Chương 2 (C)
III - Vào gần trưa hôm sau, Philip nhìn thấy tu viện Kingsbridge, đúng như Waleran đã dự báo. Từ phía lưng đồi đầy cây cối ông nhìn vào phong cảnh không sức sống, những cánh đồng tuyết phủ chỉ thỉnh thoảng còn lại những nhánh cây khô. Ông không thấy người nào, vì trong cái chết của mùa đông không có việc gì để làm trên cánh đồng. Một vài dặm bên kia cánh đồng phủ tuyết, ngôi nhà thờ chính tòa đứng trên một ngọn đồi; một tòa nhà đồ sộ, chồm hổm như một đài tưởng niệm trên một ngọn đồi nghĩa trang.
Philip đi theo con đường xuống dốc và Kingsbridge biến mất khỏi tầm mắt. Con ngựa điềm tĩnh đi cẩn thận theo con đường trơn trượt. Philip nghĩ về Tổng đại diện Waleran. Waleran quá đĩnh đạc, tự tin và có khả năng đến nỗi Philip thấy mình còn quá trẻ và ngây thơ, mặc dù hai người không mấy khác nhau về tuổi tác. Waleran đã dễ dàng làm chủ cuộc họp: ông đã ân cần tiễn đưa khách, lắng nghe câu chuyện của Philip, nhìn ngay ra vấn đề quan trọng là thiếu bằng chứng, nhanh chóng nhận ra rằng cách điều tra không mang lại kết quả, và nhanh chóng đưa Philip lên đường – bây giờ Philip mới nhận ra rằng không có gì bảo đảm là Waleran sẽ thực hiện điều gì đó.
Philip cười buồn bã khi nhận ra ông đã bị lừa như thế nào. Waleran ngay cả không hứa sẽ nói cho giám mục những gì Philip tường thuật. Nhưng Philip tin rằng vì tham vọng lớn, mà ông khám phá ra, một cách nào đó Waleran sẽ sử dụng thông tin này. Ông nhận ra rằng Waleran có một chút nào đó mang ơn ông.
Vì bị ấn tượng mạnh về Waleran, nên Philip càng bị hấp dẫn về một yếu điểm duy nhất của tổng đại diện: phản ứng của ông ấy đối với vợ của thợ xây Tom. Đối với Philip bà ấy dường như có sự nguy hiểm tàng ẩn. Rõ ràng Waleran thấy bà hấp dẫn. Tuy nhiên còn có điều gì hơn thế nữa. Waleran đã phải gặp bà trước đó, bởi vì ông ấy nói: tôi nghĩ bà ấy đã chết. Nó có vẻ như ông đã phạm tội với bà ấy trong một quá khứ xa. Nếu xem xét cách ông không muốn Philip quanh quẩn ở lại đó để biết thêm, chắc chắn ông có điều gì đó cảm thấy có lỗi.
Ngay cả bí mật tội lỗi này cũng không làm giảm sự đánh giá của Philip về Waleran. Waleran là một linh mục, không phải một tu sĩ. Khiết tịnh luôn là một phần thiết yếu trong đời sống của tu viện, nhưng nó không ép buộc cho các linh mục. Giám mục có các bà quản gia và cha xứ có các bà nội trợ. Giống như luật chống lại những tư tưởng xấu, luật sống độc thân là một luật rất khó giữ. Nếu Thiên Chúa không tha thứ cho các linh mục dâm đãng, chỉ có rất ít hàng giáo sĩ ở trên trời.
Kingsbridge lại xuất hiện trước mắt, khi Philip lên đến đỉnh đồi sau đó. Ngôi nhà thờ đồ sộ với nhiều mái vòm tròn, với các cửa sổ nhỏ và thấp nổi lên giữa vùng xung quanh, cũng giống như tu viện trội hẳn lên trong làng. Mặt tiền phía tây của nhà thờ, đối diện với Philip, có hai tháp đôi, một cái đã bị đổ do sấm chớp cách đây bốn năm. Nó chưa được xây lại và nó làm cho mặt tiền của nhà thờ trở nên thảm hại. Mỗi lần đến đây, Philip đều tức giận về quang cảnh này, vì đối với ông đống gạch vụn trước cổng luôn luôn là một nhắc nhớ đáng xấu hổ về sự suy sụp luân lý của tu viện Kingsbridge.
Các tòa nhà tu viện đều làm bằng đá vôi trắng, đứng thành từng nhóm xung quanh ngôi nhà thờ, giống như những kẻ âm mưu xung quanh ngôi vua. Bên ngoài bức tường thấp bao quanh tu viện có những túp lều bằng rơm và đất sét. Những nông dân canh tác trong vùng xung quanh cũng như những nhân công trong tu viện sinh sống ở đây. Một con sông nhỏ chẩy vội qua góc tây nam ngôi làng, cung cấp nước sạch cho tu viện. Một cây cầu bằng gỗ cũ kỹ bắc ngang con sông. Khi Philip đến đó, ông cảm thấy tức giận cáu kỉnh. Tu viện Kingsbridge là một sự xấu hổ cho giáo hội của Chúa và cho các tu viện, nhưng Philip không thể làm gì chống lại nó. Sự tức giận hòa lẫn với sự bất lực trở nên chua chát trong lòng ông.
Cây cầu thuộc quyền sở hữu của tu viện và tu viện thu thuế cầu. Vừa khi cây cầu kêu cọt kẹt dưới sức nặng của philip và con ngựa, môt tu sĩ già xuất hiện bên kia cầu và đi ra mở chiếc rào cản. Ông nhận ra Philip và vẫy tay. Philip nhận ra ông đi khập khiễng và nói: “Thầy Paul, chân anh bị làm sao thế?”
“Chỉ là một vết da nứt. Mùa xuân đến nó sẽ hết.”
Phlip nhìn thấy ông chỉ có đôi dép. Paul là một con chim già chịu khó, nhưng ông đã quá lớn tuổi để ở cả ngày bên ngoài trời trong thời tiết này. “Anh cần một lò sưởi,” Philip nói.
“Điều đó sẽ là một phúc lành,” Paul nói. “Nhưng cha Remigius nói rằng tiền cho lò sưởi sẽ tốn hơn tiền thu nhập của thuế cầu.”
“Anh thu bao nhiêu?”
“Một xu cho ngựa, và một xu nữa cho người.”
“Có nhiều người đi qua cầu không?”
“Vâng, có rất nhiều.”
“Vậy tại sao chúng ta không thể có một lò sưởi?”
“Dạ, các tu sĩ không phải trả, dĩ nhiên, ngoài ra những người phục vụ trong tu viện cũng như dân làng cũng không phải trả. Chỉ vài ba ngày mới có một hiệp sĩ hoặc một thợ hàn đi qua. Ngoài ra vào các ngày lễ lớn, khi mọi người trong vùng kéo nhau về dự lễ trong nhà thờ chính tòa, khi đó chúng ta thu được nhiều tiền thuế cầu.”
“Như vậy chúng ta chỉ nên thu tiền cầu trong ngày lễ lớn, và cho anh một lò sưởi,” Philip nói.
Paul nhìn Philip lo sợ. “Xin anh đừng nói gì với Remigius. Nếu không, ông ấy nghĩ tôi không hài lòng với công việc.”
“Đừng sợ,” Philip nói. Ông thúc cho ngựa đi vào để Paul không nhìn được biểu hiện trên gương mặt ông. Hành động ngu dốt nầy làm ông tức giận. Paul đã dành cả đời phục vụ Thiên Chúa và tu viện, và bây giờ, vào cuối đời ông phải đau khổ và lạnh lẽo chỉ để thu một hoặc hai tiền thuế cầu mỗi ngày. Đó không chỉ là tàn nhẫn mà còn là lãng phí, bởi vì một người lớn tuổi kiên nhẫn như Paul có thể giao cho những công việc hữu dụng khác – giả sử như nuôi gà – nó sẽ đem lại nhiều lợi nhuận cho tu viện hơn là thu thuế cầu. Nhưng tu viện trưởng lại quá già và thờ ơ, còn đối với tu viện phó Remingus chắc cũng như vậy. Đó là một tội nặng, Philip cay đắng nghĩ, khi phí phạm giá trị con người và vật chất mà Thiên Chúa đã yêu thương ban tặng.
