng trường đầy các tòa nhà, người và thú vật, đầy đến nỗi dường như nó có nguy cơ làm nổ tung cả bức tường thành và rơi xuống các thành hào. Các nhà gỗ chen nhau vai kề vai, xô đẩy tìm chỗ như khán giả đi xem buổi tử hình. Mỗi khoảng hở trên mặt đất đều được dùng cho cái gì đó. Nơi hai ngôi nhà được xây với con hẻm ở giữa, một ai đó đã xây một nửa căn nhà trong hẻm, không có cửa sổ. Mặt tiền nhà dù có nhỏ, ngay cả đối với căn nhà nhỏ nhất, cũng tạo nên một gian hàng bán rượu bia, bánh mì hoặc táo; và ngay cả chỗ đó có nhỏ bé, nó cũng có chuồng ngựa, chuồng heo, một đống phân hay một thùng nước.
Thị trấn rất ồn ào. Mưa cũng không làm bớt đi tiếng ồn ào của thợ thủ công, tiếng rao của người bán hàng rong, tiếng mọi người chào hỏi nhau, thương lượng và cãi vã, tiếng thú vật hí, sủa và đánh nhau.
Cất giọng to hơn tiếng ồn ào, Martha hỏi: "Mùi gì hôi thế?"
Tom mỉm cười. Một vài năm nay cô không ở trong thị trấn. "Đó là mùi của con người," ông nói với cô.
Đường phố chỉ rộng hơn chiếc xe bò một chút, nhưng người phu xe không để con thú của mình dừng lại, sợ rằng chúng không bắt đầu lại được; vì thế ông đánh cho chúng vượt qua mọi trở ngại. Hai con thú âm thầm chen qua đám đông, không phân biệt một ai, chúng xô đẩy một hiệp sĩ trên lưng con ngựa chiến, một cán bộ kiểm lâm với cây cung, một tu sĩ mập trên lưng con ngựa nhỏ, cũng như xô đẩy các binh lính, người ăn mày, bà nội trợ và gái điếm.
Chiếc xe bò đi sau một người chăn cừu già. Ông đang cố gắng giữ đàn cừu nhỏ của ông đi chung với nhau. Hôm nay là ngày chợ, Tom nhận ra. Khi xe bò đi ngang qua, một con cừu lao vào qua cánh cửa mở rộng của một quán bia, và trong một khoảnh khắc toàn bộ đàn cừu đã ở trong nhà, kêu be be, làm hoảng loạn và xô đẩy bàn ghế, làm đổ cả thùng bia.
Mặt đất dưới chân là một biển bùn và rác. Tom để ý đến trường hợp nước mưa rơi trên mái nhà, và chiều rộng cần thiết của chiếc rãnh cho nước mưa trôi đi; và ông cũng nhận thấy tất cả nước mưa rơi trên mái của nửa thị trấn chảy qua con đường này. Trong một cơn bão xấu, ông nghĩ, có lẽ bạn cần một chiếc thuyền để qua đường.
Khi họ đến lâu đài trên đỉnh đồi, đường phố rộng rãi hơn. Ở đây có những căn nhà đá, một hoặc hai căn cần phải sửa chữa lại. Chúng thuộc sở hữu của thợ thủ công và thương gia, những người có cửa hàng và tiệm ở tầng dưới và sống ở tầng trên. Với đôi mắt thực tế, Tom nhìn vào những đồ bày bán và có thể nói rằng đây là một thị trấn thịnh vượng. Tất cả mọi người cần phải có dao và nồi, nhưng chỉ người giầu có mới mua khăn choàng thêu, dây thắt lưng được trang trí và vòng bạc.
Ở phía trước lâu đài, người phu xe cho các con bò quẹo phải, Tom và gia đình đi theo sau. Con đường dẫn quanh một phần tư vòng tròn, dọc theo chân thành lũy lâu đài. Đi qua một cửa khác, họ rời bỏ sự náo nhiệt của thị trấn nhanh như khi họ đi vào, và họ bước vào một vùng xoáy khác: sự bận rộn nhưng có trật tự của một công trường xây dựng lớn.
Họ ở phía trong khu đất có tường bao quanh của nhà thờ chính tòa, ngôi nhà thờ chiếm toàn bộ khu tây bắc của thị trấn hình tròn. Tom đứng một lúc lâu để cảm nhận nó. Chỉ cần nhìn, nghe và ngửi nó cũng đã tạo cho ông một sự rộn ràng giống như một ngày nắng ấm. Khi xe chở đá đến, hai xe trống khác đi ra. Trong mái che của nhà kho dọc theo tường nhà thờ có thể nhìn thấy những thợ xây đang đẽo các khối đá bằng đục sắt và búa lớn bằng gỗ để tạo nên các hình dạng có thể được ghép vào với nhau, làm nên chân cột, hàng cột, trụ tường, vòm, cửa sổ, ngưỡng cửa, tháp nhọn và lan can. Ở giữa khu đất, tách rời khỏi các công trình xây dựng khác, ngọn lửa đang cháy có thể nhìn thấy được xuyên qua các khung cửa mở; người thợ rèn đang làm những công cụ mới và tiếng kêu của búa đập trên đe vang dội khắp khu vực. Đối với nhiều người, đó là một cảnh hỗn loạn, nhưng Tom nhìn thấy đây là một cơ chế lớn và phức tạp mà ông muốn điều hành. Ông biết mỗi người đang làm gì và ông có thể nhìn thấy ngay công việc đã tiến triển tới đâu: Họ đang xây mặt tiền phía đông.
Giàn giáo ngang qua phía cuối hướng đông, ở độ cao hai mươi lăm hay ba mươi mét, đang hoạt động. Các thợ xây ở cổng vòm đang chờ cho cơn mưa nhẹ dần, nhưng những nhân công vẫn vác đá trên vai chạy lên chạy xuống trên thang. Cao hơn, trên khung mái, thợ ống nước trông giống như những con nhện leo trên mạng bằng gỗ, đóng đinh các phên sắt và lắp đặt các ống dẫn nước và máng xối.
Tom nhận ra rằng việc xây dựng sắp hoàn tất. Nếu ông được thuê làm việc ở đây, công việc sẽ không kéo dài hơn vài năm nữa – không đủ thời gian để ông có thể lên đến vị trí một thợ cả, chưa nói gì đến thợ xây dựng chính. Tuy nhiên, nếu được nhận vào làm, ông sẽ nhận lời, bởi vì mùa đông đang đến. Nếu còn con heo, ông và gia đình có thể sống qua mùa đông không việc làm, nhưng bây giờ không còn con heo, Tom phải tìm việc.
Họ đi theo chiếc xe bò ngang qua công trường đến nơi các tảng đá được xếp đống. Với thái độ biết ơn, con bò cúi đầu vào máng nước. Người phu xe hỏi lớn một thợ xây đi ngang qua: "Thợ xây dựng chính ở đâu?"
"Trong lâu đài," thợ xây trả lời.
Người phu xe gật đầu và quay lại phía Tom. "Ông sẽ tìm thấy ông ấy trong lâu đài của giám mục, tôi mong điều đó."
"Cảm ơn!"
"Tôi cũng cảm ơn ông."
Tom rời công trường, Agnes và các con cũng đi theo. Họ trở lại con đường chen chúc, chật chội đến trước lâu đài. Đây có một hào khô khác và một thành lũy thứ hai bằng đất bao quanh trung tâm đồn lũy. Họ đi qua cây cầu kéo. Trong một chòi canh bên cạnh cổng ra vào, một ông mập mặc áo dài bằng da ngồi trên ghế, nhìn ra trời mưa bên ngoài. Ông mang một thanh kiếm. Tom nói với ông. "Chào ông, Tôi là thợ xây Tom. Tôi muốn gặp thợ xây dựng chính John thành Shaftesbury."
