Chương 4 (A)
I - Nhà thờ chính tòa Kingsbridge nhìn không hấp dẫn. Nó là một công trình đồ sộ, thấp và có những bức tường dầy và cửa sổ nhỏ. Nó được xây dựng trước thời của Tom, trong thời kỳ mà những người xây nhà chưa nhận ra tầm quan trọng của tỷ lệ. Thế hệ của Tom nhận ra rằng một bức tường thẳng cứng cáp, thực chất thì tốt hơn là bức tường dầy, và từ bức tường này có thể trổ ra những cửa sổ lớn, miễn là vòm cửa sổ là một nửa vòng tròn hoàn hảo. Từ xa, nhà thờ trông có vẻ lệch, khi đến gần Tom biết tại sao: một trong tháp đôi ở đầu phía tây đã bị sụp đổ. Ông háo hức. Tu viện trưởng chắc muốn xây lại nó. Niềm hy vọng đẩy bước chân ông. Ông đã được thuê ở lâu đài lãnh chúa, rồi nhìn thấy chủ mới bị thất bại trong cuộc chiến và bị bắt. Điều đó làm ông đau lòng. Ông cảm thấy ông không thể chịu đựng được một sự thất vọng như thế nữa.
Ông liếc nhìn Ellen. Ông sợ một ngày nào đó bà thấy ông không tìm được việc làm, rồi gia đình có thể lâm cảnh chết đói, và bà sẽ quyết định bỏ ông. Bà mỉm cười với ông, nhưng mặt bà tối sầm lại khi bà ngước nhìn bóng nhà thờ lờ mờ từ xa. Bà không thoải mái khi gặp linh mục và tu sĩ, ông nhận ra điều đó. Ông tự hỏi có phải bà cảm thấy có lỗi vì họ thật sự chưa kết hôn với lời chúc lành của giáo hội không.
Khu vực tu viện đầy nhộn nhịp và công việc. Tom đã nhìn thấy có những tu viện ủ rũ và những tu viện bận rộn, nhưng Kingsbridge khác thường. Bầu khí như vào mùa xuân – mùa của ba tháng dọn dẹp đầu năm. Bên ngoài chuồng ngựa, hai tu sĩ chải chuốt ngựa và tu sĩ thứ ba làm sạch hàng rào, trong khi các tập sinh dọn phân chuồng. Nhiều tu sĩ dọn dẹp và lau chùi nhà khách bên cạnh chuồng ngựa, và một xe rơm sạch đứng sẵn trước cửa, chuẩn bị để được rải lên nền nhà sạch.
Tuy nhiên không có ai làm việc nơi tháp đổ. Tom nghiên cứu đống gạch vỡ còn lại. Tháp này đã đổ cách đây vài năm, bởi vì cạnh các viên đá đã bị sương giá và mưa bào mòn, gạch vữa đã bị cuốn trôi, và đống gạch đã lún sâu vào đất. Điều đáng chú ý là việc sửa chữa đã không được thực hiện, dù nhà thờ chính tòa luôn được coi là ưu tiên. Có lẽ Tom đến sau khi các tu sĩ đã lên kế hoạch xây dựng lại. Ông lại bỏ lỡ cơ hội.
“Không ai nhận ra tôi,” Ellen nói.
“Em đã đến đây bao giờ?” Tom hỏi cô.
“Mười ba năm trước.”
“Thế thì không có gì ngạc nhiên khi họ không nhận ra em.”
Khi họ đi ngang qua mặt tiền phía tây, Tom mở một cửa gỗ to và nhìn vào bên trong. Gian giữa tối tăm và ảm đạm, với hàng cột đồ sộ và mái trần bằng gỗ cũ. Tuy nhiên, nhiều tu sĩ đang sơn tường bằng những cọ dài, và những người khác đang lau nền nhà bám đầy đất. Tu viện trưởng mới rõ ràng muốn thu dọn toàn bộ khu vực. Đó là dấu hiệu đầy hy vọng. Tom khép cửa lại.
Bên cạnh nhà thờ, trong sân nhà bếp, một nhóm tập sinh đứng xung quanh một thùng nước dơ, cạo rửa bồ hóng và mỡ ra khỏi nồi niêu và đồ dùng nhà bếp bằng những viên đá nhọn. Đốt ngón tay họ đỏ lên vì bàn tay luôn nhúng trong nước lạnh. Khi họ nhìn thấy Ellen, họ cười khúc khích và quay mặt đi.
Tom hỏi một tập sinh xem người quản lý ở đâu. Chính ra ông phải hỏi người phụ trách phụng vụ, bởi vì công việc của nhà thờ là nhiệm vụ của người phụ trách phụng vụ; nhưng người quản lý thường dễ gặp hơn. Tuy nhiên, sau cùng chính tu viện trưởng mới là người quyết định. Người tập sinh chỉ cho ông tầng hầm của một căn nhà ở sân tu viện. Tom đi vào qua một cửa mở, Ellen và các trẻ em theo sau. Tất cả dừng lại nơi ngưỡng cửa để mắt quen dần với bóng tối.
Tòa nhà này mới hơn và xây chắc chắn hơn nhà thờ, Tom có thể nói ngay. Không khí khô và không có mùi ẩm thấp. Trong thực tế, mùi pha trộn của đồ ăn dự trữ trong nhà kho làm cho bao tử ông quằn quoại, bởi vì hai ngày qua ông chưa ăn gì. Khi mắt ông đã quen dần với bóng tối, ông thấy tầng hầm có nền nhà lót gạch, những cột nhà to và thấp, và trần là một mái vòm. Một lúc sau ông thấy một người cao lớn, hói đầu đang xúc muối vào nồi. “Ông có phải là quản lý ở đây không?” Tom hỏi, nhưng ông dùng tay ra hiệu cho Tom yên lặng, và Tom biết ông đang đếm. Tất cả họ chờ ông trong yên lặng. Sau cùng ông nói: “… năm mươi tám, năm mươi chín, sáu mươi!” rồi ông đặt muỗm xuống.
Tom nói: “Tôi là Tom, thợ xây dựng tổng thể chính, và tôi muốn xây lại cây tháp phía tây bắc nhà thờ.”
“Tôi là Cuthbert, được gọi là đầu trắng, người quản lý, và tôi rất vui khi nó được xây lại,” ông trả lời. “Nhưng chúng tôi phải hỏi tu viện trưởng Philip. Ông có biết chúng tôi có một tu viện trưởng mới rồi không?”
“Vâng,” Cuthbert thuộc lớp tu sĩ vui vẻ, Tom nhận định, một người bình dân và dễ tính. Ông thích nói chuyện. “Và tu viện trưởng mới dường như muốn cải tiến bộ mặt của tu viện.”
Cuthbert gật đầu. “Nhưng ông ấy không muốn trả tiền thuê người. Ông có nhận thấy tất cả công việc đều do các tu sĩ thực hiện không? Ông không muốn nhận thêm người, ông cho rằng tu viện đã có quá nhiều người phục vụ.”
Đó là một tin xấu. “Các tu sĩ nghĩ gì về chuyện đó?” Tom hỏi một cách tế nhị.
Cuthbert cười, và khuôn mặt vốn dĩ nhăn nhúm của ông lại nhăn thêm. “Ông là một người thực tế, thợ xây Tom ạ. Có phải ông chưa bao giờ thấy các tu sĩ làm việc vất vả, phải không? Đúng, tu viện trưởng mới không bắt buộc ai cả. Nhưng ông diễn giải quy tắc của thánh Biển Đức theo cách là những người làm việc chân tay vất vả được ăn thịt đỏ và uống rượu nho, trong khi những người dành nhiều giờ cho học tập và cầu nguyện sẽ chỉ dùng cá muối và bia nhạt. Ông ta cũng có thể lý giải cho ông về chuyện đó. Nhưng điều quan trọng là ông ấy có nhiều tình nguyện viên cho các công việc nặng nhọc, đặc biệt là thành phần trẻ.” Cuthbert tỏ vẻ không chống lại chuyện đó, ông chỉ hoang mang.