Trong tâm trạng không thể khoan nhượng, ông thúc ngựa qua khoảng trống giữa các căn chòi đến thẳng cổng tu viện. Khuôn viên tu viện là một hình vuông, ở giữa là nhà thờ chính tòa. Tất cả những tòa nhà phía bắc và tây của nhà thờ dùng cho mục đích công cộng, thực tế và thế tục; trong khi các tòa nhà phía nam và đông dành riêng cho tu viện, tinh thần và thánh thiện.
Vì thế lối vào sân tu viện nằm ở góc tây bắc. Cổng tu viện mở và người tu sĩ trẻ trong phòng gác vẫy Philip. Ngay đàng sau cổng, bên cạnh bức tường phía tây là chuồng xúc vật, một công trình bằng gỗ, nhìn còn chắc chắn hơn là nhà ở của những người dân phía bên kia bức tường. Hai đứa trẻ ngồi trên đống rơm. Chúng không là tu sĩ, mà chỉ là nhân viên trong tu viện. Khi Philip và con ngựa đi vào, chúng miễn cưỡng đứng lên, rõ ràng không hài lòng vì người khách đến tạo thêm công việc cho chúng. Mùi hôi thối xông lên mũi Philip. Ông nhận ra chuồng ngựa từ ba bốn tuần lễ rồi chưa được quét phân. Với sự tức giận sẵn có, ông không thể bỏ qua sự lơi là của chúng. Khi ông giao dây cương ngựa, ông nói: “Trước khi các anh cột ngựa của tôi, các anh hãy dọn sạch chuồng ngựa và trải rơm mới. Sau đó dọn các chuồng ngựa khác. Nếu rơm luôn luôn ướt, móng ngựa sẽ bị thối. Các anh không có quá nhiều việc đến nỗi không thể dọn sạch chuồng được.” Cả hai trông ủ rũ, vì thế ông nói thêm: “Hãy làm như tôi nói, hoặc các anh sẽ mất ngày lương vì tội lười biếng.” Ông định đi nhưng rồi ông chợt nhớ ra điều gì. “Trong túi tôi có pho mát. Hãy đem nó xuống nhà bếp cho thầy Milius.”
Ông đi ra mà không đợi câu trả lời. Sáu mươi nhân công phục vụ cho bốn mươi lăm tu sĩ trong tu viện, đó là một dư thừa đáng xấu hổ trong đôi mắt của Philip. Những công nhân không có đủ việc làm thường dễ trở nên lười biếng đến nỗi họ còn chểnh mảng ngay cả công việc ít ỏi được giao cho họ; điều đó rõ ràng nơi hai đứa trẻ chăm sóc chuồng ngựa. Đó là những điển hình về sự lơi là của Tu viện trưởng James.
Philip đi theo bức tường phía tây, qua nhà khách, tò mò xem ngoài ông còn có người khách nào không. Nhưng căn phòng rộng lạnh lẽo và hoang vắng; trước thềm là một đống lá rụng do gió thổi xô vào từ mùa thu trước. Ông rẽ trái, đi qua sân vườn có cỏ mọc thưa thớt ngăn cách nhà khách và nhà thờ, vì trong nhà khách có cả những người ít sùng đạo cũng như phụ nữ tá túc. Ông đến mặt tiền phía tây nhà thờ, nơi có cổng cho mọi người ra vào. Đống gạch vụn của tháp chuông bị đổ vẫn nằm đó, nơi nó rơi xuống, thành một đống cao hơn đầu người.
Giống như các nhà thờ khác, nhà thờ Kingsbridge có hình dạng một cây thánh giá. Hướng tây mở vào gian giữa, tương tự như chiều đứng của cây thánh giá. Từ giữa gian cung thánh trổ ra hai phía bắc và nam, tương tự như hai cánh cây thánh giá. Đàng sau bàn thờ, phía đông của nhà thờ được dành cho các tu sĩ. Phía cuối cùng là ngôi mộ của Thánh Adolphus, nơi có rất nhiều khách hành hương đến kính viếng.
Philip bước vào gian giữa nhà thờ và nhìn xuống những mái vòm tròn và các hàng cột uy nghi hai bên. Khung cảnh càng đè nặng tâm trạng ông. Đó là một tòa nhà ẩm thấp và tối tăm; và tình trạng của nó lại tồi tệ thêm kể từ lần ông viếng thăm lần trước. Những cánh cửa sổ trong hai gian bên thấp, giống như đường hầm hẹp trong bức tường dầy. Sát trên mái nhà, ánh sáng xuyên qua những cánh cửa sổ to soi tỏ bức tranh trên trần, để thấy rõ chúng bị mờ xấu như thế nào. Hình các tông đồ và các thánh chỉ còn là bóng mờ. Mặc dù gió lạnh thổi vào – bởi vì các cửa sổ không có kính - một mùi ẩm thấp của quần áo thoang thoảng trong không khí. Từ phía kia của nhà thờ, nơi đang có một thánh lễ, vang vọng lời ca phụng vụ bằng tiếng Latin. Philip đi xuống gian giữa. Nền nhà chưa bao giờ được lót gạch, trong những góc, nơi chưa có guốc của nông dân và dép của các tu sĩ đặt đến, nó đã mọc rêu. Những vòng xoắn khắc vào hàng cột lớn, cũng như đường liên đới giữa các vòm ngày xưa được trang trí và mạ vàng. Chỗ này chỗ kia còn sót lại nét vàng mỏng, dấu vết của những bức tranh cũ. Vôi vữa giữa những viên đá đã mục nát và rơi xuống, chất thành từng đống dưới chân tường. Philip cảm thấy cơn giận của mình lại sôi lên. Các khách thăm viếng ngôi nhà thờ này phải được chiêm ngắm vẻ huy hoàng của Đấng Toàn năng. Nông dân là những người bình dị, họ phán đoán mọi sự qua những gì họ nhìn thấy. Khi thấy ngôi nhà thờ này, có lẽ họ sẽ nghĩ Thiên Chúa là đấng bất cẩn, thờ ơ, một Đấng không có khả năng nhận ra tội lỗi của họ và không biết đánh giá sự thờ phượng của họ. Và chính những người nông dân này là những người đóng góp sức lực và mồ hôi cho ngôi nhà thờ nhiều nhất. Đó là một sự xúc phạm khi đền đáp họ bằng ngôi mộ đổ nát này.
Philip quỳ gối xuống trước bàn thờ một lúc lâu, ý thức rằng ngay cả sự giận dữ đúng đắn cũng không phù hợ với tâm trí của người cầu nguyện. Khi cơn giận đã giảm, ông đứng lên và tiếp tục đi.
Gian ngang phía đông của nhà thờ được chia làm hai. Phía trước là những hàng ghế bằng gỗ, nơi dành riêng cho giờ kinh của các tu sĩ. Phía sau là mộ thánh. Philip đi xung quanh bàn thờ. Ông muuốn tìm một chỗ trong khu dành cho các tu sĩ, nhưng ông phải dừng lại vì một quan tài ngăn lối ông đi.
Ông thật sự ngạc nhiên. Không ai thông báo cho ông về cái chết của một tu sĩ nào – nhưng thực ra từ khi đến đây ông chỉ nói chuyện với ba người: với thầy Paul già, người không còn minh mẫn, và với hai đứa trẻ trong chuồng ngựa mà ông cũng chẳng cho họ điều kiện để chuyện trò. Ông bước đến gần quan tài xem ai là người đã qua đời. Ông nhìn vào bên trong, tim ông lỡ một nhịp.
Đó là Tu viện trưởng James.
Philip đứng há hốc miệng. Bây giờ mọi chuyện sẽ đổi khác, sẽ có một tu viện trưởng mới, sẽ có một hy vọng mới.
Niềm phấn khởi thầm kín là một phản ứng không thể chấp nhận được đối với cái chết của một người anh đáng kính, ngay cả mặc dù ông đã có những sai lầm nào đi nữa. Philip tập trung nét mặt và tâm trí cho phù hợp với bối cảnh tang thương. Ông quan sát người qua đời. Vị tu viện trưởng có mái tóc bạc, khuôn mặt gầy và lưng gù. Bây giờ nét mệt mỏi triền miên biến mất, và thay vì lo âu và thất vọng, dường như ông đang có sự bình yên. Khi Philip quỳ bên cạnh quan tài, ông tự hỏi không biết người đàn ông lớn tuổi này đã phải chịu đau khổ về vấn đề gì trong những năm cuối đời: một tội chưa xưng ra, hối tiếc một phụ nữ hay sai lầm với một người vô tội. Bất cứ chuyện gì đã xẩy ra, ông sẽ không nói bây giờ, nhưng trong ngày phán xét.