"Ở chỗ giám mục," viên bảo vệ đáp hờ hững.
Họ đi vào bên trong. Giống như các lâu đài khác, đây là một tổng hợp của nhiều tòa nhà linh tinh trong một bức tường đất. Chiều rộng của sân khoảng chừng một trăm dặm. Đối diện với cổng, ở phía xa, là một pháo đài lớn để trú ẩn khi bị tấn công và cao hơn thành lũy để có thể quan sát xung quanh. Bên trái gồm các tòa nhà thấp lộn xộn, đa số bằng gỗ: một chuồng thú vật dài, một nhà bếp, một lò bánh mì và nhiều nhà kho. Ở giữa sân có một giếng nước. Về phía bên phải, chiếm nguyên phía nửa bắc của toàn bộ công trình là một nhà đá to, dễ nhận ra đó là một cung điện. Nó được xây dựng giống như kiểu của ngôi nhà thờ mới, với cửa lớn và cửa sổ có đầu tròn.
Ngôi nhà có hai tầng và còn mới. Trong một góc, thợ xây vẫn đang làm việc, dường như đang xây một cây tháp. Mặc dù trời mưa, có rất nhiều người ở trong sân, đến rồi đi, hay đội mưa đi vội vã từ tòa nhà này sang tòa nhà khác: kỵ binh, linh mục, thương gia, thợ xây dựng và nhân viên phục vụ lâu đài.
Tom có thể nhìn thấy lâu đài có nhiều cửa ra vào, tất cả đều mở, mặc dù trời mưa. Ông không biết chắc phải làm gì bây giờ. Nếu thợ xây dựng chính là giám mục, có lẽ ông không nên quấy rầy ngài. Về khía cạnh khác, một giám mục không phải là một ông vua; và Tom là một người tự do và là một thợ xây kinh doanh hợp pháp, không phải là một nông nô với đơn khiếu nại. Ông quyết định liều lĩnh. Để Agnes và Martha ở lại, ông đi với Alfred xuyên qua khu sân lầy lội tới lâu đài và đi qua cánh cửa gần nhất.
Họ đến một nhà nguyện nhỏ có một mái vòm tròn và một cửa sổ ở xa cuối nhà nguyện, bên trên bàn thờ. Gần cửa ra vào, một linh mục ngồi ở bàn cao, viết nhanh trên da. Ông nhìn lên.
Tom nói rất nhanh: "Thợ xây dựng chính John ở đâu?"
"Trong phòng mặc áo lễ," vị linh mục nói, hất đầu về một cánh cửa bên tường đối diện.
Tom không yêu cầu xin gặp thợ xây dựng chính. Ông biết rằng nếu ông làm như thể ông được mời đến thì ông sẽ bớt được thời gian chờ đợi rườm rà. Ông đi qua nhà nguyện nhỏ và bước vào phòng mặc áo lễ.
Đó là một phòng vuông nhỏ được thắp sáng bởi nhiều ngọn nến. Căn phòng hầu như được đổ đầy cát. Cát mịn đã được gạt phẳng hoàn hảo theo quy tắc. Có hai người trong phòng. Hai người liếc nhìn Tom, rồi lại chú ý vào cát. Vị giám mục, một người già với đôi mắt nhăn nheo, đang vẽ trên cát bằng một cây gậy nhọn. Người thợ xây dựng chính, mặc chiếc tạp dề da, quan sát Tom một cách kiên nhẫn và với một cảm xúc nghi ngờ.
Tom chờ đợi trong lo lắng. Ông phải tạo ấn tượng tốt: lịch sự mà không hạ mình, tỏ ra hiểu biết mà không khoe trương. Một thợ xây dựng chính muốn người thuộc hạ của mình vâng lời cũng như khéo léo, Tom biết điều đó từ kinh nghiệm của những năm thuê người.
Giám mục đang phác họa một tòa nhà hai tầng với cửa sổ rộng ở cả ba phía. Ông là một người vẽ dự án giỏi, ông vẽ các đường rất thẳng và các góc chính xác. Ông vẽ một dự án mặt bằng và một dự án trực diện. Nhưng Tom nhận ra ngay là ngôi nhà này sẽ không thể xây được.
Đức giám mục chấm dứt và nói: "Đây."
John quay lại Tom và nói: "Chuyện gì vậy?"
Tom giả vờ như là ông được hỏi ý kiến về bản vẽ. Ông nói: "Ông không thể có những cửa sổ lớn như thế trong nhà có mái vòm."
Đức giám mục nhìn ông giận dữ. "Đó là một phòng viết, không phải tầng có mái vòm."
"Nó cũng sẽ đổ."
John nói: "Ông ta có lý."
"Nhưng họ cần ánh sáng để viết."
John nhún vai và quay lại Tom. "Ông là ai?"
"Tôi tên là Tom và tôi là một thợ xây."
"Tôi cũng đã đoán như thế. Ông đến đây làm gì?"
"Tôi đi tìm việc," Tom nín thở.
John lắc đầu ngay. "Tôi không thể thuê ông."
Trái tim Tom thất vọng. Ông muốn quay gót, nhưng ông chờ đợi một cách lịch sự để biết lý do.
"Chúng tôi đã xây dựng mười năm nay," John tiếp. "Hầu hết các thợ có nhà trong phố. Chúng tôi sắp hoàn tất, và bây giờ tôi có nhiều thợ xây hơn là tôi thực sự cần đến."
Tom biết không còn hy vọng gì, nhưng ông nói: "Thế thì với lâu đài thì sao?"
"Cũng như vậy," John nói. Đó là nơi tôi sử dụng nhân công dư thừa của tôi. Nếu không phải vì điều này và vì các lâu đài khác của giám mục Roger, tôi đã sa thải các thợ xây lâu rồi."
Ton gật đầu. Bằng một giọng bình thường, cố gắng không để lộ âm thanh thất vọng, ông nói: "Ông có biết về công việc ở các nơi khác không?"
"Một tu viện ở Shaftesbury đang được xây dựng từ đầu năm. Có lẽ họ vẫn đang làm. Nó ở cách đây một ngày đàng."
"Cảm ơn." Tom quay đi.
"Tôi rất tiếc," John gọi với theo. "Dường như ông là người tốt."
Tom ra đi, không trả lời lại. Ông cảm thấy chán nản. Ông đã cho phép mình hy vọng quá sớm: không có gì đáng ngạc nhiên khi bị từ chối. Nhưng ông đã bị phấn kích về viễn tượng có thể lại được xây nhà thờ chính tòa. Bây giờ ông phải chấp nhận làm việc trên một bức tường thành đơn điệu, hoặc một ngôi nhà xấu xí của một thợ bạc.
Ông vươn vai và đi ngược lại sân lâu đài, nơi Agnes và Martha đang đợi. Ông không tỏ cho bà biết sự thất vọng của mình. Ông luôn cố gắng tạo ra ấn tượng rằng mọi chuyện đều tốt đẹp, rằng ông đang làm chủ tình hình, và nó không quá quan trọng vì nếu không tìm được việc làm ở đây, chắc chắn cũng sẽ tìm được một công việc trong thị trấn sau hoặc sau nữa. Ông biết nếu ông tỏ ra bất cứ dấu hiệu chán nản nào, Agnes sẽ hối thúc ông tìm một nơi định cư, và ông không muốn điều đó, trừ khi ông tìm được một thị trấn, nơi một nhà thờ chính tòa sẽ được xây dựng.