Tom nói: “Nhưng các tu sĩ không thể xây được các bức tường đá, mặc dù họ có thể ăn nhiều.” Khi ông đang nói, ông nghe thấy tiếng trẻ thơ khóc. Tiếng khóc của trẻ thơ đánh động trái tim ông. Ông cần một lúc lâu mới nhận ra rằng tại sao trong tu viện lại có một trẻ thơ.
“Trước hết chúng ta hỏi tu viện trưởng,” Cuthbert nói, nhưng Tom không còn có thể lắng nghe. Tiếng khóc của một bé thơ còn rất nhỏ, chỉ khoảng một hoặc hai tuần, vang lên đâu đó và nó đang đến gần. Tom bắt gặp ánh mắt của Ellen. Bà ấy cũng đang giật mình. Rồi có một bóng tối trên ngưỡng cửa. Một cái gì đó chặn ở cổ ông. Một tu sĩ bế một bé thơ. Tom nhìn vào mặt nó. Nó là con ông.
Tom nuốt nước bọt xuống. Khuôn mặt bé thơ vẫn đỏ, nó đã có thể nắm chặt bàn tay và miệng nó mở rộng, chìa ra hàm lợi. Tiếng khóc của nó không phải là tiếng khóc của đau đớn hay bệnh tật, nhưng chỉ thông thường là tiếng đòi ăn. Nó là một đứa bé khỏe mạnh, và Tom cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy con mình bình an.
Tu sĩ bế nó là một người vui vẻ, khoảng hai mươi tuổi, có mái tóc ngang bướng và một nụ cười rộng, giống như khờ khạo. Không giống các tu sĩ khác, ông không có phản ứng gì về sự hiện diện của một người phụ nữ. Ông mỉm cười với tất cả mọi người, rồi nói với Cuthbert. “Jonathan cần thêm sữa.”
Tom muốn bế đứa bé trong tay mình. Ông cố gắng làm mặt nghiêm, không muốn biểu lộ cảm xúc của mình ra mặt. Ông lén lút nhìn các đứa con. Tất cả những gì chúng biết là đứa bé bị bỏ rơi đã được một linh mục tìm thấy khi đi ngang qua đó. Ngay cả chúng cũng không biết vị linh mục đó đã mang nó đến một tu viện nhỏ trong rừng. Khuôn mặt của chúng không tỏ vẻ gì, ngoại trừ sự tò mò. Chúng không liên tưởng được đứa bé này chính là đứa bé chúng đã bỏ lại trong rừng.
Cuthbert lấy một cái muôi và múc sữa từ trong xô vào một bình nhỏ. Ellen nói với tu sĩ trẻ: “Cho phép tôi được bế đứa bé không?” Cô đưa tay ra và tu sĩ trao đứa bé cho bà. Tom ghen tị với bà. Ông cầu mong được ôm chặt đứa nhỏ đó vào trái tim ông. Ellen ru nó và nó im lặng.
Cuthbert nhìn lên và nói: “Đúng, Johnny Eightpence là một người giữ trẻ tốt, nhưng ông không có sự nhẩy cảm của phụ nữ.”
Ellen nhìn ông. “Tại sao người ta lại gọi ông là Johnny Eightpence?”
Cuthbert trả lời thay ông. “Bởi vì một đồng đối vói ông chỉ là tám xu,” ông nói, rồi chỉ tay vào đầu để ra dấu rằng Johnny không bình thường. “Nhưng ông ta hiểu nhu cầu của tạo vật bé nhỏ này hơn chúng ta, những người cho mình là khôn ngoan. Đó là một phần trong mục đích rộng lớn của Thiên Chúa, tôi chắc như vậy,” ông chấm dứt một cách mơ hồ.
Ellen nhích gần tới Tom và đưa đứa nhỏ cho Tom. Bà đã đọc được ước muốn của ông. Ông nhìn bà bằng cái nhìn biết ơn sâu sắc, rồi bế đứa bé trong bàn tay thô của ông. Ông có thể cảm nhận nhịp tim của đứa bé qua tấm chăn bọc nó. Vật liệu của chăn rất tốt: ông tự hỏi không biết làm sao các tu sĩ có len mềm như vậy. Ông ôm đứa bé vào ngực và ru nó. Kỹ thuật ru con của ông không bằng Ellen, nên đứa bé lại bật khóc, nhưng Tom không quan tâm: tiếng khóc inh ỏi của đứa bé là âm nhạc bên tai ông, bởi vì nó có nghĩa là đứa nhỏ ông bỏ lại trong rừng bây giờ khỏe mạnh và cứng cáp. Mặc dù đau đớn, ông thấy mình đã quyết định đúng khi để đứa bé lại trong tu viện.
Ellen hỏi Johnny: “Đứa bé ngủ ở đâu?”
Lần này ông tự trả lời: “Nó có một giường nhỏ trong phòng ngủ của chúng tôi.”
“Cả đêm nó sẽ đánh thức các ông dậy.”
“Đàng nào chúng tôi cũng dậy giữa đêm, cho giờ kinh đêm,” Johnny nói.
“Dĩ nhiên! Tôi quên rằng ban đêm các tu sĩ cũng mất ngủ như các bà mẹ.”
Cuthbert đưa cho Johnny bình sữa. Johnny lấy đứa bé từ tay Tom bằng cánh tay còn lại một cách thành thạo. Tom không muốn trao đứa bé, nhưng trong mắt các tu sĩ, ông không có quyền gì để giữ nó, vì thế ông phải để nó đi. Một lúc sau Johnny và đứa bé đi khỏi, và Tom phải chống lại ý định muốn theo họ và nói: hãy chờ một chút, nó là con tôi, trả nó lại cho tôi. Ellen đứng bên cạnh ông và siết chặt tay ông trong một cử chỉ cảm thông kín đáo.
Tom nhận ra ông có lý do mới để hy vọng. Nếu ông có thể làm việc ở đây, ông có thể trông thấy Jonathan mỗi ngày và như thế nó cũng giống như là ông đã chẳng bỏ rơi đứa bé. Nó quá đẹp đến nỗi ông không dám mơ nó là sự thật.
Đôi mắt tinh đời của Cuthbert quan sát thấy Martha và Jack mở to mắt nhìn vào chiếc bình đầy kem sữa mà Johnny đã đem đi, ông hỏi: “Các trẻ nhỏ có muốn sữa không?”
“Vâng, thưa cha, chúng nó muốn,” Tom nói. Chính ông cũng muốn uống nữa.
Cuthbert lấy sữa vào hai bát bằng gỗ và đưa cho Martha và Jack. Cả hai uống nhanh chóng, để lại vòng trắng xung quanh miệng. “Một ít nữa không?” Cuthbert đề nghị.
“Vâng,” cả hai cùng đáp. Tom nhìn Ellen, biết rằng bà cũng cảm thấy như ông, sâu sắc biết ơn khi nhìn thấy con mình được cho ăn.
Khi Cuthbert múc sữa vào bát, ông tình cờ hỏi: “Các ông từ đâu đến?”
“Từ lâu đài lãnh chúa, gần Shiring,” Tom nói. “Chúng tôi rời đó sáng qua.”
“Từ lúc đó đến giờ, các ông đã ăn gì chưa?”
“Chưa,” Tom nói thẳng thừng. Ông biết Cuthbert rất tốt, nhưng ông sợ phải thừa nhận là ông không đủ khả năng để nuôi các con ăn.
“Có vài trái táo kia ăn tạm để chờ tới giờ cơm,” Cuthbert nói và chỉ vào thùng táo gần cửa.
Alfred, Ellen và Tom đi tới thùng táo, trong khi Martha và Jack uống chén sữa thứ hai. Alfred cố ôm đầy táo trong cánh tay. Tom lấy bớt ra khỏi tay cậu và nói nhỏ: “Chỉ nên lấy hai hoặc ba thôi.” Cậu lấy ba.
Tom ăn táo với lòng biết ơn, và bụng ông dễ chịu hơn, nhưng ông tự hỏi không biết đã sắp đến giờ ăn chưa. Thông thường các tu sĩ ăn trước khi trời tối để tiết kiệm đèn, ông vui vẻ nhớ lại.
Cuthbert nhìn Ellen dò hỏi: “Tôi có biết bà không?”
Bà bất an. “Tôi không nghĩ thế.”