Mặc dù cố tập trung, Philip vẫn không khỏi nghĩ về tương lai. Tu viện trưởng James, một người thiếu quyết đoán, sợ sệt và nhu nhược đã để tu viện xuống dốc. Bây giờ cần một người mới, một người đem các nhân viên lười biếng vào kỷ luật, xây dựng lại tháp chuông nhà thờ đã đổ nát, biết sử dụng tài nguyên phong phú, tạo cho tu viện một sức mạnh về đạo đức. Philip quá háo hức để có thể ngồi yên. Ông đứng lên, đi với tâm hồn nhẹ nhàng mới về hướng các tu sĩ đang hát kinh và tìm một chỗ trống ở hàng ghế sau cùng.
Andrew thành Newyork, người phụ trách phụng vụ, đang chủ sự nghi thức. Ông là một người nóng tính, mặt đỏ. Ông thuộc thành phần lãnh đạo của tu viện, lo về hành chính. Trách nhiệm của ông bao gồm mọi việc thánh: tổ chức thánh lễ, sách lễ, di tích thánh, áo lễ và đồ trang trí trong nhà thờ, đặc biệt là về việc trùng tu nhà thờ. Dưới quyền ông là người phụ trách thánh ca, và một thủ kho để chăm sóc chén thánh và chân nến bằng vàng bạc và các đồ thánh khác. Không ai có thẩm quyền trên người phụ trách phụng vụ, ngoài tu viện trưởng và tu viện phó Remigius mà Andrew rất thân.
Andrew đọc thánh vịnh với giọng bình thường như mọi ngày. Tâm trạng Philip bấn loạn, một lúc sau ông nhận ra rằng nghi thức không đúng như quy định. Một nhóm tu sĩ trẻ ồn ào, nói chuyện và cười đùa. Philip nhận ra họ đang trêu chọc vị giáo tập già, người đang ngủ gật. Các tu sĩ trẻ - hầu hết đã là tập sinh của vị giáo tập già này – chắc vẫn còn nhớ bàn tay cứng rắn đã dẫn dắt họ. Họ ném những viên đất bẩn về phía ông. Mỗi lần, khi viên đất trúng ông, ông giật mình, quay người lại, nhưng không thức giấc. Hình như Andrew không biết gì. Philip nhìn sang vị tu sĩ chịu trách nhiệm về trật tự. Ông ngồi ở dẫy ghế bên kia và đang nói chuyện với một tu sĩ khác. Ông không quan tâm đến nghi lễ, cũng như thái độ của các tu sĩ trẻ khác.
Philip quan sát một lúc lâu, mặc dù ông không còn có thể kiên nhẫn nữa. Người cầm đầu đám tu sĩ trẻ phá rối là một chàng đẹp trai, khoảng hai mươi mốt tuổi, có một nụ cười tinh quái. Philip thấy cậu lấy đầu lưỡi dao ăn hơ trên ngọn nến, rồi lấy sáp nến bắn lên đầu hói của vị giáo tập. Sáp nóng trúng đầu làm ông tỉnh dậy, kêu lên. Các tu sĩ trẻ phá lên cười.
Philip thở dài đứng lên. Ông đến sau lưng chàng cầm đầu, nắm tai chàng và kéo chàng ra ngoài. Andrew ngước lên khỏi sách lễ, cau mày nhìn Philip khi họ đi ra: ông không biết gì về những gì vừa xẩy ra.
Xa khỏi tầm nghe của các tu sĩ khác, Philip ngừng lại, bỏ tai cậu ra và nói: “Em tên gì?”
“William Beavis.”
“Ma quỷ nào xúi dục em trong thánh lễ?”
William nhìn hờn dỗi. “Em đã mệt mỏi với phụng vụ.”
Philip không cảm thông với các tu sĩ hay than phiền. “Mệt mỏi?” ông nói cao giọng hơn. “Hôm nay em đã làm gì?”
William nói ngang ngược. “Kinh đêm và kinh sớm, rồi kinh sáng trước bữa điểm tâm, rồi kinh giờ ba, thánh lễ, học hành và bây giờ lễ trọng.”
“Em đã ăn gì chưa?”
“Có, ăn điểm tâm rồi.”
“Và bây giờ em muốn ăn trưa?”
“Vâng.”
“Hầu hết những người bằng tuổi em phải làm việc đổ mồ hôi từ sáng sớm đến lúc mặt trời lặn trên cánh đồng, để có được bữa ăn sáng và bữa trưa… Và bên cạnh đó luôn dành một chút bánh của họ cho em. Em có biết tại sao họ làm thế không?”
“Dạ biết,” William nói, hai chân đá nhau và nhìn xuống đất.
“Tại sao?”
“Họ làm như thế vì họ muốn các tu sĩ cầu nguyện cho họ.”
“Đúng. Cơm bánh, thịt, nhà ngủ làm bằng đá được sưởi ấm bằng lửa trong mùa đông là công lao của những nông dân. Và em mệt mỏi đến nỗi không thể ngồi yên được cho họ trong thánh lễ.”
“Em xin lỗi.”
Philip quan sát kỹ William. Cậu không phải là chàng trai tệ. Lỗi lớn nhất là ở cấp trên của cậu, những người lỏng lẻo để cho chuyện đùa giỡn xẩy ra trong nhà thờ. Philip nói nhỏ nhẹ: “Nếu việc phụng vụ làm cho em mệt mỏi, tại sao em lại muốn thành tu sĩ?”
“Em là con trai thứ năm.”
Philip gật đầu. “Và khi tu viện nhận em, bố em đã tặng tu viện một miếng đất?”
“Vâng, một trang trại.”
Đó là câu chuyện thường xẩy ra: Một người có quá nhiều con trai, họ sẽ dâng một đứa con cho Chúa. Để Chúa không thể từ chối, họ dâng một tài sản để nâng đỡ con trong tu viện nghèo. Bằng cách đó nhiều người trẻ, vì họ không có ơn gọi, trở thành tu sĩ không vâng lời.
Philip nói: “Giả sử em được chuyển đến một trang trại, hay đến tu viện nhỏ của anh trong rừng, nơi mà giờ làm việc ngoài đồng nhiều hơn là giờ cầu nguyện, em có nghĩ là như thế em dễ dàng tham dự giờ kinh một cách trang nghiêm và đạo đức hơn không?”
Nét mặt William rạng rỡ ra. “Vâng, em nghĩ như vậy.”
“Anh cũng nghĩ như vậy. Anh sẽ xem có cách nào không. Nhưng đừng hy vọng quá, chúng ta phải chờ cho đến khi có một bề trên mới và xin ông chuyển em.”
“Tuy nhiên, cảm ơn anh.”
Giờ lễ chấm dứt, và các tu sĩ rời khỏi nhà thờ theo hàng ngũ. Philip đưa một ngón tay lên miệng, ra dấu chấm dứt cuộc nói chuyện. Khi các tu sĩ đi ngang qua, Philip và William đi vào hàng, theo họ ra ngoài vào dẫy hành lang tiếp giáp với phía nam của gian giữa nhà thờ và vào tu viện. Ở đó cuộc rước chấm dứt. Philip muốn đi về phía nhà bếp, nhưng bất ngờ gặp ngay vị phụ trách phụng vụ đứng trước mặt ông, chân dang rộng, bàn tay chống nạnh, ông nói: “Anh Philip.”
“Anh Andrew,” Philip nói, thắc mắc không biết ông ấy có ý định gì.
“Tại sao anh lại quấy rầy buổi lễ của tôi?”
Philip rất kinh ngạc. “Quấy rầy buổi lễ?” ông lập lại vì không tin vào tai mình. “Một tu sĩ trẻ đã không có thái độ đứng đắn. Cậu ấy…”
“Tôi có khả năng đối phó với các hành vi sai trái trong buổi lễ của tôi.” Andrew cao giọng nói. Các tu sĩ đang chuẩn bị giải tán, đứng nán lại, xem những gì xẩy ra.