"Anh không tìm được việc gì ở đây," ông nói với Agnes. "Chúng ta hãy lên đường."
Bà nhìn ông bỡ ngỡ. "Anh đã nghĩ rằng, một ngôi nhà thờ và một lâu đài đang xây dựng sẽ có chỗ cho một người thợ xây đó sao?"
"Cả hai hầu như sắp hoàn thành," Tom giải thích. "Họ có nhiều công nhân hơn họ cần."
Toàn bộ gia đình vượt qua cây cầu và vào lại con đường đông đúc của thị trấn. Họ đã vào Salisbury qua cửa phía đông, và sẽ ra theo cửa phía tây, bởi vì con đường đó dẫn tới Shaftesbury. Tom rẽ phải, vào con đường dẫn qua một khu phố mà họ đã chẳng nhìn thấy trước đó.
Ông dừng lại trước một căn nhà đá trông như đang cần đến sự sửa chữa. Vữa dùng để xây dựng ngôi nhà này quá xấu, nên bây giờ nó đã hư hại và rơi ra, tuyết giá bám vào trong các lỗ và làm nứt các viên đá. Nếu nó không được sửa chữa trước mùa đông, sự thiệt hại sẽ lớn hơn. Tom quyết định tìm ra người chủ ngôi nhà.
Lối vào tầng trệt là một mái vòng cung rộng. Cánh cửa bằng gỗ mở rộng, và giữa khung cửa là một nghệ nhân đang ngồi với một cái búa trong tay phải và một cái dùi trong tai trái. Ông đang khắc một thiết kế phức tạp trên yên ngựa bằng gỗ. Phía sau ông, Tom có thể nhìn thấy cửa tiệm gỗ và da, và một cậu bé với một cây chổi đang quét vỏ bào.
Tom nói: "Chào ông."
Người thợ làm yên ngựa ngước lên, xem Tom thuộc tầng lớp nào nếu ông ấy cần đến một yên ngựa, và gật đầu cộc lốc.
"Tôi là một thợ xây cả," Tom tiếp tục. "Tôi thấy ông cần đến dịch vụ của tôi."
"Tại sao?"
"Vữa đang rơi ra, những viên đá đang bị nứt rạn và nhà ông chắc không tồn tại sau mùa đông này."
Người thợ đóng yên ngựa lắc đầu. "Thị trấn này có nhiều thợ xây. Tại sao tôi phải thuê một người lạ?"
"Rất tốt." Tom quay đi. "Mong Thiên Chúa ở với ông."
"Tôi cũng hy vọng như thế," thợ làm yên ngựa nói.
"Một đồng nghiệp thô lỗ," Agnes thì thầm khi họ đi ra.
Con đường dẫn họ đến một khu chợ. Ở đây, trong khu bùn lầy này, nông dân từ các vùng nông thôn trao đổi những cái ít ỏi dư thừa của họ như thịt, ngũ cốc, sữa hay trứng, để lấy những thứ họ cần và không tự làm được như chậu, lưỡi cày, dây thừng và muối. Thông thường khu chợ đầy màu sắc và náo nhiệt. Có tiếng mặc cả, cãi nhau và vui đùa. Có bánh kẹo rẻ tiền cho trẻ em, một đôi khi có nhóm hát rong hay nhào lộn. Nhiều khi người ta gặp những cô gái điếm, những thương binh với những câu chuyện về sa mạc miền đông và nhóm người du mục Saracen. Những người có công việc kinh doanh tốt thường khó kìm hãm được sự cám dỗ để ăn mừng, để mua bia rượu, vì thế luôn luôn có một bầu khí ồn ào vào giữa trưa. Những người khác mất những đồng xu vào cờ bạc, và điều đó thường dẫn đến việc đánh nhau. Nhưng bây giờ, vào một buổi sáng mưa gió, sau mùa gặt, khi các sản phẩm đã được bán hoặc được cất vào kho, ngôi chợ trở nên vắng vẻ. Những nông dân ướt đẫm nước mưa buôn bán một cách lặng lẽ với chủ gian hàng, và mỗi người mong sớm về lại ngôi nhà của mình bên ánh lửa hồng.
Gia đình Tom chen qua đám đông chán nản, làm ngơ trước lời chào hàng của người bán xúc xích và mài dao. Khi họ gần đến phía xa bên kia khu chợ, Tom thấy con heo của ông.
Ông quá ngạc nhiên đến nỗi lúc đầu ông không tin vào mắt mình. Sau đó Agnes rít lên: "Tom, hãy nhìn kìa!" và ông biết bà cũng đã thấy nó.
Không còn nghi ngờ gì. Ông biết rõ con heo, như ông biết rõ Alfred và Martha. Con heo được giữ chặt bởi một người đàn ông có nước da hồng hào, có kích thước của một người ăn nhiều thịt và còn hơn nữa: chắc ông là người bán thịt. Cả Tom và Agnes đứng nhìn chằm chằm vào ông ta, và bởi vì họ ngăn trở đường đi nên ông ấy chú ý đến họ.
"Tốt chứ?" ông ấy nói, bối rối vì ánh mắt của họ và ông nóng lòng muốn đi.
Chính Martha là người phá sự yên lặng. "Đó là con heo của chúng tôi!" cô hào hứng nói.
"Đúng vậy," Tom nói và bình thản nhìn vào người bán thịt.
Qua cái nhìn lén, Tom nhận ra rằng ông ấy biết con heo này là con heo ăn cắp. Nhưng ông ta nói: "Tôi vừa mua nó năm mươi xu, và đó là con heo của tôi."
"Dù ông mua của bất cứ ai, con heo này không phải là của người ấy và họ không có quyền bán. Không ngạc nhiên gì khi ông mua nó quá rẻ. Ông đã mua nó của ai?"
"Của một nông dân."
"Một người mà ông biết?"
"Không. Hãy nghe đây, tôi là người bán thịt cho các đơn vị đồn trú. Tôi không thể đòi hỏi những người đến bán cho tôi một con heo hoặc một con bò là họ phải tìm được mười hai người làm chứng và thề rằng con vật này là của họ."
Người đàn ông bước sang bên và muốn bỏ đi, nhưng Tom đã túm lấy tay ông và ngăn ông lại. Ông ấy giận dữ, nhưng sau đó ông ấy nhận ra rằng nếu ông ấy tham dự vào một cuộc ẩu đả, ông ấy sẽ phải buông con heo ra, và nếu một người trong gia đình Tom bắt được, khi đó cán cân sẽ thay đổi và chính người bán thịt phải chứng minh quyền sở hữu của ông. Vì thế, ông ấy hạ mình và nói: "Nếu ông muốn buộc tội tôi, ông hãy đi trình cảnh sát."
Tom cân nhắc điều đó nhanh chóng và bác bỏ nó. Ông không có bằng chứng. Thay vào đó, ông hỏi: "Người bán con heo cho ông trông như thế nào?"
Người bán thịt nhìn một cách quỷ quyệt và nói: "Giống như mọi người khác."
"Ông ta có che miệng không?"
"Bây giờ tôi mới để ý, ông ta có che miệng."
"Hắn là một tội phạm và hắn che giấu một vết cắt," Tom nói một cách chua chát. "Tôi cho rằng ông đã không chú ý đến điều đó."
"Ai cũng ướt đẫm nước mưa!" Người bán thịt biện hộ. "Mọi người đều bịt mặt."
"Hãy nói cho tôi biết, hắn đã đi được bao lâu rồi?"
"Vừa xong."
"Hắn đi đâu?"