“Bà trông quen lắm,” ông nói chắc chắn.
“Khi còn nhỏ, tôi đã sống gần đây,” bà nói.
“Có thể như thế,” ông nói. “Đó là lý do tại sao tôi có cảm giác bà già hơn trước tuổi.”
“Ông phải có một trí nhớ tốt lắm.”
Ông cau mày nhìn bà. “Không tốt lắm đâu,” ông nói. “Tôi chắc chắn còn một chuyện gì đó nữa… Không vấn đề gì. Tại sao các ông bà lại rời khỏi lâu đài lãnh chúa?”
“Lâu đài bị tấn công vào buổi sáng ngày hôm qua, và đã thất thủ,” Tom trả lời. “Bá tước Bartholomew bị tố tội phản quốc.”
Cuthbert bị sốc. “Xin các thánh phù trợ chúng con!” ông kêu lên, và bất ngờ ông trông giống như một người già sợ hãi trước con bò đấu. “Phản quốc?”
Có tiếng chân bên ngoài. Tom quay lại nhìn thấy một tu sĩ khác bước vào. Cuthbert nói: “Đây là tu viện trưởng mới.”
Tom nhận ra tu viện trưởng. Đó là Philip, người mà họ đã gặp trên đường đến tòa giám mục, người đã cho họ pho mát ngon miệng. Bây giờ mọi chuyện rõ ràng: tu viện trưởng mới của Kingsbridge là tu viện trưởng cũ của tu viện nhỏ trong rừng, và ông đã mang Jonathan theo ông tới đây. Tim Tom nhẩy mừng vì hy vọng. Philip là người tốt, và dường như ông thích và tin tưởng Tom. Chắc chắn ông sẽ cho Tom một công việc.
Philip nhận ra Tom. “Chào thợ xây Tom.” Ông nói. “Như vậy là ông không tìm được việc làm ở dinh thự giám mục à?”
“Thưa cha không. Ngài tổng đại diện không mướn tôi, và giám mục không có ở đó.”
“Đúng thế, ông ấy không có ở đó – ông ấy ở trên trời, mặc dù lúc đó chúng ta không biết.”
“Giám mục qua đời rồi sao?”
“Đúng.”
“Tin đó cũ rồi,” Cuthbert sốt ruột xen vào. “Tom và gia đình vừa đến từ lâu đài lãnh chúa. Bá tước Bartholomew đã bị bắt và lâu đài đã bị chiếm.”
Philip đứng im. “Đã rồi!” ông lẩm bẩm.
“Đã rồi?” Cuthbert lập lại. “Tại sao anh lại nói là ‘đã rồi’?” Dường như ông thích Philip nhưng cảnh giác về ông ấy, giống một người bố có con ra trận đã lâu, rồi trở về nhà với một thanh gươm trong thắt lưng và một cái nhìn nguy hiểm trong mắt. “Anh biết là chuyện này sẽ xẩy ra?” ông hỏi.
Philip hơi bối rối. “Không, không hoàn toàn,” ông nói không chắc chắn. “Tôi đã nghe tin đồn là Bá tước Bartholomew chống lại vua Stephen.” Ông bình tĩnh lại. “Tất cả chúng ta nên biết ơn,” ông tuyên bố. “Stephen hứa sẽ bảo vệ giáo hội, ngược lại Maud có thể áp bức chúng ta như bố bà. Vâng, đây đúng thực là tin vui.” Ông trông có vẻ hài lòng như chính ông đã thực hiện nó.
Tom không thích nói về Bá tước Bartholomew. “Nó không phải là tin vui cho tôi,” ông nói. “Bá tước đã thuê tôi, trước đó một ngày, để củng cố lại công trình phòng thủ của lâu đài. Thậm chí tôi chưa nhận được đồng lương nào.”
“Thật đáng buồn,” Philip nói. “Ai đã tấn công lâu đài?”
“Ngài Percy Hamleigh.”
“À!” Philip gật đầu, và một lần nữa Tom cảm thấy thông tin của ông chỉ xác nhận những gì Philip chờ đợi.
“Ông đang cải tiến một số việc ở đây,” Tom nói, cố gắng xoay chủ đề vào điều ông muốn.
“Tôi đang cố gắng,” Philip nói.
“Ông muốn xây lại tháp nhà thờ, tôi chắc chắn như thế.”
“Xây lại tháp chuông, sửa lại mái nhà, san bằng nền nhà – vâng, tôi muốn làm tất cả chuyện đó. Và dĩ nhiên, ông muốn xin việc,” ông nói thêm, như nhận ra lý do tại sao Tom có mặt ở đây. “Tôi không cần suy nghĩ. Tôi ước muốn thuê ông. Nhưng tôi sợ không thể trả lương cho ông được. Tu viện không còn xu nào.”
Tom cảm thấy như bị đấm. Ông đã tin sẽ tìm được việc làm ở đây, mọi chuyện tỏ ra là công việc ở đây đang cần ông. Ông không thể tin vào tai mình. Ông nhìn chằm chằm vào Philip. Thật khó mà tin rằng tu viện không có tiền. Người quản lý đã nói mọi công việc đều do các tu sĩ làm, nhưng mặc dù như vậy, một tu viện luôn luôn có thể mượn tiền của người Do Thái. Tom cảm thấy đây là con đường cùng của ông. Tất cả những gì đã giúp ông vượt qua mùa đông, bây giờ dường như không còn nữa, và ông cảm thấy yếu đuối và bất lực. Tôi không thể tiếp tục nữa, ông nghĩ. Tôi đã kiệt sức.
Philip nhìn thấy nỗi khổ của ông. “Tôi có thể cung cấp cho ông bữa ăn tối, chỗ ngủ và một số đồ ăn buổi sáng,” ông nói.
Tom giận dữ cay đắng. “Tôi chấp nhận,” ông nói, “nhưng tốt hơn tôi muốn tự kiếm ra nó.”
Philip nhíu mày khi nhận ra sự tức giận của Tom. Nhưng ông nói bằng giọng nhẹ nhàng. “Xin Chúa – đó không phải là ăn xin, nó là một lời cầu nguyện.” Rồi ông đi ra.
Những người khác nhìn Tom với một chút sợ hãi. Ánh mắt họ nhìn ông làm ông tức giận. Ông đi ra sau Philip vài bước, đứng lại trong sân, nhìn vào nhà thờ cũ kỹ, cố gắng kiểm soát cảm xúc của mình.
Một lúc sau, Ellen và các đứa trẻ cũng theo ra. Ellen đặt tay quanh hông ông trong một cử chỉ an ủi, điều đó làm cho các tập sinh huých cùi chỏ vào nhau và xì xào với nhau. Tom không chú ý tới họ. “Tôi sẽ cầu nguuyện,” ông nói chua chát. “Tôi sẽ cầu nguyện cho sấm sét đánh vào nhà thờ và san bằng nó xuống.”
Từ hai ngày qua, Jack biết sợ tương lai.
Trong giai đoạn sống ngắn ngủi vừa qua, cậu chẳng bao giờ phải nghĩ xa hơn ngày mai; nếu cậu phải nghĩ, cậu cũng biết những gì đang chờ đợi. Trong rừng ngày này giống ngày khác, và các mùa thay đổi từ từ. Bây giờ cậu không biết, ngày qua ngày, cậu sẽ làm gì, sẽ ăn gì.
Điều tồi tệ nhất là cơn đói triền miên. Jack đã bí mật ăn cỏ và lá cây để làm giảm cơn đói, nhưng nó lại gây nên một sự đau bụng khác. Martha thường khóc vì đói. Jack và Martha luôn đi với nhau. Cô nhìn cậu – trước đó cậu chưa bao giờ thấy. Sự bất lực không làm giảm cơn đau của cô, nó lại còn gây đau khổ cho cậu hơn là chính cơn đói của cậu.
Nếu còn sống trong hang động, cậu còn biết đi đâu để săn vịt, để tìm hạt hoặc ăn cắp trứng; nhưng ở đây, trong làng mạc và thị trấn này, trên những con đường xa lạ, cậu đã mất tất cả. Tất cả những gì cậu biết là Tom đã tìm được việc làm.
