Chương 2 (B)
II - Vào buổi trưa ngày thứ hai của cuộc hành trình, Tu viện trưởng Philip chỉ còn cách tòa giám mục vài dặm đường. Khi càng đến gần, lòng ông càng rộn lên. Ông đã nghĩ ra cách để giải thích làm sao ông biết tin về âm mưu của cuộc nổi dậy. Nhưng có thể giám mục không tin, hoặc tin nhưng đòi bằng chứng. Tệ hơn nữa – điều này trước đó Philip đã không nghĩ đến, nhưng chỉ có từ sau khi Francis đi khỏi, và nó là điều có thể hình dung nhưng khó có thể xẩy ra – nếu giám mục thuộc về nhóm những người chủ mưu và ủng hộ nhóm nổi loạn. Ông ấy có thể là bạn thân của bá tước ở Shiring. Việc có nhiều giám mục đặt quyền lợi cá nhân lên trên quyền lợi của giáo hội thì không có gì lạ.
Giám mục có thể tra tấn Philip để ông tiết lộ nguồn thông tin. Dĩ nhiên ông không có quyền này, nhưng Philip cũng không có quyền chống lại hoàng gia. Philip nhớ lại những dụng cụ tra tấn được vẽ trong các bức tranh về hỏa ngục. Những bức tranh này lấy cảm hứng từ những gì xẩy ra trong ngục tối của các bá tước và giám mục. Philip cảm thấy ông không có đủ sức mạnh để chết vì đạo.
Khi ông nhìn thấy một nhóm lữ hành trên đường trước mặt, bản năng tự vệ đầu tiên của ông là tránh họ, bởi vì ông đi một mình và có nhiều kẻ trộm trên đường không do dự ăn cắp của các tu sĩ. Rồi ông nhìn thấy hai nhân vật là trẻ em, và người khác là một phụ nữ. Một nhóm gia đình thường an toàn hơn. Ông lon ton đến gần họ.
Khi đến gần ông có thể nhìn thấy họ rõ hơn. Họ là một người đàn ông cao lớn, một đàn bà nhỏ con, một thanh niên cao như người đàn ông, và hai trẻ em. Bên ngoài trông họ nghèo khổ: họ không mang theo gói tài sản nhỏ nào và họ ăn mặc rách rưới. Người đàn ông lớn xương, nhưng hốc hác, như ông bị bệnh hoặc đói ăn. Ông cảnh giác nhìn Philip, và âu yếm kéo các trẻ em đến gần ông và nói thì thầm điều gì đó. Lúc đầu Philip đoán ông ta khoảng năm mươi tuổi, nhưng bây giờ ông thấy người đàn ông khoảng ba mươi, mặc dù khuôn mặt ông có nhiều vết nhăn vì lo âu.
Người đàn bà nói: “Ồ! Tu sĩ.”
Philip nhìn thẳng vào bà. Đó là điều không bình thường khi người đàn bà lên tiếng trước chồng và nói bất lịch sự đối với một tu sĩ, vì một cách tôn trọng bà phải xưng hô bằng “thầy” hoặc bằng “cha”. Người đàn bà trẻ hơn chồng khoảng mười tuổi, và bà có đôi mắt sâu màu vàng ròng nhạt khác thường, tạo nên một sức dấp dẫn. Philip cảm thấy bà nguy hiểm.
“Chào cha,” người đàn ông nói, như để xin lỗi về thái độ vô lễ của vợ.
“Xin Chúa chúc lành cho ông,” Philip nói, cho ngựa đi chậm lại. “Ông là ai?”
“Tom, một thợ xây, đang tìm kiếm việc làm.”
“Và không tìm thấy việc gì, tôi đoán thế.”
“Đúng như vậy.”
Philip gật đầu. Đó là câu chuyện phổ biến. Thợ xây dựng thủ công thường lang thang tìm việc, và một đôi khi họ không tìm được việc làm vì không may mắn hoặc không có nhiều người xây dựng. Những người này thường tận dụng lòng hiếu khách của tu viện. Nếu trước đó họ có việc làm, khi họ ra đi họ sẽ dâng cúng nhiều, hoặc họ đã đi tìm việc lâu rồi và chẳng có gì để dâng cúng. Chào đón thân tình cả hai hạng người trên, là một biểu hiện lòng từ tâm của tu viện.