"Tới tiệm bia, tôi đoán như vậy."
"Để tiêu hết số tiền của tôi," Tom nói một cách kinh tởm. "Đi đi, đi cho khuất mắt. Một ngày nào đó chính ông cũng sẽ bị ăn cắp, và ông sẽ ước muốn rằng không có nhiều người vì tham lam mà trước khi mua không hỏi xem nó xuất xứ từ đâu."
Người bán thịt nhìn giận dữ, và ngập ngừng như muốn đáp trả, nhưng sau đó ông nghĩ lại và ra đi.
Agnes hỏi: "Sao anh lại để cho hắn đi?"
"Bởi vì ông ấy được nhiều người ở đây biết đến, còn anh thì không," Tom nói. "Nếu anh đánh ông ấy, anh sẽ bị đổ tội. Và bởi vì tên anh không được viết trên mông con heo, nên không ai có thể nói nó là của anh hay không."
"Nhưng đó là tất cả những gì chúng ta tiết kiệm được."
"Chúng ta có thể lấy lại tiền bán heo, dĩ nhiên," Tom nói. "Hãy im đi để anh suy nghĩ." Cuộc cãi vã với người bán thịt đã làm cho ông bực bội, vì thế ông đã nói một cách cay nghiệt với Agnes. "Ở một nơi nào đó trong thành phố có một người không có môi và có năm mươi xu trong túi. Tất cả những gì chúng ta cần làm là tìm ra hắn và lấy lại tiền từ hắn."
"Đúng," Agnes nói một cách quyết liệt.
"Em đi ngược lại con đường chúng ta đã đi. Đi đến gần nhà thờ. Anh sẽ đi tiếp tục và đến nhà thờ bằng hướng khác. Rồi chúng ta trở lại bằng con đường kế tiếp, và cứ tiếp tục như thế. Nếu hắn không có trên đường, hắn phải ở trong một quán bia nào đó. Nếu em gặp hắn, em hãy ở lại và nói Martha đi tìm anh. Anh mang Alfred theo. Đừng để cho tên tội phạm thấy em."
"Đừng lo," Agnes nói dứt khoát. "Em cần tiền đó để nuôi con."
Tom sờ vào tay bà và mỉm cười. "Em là một con sư tử, Agnes à."
Bà nhìn vào mắt ông một lúc, rồi bất thình lình bà đứng trên đầu ngón chân và hôn lên môi ông, một nụ hôn ngắn nhưng mãnh liệt. Sau đó bà quay lại, cùng với Martha đi ngược lại khu chợ. Tom nhìn cho đến khi bà khuất khỏi tầm mắt, ông cảm thấy lo âu cho bà, mặc dù biết bà rất can đảm; rồi ông cùng với Alfred đi về hướng ngược lại.
Kẻ trộm có vẻ như cảm thấy an toàn. Khi hắn ăn trộm con heo, Tom đang đi theo hướng Manchester, nên hắn đã đi hướng ngược lại để bán con heo ở Salisbury. Vì người phụ nữ sống ngoài vòng pháp luật, Ellen, nói với Tom rằng một ngôi nhà thờ đang được sửa sang ở Salisbury, nên ông đã thay đổi dự định và vô tình bắt kịp kẻ trộm ở đây. Tuy nhiên, kẻ trộm nghĩ hắn sẽ chẳng gặp Tom nữa, và điều này cho Tom một cơ hội để bắt hắn bất ngờ.
Tom đi chậm dọc theo con đường lầy lội, liếc vào các cửa mở như tình cờ. Ông không muốn bị để ý, bởi vì sự tìm kiếm này có thể kết thúc bằng bạo lực và ông không muốn mọi người nhớ đến một người thợ xây cao lớn đang dò xét thị trấn. Hầu hết ngôi nhà là những túp lều bình thường bằng gỗ, vách đất và mái lá, có rơm trên nền nhà, một lò sưởi ở giữa và một vài đồ nội thất tự chế. Một thùng rượu và vài chiếc ghế băng tạo nên một quán bia; một chiếc giường ở góc với một tấm màn che mang dấu hiệu có gái điếm; một đám đông ồn ào quanh một chiếc bàn là biểu hiện của trò chơi đỏ đen.
Một người đàn bà sơn môi đỏ vạch ngực của bà trước mặt ông, ông lắc đầu và vội vàng đi qua. Ông đã bị cám dỗ một cách thầm kín bởi ý tưởng muốn làm chuyện đó với một người đàn bà hoàn toàn xa lạ, trong ánh sáng ban ngày, và trả tiền cho họ, nhưng trong suốt cuộc đời ông chưa bao giờ thử nó.
Ông nghĩ đến Ellen, người đàn bà sống bên ngoài pháp luật. Cô có một cái gì đó hấp dẫn. Cô có sức quyến rũ mạnh mẽ, nhưng đôi mắt sâu thẳm của cô đáng sợ. Lời mời của cô gái điếm làm Tom cảm thấy bất mãn một lúc, nhưng sự thu hút của Ellen đã chẳng hao mòn đi, và thình lình ông có một ước muốn ngu dốt là chạy trở lại vào rừng tìm cô và rơi vào lòng cô.
Ông đến gần nhà thờ mà không thấy kẻ trộm. Ông nhìn người thợ làm ống nước đang đóng đinh tấm chì trên mái nhà gỗ phía trên gian giữa nhà thờ. Họ chưa bắt đầu lợp mái nhà hai gian bên cạnh, nên vẫn có thể nhìn thấy nửa vòng cung hỗ trợ, nối kết thành ngoài của gian bên cạnh với tường chính của gian giữa, nâng đỡ đỉnh nhà thờ. Ông chỉ cho Alfred. "Không có sự hỗ trợ này, bức tường chính sẽ cong và oằn ra, vì trọng lượng của các vòm đá bên trong," ông cắt nghĩa. "Hãy nhìn xem nửa vòng cung thẳng hàng với các trụ trong bức tường của gian bên. Chúng cũng thẳng hàng với các trụ cột của mái vòm trong gian giữa. Và các cửa sổ của hai gian bên cạnh thẳng hàng với mái vòm của gian giữa. Đường mạnh với đường mạnh và đường yếu với yếu." Alfred nhìn bối rối và bực bội. Tom thở dài.
"Tom nhìn thấy Agnes đi lại từ phía đối diện, và đầu óc ông trở về với vấn đề trước mắt. Mũ che phủ mặt của bà, nhưng ông nhận ra cằm bà chĩa ra phía trước, bước chân vững vàng. Người công nhân vai rộng bước sang một bên, nhường chỗ cho bà đi qua. Nếu bà có một cuộc chiến với kẻ trộm, ông nghĩ một cách chắc chắn, nó sẽ là một cuộc chiến cân bằng.
"Anh có thấy hắn không?" bà hỏi.
"Không, và một cách hiển nhiên là em cũng không." Tom hy vọng kẻ trộm chưa ra khỏi thị trấn. Chắc chắn hắn sẽ chưa đi khi hắn chưa tiêu đồng xu nào. Tiền không thể dùng trong rừng.
Agnes cũng nghĩ như vậy. "Hắn ở một chỗ nào đó quanh đây. Hãy tiếp tục tìm kiếm."
"Chúng ta đi ngược lại bằng hai con đường khác nhau và gặp nhau ở khu chợ."
Tom và Alfred đi lại bước đường qua công trường xây dựng và ra khỏi cửa thành. Mưa thấm qua áo khoác của họ, và Tom vụng trộm nghĩ đến ly bia và một bát canh thịt bò bên cạnh bếp lửa của một quán bia. Rồi ông nghĩ đến ông đã phải vất vả thế nào để mua được con heo, và hồi tưởng lại người đàn ông không môi đã đập thanh gỗ không thương tiếc vào đầu Martha như thế nào, và sự tức giận làm ông nóng người.