Buổi chiều họ ở trong nhà khách của tu viện. Nó là tòa nhà một phòng đơn giản, nền đất và một lò sưởi ở giữa, giống như nhà các nông dân khác, nhưng đối với Jack, người đã luôn sống trong hang động, nó tuyệt vời. Cậu tò mò về cách xây nhà và Tom hướng dẫn cậu. Đầu tiên, ông cắt nghĩa cho cậu, người ta phải chặt hai cây nhỏ, bỏ các cành đi, và đặt song song với nhau trong một góc, đặt thêm hai cây nữa tương tự như vậy cách đó bốn bước, dùng cây làm thêm hai hình tam giác rồi đặt lên đầu, sau đó nối liền hai khung với nhau bằng những xà ngang. Song song với xà ngang cột chặt những cành nhỏ hay thanh gỗ tạo thành mái dốc xuống mặt đất. Lau sậy được đặt trên mái và trộn với bùn cho nó không thấm nước. Hai đầu hồi được làm bằng cọc đóng xuống mặt đất, những ô nhỏ trong đó được trát bằng bùn. Mỗi đầu hồi có một cửa ra vào, không có cửa sổ.
Mẹ Jack rải rơm mới lên nền nhà, và Jack châm ngọn lửa bằng đá lửa cậu luôn mang theo bên mình. Khi những người khác ở xa, không nghe tiếng, Jack hỏi tại sao tu viện trưởng không muốn nhận Tom, mặc dù có nhiều việc phải làm. “Bao lâu nhà thờ còn sử dụng được, ông muốn tiết kiệm,” Ellen nói. “Nếu toàn bộ nhà thời sụp đổ, họ bắt buộc phải xây lại, nhưng nếu chỉ là một cây tháp, họ còn có thể chấp nhận được.”
Khi ánh sáng ban ngày lùi dần vào hoàng hôn, một cậu bé giúp việc trong bếp đem đến một nồi súp và một ổ bánh mì cao bằng đầu người – và tất cả chỉ cho mình họ. Nồi súp được nấu với các loại rau, rau thơm và xương thịt, trên mặt nó lấp lánh chất béo. Ổ bánh mì được gọi là bánh ngựa; được làm bằng các lọai ngũ cốc, lúa mạch đen, yến mạch cũng như đậu trắng và đen khô. Nó là loại bánh rẻ nhất, Alfred nói, nhưng đối với Jack, người đã không có gì ăn từ mấy ngày qua, bánh này ngon tuyệt. Jack ăn cho đến khi bụng cậu đau. Alfred ăn cho đến khi không còn gì.
Khi họ ngồi bên đống lửa để tiêu cơm, Jack nói với Alfred: “Tại sao tháp nhà thờ lại đổ?”
“Có lẽ nó bị sét đánh,” Alfred nói. “Hay là do lửa.”
“Nhưng nó không có vật liệu nào dễ cháy,” Jack nói. “Tất cả đều làm bằng đá.”
“Mái của nó không bằng đá, đồ ngu,” Alfred khinh bỉ nói. “Mái nhà được làm bằng gỗ.”
Jack nghĩ một lúc lâu về điều đó. “Và nếu mái nhà cháy, cả tòa nhà sẽ sụp xuống?”
Alfred nhún vai. “Một đôi khi.”
Chúng ngồi yên lặng một lúc lâu. Tom và mẹ của Jack đang thầm thì với nhau ở phía bên kia lò sưởi. Jack nói: “Đứa bé thật ngộ nghĩnh.”
“Ngộ nghĩnh điều gì?” Alfred nói.
“Đứa em bé nhỏ của anh bị thất lạc trong rừng, cách xa đây hàng nhiều dặm, và bây giờ một đứa bé lại xuất hiện ở đây trong tu viện.”
Ngay cả Alfred lẫn Martha hầu như tin rằng không có sự trùng hợp nào đáng chú ý, vì thế Jack cũng nhanh chóng quên nó.
Các tu sĩ đã đi ngủ ngay sau bữa ăn tối, và họ cũng không cung cấp nến cho các khách bình dân, vì thế gia đình của Tom ngồi nhìn lửa lò sưởi cho đến khi nó tắt, rồi họ nằm xuống trên nền rơm.
Jack vẫn thức nghĩ ngợi. Cậu nghĩ rằng nếu nhà thờ sụp đổ tối nay, tất cả mọi vấn đề sẽ được giải quyết. Tu viện trưởng sẽ thuê Tom xây lại nhà thờ, tất cả họ sẽ ở lại đây, sống trong căn nhà đẹp đẽ này, và họ sẽ có súp xương thịt và bánh mì mãi mãi.
Nếu tôi là Tom, cậu nghĩ, chính tôi sẽ châm lửa đốt nhà thờ. Tôi sẽ nhẹ nhàng thức dậy khi mọi người đang ngủ ngon, lẻn vào nhà thờ, nhúm lửa với viên đá lửa của tôi, sau đó leo trở về đây trong khi ngọn lửa bắt đầu lan rộng, và giả vờ ngủ khi được báo động. Và khi mọi người hắt các xô nước vào lửa, như khi ngọn lửa bùng cháy ở lâu đài lãnh chúa, tôi sẽ nhập đoàn với họ như thể tôi cũng như họ muốn dập tắt ngọn lửa.
Alfred và Martha đã ngủ ngon – Jack nhận ra điều đó qua hơi thở của họ. Tom và Ellen đã làm những việc họ thường làm dưới áo choàng của Tom, Alfred cho biết nó được gọi là “giao hợp”, sau đó họ cũng ngủ thiếp đi. Dường như Tom không có ý định thức dậy đốt nhà thờ.
Nhưng ông định làm gì? Ông để gia đình đi mãi cho đến khi chết đói sao?
Khi họ ngủ ngon, và cậu biết họ đã ngủ say khi cậu nghe hơi thở của bốn người nhịp nhàng, chậm rãi. Cậu nẩy sinh ý định tự đốt nhà thờ.
Ý tưởng này làm tim cậu đập nhanh vì sợ.
Cậu phải thức dậy thật êm. Cậu mở cửa và bước ra ngoài mà không đánh thức ai. Cửa nhà thờ chắc đóng kín, nhưng chắc chắn phải có cách vào, nhất là cho những người nhỏ con.
Nếu vào được bên trong, cậu sẽ tìm cách lên mái nhà. Trong hai tuần lễ với Tom, cậu đã học hỏi được nhiều điều. Tom luôn nói về nhà cửa, hầu hết nhắm tới Alfred, nhưng cậu không quan tâm, còn Jack lắng tai nghe. Cậu đã phát hiện ra rằng các nhà thờ lớn đều có các cầu thang xây vào trong tường để trèo lên khi cần sửa chữa. Cậu sẽ tìm thấy cầu thang và trèo lên.
Cậu ngồi dậy trong đêm tối, lắng nghe hơi thở của các người khác. Cậu có thể phân biệt được hơi thở của Tom qua tiếng khò khè, bị gây ra do bao năm hút bụi đá, mẹ cậu nói vậy. Alfred ngáy to, rồi trở mình và im lặng.
Sau khi cậu châm lửa đốt, cậu phải trở về nhà khách nhanh. Các tu sĩ sẽ làm gì nếu bắt được cậu? Ở Shiring, Jack đã nhìn thấy một cậu bé trạc lứa tuổi cậu bị trói và bị đánh vì đã ăn cắp đường của một tiệm tạp hóa. Cậu bé đã rú lên khi roi mây làm mông cậu chẩy máu. Nó còn kinh kkhủng hơn là hai người giết nhau trong cuộc chiến, như xẩy ra ở lâu đài lãnh chúa, và hình ảnh của đứa trẻ bị đánh chẩy máu ám ảnh Jack. Cậu sợ chuyện này cũng xẩy ra cho cậu.
Nếu tôi làm chuyện này, tôi sẽ chẳng bao giờ nói với ai.
Cậu lại nằm xuống, kéo áo choàng sát vào mình và nhắm mắt lại.
Cậu thắc mắc không biết cửa nhà thờ có khóa không. Nếu nó đóng, cậu sẽ vào qua cửa sổ. Không ai có thể nhìn thấy cậu nếu cậu ở phía bắc nhà thờ. Phòng ngủ của các tu sĩ ở phía nam, bị hành lang tu viện che khuất, và phía đó không có gì ngoài trừ khu nghĩa trang.