Philip không thể hiểu được sự tức giận của ông ấy. Các tu sĩ trẻ và các tập sinh thường được các tu sĩ lớn tuổi nhắc bảo và chỉnh đốn lại trong giờ kinh, và không có luật nào nói rằng nhiệm vụ này chỉ dành riêng cho người phụ trách phụng vụ. Philip nói: “Nhưng anh không biết chuyện gì xẩy ra.”
“Hay có thể tôi thấy, nhưng tôi quyết định sẽ xử lý sau.”
Philip chắc chắn ông không thấy gì. “Anh đã thấy gì?” Philip thách đố.
“Đừng điều tra tôi!” Andrew hét lớn. Mặt đỏ của ông thành tím ngắt. “Anh là bề trên của một tu viện nhỏ trong rừng, nhưng tôi là người phụ trách phụng vụ ở đây từ mười hai năm nay, và tiến hành các giờ lễ trong nhà thờ chính tòa theo ý tôi. Tôi không cần sự giúp đỡ của người lạ chỉ bằng nửa tuổi tôi.”
Philip bắt đầu nghĩ có lẽ ông đã thực sự sai, nếu không tại sao Andrew lại nổi giận như thế? Nhưng quan trọng hơn, một cuộc tranh cãi ngoài hành lang không tốt cho các tu sĩ khác, và nó phải chấm dứt. Cắn răng, Philip nuốt niềm kiêu hãnh xuống, rồi cúi đầu tuân phục: “Tôi nhận lỗi và tôi khiêm nhường xin lỗi anh,” ông nói.
Andrew chuẩn bị cho một cuộc tranh luận lâu hơn, vì thế ông không hài lòng về cuộc rút lui quá sớm của đối phương. “Đừng để chuyện đó xẩy ra một lần nữa,” ông lạnh nhạt nói.
Philip không trả lời. Andrew muốn phải có lời nói sau cùng, vì thế bất cứ lời nói nào của ông cũng tạo nên cơ hội cho một lời đáp trả khác. Ông nhìn xuống đất, cắn lưỡi, trong khi Andrew nhìn ông trừng trừng. Sau cùng người phụ trách phụng vụ bỏ đi, đầu ngẩng cao.
Các tu sĩ khác nhìn Philip. Sự hạ nhục của Andrew làm ông tức giận, nhưng ông chấp nhận nó bởi vì một tu sĩ tự cao là một tu sĩ xấu. Không nói thêm lời nào, ông rời khỏi dẫy hành lang.
Khu nhà của các tu sĩ nằm ở phía nam tu viện: phòng ngủ ở góc phía đông nam và nhà ăn ở tây nam. Philip đi về hướng tây, ngang qua nhà ăn và ra ngoài sân, từ đó ông có thể nhìn thấy nhà khách và chuồng ngựa. Ở đây trong góc tây nam của sân vườn là sân bếp, bao bọc ba phía là nhà ăn, nhà bếp, lò bánh mì và xưởng bia. Một xe ngựa chở đầy củ cải đứng trong sân đang chờ được rỡ xuống. Philip trèo lên thềm nhà bếp và đi vào.
Bầu khí như dội vào mặt ông. Không khí nặng mùi cá chiên, tiếng nồi chảo va vào nhau và tiếng ra lệnh. Ba đầu bếp mặt đỏ vì nóng và đang vội vàng chuẩn bị cho bữa ăn tối với sự giúp đỡ của sáu hay bẩy người phụ việc trẻ. Hai lò bếp nấu, mỗi cái ở một đầu nhà bếp: ngọn lửa cháy rực, bên trên có hơn hai mươi xiên cá đang được một cậu bé quay. Mùi thơm của cá làm Philip nhỏ nước miếng. Cà rốt được nấu trong nồi sắt lớn treo trên ngọn lửa. Hai thanh niên đang cắt bánh mì trắng thành những miếng dầy lớn. Giám sát sự hỗn loạn này là một tu sĩ: thầy Milius, nhà bếp trưởng, cùng lứa tuổi với Philip. Ông ngồi trên một ghế cao, quan sát các hoạt động xung quanh ông với một nụ cười bình thản như mọi sự đã được tổ chức chu đáo và hoàn hảo dưới con mắt kinh ngiệm của ông. Ông mỉm cười với Philip và nói: “Cảm ơn anh về những pho mát!”
“À, Vâng.” Philip đã quên chuyện đó, nhiều việc đã xẩy ra từ khi ông đến đây. “Nó được làm từ sữa lấy vào buổi sáng – thầy sẽ thấy nó có mùi vị khác.”
“Miệng tôi đã chẩy nước miếng rồi. Nhưng anh trông có vẻ buồn. Có chuyện gì vậy?”
“Không, không có gì cả. Tôi có những lời gay gắt với Andrew.” Philip làm một cử chỉ như muốn xua đuổi câu chuyện đã qua đi. “Tôi có thể lấy một hòn đá nóng trong lò không?”
“Dĩ nhiên.”
Luôn luôn có một vài viên đá trong bếp lửa, sẵn sàng dùng để làm nóng nhanh một ít nước hoặc súp. Philip giải thích: “Thầy Paul, phục vụ trên cầu, có một vết da nứt, nhưng Remigius không cho thầy lò sưởi.” Ông dùng cái cặp dài và lấy ra một hòn đá nóng từ trong lò ra.
Milius mở tủ lấy ra một mảnh da cũ. “Đây, bọc nó trong này.”
“Cảm ơn.” Philip đặt viên đá vào giữa miếng da cũ rồi gấp các góc lại cẩn thận.
“Nhanh lên,” Miliius nói. “Sắp đến giờ ăn rồi.”
Philip rời nhà bếp. Ông đi qua sân bếp, ra đến cổng. Phía tay trái, bên trong bức tường phía tây, là nhà máy xay. Một kênh phía trên tu viện đã được đào từ nhiều năm trước để dẫn nước từ sông vào hồ nhà máy xay. Sau khi làm cho các bánh xe của nhà máy xay quay, nước chảy trong một kênh ngầm đến nhà máy bia, nhà bếp, giếng nước trong sân tu viện, nơi các tu sĩ rửa tay trước bữa ăn, và sau cùng là nhà vệ sinh bên cạnh khu phòng ngủ, sau đó nước quay về hướng nam và nhập lại vào dòng sông. Một trong những tu viện trưởng ban đầu đã có một kế hoạch thông minh.
Có một đống rơm bẩn bên ngoài chuồng, Philip nhận ra hai đứa trẻ đã theo lệnh ông và dọn chuồng. Ông ra khỏi cổng, đi qua làng về phía chiếc cầu.
Điều tôi quở trách William Beavis có đúng không? Ông tự hỏi khi ông đi ngang căn lều. Ông nghĩ đúng. Ngược lại, ông sẽ sai nếu ông làm ngơ trước những quấy rầy như vậy trong giờ kinh phụng vụ.
Ông đến cây cầu và cúi nhìn vào nơi trú ẩn của Paul. “Hãy sưởi ấm chân anh,” ông nói và đưa viên đá nóng bọc trong da. “Khi nó nguội hơn, hãy bỏ miếng da và đặt chân anh trực tiếp lên hòn đá. Nó sẽ ấm đến nửa đêm.”
Thầy Paul cảm động biết ơn. Ông bỏ dép và đặt ngay chân mình lên. “Tôi có thể cảm thấy bớt đau ngay,” ông nói.
“Nếu anh đặt hòn đá vào bếp lửa tối nay, sáng mai nó lại nóng ngay,” Philip nói.
“Thầy Milius không chống lại chứ?” Paul lo lắng hỏi.
“Tôi bảo đảm chuyện này.”
“Anh thật tốt với tôi, anh Philip à.”
“Không có gì.” Philip bỏ đi trước khi Paul trở nên lúng túng vì biết ơn. Nó chỉ là một hòn đá nóng.
Ông trở về tu viện. Ông vào lại trong sân và rửa tay ở một bồn rửa bằng đá nơi bức tường phía nam, rồi bước vào phòng ăn. Trên bục, một tu sĩ đang đọc to. Bữa ăn theo quy luật, ngoài trừ việc đọc sách, phải giữ im lặng. Nhưng người ta vẫn nghe thấy không những tiếng nhai ăn của hơn bốn mươi tu sĩ mà còn nghe thấy tiếng thì thầm. Philip ngồi vào chỗ trống bên chiếc bàn dài. Tu sĩ bên cạnh ông đang ăn ngon. Ông bắt gặp ánh mắt Philip và thì thầm: “Hôm nay có cá tươi!”