Người thợ xây này chắc chắn không có một xu dính túi, mặc dù vợ ông trông đàng hoàng. Philip nói: “Thôi, tôi có vài đồ ăn trong túi, và bây giờ là giờ cơm trưa, và bác ái là một bổn phận thiêng liêng; vì thế nếu ông và gia đình cùng ăn với tôi, tôi sẽ nhận được phần thưởng trên trời, cũng như tôi có người ăn chung.”
“Ông thật tốt,” Tom nói. Ông nhìn người đàn bà. Bà ta nhún vai, rồi gật đầu nhẹ. Không ngập ngừng người đàn ông nói: “Chúng tôi chấp nhận lòng bác ái của ông và cảm ơn ông.”
“Cảm ơn Chúa, không phải cảm ơn tôi,” Philip nói một cách máy móc.
Người đàn bà nói: “Cảm ơn những nông dân, người đã cung cấp một phần mười đồ ăn,”
Đây là người đàn bà sắc bén, Philip nghĩ nhưng không nói gì.
Philip dừng lại ở một khoảng đất khai hoang nhỏ, nơi con ngựa nhỏ của ông có thể tìm được cỏ héo úa của mùa đông. Trong lòng Philip mừng thầm vì có cớ để đến tòa giám mục trễ hơn và trì hoãn cuộc nói chuyện đáng sợ với giám mục. Người thợ xây nói ông cũng trên đường đến tòa giám mục, hy vọng giám mục muốn sửa sang hoặc xây dựng thêm. Khi họ nói, Philip ngấm ngầm quan sát gia đình. Người đàn bà quá trẻ để có thể là mẹ của chàng trai lớn nhất. Cậu như con bê, mạnh mẽ, vụng về và nhìn một cách ngu ngốc. Chàng thanh niên khác nhỏ và khác thường, tóc màu cà rốt, da trắng như tuyết và cặp mắt lồi xanh sáng; và cậu nhìn mọi chuyện một cách chăm chú với một cái nhìn trống vắng, Philip nhớ đến Johnny Eightpence, chỉ có điều khác biệt là cậu bé này cho bạn một cái nhìn hiểu biết và trưởng thành. Trong cách thức của cậu, cậu cũng phức tạp như mẹ cậu, Philip nghĩ. Đứa trẻ thứ ba là một bé gái khoảng sáu tuổi. Cô liên tục khóc, và bố cô quan tâm đến cô với sự lo lắng yêu thương, luôn vỗ nhẹ an ủi cô, mặc dù ông không nói gì. Rõ ràng ông thích cô bé. Ông cũng vỗ về vợ ông, một lần, và Philip bắt gặp cái nhìn thèm muốn thể xác khi mắt họ gặp nhau.
Người đàn bà sai các trẻ em đi tìm lá to để dùng làm đĩa. Philip mở túi. Tom nói: “Thưa cha, tu viện của ông ở đâu?”
“Trong rừng, cách đây một ngày đàng về phía tây.” Người đàn bà sắc sảo nhìn và Tom ngước đôi mắt nâu. “Ông có biết tu viện đó không?” Philip hỏi.
Vì lý do gì đó, Tom nhìn một cách khó xử. “Trên đường đến Salisbury, chúng tôi đã phải qua gần đó,” ông nói.
“Ô, dĩ nhiên, ông sẽ phải, nhưng nó ở xa đường chính, vì thế mà ông sẽ không nhìn thấy nó, trừ khi ông biết nó ở đâu và đi tìm nó.”
“À, tôi hiểu,” Tom nói mà tâm trí ông dường như ở chỗ khác.
Philip chợt có một ý tưởng. “Hãy kể cho tôi – ông bà có gặp người phụ nữ nào trên đường đi không? Một phụ nữ có lẽ còn rất trẻ, đi một mình, và, với một trẻ thơ không?”
“Không,” Tom nói. Giọng của ông bình thường nhưng Philip cảm thấy ông quan tâm sâu xa. “Tại sao ông lại hỏi thế?”
Philip mỉm cười.”Tôi sẽ kể cho ông bà nghe. Buổi sáng ngày hôm qua một trẻ sơ sinh được tìm thấy trong rừng và được đem đến tu viện của tôi. Nó là một bé trai và tôi nghĩ nó chỉ mới sinh được một ngày. Nó có thể mới sinh đêm hôm trước. Vì thế người mẹ của đứa bé phải ở trong vùng cùng thời gian với ông.”
“Chúng tôi không thấy ai cả,” Tom lập lại. “Ông làm gì với đứa bé?”
“Cho nó ăn bằng sữa dê. Cậu bé dường như hợp với nó.”