Cậu chần chừ một lúc rồi đứng lên.
Rơm tươi xào xạc dưới chân. Cậu lắng nghe lần nữa hơi thở của bốn người đang ngủ. Bây giờ hoàn toàn yên lặng; không có cả tiếng chuột chạy trong rơm. Cậu bước đi một bước, nín thở, lắng nghe. Những người khác ngủ và ngủ. Cậu không còn kiên nhẫn và bước nhanh ra cửa. Khi cậu dừng lại, đàn chuột chắc nhận ra không có gì phải sợ hãi, nên tiếp tục cào bới, còn con người vẫn ngủ.
Cậu đụng vào cánh cửa với đầu ngón tay, rồi rờ tay xuống thanh gỗ ngang. Đó là một thanh gỗ sồi gài trên hai móc đỡ. Cậu dơ tay đỡ, cầm nó và nâng lên. Nó nặng hơn cậu nghĩ, và sau khi nâng nó lên được vài phân, cậu phải để nó xuống. Khi nó rơi xuống móc đỡ, nó kêu rất to. Cậu sững người, lắng nghe. Hơi thở khò khè của Tom ngưng lại. Tôi phải nói gì, nếu tôi bị bắt? Jack nghĩ tuyệt vọng. Tôi sẽ nói là tôi định đi ra ngoài … ra ngoài… Tôi biết, tôi sẽ nói là tôi ra ngoài để đi tiểu. Cậu thoải mái ra vì đã tìm được lý do. Cậu nghe Tom trở mình, và chờ đợi giọng nói trầm, khàn khàn của ông, nhưng nó đã không đến, và Tom lại bắt đầu thở đều đặn.
Màu bạc của góc cửa lấp lánh ma quái. Trời phải có trăng, Jack nghĩ. Cậu lại nắm thanh ngang, lấy hơi và cố nâng nó lên. Lần này cậu đã đo lường được trọng lượng của nó. Cậu nâng nó lên và kéo nó về phía mình, nhưng cậu đã không nâng cao đủ, và nó không ra khỏi được móc đỡ. Cậu nâng nó lên vài phân nữa, và nó ra khỏi. Cậu giữ nó ngang ngực, rồi từ từ quỳ xuống trên đầu gối, và đặt nó lên đất. Cậu giữ tư thế đó một lúc, cố gắng thở nhịp nhàng, chờ cho cánh tay bớt đau. Không có âm thanh nào từ những người khác, chỉ có tiếng ồn ào của giấc ngủ.
Cẩn thận, Jack mở một cánh cửa. Bản lề sắt kêu kèn kẹt và một cơn gió lạnh thổi qua cánh cửa mở. Cậu rùng mình. Cậu kéo áo choàng sát mình và mở cửa rộng thêm. Cậu lướt nhanh ra và đóng cửa lại.
Đám mây tan đi, và mặt trăng di chuyển trên bầu trời. Có một cơn gió lạnh. Có lúc Jack bị cám dỗ trở về với sự ấm áp ngột ngạt của ngôi nhà. Ngôi nhà thờ đồ sộ, với tháp chuông đã bị đổ, đứng sừng sững trong ánh trăng. Bức tường dầy và cửa sổ nhỏ làm cho nó trông như một lâu đài. Nó trông xấu xí.
Tất cả im lặng. Bên ngoài bức tường tu viện, trong làng, có thể còn những nhóm người ngồi uống bia bên cạnh ánh sáng lò sưởi, hoặc may vá bên ánh sáng của cây đèn bấc, nhưng ở đây không có gì nhúc nhích. Jack vẫn còn do dự, nhìn vào nhà thờ. Nhà thờ nhìn lại cậu với cái nhìn tố cáo, như thể nó biết ý định của cậu. Cậu giũ bỏ cảm giác ma quái bằng cái nhún vai, và đi ngang khu cỏ xanh rộng tới phía tây.
Cửa nhà thờ khóa.
Cậu đi xung quanh tới phía bắc và nhìn vào các cửa sổ nhà thờ. Một số cửa sổ được căng bằng những tấm vải lụa to, chắn cơn lạnh vào. Chúng đủ to để cậu chui vào, nhưng chúng quá cao để có thể trèo lên. Cậu khảo sát bức tường bằng ngón tay, tìm kiếm những nơi hồ vữa đã rơi ra, nhưng nó không đủ lớn để chân cậu có thể đặt lên. Cậu cần cái gì đó để làm thang leo lên.
Cậu dự định lấy đá từ đống gạch vụn xây một cầu thang tạm thời, nhưng tảng đá vỡ quá nặng và không đều nhau. Cậu có cảm giác ban ngày cậu đã nhìn thấy cái gì đó có thể dùng cho mục đích của cậu và cậu bứt đầu để nhớ lại. Ánh mắt cậu dõi theo ánh trăng trên nghĩa địa đến chuồng ngựa, và cậu nhớ ra một bục nhỏ, chỉ có hai hoặc ba bậc, để gúp những người thấp bé có thể trèo lên lưng con ngựa to lớn. Một tu sĩ đã đứng trên đó để chải bờm ngựa.
Cậu đi qua chuồng ngựa. Nó không phải là vật đáng giá để ăn trộm, nên nó không bị cất đi vào ban đêm. Cậu đi nhẹ nhàng, nhưng ngựa nghe tiếng chân cậu và trở nên hoảng loạn, một vài con khịt mũi và ho. Cậu đứng lại, sợ hãi. Có thể các cậu chăn ngựa ngủ trong chuồng. Cậu đứng lặng yên một lúc, lắng nghe tiếng chuyển động của con người, nhưng không có gì và ngựa cũng yên lặng.
Cậu khhông tìm thấy bục gỗ. Có lẽ nó được để gần tường. Jack nhìn qua bóng trăng. Rất khó để nhìn thấy gì. Thận trọng cậu đi đến chuồng và đi theo chiều dài của nó. Những con ngựa nghe thấy tiếng chân cậu, và khi cậu đến gần, chúng hoảng sợ, một con hí vang. Jack chết cứng. Một giọng nói vang lên: “im, im.” Khi cậu đứng đó chết cứng như một bức tượng, cậu thấy bục gỗ ngay trước mặt, chỉ cần một bước chân nữa là cậu có thể cầm nó lên. Cậu đợi thêm vài phút. Không còn tiếng động trong chuồng ngựa. Cậu cúi xuống, lấy nó lên và vác nó trên vai. Cậu quay lại, đi ngang bãi cỏ về lại nhà thờ. Chuồng ngựa im lặng.
Khi cậu trèo lên bậc cao nhất của bục gỗ, nó vẫn chưa cao đủ để cậu đụng đến cửa sổ. Thật tức mình: ngay cả cậu không thể nhìn vào trong. Thực tế cậu vẫn chần chừ có nên thực hiện kế hoạch nữa không, nhưng cậu không muốn dừng lại vì những trở ngại bên ngoài. Cậu ước mơ được cao lớn như Alfred.
Có một cách khác để cậu có thể thử. Cậu lùi lại, lấy đà, nhẩy một chân lên bục gỗ rồi tung người lên. Cậu dễ dàng với tới cửa sổ và bám vào khung đá. Cậu hít người lên, ngồi vào bệ cửa sổ. Nhưng khi cậu tính chui vào qua lỗ hổng, cậu gặp một bất ngờ. Cửa sổ bị chắn bởi mắt lưới sắt mà từ bên ngoài cậu không thể nhìn thấy vì nó đen. Jack quỳ trên thành cửa, kiểm tra nó bằng cả hai tay. Không có cách vào: dường như nó được làm để ngăn cản những người muốn lẻn vào khi nhà thờ đã khóa.
Thất vọng, cậu nhẩy xuống đất. Cậu lấy bục gỗ và mang nó lại chỗ cũ. Lần này ngựa không gây tiếng ồn.