Không dễ gì mà có thể tìm kiếm một cách hệ thống, vì các đường xá không trật tự. Họ lang thang đây đó, theo các dãy nhà, và có nhiều khúc quanh gấp cũng như những ngõ cụt. Chỉ có một con đường thẳng dẫn từ cổng phía đông đến chiếc cầu của lâu đài. Lần trước ông đã đi bên cạnh thành lũy của lâu đài. Lần này ông tìm kiếm ở vùng ngoại ô, đi luồn lách tới tường thành và trở lại vào trong. Đây là khu dân cư nghèo, với các căn nhà xiêu vẹo, những quán bia ồn ào và khu đĩ điếm lâu đời nhất. Từ trung tâm đổ dốc xuống vùng biên của thành phố, vì thế rác rưởi của khu phố nhà giầu trôi xuống các đường phố và đọng lại bên thành lũy. Một cái gì đó cũng tương tự đối với con người, vì khu này tập trung nhiều hơn những người tàn tật và ăn xin, trẻ em và phụ nữ nghèo đói và người say rượu.
Nhưng người đàn ông không môi vẫn biệt tăm.
Hai lần Tom phát hiện ra một người có hình dáng và kích thước giống hắn, ông đã cố nhìn kỹ hơn nhưng chỉ thấy khuôn mặt xa lạ.
Ông chấm dứt cuộc tìm kiếm ở khu chợ, và nơi đó Agnes đang sốt ruột chờ ông, bà căng thẳng và đôi mắt bà rạng rỡ. "Em đã tìm thấy hắn!" bà rít lên.
Tom cảm thấy hồi hộp và lo âu. "Ở đâu?"
"Hắn vào trong một tiệm ăn ở cổng phía đông."
"Hãy đưa anh đến đó."
Họ đi vòng quanh tòa lâu đài đến chiếc cầu, đi xuống con đường thẳng đến cổng phía đông, rồi quẹo vào trong một mê lộ của những con hẻm dưới những bức tường. Một lúc sau Tom nhìn thấy tiệm ăn. Nó không là một căn nhà mà chỉ là một mái dốc trên bốn cây cột dựa lên tường thành; một ngọn lửa khổng lồ ở phía sau đang quay một con cừu trên một cái xiên, bên cạnh đó là một cái vạc đang sôi. Trời vào khoảng giữa trưa, và nơi nhỏ bé đó đầy người, hầu hết là đàn ông. Mùi thơm của thịt làm bao tử Tom cồn cào. Ông đưa mắt lục soát đám đông, sợ rằng kẻ trộm đã biến mất trong thời gian ông đi đến đây. Ông phát hiện ra hắn ngay lập tức, ngồi trên chiếc ghế xa đám đông, ăn một bát hầm bằng một chiếc muỗng, cầm chiếc khăn trước mặt để che miệng.
Tom quay ngay lại để hắn không thể nhìn thấy ông. Bây giờ ông phải quyết định xử lý hắn như thế nào. Ông đủ giận để đánh kẻ trộm ngã xuống và lấy ví tiền của hắn. Nhưng đám đông sẽ không để ông đi. Ông sẽ phải biện minh, không những với đám đông mà còn với cảnh sát. Tom có quyền và rõ ràng ông là một người đứng đắn và là một thợ xây; trong khi kẻ trộm là một người sống ngoài vòng pháp luật, nghĩa là hắn không có ai xác minh cho sự trung thực của hắn. Nhưng sự xác minh cho tất cả các việc đó sẽ mất thời gian, có thể hàng tuần nếu cảnh sát phải công tác xa ở vùng quê nào đó; và nếu một cuộc ẩu đả xẩy ra có thể sẽ bị buộc tội vì phá vỡ sự hòa bình của nhà vua.
Không. Tốt hơn nên giải quyết tên trộm một cách riêng rẽ.
Hắn không thể ở lại đêm trong thị trấn, vì hắn không có nhà ở đây, và hắn không thể tìm được chỗ tạm trú khi hắn không chứng minh được hắn là một người đứng đắn. Vì thế hắn phải ra đi trước khi các cổng thành đóng khi đêm xuống.
Và chỉ có hai cổng.
"Có lẽ hắn sẽ trở ra bằng con đường hắn đến." Tom nói với Agnes. "Anh sẽ đợi bên ngoài cổng phía đông. Hãy để Alfred canh chừng cửa phía tây. Em ở lại trong thị trấn xem kẻ trộm làm gì. Giữ Martha bên cạnh em, nhưng đừng cho hắn thấy. Nếu em muốn gửi một thông điệp cho anh hoặc Alfred, hãy nhờ Martha."
"Vâng," Agnes nói ngắn gọn.
Alfred nói: "Con nên làm gì nếu hắn đi ra phía con?" Cậu có vẻ hí hửng.
"Không làm gì cả," Tom nói chắc nịch. "Quan sát xem hắn đi theo con đường nào, rồi đợi. Martha sẽ đón bố, và chúng ta sẽ cùng nhau đuổi theo hắn." Alfred nhìn thất vọng, và Tom nói: "Con hãy làm như bố nói. Bố không muốn mất con như mất con heo."
Alfred gật đầu miễn cưỡng.
"Chúng ta lên đường, trước khi hắn nhận ra chúng ta tụ tập lại và âm mưu với nhau. Hãy đi."
Tom rời họ ngay, không quay mặt lại. Ông có thể tin Agnes sẽ thực hiện theo kế hoạch. Ông vội vã đến cửa phía đông và rời thị trấn, qua cây cầu gỗ ọp ẹp mà ông đã đẩy chiếc xe bò qua sáng hôm nay. Thẳng trước mặt ông là con đường đến Winchester, về hướng đông, con đường thẳng tắp, giống như một tấm thảm dài trải qua các ngọn đồi và thung lũng. Về phía trái, con đường mà Tom – có lẽ kẻ trộm cũng vậy – đã đến Salisbury, con đường Roma, uốn quanh trên một ngọn đồi rồi biến mất. Kẻ trộm chắc chắn sẽ đi con đường này.
Tom đi xuống đồi, xuyên qua các cụm nhà ở ngã tư, rồi quẹo vào đường Roma. Ông cần phải ẩn trốn. Ông bước đi theo con đường, tìm kiếm chỗ thích hợp. Ông đi hai trăm dặm mà không tìm được chỗ nào ẩn trốn. Nhìn lại, ông nhận ra là đã đi quá xa: ông không còn nhận ra khuôn mặt của những người ở ngã tư đường, vì thế ông không thể biết người đàn ông không môi có đi theo con đường đến Winchester không. Ông quan sát phong cảnh lần nữa. Con đường có mương hai bên, có thể là chỗ lẩn trốn trong mùa khô, nhưng hôm nay đầy nước. Bên ngoài dẫy mương, đất nhô lên như một cái bướu. Trong cánh đồng phía nam của con đường, một vài con bò đang gặm cỏ. Tom chú ý đến một con bò nằm ở bên cạnh mô đất cao của cánh đồng, một phần con bò bị che đậy bởi mô đất. Với một tiếng thở dài, ông quay gót trở lại. Ông nhẩy qua mương và đá vào con bò. Nó đứng lên và đi khỏi. Tom nằm xuống chỗ đất ấm và khô ráo mà con bò để lại. Ông kéo chiếc mũ che mặt và chờ đợi. Ông tiếc rẻ nếu ông biết lo xa, ông đã mua vài miếng bánh trước khi rời thị trấn.