Cả hai chăm chú nhìn Philip. Ông nghĩ câu chuyện đánh động trái tim mỗi người. Một lúc sau Tom nói: “ Ông đang đi tìm người mẹ của đứa bé, phải không?”
“Ồ, không. Tôi chỉ tình cờ hỏi vậy thôi. Nếu tôi gặp bà ấy, dĩ nhiên tôi sẽ trao trả đứa bé lại cho bà, nhưng rõ ràng là bà không muốn nó và bà không muốn người khác tìm ra bà.”
“Vậy điều gì sẽ xẩy ra cho đứa bé?”
“Chúng tôi sẽ nuôi nó lớn lên trong tu viện. Nó sẽ là con của Chúa. Chính tôi đã được nuôi nấng qua cách này, và em tôi cũng vậy. Bố mẹ của chúng tôi qua đời sớm, khi chúng tôi còn bé, và sau đó vị viện phụ là bố, và các tu sĩ là gia đình của chúng tôi. Chúng tôi được nuôi ăn, được ấm áp và chúng tôi được học.”
Người đàn bà nói: “Và cả hai trở thành tu sĩ.” Bà nói điều đó với một chút mỉa mai, như thể nó chứng tỏ rằng việc từ thiện của tu viện sau cùng cũng chỉ vì quyền lợi của mình.
Philip vui vì có thể phản đối lại bà. “Không, em trai tôi rời tu viện.”
Những đứa trẻ trở về. Chúng không tìm được lá lớn nào – điều này không dễ trong mùa đông – vì thế họ ăn không có đĩa. Philip cho họ tất cả bánh và pho mát. Họ nhào vào đồ ăn như những con vật chết đói. “Chúng tôi tự làm lấy pho mát này trong tu viện,” ông nói. “Hầu hết mọi người thích nó, khi nó mới, giống như thế này, nhưng nó sẽ ngon hơn nếu để nó chín mùi. Họ quá đói để lắng nghe điều đó. Họ ăn sạch bánh và pho mát trong thời gian ngắn. Philip có ba trái lê. Ông lấy nó từ trong túi ra và trao cho Tom. Tom chia cho mỗi đứa trẻ một trái.
Philip đứng lên. “Tôi sẽ cầu nguyện cho ông tìm được việc làm.”
Tom nói: “Nếu ông nhớ, thưa cha, ông có thể nói điều đó với giám mục. Ông biết nhu cầu của chúng tôi và ông biết chúng tôi trung thực.”
“Tôi sẽ nói.”
Tom giữ ngựa trong khi Philip trèo lên. “Ông là người tốt, thưa cha,” ông nói, và Philip ngạc nhiên khi thấy nước mắt trong mắt Tom.
“Chúa ở cùng ông,” Philip nói.
Tom giữ đầu ngựa một lúc lâu. “Đứa trẻ mà ông kể về - đứa trẻ được tìm thấy.” Ông nói nhỏ như sợ những đứa trẻ khác nghe thấy. “Ông đã… đặt tên cho nó chưa?”
“Rồi. Chúng tôi gọi nó là Jonathan, nghĩa là một món quà của Thiên Chúa.”
“Jonathan, tôi thích tên đó.” Tom rời dây cương.
Philip tò mò nhìn ông một lúc, rồi trẩy ngựa đi.
Giám mục của Kingsbridge không sống ở Kingsbridge. Dinh thự của ông ở miền Nam – trên sườn đồi đối diện trong một thung lũng xinh tươi, xa nhà thờ lạnh lẽo bằng đá và các tu sĩ buồn thảm khoảng một ngày đường. Philip thấy như vậy cũng đúng, vì nếu phải lo quá nhiều cho công việc nhà thờ, ông sẽ sao lãng những nhiệm vụ khác như thu tiền thuê nhà đất, xử án và vận động ở triều đình. Điều đó cũng tốt cho các tu sĩ nữa, vì giám mục ở càng xa, ngài sẽ ít can thiệp hơn vào công việc của họ.
Trời đủ lạnh để tuyết rơi vào buổi chiều hôm Philip đến. Một cơn gió lạnh thổi qua thung lũng giám mục và những đám mây thấp màu xám che lấp căn nhà bằng đá cẩm thạch trên sườn đồi. Đó không phải là tòa lâu đài, nhưng nó được bảo vệ kỹ càng. Khu rừng xung quanh được dọn sạch khoảng một trăm dặm. Căn nhà được bao bọc bởi một hàng rào gỗ cao bằng đầu người, với một thông hào chứa nước mưa bên ngoài. Lính canh ở ngoài cổng có thái độ cẩu thả, nhưng gươm của họ nặng.