Cậu nhìn vào phía tháp đổ, phía tay trái cửa ra vào. Cậu cẩn thận trèo lên đống đá, nhìn vào phía trong nhà thờ, tìm cách vào qua đống đổ nát. Khi mặt trăng đi vào đám mây, cậu chờ đợi cho đến khi nó xuất hiện lại. Cậu lo ngại trọng lượng của cậu, mặc dù nhỏ, nhưng nó có thể làm đổ đống gạch, và nếu cậu không chết thì cũng đủ đánh thức mọi người dậy. Khi mặt trăng lại hiện ra, cậu quyết định mạo hiểm. Tim cậu đập mạnh. Cậu bắt đầu leo, đa số các viên đá chắc chắn, một vài viên lung lay dưới chân cậu. Ban ngày cuộc leo trèo như thế này sẽ làm cậu thú vị, vì có sự giúp đỡ khi cần thiết và lương tâm không bị áy náy; nhưng bây giờ cậu quá lo lắng, và bước chân không còn vững vàng. Cậu trượt trên mặt đá trơn và xuýt rớt xuống: và cậu quyết định ngừng lại.
Cậu đứng trên cao, đủ để nhìn xuống mái nhà của lối đi chạy dọc theo phía bắc của gian giữa. Cậu hy vọng tìm thấy một lỗ trong mái, hay có lẽ một khe hở giữa mái nhà và đống gạch vụn, nhưng không có. Mái nhà chạy qua khu đổ nát, không chỗ nào có lỗ hổng để có thể chui vào. Jack vừa thất vọng, vừa nhẹ người.
Cậu trèo xuống, lưng dựa vào đống gạch vỡ, nhìn quanh để tìm chỗ đặt chân xuống. Càng xuống gần mặt đất, cậu càng cảm thấy dễ chịu. Cậu nhẩy những mét cuối cùng, và may mắn rơi xuống an toàn trên cỏ.
Cậu lại quay trở về hướng bắc của nhà thờ và đi vòng xung quanh. Trong hai tuần qua cậu đã thấy nhiều nhà thờ, tất cả hầu như có cùng hình dạng. Phần lớn nhất là gian giữa, luôn nằm về hướng tây. Và hai cánh, Tom gọi là gian ngang, quay về hai hướng bắc và nam. Phần cuối ở hướng đông, còn được gọi là chánh điện, và nó ngắn hơn gian giữa. Kingsbridge có nét đặc biệt là cuối hướng tây có hai tháp, mỗi tháp đứng bên một phía cửa ra vào, như để cân bằng với gian ngang.
Có một cửa ra vào ở gian ngang phía bắc. Jack thử và thấy cửa đóng. Cậu tiếp tục đi tới đầu phía đông: không còn cửa nào. Cậu dừng lại, nhìn qua sân cỏ. Trong góc xa phía đông nam khu tu viện có thêm hai dẫy nhà, phòng y tế và nhà của tu viện trưởng. Cả hai tối tăm và yên lặng. Cậu tiếp tục, đi xung quanh đầu phía đông và dọc theo hướng nam của chánh điện cho đến khi cậu đến gian giữa phía nam. Cuối gian ngang giữa, như bàn tay trong cánh tay, là một tòa nhà hình tròn còn được gọi là phòng hội. Giữa gian ngang và phòng họp là một đường đi hẹp dẫn vào tu viện. Jack đi theo con đường hẹp đó.
Cậu đến một sân vuông, có một thảm cỏ ở giữa và xung quanh là lối đi có mái che. Đá trắng nhạt của mái vòm có màu trắng ma quái dưới ánh trăng và lối đi tối tăm vì bị bóng tối bao phủ. Jack đợi một lúc cho đến khi mắt cậu quen dần với bóng tối.
Con đường dẫn Jack tới hành lang phía đông. Về phía bên trái cậu có thể nhận ra cánh cửa đến phòng họp. Xa hơn phía tay trái, ở cuối đầu phía nam của hành lang phía đông, cậu có thể thấy, đối diện với cậu, một cánh cửa khác, cánh cửa mà cậu nghĩ có lẽ dẫn tới phòng ngủ của các tu sĩ. Phía tay phải của cậu, một cánh cửa khác dẫn vào gian ngang phía nam của nhà thờ. Cậu thử và cửa đóng.
Cậu đi theo bức tường phía bắc. Ở đó cậu tìm thấy một cửa dẫn vào gian giữa của nhà thờ. Nó cũng đóng.
Trên tường phía tây không có gì cho đến khi cậu đến góc tây nam, ở đó cậu tìm thấy cửa vào phòng ăn. Chắc có nhiều thực phẩm, cậu nghĩ, để nuôi sống các tu sĩ mỗi ngày. Gần đó có một vòi nước với một bồn nhỏ: các tu sĩ rửa tay ở đó trước mỗi bữa ăn.
Cậu tiếp tục đi theo bức tường phía nam. Giữa đường có một mái vòm. Jack đi ngang qua đó và đến một hành lang nhỏ, bên tay phải là nhà ăn và bên trái là phòng ngủ của các tu sĩ. Cậu tưởng tượng đàng sau bức tường đá kia, các tu sĩ đang ngủ say trên nền nhà. Cuối hành lang không có gì, ngoại trừ con dốc lầy lội dẫn xuống sông. Jack đứng đó nhìn dòng nước bên dưới, cách đó khoảng trăm mét. Không biết tại sao cậu lại nhớ tới câu chuyện về một hiệp sĩ bị chặt đầu nhưng vẫn sống; và cậu tưởng tượng chàng hiệp sĩ không đầu ra khỏi dòng sông và đi về phía cậu. Không có gì ở đó, nhưng cậu vẫn sợ. Cậu quay lại, vội vã trở về tu viện. Ở đó cậu thấy an toàn hơn.
Cậu ngập ngừng dưới mái vòm, ánh trăng chiếu vào khu tứ giác. Phải có một con đường để lẻn vào tòa nhà đồ sộ như thế, cậu nghĩ, nhưng cậu không biết phải tìm ở đâu nữa. Một cách nào đó cậu vui, cậu nghĩ cậu đang làm một cái gì đó nguy hiểm đáng sợ, và nếu nó không thể thực hiện được thì càng tốt. Mặt khác cậu sợ hãi khi nghĩ đến phải rời tu viện và lên đường vào sáng mai: lại đi bộ, đói, thất vọng và với sự giận dữ của Tom, nước mắt của Martha. Mọi chuyện có thể tránh được chỉ bằng tia lửa nhỏ từ đá lửa mà cậu mang theo trong chiếc túi đeo bên thắt lưng.
Một cái gì đó chuyển động ở góc nhìn của cậu. Cậu chăm chú nhìn, trái tim đập nhanh hơn. Cậu quay đầu và nhìn thấy một hình dáng ma quái cầm một cây nến, lướt nhẹ nhàng theo bức tường phía đông, hướng về nhà thờ. Một tiếng hét chực thoát ra khỏi cổ cậu, nhưng cậu vội ngăn xuống. Những bóng khác theo sau. Jack bước lùi lại mái vòm, tránh xa khỏi tầm mắt, và cho một nắm tay lên miệng, cắn vào da để ngăn mình khỏi kêu to lên. Cậu nghe thấy tiếng rên rỉ lạ thường. Cậu chăm chú nhìn trong sợ hãi tột độ. Rồi từ từ cậu hiểu ra: những gì cậu đang thấy là một cuộc rước của các tu sĩ đi từ phòng ngủ tới nhà thờ cho giờ kinh đêm. Vừa đi họ vừa hát. Mặc dù bây giờ cậu hiểu ra những gì cậu nhìn thấy, cậu vẫn hoảng sợ, sau đó dù nhẹ nhõm hơn, nhưng cậu lại run rẩy mà không làm gì ngăn lại được.
Tu sĩ đi đầu mở cửa nhà thờ bằng một chìa khóa bằng sắt lớn. Các tu sĩ đi vào. Không người nào quay lại nhìn vào hướng cậu. Hầu hết họ vẫn còn nửa tỉnh nửa mê. Họ không đóng cửa phía sau lưng.
Khi đã hoàn hồn, Jack nhận ra bây giờ cậu có thể vào nhà thờ.
Nhưng cậu không thể bước nổi.
Tôi chỉ đi vào xem, cậu nhủ thầm. Khi vào trong đó, tôi không phải làm gì cả. Tôi chỉ nhìn xem có cách nào lên được mái nhà. Tôi không phải châm lửa đốt. Tôi chỉ muốn xem.