Ông lo lắng pha lẫn chút sợ hãi. Kẻ phạm pháp là một người nhỏ con, nhưng hắn di chuyển nhanh và ác độc như ông đã nhìn thấy khi hắn đánh Martha và ăn cắp con heo. Tom sợ hãi một chút về việc có thể bị thương, nhưng ông lo lắng hơn vì có thể sẽ không lấy lại được tiền.
Ông mong Agnes và Martha được an toàn. Agnes có thể tự lo được cho bà, ông biết như vậy; và ngay cả khi tên trộm phát hiện ra bà, hắn có thể làm được gì bà? Hắn sẽ cảnh giác hơn, thế thôi.
Từ chỗ nằm, Tom có thể nhìn thấy tháp nhà thờ. Ông ước gì đã có thể nhìn được vào phía trong. Ông rất tò mò về cách giải quyết những cột trụ của mái vòm. Những cột trụ này thường rất to, các mái vòm bắt đầu từ đỉnh của nó: hai vòm đi về hướng bắc và nam, nối với các cột trụ bên cạnh trong mái vòm; và một đi về hướng đông hoặc tây, qua gian bên cạnh. Nó trông không đẹp, bởi vì có một cái gì không đúng khi một mái vòm bắt đầu từ đầu một cây trụ tròn. Nếu Tom xây nhà thờ chính tòa, mỗi trụ sẽ là một cụm trụ, và mỗi mái vòm vươn lên từ đầu của mỗi trụ – sự sắp xếp như vậy sẽ hợp lý và đẹp hơn.
Ông bắt đầu tưởng tượng về sự trang trí cho các vòm. Hình thẳng là hình thức thông thường – không mất nhiều kỹ năng để khắc chữ chi và hình thoi – nhưng Tom ưa thích những chùm lá, chúng đem lại sự nhẹ nhàng của thiên nhiên vào trong nét đều đặn của những phiến đá.
Sự hình dung về ngôi nhà thờ xâm chiếm tâm hồn ông cho đến giữa chiều, khi ông nhìn thấy hình dáng nhỏ bé và mái tóc bạch kim của Martha chạy qua cây cầu và xuyên qua dẫy nhà. Cô do dự giữa ngã tư, rồi theo con đường phía phải. Tom nhìn cô đang tiến về phía ông. Cô nhíu mày phân vân không biết ông ở đâu. Khi cô đến vừa tầm, ông gọi nhẹ nhàng: "Martha".
Khi thấy ông, cô kêu lên một tiếng nhỏ. Cô chạy lại, nhẩy qua mương. "Mẹ gửi cho bố cái này," cô nói, và lấy ra một vật quấn trong áo khoác.
Nó là một miếng thịt nóng. "Trời ơi! Mẹ con là một phụ nữ chu đáo," Tom nói, và cắn một miếng lớn. Nó được làm với thịt bò và hành tây, và nó ngon tuyệt.
Martha ngồi xổm bên cạnh Tom trên cỏ. "Chuyện của người ăn trộm heo của chúng ta xẩy ra như thế này," cô nói. Cô tập trung để nhớ lại những gì cô được dặn để nói. Cô quá dễ thương đến nỗi làm Tom nín thở. "Ông ấy ra khỏi tiệm ăn và gặp một phụ nữ với khuôn mặt son phấn, rồi vào nhà bà ta. Chúng con đợi bên ngoài."
Trong khi đó kẻ tội phạm tiêu tiền của chúng ta cho một gái điếm, Tom nghĩ một cách chua chát. "Hãy kể tiếp đi con."
"Ông ấy không ở lâu trong nhà bà đó, và khi ông đi ra, ông đến một quán bia. Bây giờ ông đang ở đó. Ông không uống nhiều nhưng ông chơi cờ bạc."
"Bố mong hắn thắng," Tom nói gằn giọng. "Có vậy thôi sao?"
"Đó là tất cả."
"Con có đói không?"
"Con có một miếng bánh nhỏ."
"Con đã kể cho Alfred tất cả điều đó chứ?"
"Chưa, bây giờ con sẽ đi đến anh ấy."
"Nói với anh ấy, cố gắng giữ mình cho khô ráo."
"Cố gắng giữ mình khô ráo," cô lặp lại. "Con phải nói điều đó trước hay sau khi kể câu chuyện về người đàn ông đã ăn cắp con heo của chúng ta?"
Dĩ nhiên điều đó không quan trọng lắm. "Sau đó," Tom nói. Ông mỉm cười với cô. "Con là một bé gái thông minh. Con đi đi."
"Con thích trò chơi này," cô nói. Cô vẫy tay và ra đi, đôi chân trẻ thơ thoăn thoắt nhẩy qua mương và chạy ngược lại hướng thị trấn. Tom quan sát cô với tình thương và sự tức giận trong lòng. Ông và Agnes đã làm việc cực khổ để kiếm tiền nuôi sống con cái, và ông sẵn sàng giết người để lấy lại cái mà họ đã bị ăn cắp.
Có lẽ kẻ tội phạm cũng sẵn sàng giết người nữa. Kẻ tội phạm sống bên ngoài vòng pháp luật, như tên gọi đã ngụ ý: họ sống trong bạo lực. Đây có lẽ không phải là lần đầu mà Faramond Openmouth chống lại nạn nhân của hắn. Hắn là người nguy hiểm.
Một điều đáng ngạc nhiên là ánh sáng mặt trời bắt đầu yếu dần rất sớm, như một đôi khi xẩy ra vào buổi chiều mùa thu ẩm ướt. Tom lo lắng không biết có còn nhận ra được kẻ trộm trong mưa nữa không. Khi gần tối, sự đi lại thưa dần, vì hầu hết du khách đã ra về đúng lúc để kịp về nhà khi đêm xuống. Ánh sáng của nến và đèn lồng bắt đầu chập chờn trong những căn nhà cao của thị trấn và trong các túp lều vùng ngoại ô. Tom bi quan tự hỏi không biết kẻ trộm có ở lại trong thị trấn suốt đêm không. Có lẽ hắn có bạn bè không lương thiện trong thị trấn, những người cho hắn lưu trú mặc dù biết hắn là tên tội phạm. Có lẽ -
Rồi, Tom nhìn thấy một người che khăn trên miệng.
Hắn đi qua chiếc cầu bằng gỗ, đi gần hai người đàn ông khác. Đối với Tom, đó là điều bất ngờ vì hai người đồng lõa của tên trộm, tên đầu hói và tên đội mũ xanh, cả hai có thể đã cùng đi với hắn đến Salisbury. Tom đã không thấy họ trong thị trấn, nhưng có thể ba người đã chia tay nhau một lúc rồi lại tập trung lại để cùng về. Tom nguyền rủa: Ông không nghĩ ông có thể chống lại ba tên. Nhưng khi đến gần, nhóm người tách ra, và Tom nhẹ nhõm nhận ra rằng họ không đi chung với nhau.
Hai người đầu tiên là ông bố và người con trai, hai nông dân có đôi mắt đen gần nhau và lỗ mũi hếch. Họ đi theo con đường Roma và người đàn ông che khăn theo sau.
Ông nghiên cứu dáng đi của tên trộm khi hắn đến gần. Hắn đã hết say. Thật đáng tiếc!
Nhìn về phía thị trấn, ông thấy một đàn bà và một em bé vội vã qua cầu: Agnes và Martha. Ông bị sốc. Ông không dự kiến họ có mặt khi ông đối đầu với tên trộm. Tuy nhiên ông nhận ra rằng ông đã không ra lệnh cho họ.