Dinh thự là một ngôi nhà đẹp bằng đá có hình chữ E. Tầng trệt là một nhà nguyện hầm, nhiều cửa to nặng nằm trong bức tường dầy, nhưng không có cửa sổ. Một cánh cửa mở rộng, qua đó Philip nhìn thấy thùng và bao tải trong bóng tối. Những cửa khác đóng chặt và được xích lại. Philip tự hỏi không biết có gì ở đàng sau đó: nếu giám mục có các tù nhân thì đây sẽ là nơi giam giữ họ.
Cánh giữa của chữ E là một cầu thang bên ngoài dẫn lên khu phòng khách bên trên nhà nguyện. Căn phòng chính, đường thẳng đứng của chữ E, là hành lang. Hai phòng tạo thành đầu và cuối của E là một ngôi nhà nguyện và phòng ngủ, Philip đoán như thế. Có những cửa sổ chớp nhỏ như những mắt tròn nhỏ nghi ngờ nhìn ra thế giới bên ngoài.
Cùng thuộc về dinh thự là một nhà bếp và một lò nướng bánh mì bằng đá cũng như chuồng xúc vật bằng gỗ và một nhà kho. Tất cả tòa nhà trong tình trạng tốt – đó là điều không may cho thợ xây Tom, Philip nghĩ.
Có vài con ngựa tốt trong chuồng, vài nhân viên phục vụ, một nhóm kỵ binh rải rác khắp nơi. Có lẽ giám mục có khách.
Philip đưa ngựa cho một cậu bé trông ngựa và bước lên bậc thềm với một linh cảm về cảnh tượng của một nơi đầy cảm giác chiến tranh kinh hoàng. Đâu là những hàng dài những người đến khiếu kiện, những bà mẹ với trẻ em đến để xin phúc lành? Ông bước vào một thế giới xa lạ, và ông đang nắm giữ một bí mật nguy hiểm. Có thể một thời gian lâu nữa tôi mới có thể ra khỏi nơi này, ông sợ hãi nghĩ. Ước gì Francis đã chẳng sai tôi đến đây.
Ông lên đến đầu cầu thang. Đó là những tư tưởng không xứng đáng, ông tự nhủ. Nơi đây tôi có cơ hội phục vụ Thiên Chúa và giáo hội, và tôi lại lo lắng về sự an toàn của chính mình. Một số người phải đối diện với nguy hiểm mỗi ngày, ngoài trận tuyến, trên biển khơi, trên cuộc hành hương và trong cuộc thập tự chinh. Ngay cả một tu sĩ đôi khi cũng phải chịu đựng sợ hãi và run rẩy.
Ông hít một hơi dài rồi bước vào.
Hội trường tối tăm và mờ khói. Philip đóng nhanh cửa để tránh không khí lạnh tràn vào, rồi chăm chú nhìn vào bóng tối. Một đống lửa sáng rực ở phía đối diện với căn phòng. Ánh lửa đó và những cánh cửa sổ nhỏ cung cấp ánh sáng duy nhất cho căn phòng. Chung quanh đống lửa là một nhóm người, một vài người trong y phục giáo sĩ và những người khác trong y phục đắt tiền nhưng đã cũ kỹ thuộc giới quý tộc thấp kém. Họ đang tham gia thảo luận, giọng họ thấp và rõ ràng. Chỗ ngồi của họ không xếp đặt, nhưng tất cả nhìn và nói với một linh mục, người ngồi ở giữa nhóm giống như con nhện ở giữa mạng. Ông là một người gầy, và cách ông để chân cũng như cánh tay dài để trên thành ghế trông như thể ông đang chuẩn bị nhẩy lên. Với mái tóc đen bóng, khuôn mặt nhợt nhạt, cái mũi nhọn và bộ y phục đen tạo cho ông vẻ đẹp và đe dọa.
Nhưng ông không phải là giám mục.
Người quản lý đứng dậy khỏi ghế bên cửa và nói với Philip: “Chào cha, ông muốn gặp ai?” Cùng lúc một con chó săn nằm bên đống lửa ngẩng đầu lên và gầm gừ. Người đàn ông trong y phục đen ngẩng nhanh đầu lên, nhìn thấy Philip và chấm dứt cuộc nói chuyện ngay lập tức bằng cách dơ một cánh tay lên. “Cái gì vậy?” ông nói cọc cằn.
“Kính chào,” Philip nói lịch sự. “Tôi đến đây gặp giám mục.”
“Ngài không có ở đây,” vị linh mục nói thô bạo.