Cậu lấy hơi dài, rồi bước ra khỏi mái vòm và lướt nhanh qua hành lang. Cậu do dự ở cửa nhà thờ và nhìn vào trong. Trên bàn thờ và khu các tu sĩ đang đứng, đàng sau các băng ghế có ánh nến, nhưng ánh nến chỉ đủ soi sáng cho một vùng nhỏ giữa một không gian rộng lớn, trống trải, vì thế mà tường và lối đi vẫn chìm trong bóng tối. Một tu sĩ đứng ở bàn thờ làm cái gì đó mà Jack không hiểu, các tu sĩ khác lâu lâu lại cất tiếng hát. Jack không thể hiểu được tại sao người ta lại có thể ra khỏi giường chiếu ấm áp vào giữa đêm để chỉ làm những việc này.
Cậu chui qua cửa, đứng gần tường.
Cậu ở trong nhà thờ. Bóng tối che dấu cậu. Tuy nhiên cậu không thể đứng mãi ở đây vì họ sẽ nhìn thấy cậu khi đi ra. Cậu lẻn vào xa hơn. Ngọn nến leo lét không ngừng tạo nên bóng lập lòe. Tu sĩ ở bàn thờ nếu ngước đầu lên sẽ nhìn thấy Jack, nhưng ông dường như đắm mình hoàn toàn vào những gì ông đang làm. Jack di chuyển nhanh chóng từ cột này sang cột khác, tuy nhiên cậu cũng chú ý dừng lại, để cho chuyển động của cậu không thường xuyên, nhưng lập lòe như những bóng của cây nến chiếu trên nền nhà. Ánh sáng càng tỏ hơn khi cậu đến gần khu giữa. Cậu sợ tu sĩ trên bàn thờ có thể bất ngờ ngẩng đầu lên, thấy cậu, nhẩy vào cậu và tóm lấy gáy cậu.
Cậu đến được phía bên kia và may mắn ẩn mình trong bóng tối của gian giữa.
Cậu dừng lại thở, cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Rồi cậu di chuyển dọc theo lối đi về phía tây cuối nhà thờ, vẫn bất thường dừng lại, như cậu đang rình một con nai. Khi cậu đến chỗ xa nhất, tối nhất của nhà thờ, cậu ngồi xuống bên chân cột và chờ cho giờ cầu nguyện chấm dứt.
Cậu cúi cằm xuống sâu trong áo choàng và thổi hơi vào ngực cho ấm. Đời sống của cậu đã thay đổi nhiều trong hai tuần qua. Cậu tưởng như thời gian cậu sống thoải mái với mẹ trong rừng đã qua lâu rồi. Cậu biết cậu sẽ chẳng bao giờ cảm thấy an toàn nữa. Bây giờ cậu đã biết về đói, và lạnh, và nguy hiểm, và tuyệt vọng, cậu sẽ luôn sợ chúng.
Ông nhìn trộm xung quanh hàng cột. Trên bàn thờ, nơi những ngọn nến tỏa sáng nhất, cậu có thể nhận ra trần nhà bằng gỗ trên cao. Cậu biết nhà thờ kiểu mới có vòm trần bằng đá, nhưng Kingsbridge đã cũ. Mà trần bằng gỗ sẽ cháy mau.
Tôi không có ý định làm chuyện đó, cậu nghĩ.
Tom sẽ rất vui nếu nhà thờ cháy đổ. Jack không chắc chắn là cậu có thích Tom không – ông quá mạnh mẽ, cứng rắn và hay ra lệnh. Jack đã quen với cách dịu dàng của mẹ. Nhưng Jack ấn tượng về Tom và kính sợ. Những người đàn ông khác mà Jack biết là những người sống ngoài vòng pháp luật – nguy hiểm, tàn bạo, những người chỉ biết bạo lực và xảo quyệt, những người chỉ thích đâm dao và lưng người khác. Tom là lớp người mới, tự hào và không sợ hãi ngay cả khi không có vũ khí. Jack chẳng bao giờ quên cách Tom đã đối diện với William Hamleigh, lúc mà William muốn mua mẹ với giá một cân bạc. Jack đã ấn tượng vì William sợ hãi. Jack đã kể với mẹ là cậu chẳng bao gờ tưởng tượng nổi một người có thể can đảm như Tom, và bà đã nói: “Đó là lý do tại sao chúng ta đã ra khỏi rừng. Con cần một người để noi theo.”
Jack lúng túng với nhận xét đó, nhưng thật sự là cậu muốn làm điều gì đó để gây ấn tượng cho Tom. Đốt nhà thờ không phải để gây ấn tượng, vì tốt hơn không nên cho ai biết về nó, ít nhất trong một vài năm. Nhưng có lẽ sẽ có ngày Jack nói với Tom: “Dượng có nhớ đêm mà nhà thờ Kingsbridge cháy, và tu viện trưởng đã thuê dượng để xây dựng lại, và tất cả chúng ta có đồ ăn, nơi trú ẩn và sau đó chúng ta được an toàn không? Vâng, con sẽ kể cho dượng nghe làm sao ngọn lửa bắt cháy…” Lúc đó sẽ là khoảnh khắc tuyệt vời!
Nhưng tôi không dám làm chuyện đó, cậu nghĩ.
Tiếng hát ngưng bặt, tiếng gót chân lê trên nền nhà. Giờ kinh chấm dứt. Các tu sĩ rời khỏi băng ghế, tiến ra phía cửa. Jack chuyển vị trí của mình quanh chiếc cột để không bị nhìn thấy khi các tu sĩ đi ra.
Các tu sĩ thổi tắt các ngọn nến, nhưng để lại ngọn nến cháy trên bàn thờ. Tiếng cửa đóng. Jack đợi thêm một chút, để tránh tình trạng còn có người ở lại trong nhà thờ. Không còn tiếng động nào. Sau cùng cậu ra khỏi chỗ ẩn bên chân cột.
Cậu đi lên gian giữa. Đó là một cảm giác kỳ lạ khi ở một mình trong tòa nhà đồ sộ, lạnh lẽo, trống trải này. Cảm giác giống như con chuột, cậu nghĩ, trốn trong một góc khi những người to lớn ở xung quanh, rồi chui ra khi họ đi khỏi. Cậu đến bàn thờ, lấy cây nến to, còn đang cháy trong tay. Bây giờ cậu cảm thấy tự tin hơn.
Với nến trong tay, cậu bắt đầu xem xét ngôi nhà thờ. Ở một góc, nơi gian giữa gặp gian cánh phía nam, nơi mà cậu sợ đôi mắt của tu sĩ trên bàn thờ bắt gặp, nơi đó có một cánh cửa trong tường với một cái chốt đơn giản. Cậu cố gắng mở chốt. Cánh cửa mở ra.
Ngọn nến soi tỏ một chiếc cầu thang xoắn ốc, nó quá nhỏ đến nỗi một người mập không thể đi qua, quá thấp đến nỗi Tom phải cúi mình. Cậu lên bậc thang.
Cậu đến một phòng hẹp. Ở một phía, một hàng vòm nhỏ trổ ra phía gian giữa. Trần dốc từ đỉnh mái vòm xuống nền nhà ở phía bên kia. Nền nhà không bằng phẳng, nhưng cong xuống hai bên. Jack cần một lúc lâu để định vị được cậu đang ở đâu. Cậu đang ở gian cánh phụ phía nam của gian giữa. Mái vòm của gian phụ tạo thành nền mà Jack đang đứng. Từ bên ngoài nhà thờ, gian phụ này có thể nhìn thấy và nó có mái che, mái che đó là trần nhà chếch trên đầu Jack. Lối đi thấp hơn là gian giữa, vì thế cậu phải đi lâu nữa mới tới mái chính của tòa nhà.
Cậu đi về phía tây và khám phá theo lối đi nhỏ. Bây giờ các tu sĩ đã ra khỏi, và cậu không sợ bị phát hiện nữa, cậu thấy thú vị. Nó giống như cậu trèo lên cây và thấy rằng ở trên đỉnh cao nhất, tất cả những cây được nối liền với nhau mà bên dưới không thấy được vì những cành lá thấp, và cậu có thể đi xung quanh một thế giới bí mật, cách mặt đất vài mét.