Philip gật đầu. Ông đã nhìn thấy nó trong bếp. Dạ dầy của ông cồn cào.
Vị tu sĩ nói: “Chúng tôi nghe nói anh có cá tươi mỗi ngày trong tu viện của anh ở trong rừng.” Giọng ông có pha lẫn ghen tị.
Philip lắc đầu. “Những ngày khác chúng tôi có thịt gia cầm,” ông thì thầm.
Vị tu sĩ như có vẻ ghen tị hơn. “Ở đây chỉ có cá muối, sáu lần trong tuần.”
Một người phục vụ mang đến trước mặt Philip một miếng bánh mì lớn và một con cá thơm mùi gia vị của Milius. Philip chẩy nước miếng. Khi ông vừa lấy con dao định cắt cá, một tu sĩ ở đầu bàn đứng lên, chỉ vào ông. Đó là người giữ trật tự hay giám thị. Philip nghĩ, không biết lại chuyện gì đây?
Vị giám thị phá luật im lặng, ông có quyền đó. “Anh Philip!”
Các tu sĩ khác ngừng ăn và căn phòng chìm trong yên lặng.
Philip ngừng con dao trên con cá và nhìn lên chờ đợi.
Vị giám thị nói: “Quy luật là: người đến trễ không được ăn.”
Philip thở dài. Dường như hôm nay ông luôn luôn làm sai. Ông cất con dao, trao lát bánh và con cá lại cho người phục vụ và cúi đầu nghe đọc sách.
Trong lúc rảnh sau bữa ăn tối, ông đến nhà kho dưới nhà bếp để nói chuyện với Cuthbert Whitehead, quản lý tu viện. Nhà kho là một hang lớn tối, với cột to thấp và cửa sổ nhỏ. Không khí khô và đầy mùi: hoa bia và mật ong, táo cũ và gia vị khô, pho mát và dấm. Thầy Cuthberth luôn có mặt ở đây, vì công việc đa dạng không cho phép ông tham dự nhiều giờ kinh phụng vụ. Điều đó cũng phù hợp với ông: ông rất thông minh, đôi chân đứng trên mặt đất và không còn nhiều giờ cho đời sống tinh thần. Là người quản lý, ông trách nhiệm cho các nhu cầu vật chất, khác với người phụ trách phụng vụ: Cuthbert cung cấp cho mọi nhu cầu thực tế của các tu sĩ, thu thập sản phẩm của trang trại trong tu viện và đem ra chợ, cũng như mua những gì mà các tu sĩ và công nhân không sản xuất được. Công việc đòi hỏi tài tổ chức và sự tính toán cẩn thận. Cuthbert không làm việc một mình: Milius, nhà bếp trưởng, chịu trách nhiệm về các bữa ăn hàng ngày và còn có một người lo về quần áo cho các tu sĩ. Cả hai ở dưới sự kiểm soát của Cuthbert. Ngoài ra còn có ba người dưới quyền ông, tuy vẫn có một sự độc lập nhất định: người lo phòng khách, người lo cho các tu sĩ già, bệnh tật trong khu nhà bên cạnh và người lo về bác ái. Mặc dù ông có nhiều người cộng tác, nhưng nhiệm vụ của ông thật lớn. Ông giữ các con số và dữ kiện trong đầu, lập luận rằng giấy mực là một sự phí phạm. Philip nghi ngờ rằng Cuthberth chưa biết đọc và biết viết. Người ta đặt tên cho ông là “Đầu trắng” vì do thời còn trẻ ông đã có tóc bạc. Bây giờ ông đã sáu mươi, những sợi tóc còn lại mọc ra từ tai và lỗ mũi của ông như thể nó muốn đua với cái đầu hói của ông. Philip, cũng là quản lý khi còn ở Wales, thông cảm với sự lo lắng và tính cáu kỉnh của ông. Vì thế Cuthberth rất thích Philip. Bây giờ biết rằng Philip đã bỏ lỡ bữa ăn tối, Cuthberth lấy ra từ thùng nửa tá lê. Chúng đã teo lại, nhưng còn ngon và Philip ăn nó với lòng biết ơn, trong khi Cuthberth càu nhàu về tài chính của tu viện.
“Tôi không thể hiểu tại sao một tu viện lại có thể ở trong tình trạng nợ nần,” Philip nói, miệng đầy trái cây.
“Tu viện không nên nợ,” Cuthberth nói. “Tu viện có nhiều đất và thu nhiều tiền thuế từ các nhà xứ hơn bao giờ hết.”
“Vậy tại sao chúng ta không giầu?”
“Anh biết hệ thống của chúng ta ở đây – tài sản của tu viện được chia cho các lãnh vực. Người phụ trách phụng vụ có đất của ông ấy, tôi có đất của tôi, phần nhỏ hơn cho cha giáo tập, cho người phụ trách nhà khách, cho người lo về y tế và bác ái. Phần còn lại dành cho tu viện. Mỗi người dùng tài sản của mình để chu toàn trách vụ của mình.
“Có gì sai trong cách tổ chức đó?”
“Vâng, tất cả tài sản này phải được chăm nom! Thí dụ như giả sử chúng ta có mảnh đất cho thuê bằng tiền mặt, chúng ta không nên trao nó cho người trả giá cao nhất rồi ngồi chờ thu tiền. Chúng ta phải tìm ra người thuê tốt và giám sát để họ làm tốt công việc; nếu không cánh đồng sẽ úng nước, đất trở thành chai cứng, và khi người thuê không có khả năng trả tiền thuê, họ sẽ trả lại đất cho chúng ta trong tình trạng tồi tệ. Hay lấy thí dụ một trang trại được chăm sóc bởi nhân viên của chúng ta và quản lý bởi các tu sĩ: nếu chỉ đến lấy các sản phẩm mà không có người thường xuyên đến theo dõi thì các tu sĩ trở thành biếng nhác và đồi trụy, nhân viên sẽ ăn cắp các loại cây trồng, và trang trại càng ngày càng sản xuất ít hơn. Ngay cả một nhà thờ cũng cần được chăm sóc. Chúng ta không nên chỉ nghĩ đến lấy tiền thuế. Chúng ta phải đặt các nhà thờ trong tay những linh mục tốt, biết tiếng Latin và có một đời sống thánh thiện. Nếu không mọi người rơi vào tình trạng không có Chúa. Họ kết hôn, sinh con và chết mà không có lời chúc phúc của giáo hội, và họ sẽ lừa dối chúng ta khi khai thuế.
“ Những người có trách nhiệm trong tu viện nên quản lý tài sản một cách cẩn thận,” Philip nói, khi ông ăn quả lê cuối cùng.
Cuthberth rót một chén rượu từ vại và đưa cho Philip. “Họ nên làm như vậy, nhưng họ có nhiều chuyện khác trong đầu. Tuy nhiên, cha giáo tập biết gì về việc đồng áng? Tại sao người phụ trách về y tế lại phải có khả năng quản lý đất đai? Tuy vậy, một tu viện trưởng cứng rắn sẽ đòi hỏi họ phải biết sử dụng hết khả năng của họ, dĩ nhiên tới một mức độ nào đó. Nhưng chúng ta có một tu viện trưởng yếu đuối từ ba mươi năm nay, và bây giờ chúng ta không có tiền để sửa sang nhà thờ chính tòa, chúng ta phải ăn cá muối sáu ngày trong tuần, và không có tập sinh nào cũng như không có khách nào đến nhà khách.”
Philip nhấp rượu nho trong yên lặng ảm đạm. Ông thấy quá khó để suy nghĩ một cách lạnh lùng về sự phung phí kinh khủng tài sản này của Thiên Chúa. Ông muốn tóm lấy những người có trách nhiệm và lay cho đến khi họ tỉnh thức. Nhưng trong trường hợp này, người có trách nhiệm nằm trong quan tài, phía sau bàn thờ. Ở đó ít nhất le lói một niềm hy vọng. “Chẳng bao lâu chúng ta sẽ có một tu viện trưởng mới,” Philip nói. “Ông ấy sẽ đưa tất cả vào trật tự.”
Cuthberth nhìn ông bằng một cái nhìn đặc biệt.
“Remigius? Ông ấy sẽ đưa mọi việc vào trật tự ư?”
Philip không chắc chắn về những gì Cuthberth nói. “Remigius sẽ không phải là tu viện trưởng mới, phải không?”