Trái tim Philip trĩu nặng. Ông đã khiếp sợ cuộc nói chuyện và nguy hiểm của nó, nhưng bây giờ ông cảm thấy công ông đến đây thành vô ích. Ông sẽ làm gì với bí mật khủng khiếp của mình? Ông nói với vị linh mục: “Khi nào giám mục sẽ trở lại?”
“Chúng tôi không biết. Ông có việc gì với ngài?”
Giọng nói của vị linh mục thô lỗ và Philip thấy đau. “Công việc của Thiên Chúa,” ông nói sắc sảo. “Ông là ai?”
Vị linh mục nhướng mày, ngạc nhiên khi bị thách đố, và những người khác hoàn toàn yên lặng, như thể đang chờ đợi một cuộc bùng nổ; nhưng sau một lúc ông trả lời nhẹ nhàng. “Tôi là tổng đại diện của giám mục. Tên tôi là Waleran Bigod.”
Một tên hay cho một linh mục, Philip nghĩ. Ông nói: “Tên tôi là Philip. Tôi là tu viện trưởng tu viện Thánh Gioan trong rừng, một chi nhánh của tu viện Kingsbidge.”
“Tôi đã nghe nói về ông,” Waleran nói. “Ông là Philip thành Gwynedd.”
Philip rất ngạc nhiên. Ông không thể tưởng tượng nổi tại sao một vị tổng đại diện có thể biết được tên của một người thấp bé như ông. Nhưng thứ hạng của ông, mặc dù nó khiêm tốn, nhưng cũng đủ làm thay đổi thái độ của Waleran. Cái nhìn cáu gắt biến mất trên khuôn mặt của vị tổng đại diện. “Hãy đến bên ngọn lửa,” ông nói. “Ông có muốn một ly rượu nóng làm nóng người không?” Ông ra hiệu cho một người ngồi trên ghế dựa vào tường và một nhân vật rách rứa đứng lên làm nhiệm vụ.
Philip đến gần lửa. Waleran nói điều gì đó nhỏ nhẹ và những người khác đứng lên và bắt đầu ra về. Philip ngồi xuống, hâm nóng bàn tay, trong khi Waleran đi theo khách ra cửa. Philip thắc mắc không biết họ bàn chuyện gì, và tại sao vị tổng đại diện không kết thúc buổi họp bằng lời cầu nguyện.
Người đầy tớ rách rưới trao cho ông một tách bằng gỗ. Ông nhấp một ngụm rượu gia vị nóng và chuẩn bị cho bước đi kế tiếp. Nếu không gặp được giám mục, Philip nên quay sang ai? Ông nghĩ đến việc đi gặp Bá tước Bartholomew và đơn giản xin ông nghĩ lại cuộc nổi loạn của mình. Ý tưởng thật lố bịch: bá tước sẽ nhốt ông trong ngục tối và vất chìa khóa đi. Còn lại là cảnh sát trưởng, người mà trong lý thuyết là đại diện của hoàng gia trong vùng. Nhưng chưa thể nói cảnh sát trưởng đứng về phe nào khi chưa biết ai sẽ là vua. Philip nghĩ, sau cùng tôi phải mạo hiểm. Ông khao khá về lại với đời sống đơn giản của tu viện, nơi mà ông chỉ có kẻ thù nguy hiểm nhất là Peter thành Warenham.
Khách của Waleran đã ra về, và cánh cửa khóa lại tiếng ồn của ngựa trong sân. Waleran trở lại bên đống lửa và kéo lại chiếc ghế lớn.
Philip bận tâm với vấn đề của ông và thực sự không muốn nói chuyện với tổng đại diện, nhưng ông cảm thấy phải cư xử lịch sự. “Tôi hy vọng đã không làm ngưng buổi họp của ông,” ông nói.
Waleran làm một cử chỉ như không quan tâm. “Nó đã hầu như kết thúc,” ông nói. ”Những đề tài này luôn luôn kéo dài. Chúng tôi thảo luận về việc gia hạn hợp đồng cho thuê đất của giáo phận – vấn đề này có thể được giải quyết trong vài phút, nếu những người tham dự có thêm một chút khả năng quyết định.” Ông vẫy bàn tay xương xẩu như muốn đuổi tất cả các hợp đồng thuê mướn và các chủ thuê ra khỏi tâm trí. “Bây giờ, tôi nghe ông đang làm tốt công việc trong tu viện nhỏ trong rừng.”
“Tôi rất ngạc nhiên là ông biết về việc đó,” Philip trả lời.