Ông căng thẳng khi tất cả đi về phía ông. Tom to lớn nên hầu hết bỏ cuộc khi phải đối đầu với ông; nhưng kẻ tội phạm này là người liều lĩnh và không thể nói điều gì sẽ xẩy ra trong cuộc chiến.
Hai người nông dân đi qua, vui vẻ kể về ngựa. Tom lấy búa có bọc sắt ở đầu từ thắt lưng và cầm nó trong tay phải. Ông ghét những tên trộm cướp, những người không làm việc nhưng ăn cắp đồ ăn của người lương thiện. Ông sẽ không ngần ngại cho người này một cái búa.
Kẻ trộm dường như đi chậm lại khi hắn đến gần, hầu như hắn cảm thấy sự nguy hiểm. Tom đợi cho đến khi hắn chỉ còn cách bốn hay năm dặm – quá gần để chạy ngược lại, và quá xa để chạy đi. Rồi Tom lăn mình qua bờ, nhẩy qua mương và chặn đường hắn.
Người đàn ông chết đứng, nhìn chằm chằm vào ông. "Cái gì vậy?" hắn hỏi một cách lo lắng.
Hắn không nhận ra tôi, Tom nghĩ. Ông nói: "Ông ăn cắp con heo của tôi hôm qua và bán cho người bán thịt hôm nay."
"Tôi không bao giờ -"
"Đừng chối." Tom nói. "Hãy đưa cho tôi số tiền mà ông đã bán được, và tôi sẽ không đánh ông."
Lúc đầu ông tưởng kẻ trộm sẽ nghe lời. Ông cảm thấy thất vọng, khi hắn do dự. Sau đó, tên trộm quay gót và chạy thẳng về phía Agnes.
Hắn không đủ nhanh để chạy qua bà và trong một lúc cả hai người lảo đảo từ bên này đường qua bên kia đường giống như trong một điệu nhẩy vụng về. Rồi hắn nhận ra rằng bà đã cố tình chặn đường hắn, và hắn đẩy bà sang bên. Bà giơ chân ngáng hắn. Chân bà trúng đầu gối hắn và cả hai ngã xuống.
Trái tim Tom hổn hển, khi ông lao nhanh đến bên bà. Kẻ trộm quỳ lên được, đặt một đầu gối trên lưng bà. Tom nắm lấy cổ áo hắn và kéo mạnh hắn ra. Ông lôi hắn tới lề đường trước khi hắn có thể lấy lại thăng bằng, rồi ném hắn xuống mương.
Agnes đứng dậy. Martha chạy đến bên bà. Tom nói nhanh: "Em không sao chứ?"
"Vâng," Agnes trả lời.
Hai người nông dân dừng lại quan sát, và họ chăm chú nhìn vào cảnh tượng. Kẻ trộm chống gối trong mương. "Hắn là một tên tội phạm," Agnes nói với họ để mong họ can thiệp. "Hắn ăn cắp con heo của chúng tôi." Người nông dân không trả lời, nhưng chờ đợi xem sự gì sẽ xẩy ra.
Tom nói với tên trộm một lần nữa. "Hãy trả tiền lại cho tôi và tôi sẽ để ông đi."
Tên trộm ra khỏi mương với một con dao trong tay, lao vào Tom nhanh như chuột. Agnes thét lên. Tom né tránh. Con dao thoáng qua mặt ông và ông cảm thấy đau nơi cằm.
Ông lùi lại và dơ búa lên khi con dao lướt qua một lần nữa. Tên trộm lùi lại. Lưỡi dao và chiếc búa vun vút trong không khí của buổi tối ẩm ướt mà không đụng nhau.
Ngay lập tức cả hai đứng lặng yên, đối diện nhau, thở hổn hển. Cằm của Tom đau. Ông nhận ra rằng hai người bằng sức nhau, mặc dù Tom lớn hơn, nhưng tên trộm có một con dao, và dao nguy hiểm hơn chiếc búa của thợ xây. Ông cảm thấy ớn lạnh khi ông nhận ra rằng ông có thể sắp chết. Bất thình lình ông cảm thấy như không thở được.
Từ khóe mắt ông nhìn thấy một chuyển động đột ngột. Tên trộm cũng nhận ra, phóng một cái nhìn về phía Agnes và cúi đầu xuống khi viên đá từ tay bà bay vào hắn.
Tom phản ứng nhanh, vung búa vào đầu tên trộm.
Nó trúng vào đúng lúc hắn ngẩng đầu lên. Búa sắt đập vào trán phía chân tóc. Đó là một cú đánh vội vã, không mang tất cả sức mạnh của Tom. Tên trộm loạng choạng nhưng không ngã.
Tom đánh hắn một cái nữa.
Đòn này nặng hơn: Ông có nhiều giờ để giơ búa lên cao khỏi đầu và nhắm nó vừa lúc tên trộm choáng váng. Tom nghĩ về Martha khi ông giáng búa xuống. Nó trúng với tất cả sức lực của ông, và tên trộm gục xuống đất giống như con búp bê rơi.
Tom quỳ xuống bên tên trộm, xem xét hắn. "Ví tiền hắn ở đâu? Ví tiền hắn ở đâu?" Rất khó lay chuyển thân thể mềm rũ của hắn. Sau hết, Tom đặt hắn nằm ngửa và mở chiếc áo choàng của hắn. Có một bóp bằng da lớn đeo vào dây thắt lưng. Tom tháo chiếc móc. Bên trong là một túi len mềm mại. Ông kéo nó ra. Nó nhẹ. "Không có gì!" Tom nói. "Hắn phải có chiếc ví khác nữa."
Ông kéo chiếc áo choàng từ phía dưới người đàn ông và cẩn thận xem xét khắp nơi. Không còn chiếc túi nào, không có phần cứng nào. Ông tháo chiếc giày ra: không có gì bên trong. Ông lấy con dao ăn từ thắt lưng và cắt đế giầy: không có gì.
Sốt ruột, ông trượt con dao bên trong cổ áo len của tên trộm và rạch tới viền: không có thắt lưng dấu tiền.
Tên trộm nằm giữa con đường lầy lội, trần truồng. Hai người nông dân nhìn chằm chằm vào Tom tưởng như ông bị điên. Giận dữ, Tom nói với Agnes: "Hắn không còn đồng xu nào."
"Có lẽ ông ấy đã thua cờ bạc hết," bà cay đắng nói.
"Anh mong hắn bị đốt trong lửa hỏa ngục," Tom nói.
Agnes quỳ xuống và sờ vào ngực hắn. "Đó là nơi ông ta đang ở," bà nói. "Anh đã giết hắn."
Cất giọng to hơn tiếng ồn ào, Martha hỏi: "Mùi gì hôi thế?"
Tom mỉm cười. Một vài năm nay cô không ở trong thị trấn. "Đó là mùi của con người," ông nói với cô.
Đường phố chỉ rộng hơn chiếc xe bò một chút, nhưng người phu xe không để con thú của mình dừng lại, sợ rằng chúng không bắt đầu lại được; vì thế ông đánh cho chúng vượt qua mọi trở ngại. Hai con thú âm thầm chen qua đám đông, không phân biệt một ai, chúng xô đẩy một hiệp sĩ trên lưng con ngựa chiến, một cán bộ kiểm lâm với cây cung, một tu sĩ mập trên lưng con ngựa nhỏ, cũng như xô đẩy các binh lính, người ăn mày, bà nội trợ và gái điếm.