“Có thể ông ấy sẽ là.”
Philip mất tinh thần. “Nhưng ông ấy không khá hơn Tu viện trưởng James. Tại sao anh em lại bỏ phiếu cho ông ấy?”
“Vâng, họ nghi ngờ người lạ, vì thế họ sẽ không bỏ phiếu cho người họ không biết. Điều đó có nghĩa là một trong chúng ta sẽ được bầu. Và Remigius là tu viện phó, người cao cấp nhất trong số chúng ta ở đây.”
“Nhưng không có luật lệ nào quy định chúng ta phải bỏ phiếu cho người cao cấp nhất,” Philip chống lại. “Nó có thể là một người khác trong ban lãnh đạo. Nó có thể là anh.”
Cuthberth gật đầu. “Tôi đã được hỏi, nhưng tôi từ chối.”
“Tại sao?”
“Tôi đã già, Philip. Công việc tôi đang làm có thể đánh tôi ngã quỵ, nhưng chỉ vì tôi đã quen với nó nên tôi thi hành nó một cách máy móc. Đối với tôi bất cứ một trách nhiệm nào thêm cũng là quá nhiều. Tôi không có sức để lãnh đạo một tu viện xuống dốc về kinh tế và cải cách nó. Thực tế, tôi không khá hơn Remigius.”
Philip vẫn chưa có thể tin được điều đó. “Còn những người khác: người phụ trách phụng vụ, người giám thị, cha giáo tập…”
“Cha giáo tập đã già và còn mệt mỏi hơn tôi. Người phụ trách nhà khách là người say mê ăn uống và rượu chè. Và người phụ trách phụng vụ cũng như người giám thị đã cam kết bỏ phiếu cho Remigius. Tại sao? Tôi không biết, nhưng tôi đoán là Remigius hứa cho người phụ trách phụng vụ làm tu viện phó và người giám thị lên chức phụ trách phụng vụ, như một phần thưởng cho sự hỗ trợ của họ.”
Philip ngồi bệt xuống bao bột trên nền nhà. “Anh muốn nói rằng Remigius đã chuẩn bị xong cho cuộc bầu cử?”
Cuthberth không trả lời ngay. Ông đứng lên, đi tới hướng khác của nhà kho, nơi ông đã chuẩn bị theo hàng một bồn tắm bằng gỗ đầy lươn sống, một xô nước sạch, và một thùng chứa một phần ba nước muối. “Hãy giúp tôi,” ông nói. Ông lấy ra một con dao. Ông chọn một con lươn từ trong bồn tắm, đập đầu nó xuống sàn đá, sau đó dùng dao rút ruột nó. Ông đưa con lươn, vẫn còn quần quại cho Philip. “Hãy rửa nó trong xô, sau đó thả nó vào thùng,” ông nói. “Cái này sẽ làm giảm sự thèm ăn của chúng ta trong mùa chay.”
Philip rửa con lươn nửa sống nửa chết trong xô nước một cách cẩn thận như ông có thể, rồi thả nó vào trong nước muối.
Cuthberth bắt con lươn khác và nói: “Còn có một người, một ứng viên có thể là một tu viện trưởng cải tổ tốt và chức vụ của người đó hiện nay, mặc dù dưới tu viện phó, nhưng ngang hàng với người phụ trách phụng vụ hay quản lý.”
Philip thả con lươn vào thùng. “Ai vậy?”
“Anh.”
“Tôi?” Philip quá ngạc nhiên, ông thả con lươn trên sàn nhà. Về mặt tổ chức hành chính, ông có chức vụ trong ban lãnh đạo của tu viện, nhưng ông chẳng bao giờ nghĩ ông ngang hàng với người phụ trách phụng vụ hoặc những người khác, bởi vì tất cả đều hơn ông nhiều tuổi. “Tôi còn quá trẻ -”
“Hãy nghĩ về việc đó,” Cuthberth nói. “Anh đã sống cả đời trong tu viện. Anh đã làm quản lý vào lứa tuổi hai mươi mốt. Anh đã làm tu viện trưởng của một tu viện nhỏ từ bốn hay năm năm nay – và anh đã cải tổ nó. Đối với mọi người, rõ ràng là bàn tay Chúa ở trên anh.”
Philip bắt lại được con lươn trốn chạy trên nền nhà và bỏ nó vào thùng nước muối. “Bàn tay Chúa ở với mọi người,” ông nói như đánh lạc hướng. Một phần nào ông choáng váng với đề nghị của Cuthberth. Ông muốn một tu viện trưởng mới đầy năng lực cho Kingsbridge, nhưng ông không nghĩ chính ông sẽ đảm nhiệm chức vụ này. “Đúng, tôi có thể là một tu viện trưởng tốt hơn Remigius,” ông trầm ngâm nói.
Cuthberth trông có vẻ hài lòng. “Nếu anh có lỗi, Philip, đó là sự ngây thơ của anh.”
Philip không nghĩ mình quá ngây thơ. “Ý anh muốn nói gì?”
“Anh không quan tâm đến động cơ thúc đẩy trong con người. Hầu hết chúng ta cũng vậy. Thí dụ như cả tu viện đã giả định anh là một ứng viên và anh đến đây để thu hút phiếu của họ.”
Philip phẫn nộ. “Lý do nào đã khiến họ nghĩ như thế?”
“Hãy thử nhìn vào hành vi của chính anh bằng một cái nhìn của một đầu óc đa nghi: Anh đến đây không hẹn trước. Anh đến đây chỉ vài ngày sau khi Tu viện trưởng James qua đời, như thể có một người thân cận của anh gửi cho anh một thông điệp bí mật.”
“Nhưng làm sao họ có thể tưởng tượng được tôi đã chuẩn bị điều đó?”
“Họ không biết, nhưng họ tin rằng anh thông minh hơn họ.” Cuthberth tiếp tục làm một con lươn khác. “Và hãy nhìn xem thái độ của anh ngày hôm nay. Anh đi vào, ra lệnh dọn chuồng ngựa. Rồi anh xử sự với người phá rối trong thánh lễ. Anh nói về việc thuyên chuyển William Beavis tới nhà khác, khi mọi người đều biết rằng việc thuyên chuyển tu sĩ từ nhà này sang nhà khác là đặc quyền riêng của tu viện trưởng. Anh ngầm chỉ trích Remigius khi lấy một hòn đá nóng cho thầy Paul trên cầu. Và sau cùng anh đem một miếng pho mát thơm ngon cho nhà bếp - và chúng tôi đều có một miếng sau bữa ăn tối – và mặc dù không ai nói pho mát từ đâu đến, nhưng không ai có thể nhầm lẫn được hương vị pho mát từ tu viện St. John trong rừng.
Philip bối rối khi nghĩ rằng hành động của ông đã bị hiểu sai như vậy. “Bất cứ người nào cũng làm như thế.”
“Bất cứ tu sĩ lớn tuổi nào cũng có thể làm một việc. Nhưng không ai khác có thể làm tất cả. Anh đi vào và thay đổi! Anh đã bắt đầu cải cách. Và dĩ nhiên, người thân cận của Remigius đã phản kháng lại. Đó là lý do tại sao người phụ trách phụng vụ đã trách mắng anh trong hành lang tu viện.”
“Thì ra đó là lời giải thích! Tôi tự hỏi chuyện gì đã xẩy ra cho ông ấy.” Philip trầm ngâm khi rửa con lươn. “Và tôi đoán rằng khi người giám thị ra lệnh bắt tôi bỏ bữa ăn, đó cũng là vì cùng một lý do.”
“Chính xác.” Đó là cách hạ anh xuống trước mặt các tu sĩ khác. Tôi nghi ngờ cả hai trường hợp đều phản tác dụng: Cả hai lời khiển trách đều vô lý, tuy nhiên anh đã chấp nhận nó một cách vui vẻ. Thực tế thái độ của anh trông rất thánh thiện.”
“Tôi làm điều đó không vì mục đích gì.”
“Các thánh cũng không. Có tiếng chuông báo hiệu giờ kinh chiều. Tốt hơn anh để những con lươn lại cho tôi. Sau giờ kinh là giờ học, và trong khuôn viên tu viện cho phép thảo luận. Một số anh em muốn nói chuyện với anh.”