“Giám mục, theo quyền bính, là viện phụ của tu viện Kingsbridge, vì thế ngài có trách nhiệm phải quan tâm.”
Hay giám mục có một tổng đại diện có đầy đủ thông tin, Philip nghĩ. Ông nói: “Vâng, Thiên chúa đã chúc lành cho chúng tôi.”
“Đúng vậy.”
Họ đang nói tiếng Pháp Norman, ngôn ngữ mà Waleran và khách của ông đã nói, ngôn ngữ của chính phủ; nhưng trong cách phát âm của Waleran có một chút lạ, và sau vài phút Philip nhận ra rằng ngôn ngữ mẹ đẻ của Waleran là tiếng Anh. Điều đó có nghĩa là ông không phải là người qúy tộc Norman, nhưng là một người bản xứ, người đã nỗ lực vươn lên bằng sự cố gắng của mình – giống như Philip.
Một lúc sau điều này được minh xác khi Waleran chuyển sang tiếng Anh và nói: “Tôi cầu mong Chúa ban phúc lành tương tự trên tu viện Kingsbridge.”
Philip không phải là người duy nhất khó chịu về tình trạng ở Kingsbridge. Có lẽ Waleran biết nhiều dữ kiện ở đó hơn Philip. Philip nói: “Tu viện trưởng James ra sao?”
“Bệnh,” Waleran trả lời ngắn gọn.
Như vậy ông ấy không có thể làm điều gì chống lại cuộc nổi loạn của Bá tước Bartholomew, Philip buồn chán nghĩ. Ông sẽ phải đến Shiring và tìm lấy cơ hội với cảnh sát trưởng.
Ông chợt nghĩ ra rằng Waleran là người biết mọi người quan trọng trong miền. “Cảnh sát trưởng của Shiring ra sao?” ông hỏi.
Waleran nhún vai. “Phản đạo, kiêu ngạo, tham nhũng. Tất cả cảnh sát trưởng là như vậy. Tại sao ông lại hỏi như vậy?”
“Nếu tôi không gặp được giám mục, tôi phải đi gặp cảnh sát trưởng.”
“Ông biết đấy, tôi là người thân tín của giám mục,” Waleran nói với một cái mỉm cười. “Nếu tôi có thể giúp…” Ông mở bàn tay, tỏ cử chỉ của một người hào phóng nhưng cũng biết mình có thể bị từ chối.
Philip đã thoải mái một chút vì nghĩ rằng giây phút kinh hoàng bị hoãn lại một hay hai ngày, nhưng bây giờ lòng ông lại đầy âu lo. Ông có thể tin tưởng tổng đại diện Waleran không? Thái độ thoải mái của Waleran dường như chỉ là đóng kịch, ông nghĩ: ông làm như ông không ép nói, nhưng thật ra có lẽ ông đang nôn nao muốn biết những gì Philip muốn nói với giám mục.
Tuy nhiên đó không phải là lý do để không tin tưởng ông. Ông dường như là người khôn ngoan. Ông cứng rắn đủ để làm điều gì đó chống lại nhóm phản loạn? Nếu ông không tự mình làm được, có lẽ ông sẽ liên hệ với giám mục. Philip chợt có một ý tưởng rằng trong thực tế sự tin tưởng vào Waleran có một ưu thế lớn; bởi vì giám mục có lẽ đòi biết nguồn thông tin thật của Philip, tổng đại diện không có quyền làm chuyện đó, và ông phải bằng lòng với câu chuyện mà Philip kể cho ông, cho dù ông tin hay không.
Waleran mỉm cười một lần nữa. “Nếu ông còn nghĩ lâu hơn, tôi bắt đầu tin rằng ông không tin tưởng tôi!”
Philip cảm thấy ông hiểu Waleran. Waleran là một người giống ông: trẻ, có học thức và thông minh. Ông quá trần tục đối với quan điểm của Philip, có lẽ, nhưng điều này có thể tha thứ được cho một linh mục, người phải dành nhiều thời gian của mình cho các chủ điền và đàn bà, và không có may mắn được sự che chở của tu viện. Waleran là một người ngoan đạo từ trong tâm hồn, Philip nghĩ. Ông sẽ làm điều đúng cho giáo hội.
Philip ngập ngừng trước khi quyết định. Cho đến bây giờ chỉ có ông và Francis biết bí mật. Khi ông kể cho người thứ ba, một điều gì đó sẽ xẩy ra. Ông hít một hơi dài.