Chiếc xe bò đi sau một người chăn cừu già. Ông đang cố gắng giữ đàn cừu nhỏ của ông đi chung với nhau. Hôm nay là ngày chợ, Tom nhận ra. Khi xe bò đi ngang qua, một con cừu lao vào qua cánh cửa mở rộng của một quán bia, và trong một khoảnh khắc toàn bộ đàn cừu đã ở trong nhà, kêu be be, làm hoảng loạn và xô đẩy bàn ghế, làm đổ cả thùng bia.
Mặt đất dưới chân là một biển bùn và rác. Tom để ý đến trường hợp nước mưa rơi trên mái nhà, và chiều rộng cần thiết của chiếc rãnh cho nước mưa trôi đi; và ông cũng nhận thấy tất cả nước mưa rơi trên mái của nửa thị trấn chảy qua con đường này. Trong một cơn bão xấu, ông nghĩ, có lẽ bạn cần một chiếc thuyền để qua đường.
Khi họ đến lâu đài trên đỉnh đồi, đường phố rộng rãi hơn. Ở đây có những căn nhà đá, một hoặc hai căn cần phải sửa chữa lại. Chúng thuộc sở hữu của thợ thủ công và thương gia, những người có cửa hàng và tiệm ở tầng dưới và sống ở tầng trên. Với đôi mắt thực tế, Tom nhìn vào những đồ bày bán và có thể nói rằng đây là một thị trấn thịnh vượng. Tất cả mọi người cần phải có dao và nồi, nhưng chỉ người giầu có mới mua khăn choàng thêu, dây thắt lưng được trang trí và vòng bạc.
Ở phía trước lâu đài, người phu xe cho các con bò quẹo phải, Tom và gia đình đi theo sau. Con đường dẫn quanh một phần tư vòng tròn, dọc theo chân thành lũy lâu đài. Đi qua một cửa khác, họ rời bỏ sự náo nhiệt của thị trấn nhanh như khi họ đi vào, và họ bước vào một vùng xoáy khác: sự bận rộn nhưng có trật tự của một công trường xây dựng lớn.
Họ ở phía trong khu đất có tường bao quanh của nhà thờ chính tòa, ngôi nhà thờ chiếm toàn bộ khu tây bắc của thị trấn hình tròn. Tom đứng một lúc lâu để cảm nhận nó. Chỉ cần nhìn, nghe và ngửi nó cũng đã tạo cho ông một sự rộn ràng giống như một ngày nắng ấm. Khi xe chở đá đến, hai xe trống khác đi ra. Trong mái che của nhà kho dọc theo tường nhà thờ có thể nhìn thấy những thợ xây đang đẽo các khối đá bằng đục sắt và búa lớn bằng gỗ để tạo nên các hình dạng có thể được ghép vào với nhau, làm nên chân cột, hàng cột, trụ tường, vòm, cửa sổ, ngưỡng cửa, tháp nhọn và lan can. Ở giữa khu đất, tách rời khỏi các công trình xây dựng khác, ngọn lửa đang cháy có thể nhìn thấy được xuyên qua các khung cửa mở; người thợ rèn đang làm những công cụ mới và tiếng kêu của búa đập trên đe vang dội khắp khu vực. Đối với nhiều người, đó là một cảnh hỗn loạn, nhưng Tom nhìn thấy đây là một cơ chế lớn và phức tạp mà ông muốn điều hành. Ông biết mỗi người đang làm gì và ông có thể nhìn thấy ngay công việc đã tiến triển tới đâu: Họ đang xây mặt tiền phía đông.
Giàn giáo ngang qua phía cuối hướng đông, ở độ cao hai mươi lăm hay ba mươi mét, đang hoạt động. Các thợ xây ở cổng vòm đang chờ cho cơn mưa nhẹ dần, nhưng những nhân công vẫn vác đá trên vai chạy lên chạy xuống trên thang. Cao hơn, trên khung mái, thợ ống nước trông giống như những con nhện leo trên mạng bằng gỗ, đóng đinh các phên sắt và lắp đặt các ống dẫn nước và máng xối.
Tom nhận ra rằng việc xây dựng sắp hoàn tất. Nếu ông được thuê làm việc ở đây, công việc sẽ không kéo dài hơn vài năm nữa – không đủ thời gian để ông có thể lên đến vị trí một thợ cả, chưa nói gì đến thợ xây dựng chính. Tuy nhiên, nếu được nhận vào làm, ông sẽ nhận lời, bởi vì mùa đông đang đến. Nếu còn con heo, ông và gia đình có thể sống qua mùa đông không việc làm, nhưng bây giờ không còn con heo, Tom phải tìm việc.
Họ đi theo chiếc xe bò ngang qua công trường đến nơi các tảng đá được xếp đống. Với thái độ biết ơn, con bò cúi đầu vào máng nước. Người phu xe hỏi lớn một thợ xây đi ngang qua: "Thợ xây dựng chính ở đâu?"
"Trong lâu đài," thợ xây trả lời.
Người phu xe gật đầu và quay lại phía Tom. "Ông sẽ tìm thấy ông ấy trong lâu đài của giám mục, tôi mong điều đó."
"Cảm ơn!"
"Tôi cũng cảm ơn ông."
Tom rời công trường, Agnes và các con cũng đi theo. Họ trở lại con đường chen chúc, chật chội đến trước lâu đài. Đây có một hào khô khác và một thành lũy thứ hai bằng đất bao quanh trung tâm đồn lũy. Họ đi qua cây cầu kéo. Trong một chòi canh bên cạnh cổng ra vào, một ông mập mặc áo dài bằng da ngồi trên ghế, nhìn ra trời mưa bên ngoài. Ông mang một thanh kiếm. Tom nói với ông. "Chào ông, Tôi là thợ xây Tom. Tôi muốn gặp thợ xây dựng chính John thành Shaftesbury."
"Ở chỗ giám mục," viên bảo vệ đáp hờ hững.
Họ đi vào bên trong. Giống như các lâu đài khác, đây là một tổng hợp của nhiều tòa nhà linh tinh trong một bức tường đất. Chiều rộng của sân khoảng chừng một trăm dặm. Đối diện với cổng, ở phía xa, là một pháo đài lớn để trú ẩn khi bị tấn công và cao hơn thành lũy để có thể quan sát xung quanh. Bên trái gồm các tòa nhà thấp lộn xộn, đa số bằng gỗ: một chuồng thú vật dài, một nhà bếp, một lò bánh mì và nhiều nhà kho. Ở giữa sân có một giếng nước. Về phía bên phải, chiếm nguyên phía nửa bắc của toàn bộ công trình là một nhà đá to, dễ nhận ra đó là một cung điện. Nó được xây dựng giống như kiểu của ngôi nhà thờ mới, với cửa lớn và cửa sổ có đầu tròn.
Ngôi nhà có hai tầng và còn mới. Trong một góc, thợ xây vẫn đang làm việc, dường như đang xây một cây tháp. Mặc dù trời mưa, có rất nhiều người ở trong sân, đến rồi đi, hay đội mưa đi vội vã từ tòa nhà này sang tòa nhà khác: kỵ binh, linh mục, thương gia, thợ xây dựng và nhân viên phục vụ lâu đài.
Tom có thể nhìn thấy lâu đài có nhiều cửa ra vào, tất cả đều mở, mặc dù trời mưa. Ông không biết chắc phải làm gì bây giờ. Nếu thợ xây dựng chính là giám mục, có lẽ ông không nên quấy rầy ngài. Về khía cạnh khác, một giám mục không phải là một ông vua; và Tom là một người tự do và là một thợ xây kinh doanh hợp pháp, không ph?