“Đừng đi quá xa!” Philip lo âu nói. “Mọi người giả định tôi muốn trở thành tu viện trưởng, không có nghĩa là tôi sẵn sàng ứng cử.” Viễn tượng về một cuộc tranh cử đối với ông là một điều không thoải mái. Ngoài ra ông cũng không chắc chắn với chính mình: Tôi có thực sự sẵn sàng từ bỏ tu viện của tôi trong rừng, một tu viện bây giờ đã vào nề nếp để đánh đổi lấy những vấn đề phức tạp của Kingsbridge không? “Tôi cần thời gian suy nghĩ,” ông năn nỉ.
“Tôi biết,” Cuthberth đứng thẳng lên, nhìn vào mắt Philip. “Khi anh suy nghĩ, làm ơn nhớ đến điều này: Tự hào quá mức là một tội quen thuộc, nhưng một người cũng dễ dàng chống lại ý Chúa qua sự khiêm nhường quá mức.”
Philip gật đầu. “Tôi nhớ. Cảm ơn anh.”
Ông rời khỏi nhà kho và vội vã vào tu viện. Tâm trí ông hỗn loạn khi ông theo các tu sĩ khác vào nhà thờ. Ông nhận ra ông bị cảm kích dữ dội trước viễn tượng có thể trở thành tu viện trưởng của Kingsbridge. Đã nhiều năm qua ông tức giận về cách hoạt động đáng hổ thẹn của tu viện, và bây giờ ông có cơ hội để đem tất cả vào trật tự theo ý mình. Bất ngờ ông không chắc ông có thể làm được việc đó không. Vấn đề không phải là chỉ xem những gì cần phải làm và ra lệnh làm việc đó: Con người phải được thuyết phục, bất động sản phải được quản lý, tiền bạc phải được làm ra. Đó là công việc dành cho một đầu óc khôn ngoan. Và trách nhiệm thật nặng nề!
Như mọi khi, nhà thờ cho ông bình an. Sau hành vi sai trái vào buổi sáng hôm nay, các tu sĩ bây giờ yên lặng và nghiêm trang. Khi ông lắng nghe lời kinh quen thuộc và lập lại đáp ca như ông đã làm nhiều năm nay, ông cảm thấy tâm trí ông rõ ràng hơn.
Tôi có muốn thành tu viện trưởng của Kingsbridge không? ông tự hỏi, và câu trả lời đến ngay lập tức: có! Để ngăn ngừa sự đổ nát của nhà thờ này, để sửa sang và sơn phết lại nó và đổ đầy nó với tiếng ca của hàng trăm tu sĩ và tiếng của hàng ngàn giáo dân cùng đọc lên “Lạy Cha” – Chỉ cho riêng những điều đó, ông muốn nhận trách nhiệm. Rồi còn tài sản của tu viện phải tổ chức và hồi sinh lại, làm cho chúng phát triển và sinh lợi. Ông muốn nhìn thấy từng đám trẻ ngồi học đọc và viết trong góc tu viện. Ông muốn nhà khách đầy ánh sáng và hơi ấm để các bá tước và các giám mục đến thăm và tặng lại tu viện những món quà quý giá. Ông muốn một thư viện có đầy những sách về kiến thức. Vâng, ông muốn trở thành tu viện trưởng của Kingsbridge.
Còn vì lý do nào khác không? Ông tự hỏi. Khi tôi hình dung tôi là một tu viện trưởng, tôi làm những điều này vì vinh danh Thiên Chúa, tôi có một chút tự hào nào trong trái tim tôi không?”
Ồ, có chứ.
Trong bầu khí lạnh và thánh thiện của nhà thờ, ông không thể tự lừa dối mình. Mục đích của ông là làm vinh danh Chúa, nhưng làm vinh danh Philip cũng làm ông thích thú. Ông thích ý tưởng khi ông ra lệnh mà không ai có thể từ chối. Ông tưởng tượng mình đang quyết định và xử án, khuyên bảo và khuyến khích, ban việc đền tội và ân xá như ông cảm thấy phù hợp. Ông tưởng tượng dân chúng nói: “Philip thành Gwynedd đã cải tổ nơi đây. Trước đây nó đáng khiển trách biết bao, nhưng bây giờ hãy nhìn vào nó kìa!”
Nhưng tôi sẽ làm tốt, ông nghĩ. Thiên chúa cho tôi bộ não để quản lý tài sản và khả năng để lãnh đạo các nhóm người. Tôi đã chứng tỏ điều đó khi làm quản lý ở Gwynedd và làm tu viện trưởng ở St.John trong rừng. Và khi tôi điều hành công việc, các tu sĩ được hạnh phúc. Trong tu viện của tôi không có những người già bị nứt chân và những người trẻ không thất vọng vì thiếu việc. Tôi chăm sóc đến mọi người.
Mặt khác, nếu so sánh với tu viện ở Kingsbridge thì cả hai tu viện Gwynedd và St. John trong rừng dễ dàng hơn. Tu viện ở Gwynedd luôn luôn tiến triển tốt. Tu viện chi nhánh trong rừng có vài rắc rối khi ông đảm nhận trách nhiệm, nhưng nó nhỏ bé và dễ kiểm soát. Cải cách Kingsbridge là một công việc đòi hỏi cả đời người. Phải mất hàng tuần để tìm ra nguồn tài nguyên của nó, thí dụ như bao nhiêu đất, ở đâu và đất để làm gì, đất là rừng hay đồng cỏ hay đồng lúa mì. Phải mất cả năm để có thể kiểm soát tài sản phân tán, để tìm xem điều gì sai và đưa vào trật tự, và để nối kết các phần tử thành một tổng thể. Tất cả những gì Philip đã làm được ở tu viện trong rừng là thúc đẩy cho khoảng chục tu sĩ trẻ chịu khó làm việc ngoài đồng và cầu nguyện nghiêm trang trong nhà thờ.
Đúng rồi, ông thừa nhận, động cơ thúc đẩy tôi không tinh tuyền và khả năng của tôi không chắc chắn. Có lẽ tôi nên từ chối việc đề cử. Ít nhất qua đó tôi tránh được tội háo danh. Nhưng Cuthberth đã nói gì? “Một người cũng dễ dàng chống lại ý Chúa qua sự khiêm hạ quá mức.”
Chúa muốn gì? Sau cùng ông tự hỏi. Chúa có muốn Remigius không? Khả năng của Remigius không bằng tôi và động cơ thúc đẩy ông có lẽ cũng không tinh ròng. Còn có ứng viên khác không? Hiện tại không. Nếu Chúa không tỏ ra một chọn lựa thứ ba, chúng ta phải chọn lựa giữa tôi và Remigius. Rõ ràng rằng Remigius sẽ lãnh đạo tu viện theo cách ông đã lãnh đạo nó khi Tu viện trưởng James bị bệnh. Nợ nần và vô công rỗi việc vẫn tiếp tục, không có biện pháp nào ngăn chặn sự sụp đổ của tu viện. Và tôi? Tôi đầy tự hào và tài năng của tôi cần phải kiểm chứng. Nhưng tôi sẽ cố gắng cải tổ tu viện, và nếu Chúa cho tôi sức mạnh, tôi sẽ thành công.
Được rồi, sau đó ông nói với Chúa khi giờ kinh chấm dứt: Con sẽ nhận lời đề cử và con sẽ chiến đấu với tất cả sức mạnh của con để thắng được cuộc bầu cử; và nếu Chúa không muốn con vì bất cứ lý do nào, Chúa có thể ngăn con lại bằng cách nào Chúa muốn.
Mặc dù Philip đã sống trong tu viện hai mươi hai năm, nhưng ông sống trong thời kỳ lâu dài của các tu viện trưởng, vì thế ông chưa trải qua cuộc bầu cử tu viện trưởng nào. Nó là một biến cố độc đáo trong đời sống tu viện, bởi vì trong việc bỏ phiếu các tu sĩ không phải vâng lời – bất ngờ, mọi người đều bình đẳng.
Đã có một thời, nếu truyền thuyết là sự thật, các tu sĩ bình đẳng trong mọi sự. Một nhóm người quyết định quay lưng lại với thế giới ham muốn xác thịt và xây dựng một nơi thánh trong sa mạc, nơi họ sống cuộc sống thờ phượng Thiên Chúa và tự kềm chế bản thân; và họ chọn lấy một vùng đất cằn cỗi, phá rừng và đắp đầm lầy, rồi họ làm ruộng và cùng nhau xây nhà thờ. Trong thời kỳ này họ thật sự là anh em. Tu viện trưởng, như danh hiệu ngụ ý, chỉ có nghĩa là người đầu tiên trong số anh em ngang hàng, và họ hứa vâng lời quy luật của Thánh Biển Đức, không phải vâng lời ban lãnh đạo. Nhưng tất cả những gì còn lại từ thời dân chủ nguyên thủy đó là cuộc bầu cử tu viện trưởng và viện phụ.