“Ba ngày trước, một người bị thương đến tu viện của tôi trong rừng,” ông bắt đầu, âm thầm cầu nguyện xin tha thứ cho sự nói dối của ông. “Ông ấy là người có vũ trang, đi con ngựa đẹp và nhanh, và ông đã vượt qua một hoặc hai dặm đường. Ông phải cưỡi ngựa nhanh lắm, vì khi ngã, tay ông và xương sườn bị gẫy. Chúng tôi bó tay ông, nhưng chúng tôi không giúp được gì cho xương sườn của ông, và ông ấy ho ra máu, một dấu hiệu của vết thương bên trong.” Trong khi kể, Philip quan sát khuôn mặt Waleran. Cho đến lúc đó, ông không tỏ gì khác ngoài sự chăm chú nghe. “Tôi khuyên ông ấy nên xưng tội, vì ông ấy có thể chết. Ông ấy kể cho tôi một bí mật.”
Ông do dự, không biết Waleran đã biết bao nhiêu về diễn biến chính trị. “Tôi mong ông biết rằng Stephen thành Blois đã lên ngôi vua nước Anh với lời chúc phúc của giáo hội.”
Waleran biết nhiều hơn Philip. “Và ông được phong vương ở Westminster ba ngày trước lễ giáng sinh,” ông nói.
“Đúng rồi!” Francis đã không biết điều đó.
“Bí mật là gì?” Waleran sốt ruột hỏi.
Philip liều. “Trước khi ông chết, người kỵ binh nói với tôi rằng chủ Bartholomew của ông, bá tước của Shiring, đã âm mưu với Robert thành Gloucester thành lập một nhóm nổi loạn chống lại Stephen.” Ông quan sát mặt của Waleran, ngừng thở.
Đôi má nhợt nhạt của Waleran trở thành trắng. Ông chồm mình trên ghế về phía trước. “Ông có nghĩ là ông ấy nói sự thật không?” ông cấp bách hỏi.
“Người sắp chết thường nói sự thật với cha giải tội của mình.”
“Có lẽ ông ấy lập lại một tin đồn xì xào trong nhà bá tước.”
Philip không nghĩ Waleran lại nghi ngờ như thế. Ông vội vàng ứng xử. “Ồ, không,” ông nói. “Ông là một sứ giả được Bá tước Bartholomew sai đi tập hợp lực lượng của bá tước ở Hampshire.”
Đôi mắt thông minh của Waleran dò xét nét mặt của Philip. “Ông ta có văn thư nào không?”
“Không.”
“Có bất kỳ con dấu, hay biểu hiệu thẩm quyền của bá tước không?”
“Không có gì cả.” Philip bắt đầu ra mồ hôi. “Tôi đoán những người ông ấy đến gặp đều biết ông ấy là người đại diện cho thẩm quyền của bá tước.”
“Tên ông ta là gì?”
“Francis,” Philip ngu xuẩn nói, và muốn cắn lưỡi mình.
“Chỉ có điều đó sao?”
“Ông ấy không nói ông ấy còn có tên nào nữa.” Philip có cảm giác rằng câu chuyện của ông đang dần dần bị phanh phui ra manh mối dưới sự tra hỏi của Waleran.
“Vũ khí và đồ trang bị có thể xác định được ông ấy là ai.”
“Ông không có đồ trang bị,” Philip thất vọng nói. “Chúng tôi chôn vũ khí của ông ta với thi thể ông ấy – Tu sĩ không cần đến thanh gươm. Chúng ta có thể đào ông lên, nhưng tôi nói với ông rằng chúng tầm thường và giống như những thanh gươm khác – Tôi không nghĩ ông sẽ tìm ra manh mối ở đó…” Ông muốn đánh lạc hướng điều tra của Waleran. “Ông nghĩ có cách nào giải quyết không?”
Waleran cau mày. “Thật khó để biết phải làm gì khi không có bằng chứng. Những người chủ mưu đơn giản sẽ từ chối và rồi kết án những người tố cáo.” Ông không nói tới trường hợp đặc biệt khi câu chuyện không đúng sự thật, nhưng Philip đoán ông đang nghĩ về điều đó. Waleran tiếp tục: “Ông đã kể cho ai khác chưa?”
Phipip lắc đầu.
“Khi ông rời khỏi đây, ông sẽ đi đâu?’
“Kingsbridge. Tôi phải tạo ra một lý do để rời tu viện, vì thế tôi nói tôi đi thăm tu viện chính, và bây giờ tôi phải làm như thế để cho sự nói dối thành thật.”
“Đừng kể việc này cho bất cứ ai ở đó.”
“Tôi sẽ không kể.” Philip không có ý định đó, nhưng ông ngạc nhiên tại sao Weleran lại chú trọng vào điểm này. Có lẽ vì lợi ích riêng: nếu ông dự định mạo hiểm phơi bày âm mưu, ông muốn chắc chắn nó có lợi cho ông. Ông đầy tham vọng. Nhưng như thế càng tốt cho mục tiêu của Philip.
“Hãy để chuyện này cho tôi.” Weleran đột nhiên lại cộc cằn, và sự tương phản với thái độ của ông trước đây làm Philip nhận ra rằng thái độ nhã nhặn của ông được mặc vào và cởi ra giống như một cái áo khoác.
“Ông sẽ đến tu viện Kingsbridge bây giờ, và không đến cảnh sát nữa, phải không?”
“Vâng.” Philip cảm nhân mọi việc yên ổn, ít nhất trong một thời gian, và một gánh nặng trên vai được lấy đi. Ông không bị ném vào ngục tối, bị tra tấn và cáo buộc tội nổi loạn. Ông đã trao trách nhiệm cho người khác – một người hoàn toàn vui vẻ chấp nhận nó.
Ông đứng lên đi về cửa sổ gần nhất. Nó vào khoảng sau trưa, và ánh sáng mặt trời còn đầy. Ông muốn rời đây và để lại bí mật đàng sau ông. “Nếu tôi đi bây giờ, tôi có thể đi được tám hay mười dặm trước khi màn đêm buông xuống,” ông nói.
Waleran không ép ông ở lại. “Nếu thế, ông sẽ đến làng Bassingbourn. Ông có thể ngủ đêm ở đó. Nếu ông đi vào sáng sớm, ông có thể đến tu viện Kingsbridge vào buổi trưa.”
“Vâng.” Philip rời khỏi cửa sổ và nhìn vào Waleran. Tổng đại diện cau mày nhìn vào lửa, chìm sâu trong suy nghĩ. Philip quan sát ông một lúc lâu. Waleran không chia sẻ dòng tư tưởng của ông. Philip ước mong ông có thể biết chiếc đầu thông thái đó đang nghĩ gì. “Tôi phải đi ngay,” ông nói.
Waleran ra khỏi dòng tư tưởng và lại lịch thiệp. Ông mỉm cười và đứng lên. “Được,” ông nói. Ông cùng đi với Philip đến cửa và theo xuống thang tới sân.
Một đứa bé giữ ngựa đem ngựa đến cho Philip, rồi gắn yên lên. Waleran có thể nói lời tạm biệt rồi trở lại lò sưởi, nhưng ông chờ. Philip đoán ông muốn xem có chắc là Philip lên đường đến Kingsbridge, chứ không phải đến Shiring không.
Philip lên ngựa, cảm thấy vui hơn là khi ông đến. Khi ông vừa muốn ra đi, ông nhìn thấy thợ xây Tom vào qua cổng, theo sau là gia đình ông. Philip nói với Waleran: “Đây là người thợ xây tôi đã gặp trên đường. Dường như ông là người trung thực bị rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Nếu ông cần sửa chữa bất cứ cái gì, ông sẽ hài lòng với ông ấy.”
Waleran không trả lời. Ông ấy đang chăm chú vào gia đình khi họ đi qua khu đa hợp. Ông mất đi sự đĩnh đạc và điềm tĩnh của ông. Miệng ông há to và mắt ông nhìn chằm chằm. Ông giống như người bị một cú sốc.
“Cái gì vậy?” Philip sợ hãi hỏi.
“Người đàn bà đó!” Giọng nói của Waleran chỉ còn là tiếng thì thầm.
Philip nhìn bà. “Bà ấy đẹp,” ông nói, lần đầu tiên ông nhận ra. “Nhưng chúng ta đã được dạy rằng tốt hơn cho linh mục là sống khiết tịnh. Hãy quay mắt đi, tổng đại diện ạ.”
Waleran không nghe gì. “Tôi nghĩ bà ấy đã chết,” ông lẩm bẩm. Rồi dường như ông chợt nhớ đến Philip, ông rời mắt khỏi người đàn bà, nhìn vào Philip và tập trung tư tưởng. “Cho tôi gửi lời thăm tu viện trưởng ở Kingsbridge,” ông nói. Rồi ông tát vào hông ngựa của Philip, con vật nhẩy về phía trước và chạy nhanh qua cổng; và khi Philip có thể thu ngắn dây cương và kiểm soát được con ngựa, ông đã đi quá xa để nói lời tạm biệt.