Một vài tu sĩ không biết phải sử dụng quyền bầu cử của họ ra sao. Họ muốn được hướng dẫn phải bỏ phiếu ra sao, hoặc họ muốn trao quyền quyết định cho một ủy ban các tu sĩ già có kinh nghiệm. Một số người khác lạm dụng đặc quyền và trở thành xấc láo; họ đòi hỏi ân huệ cho sự ủng hộ của họ. Hầu hết các tu sĩ lo âu để có một quyết định đúng đắn.
Chiều hôm đó trong tu viện, Philip nói chuyện với hầu hết mọi người, cá nhân hoặc trong nhóm nhỏ. Thẳng thắn ông nói với họ rằng ông muốn lãnh trách nhiệm đó và ông cảm thấy ông có thể làm tốt hơn Remigius vì ông còn trẻ. Ông trả lời câu hỏi của họ, hầu hết là hỏi về đồ ăn và nước uống. Ông chấm dứt mỗi buổi nói chuyện bằng câu nói: “ Nếu mỗi người chúng ta quyết định qua suy tư và cầu nguyện, Thiên Chúa chắc chắn sẽ ban phước cho người được chọn.” Philip biết câu nói này hợp với hoàn cảnh và ông cũng tin điều đó.
“Chúng ta sẽ thắng,” Milius, nhà bếp trưởng, nói vào buổi sáng hôm sau, khi Philip và ông ăn sáng với bánh mì đen và bia.
Philip cắn một miếng lớn và uống một hớp bia để làm bánh mì mềm ra trong miệng. Milius là một người trẻ, thông minh và sinh động. Ông bảo vệ Cuthberth và hâm mộ Philip. Ông có mái tóc đen thẳng, khuôn mặt nhỏ với các nét đều đặn. Cũng như Cuthberth, ông phục vụ Thiên Chúa qua công việc thực tế hàng ngày và bỏ bê nhiều giờ kinh phụng vụ. Philip hoài nghi về sự lạc quan của ông. “Làm sao anh lại đi đến kết luận như thế?” ông nghi ngờ hỏi lại.
“Tất cả những người về phía Cuthberth đều hỗ trợ anh – thầy phụ trách tài chính, thầy lo về y tế, cha giáo tập và tôi – bởi vì chúng tôi biết anh là người cung cấp giỏi, và đây là một vấn đề lớn của tu viện dưới sự lãnh đạo hiện nay. Rất nhiều tu sĩ bình thường muốn bỏ phiếu cho anh chỉ vì một lý do đơn giản: họ nghĩ anh sẽ lãnh đạo tu viện tốt hơn, và điều đó có nghĩa là đời sống sẽ thoải mái hơn và có thực phẩm tốt hơn.
Philip nhíu mày. “Tôi không muốn lừa dối ai. Ưu tiên của tôi là sửa sang lại nhà thờ và lo cho các giờ kinh phụng vụ được trang nghiêm. Sau đó mới lo đến ăn uống.”
“Cứ như vậy, và họ cũng biết điều đó,” Milius nói với một chút vội vàng. “Đó là lý do tại sao thầy lo nhà khách và một hai anh em khác vẫn còn muốn bỏ phiếu cho Remigius – họ ưa thích một đời sống thoải mái, dưới một ban lãnh đạo yếu nhược. Những người ủng hộ khác của ông ấy là chân tay hoặc những người mong có được những đặc quyền khi ông ấy lãnh đạo – vị phụ trách phụng vụ, cha giám thị, thầy phụ trách kho tàng và một số người khác. Thầy phụ trách thánh ca là bạn của cha phụ trách phụng vụ, nhưng tôi nghĩ chúng ta có thể thu phục ông ấy về phía chúng ta, đặc biệt nếu anh hứa sẽ chỉ định một người lo về thư viện.
Philip gật đầu. Thầy phụ trách thánh ca lo về âm nhạc, và cảm thấy lo thêm về sách vở là một trách nhiệm quá nặng cho ông. “Đó là một ý tưởng tốt,” Philip nói. “Chúng ta cần một người quản thủ thư viện để xây dựng một bộ sưu tập sách quý giá.”
Milius đứng lên khỏi ghế và mài con dao nhà bếp. Ông có quá nhiều năng lực và phải làm gì với đôi tay của mình, Philip quyết định.
“Có tất cả bốn mươi bốn tu sĩ có quyền bầu cử,” Milius nói. Có tất cả bốn mươi lăm, nhưng một người đã qua đời. “Ước tính tốt nhất của tôi là có mười tám người theo chúng ta và mười người theo Remigius, còn lại mười sáu người chưa quyết định. Chúng ta cần hai mươi ba phiếu cho đủ đa số. Điều đó có nghĩa là anh cần thêm năm phiếu từ những người còn do dự.”
“Cứ như anh nói, nó có vẻ dễ dàng,” Philip nói. “Còn bao lâu nữa sẽ đến cuộc bầu cử?”
“Tôi không thể nói được. Các tu sĩ được quyền xác định ngày bỏ phiếu. Nhưng nếu chúng ta tiến hành nhanh quá, giám mục có thể từ chối công nhận cuộc bầu cử. Và nếu chúng ta chậm quá, ngài có thể ra lệnh triệu tập. Ông ấy cũng có quyền đề cử ứng viên. Cho đến bây giờ ông ấy vẫn chưa biết rằng tu viện trưởng cũ đã qua đời.”
“Như vậy nó có thể kéo dài.”
“Đúng. Và bao lâu chúng ta tin rằng mình đã có thể chiếm được đa số phiếu, anh phải trở về tu viện của anh cho đến khi mọi chuyện trôi qua.”
Philip bất ngờ với đề nghị đó. “Tại sao?”
“Sự quen thuộc tạo ra sự coi thường”. Milius thích thú mài dao. “Hãy tha thứ cho tôi nếu tôi nói một cách thiếu tôn trọng, nhưng chính vì anh đã hỏi tôi. Ở thời điểm này anh có một hào quang. Đặc biệt đối với thế hệ trẻ chúng tôi, anh là người chúng tôi ngưỡng phục. Trong tu viện nhỏ của anh, anh đã làm một phép lạ, cải tổ nó và làm cho nó trở thành độc lập. Anh là một tu sĩ kỷ cương, nhưng cũng lo cho các tu sĩ ăn uống đầy đủ. Anh sinh ra là một nhà lãnh đạo nhưng anh cũng có thể cúi đầu chấp nhận lời khiển trách như một tập sinh trẻ. Anh hiểu Kinh Thánh và anh cũng có thể làm loại pho mát tốt nhất trong vùng.”
“Và anh nói hơi quá!”
“Không nhiều quá!”
“Tôi không nghĩ là mọi người lại nghĩ về tôi như vậy – đó là điều không bình thường.”
“Tôi đồng ý với anh điểm đó,” Milius nói với một cái nhún vai. “Và nó sẽ không kéo dài một khi họ biết anh nhiều hơn. Anh sẽ đánh mất hào quang đó, nếu anh ở lại đây. Họ sẽ nhìn thấy anh móc răng và cào mông, họ sẽ nghe thấy anh ngáy và đánh rắm, họ sẽ biết tâm tính của anh, cách anh ứng xử khi anh nóng tính, khi lòng tự ái của anh bị tổn thương hay khi anh đau đầu. Chúng ta không muốn họ biết điều đó. Hãy để họ quan sát lỗi lầm và sự cẩu thả của Remigius từ ngày này qua ngày khác, trong khi hình ảnh của anh vẫn tỏa sáng và hoàn hảo trong mắt họ.”
“Tôi không thích như vậy,” Philip nói bằng giọng lo âu. “Có một cái gì đó dối trá trong đó.”
“Không có gì là không trung thực cả,” Milius chống lại. “Đó là một phản ảnh thực sự anh có thể phục vụ Thiên chúa và tu viện như thế nào nếu anh là tu viện trưởng – và Remigus sẽ lãnh đạo xấu như thế nào.”