Cuối hành lang nhỏ là một cửa nhỏ khác. Cậu đi qua đó và thấy mình ở trong tòa tháp tây nam, tòa tháp không bị sập. Gian phòng cậu đang ở chắc chắn ít có người đến, bởi vì nó còn thô sơ và chưa hoàn thành, và thay vì một nền bằng phẳng, nó chỉ có những thanh ngang và lỗ hổng. Tuy nhiên, xung quanh bức tường có một thang gỗ không tay vịn. Jack trèo lên.
Lưng chừng tường, Jack khám phá ra một khung cửa nhỏ mở. Cậu rướn người vào và dơ cao nến. Cậu đang ở trong mái nhà, trên trần bằng gỗ và dưới mái nhà bằng lá.
Lúc đầu cậu không nhận dạng được những xà gỗ ngang dọc. Sau đó cậu nhận ra được cấu trúc: Những xà ngang bằng gỗ sồi to lớn làm căng chiều rộng của gian giữa từ bắc đến nam. Mỗi xà ngang liên kết với hai kèo tạo thành hình tam giác. Hàng tam giác đều đặn này kéo dài, vượt ra khỏi tầm ánh sáng của ngọn nến. Nhìn xuống, giữa các dầm, cậu có thể nhìn thấy phía sau trần bằng gỗ của gian giữa.
Ở rìa mái nhà, trong góc của đáy hình tam giác, là lối đường đi. Jack bò qua lỗ hổng nhỏ và vào lối đi. Ở đó vừa đủ chỗ cho cậu đứng thẳng người: một người lớn phải cúi mình. Cậu đi trên đó một vài bước. Ở đây có đủ gỗ cho một cuộc hỏa hoạn lớn. Cậu ngửi, cố gắng tìm ra mùi gì trong không khí. Cậu xác định đó là hắc ín. Các gỗ trên mái nhà được tẩm bằng hắc ín. Chúng sẽ cháy như rơm.
Một chuyển động đột ngột trên nền nhà làm cậu giật mình và trái tim cậu đập mạnh. Cậu nghĩ về chàng hiệp sĩ cụt đầu trong dòng sông và các tu sĩ như bóng ma trong hành lang tu viện. Sau đó cậu nghĩ về những con chuột và cảm thấy bớt sợ. Nhưng khi cậu nhìn kỹ hơn, cậu thấy đó là những con chim: chúng làm tổ dưới mái vòm trước cửa nhà thờ.
Mái nhà theo mô hình của nhà thờ bên dưới, tỏa ra hai cánh. Jack đi xa qua khu trung tâm giữa các gian và đứng trong một góc. Cậu nhận ra cậu đang ở trên cầu thang xoắn ốc mà cậu đã trèo lên. Nếu cậu dự định châm lửa, đây là nơi cậu phải khởi sự. Từ đây nó sẽ theo bốn phía: phía tây dọc theo gian giữa, hướng nam dọc theo gian ngang hướng nam, và xuyên qua khu trung tâm tới chánh điện và gian ngang hướng bắc.
Những gỗ chính của mái nhà được làm từ tim của gỗ sồi, và mặc dù chúng được tẩm hắc ín, chúng cũng không thể bắt lửa từ một ngọn nến. Tuy nhiên, dưới mái hiên là một đống gỗ dư và bào gỗ, phần còn lại của những bao và dây thừng bị sa thải, cũng như tổ chim bị bỏ hoang. Chúng là những mồi lửa hoàn hảo. Những gì cậu cần làm là gom nó lại và xếp nó chồng lên.
Ngọn nến đã gần cháy rụi.
Mọi chuyện dường như dễ dàng: gom rác lại, dùng ngọn nến châm lửa vào, và bỏ lại, rồi đi băng ngang sân như một bóng ma, lẻn vào nhà khách, đóng cửa lại, cuộn tròn trong chăn và chờ báo động.
Nhưng nếu người ta bắt gặp cậu…
Nếu bây giờ cậu bị bắt, cậu sẽ nói là cậu muốn khám phá nhà thờ, và cùng lắm là cậu bị một trận đòn. Nhưng nếu họ bắt được cậu đang châm lửa đốt nhà thờ, họ sẽ phạt nhiều hơn thế nữa. Cậu nhớ lại chàng ăn cắp đường ở Shiring, và mông chàng bị chảy máu làm sao. Cậu nhớ lại những hình phạt mà những người sống ngoài vòng pháp luật đã phải chịu: Faramond Openmouth bị cắt môi, Jack Flathat bị mất tay và Alan Catface bị nhốt trong nhà kho và bị ném đá, và từ đó ông không nói được nữa. Thậm chí còn có những câu chuyện về những người đã chẳng sống sót sau hình phạt: một kẻ giết người bị cột vào một thùng, phía trong thùng có gắn đinh nhọn, và người ta lăn thùng này xuống một triền dốc cho đinh găm vào cơ thể ông; một người ăn trộm ngựa bị thiêu sống; một cô điếm ăn cắp bị xuyên qua cột nhọn. Họ sẽ làm gì với một đứa trẻ châm lửa đốt nhà thờ?
Thận trọng, cậu thu rác dễ cháy từ dưới mái hiên thành một đống trên lối đi, chính xác dưới một trong những xà ngang to lớn.
Khi cậu đã thu được một đống cao khoảng một mét, cậu ngồi xuống, chăm chú nhìn nó.
Ngọn nến của cậu bập bùng. Chỉ còn vài phút nữa cậu sẽ mất cơ hội.
Với một động tác nhanh, cậu châm ngọn lửa vào miếng bao vải. Nó bắt lửa. Ngọn lửa bắt nhanh vào vỏ gỗ bào, rồi sang tổ chim đã khô; và rồi ngọn lửa đỏ rực.
Tôi vẫn có thể dập tắt nó, Jack nghĩ.
Các mồi lửa cháy nhanh quá: với tốc độ này nó sẽ cháy hết trước khi mái nhà bén lửa. Jack vội vã thu thêm rác và chất lên trên. Ngọn lửa cháy cao hơn. Tôi vẫn có thể dập tắt nó, cậu nghĩ. Hắc in được quét trên xà ngang bắt đầu đen và bốc khói. Rác đã cháy hết. Tôi có thể để ngọn lửa tự tắt đi, cậu nghĩ. Rồi cậu nhìn thấy lối đi bằng gỗ đang cháy. Tôi vẫn có thể dập tắt ngọn lửa bằng áo khoác của tôi, cậu nghĩ. Thay vào đó, cậu ném thêm rác vào lửa và quan sát nó cháy cao hơn.
Khói bốc lên từ trong góc nhỏ của mái hiên và hơi nóng toát ra, mặc dù bên kia mái hiên là khí lạnh ban đêm. Một vài thanh gỗ nhỏ bắt đầu cháy. Rồi, sau cùng, một ngọn lửa nhỏ nhen nhúm từ xà chính lớn.
Nhà thờ chánh tòa đang cháy.
Nó đã được thực hiện. Bây giờ không còn có thể quay trở lại.
Jack thấy sợ. Bất ngờ cậu muốn đi ra nhanh, và trở về nhà khách. Cậu muốn được cuộn tròn lại trong áo khoác, nép mình trong đống rơm, nhắm mắt lại và được thở đều như những người xung quanh.
Cậu rút lui theo lối đi cạnh mái nhà.
Khi đến cuối đường, cậu nhìn lại. Ngọn lửa lan rộng nhanh chóng một cách đáng ngạc nhiên, có lẽ vì gỗ được tẩm hắc ín. Tất cả gỗ nhỏ đã bị cháy, các xà chính bắt đầu bắt lửa và ngọn lửa lan ra lối đi. Jack quay lưng lại.
Cậu chui mình vào tháp và đi xuống cầu thang, sau đó theo phòng nhỏ qua hành lang và vội vã lao nhanh xuống cầu thang xoắn ốc vào gian giữa. Cậu chạy nhanh đến cửa, nơi cậu đã vào.
Cánh cửa khóa.
Cậu nhận ra mình đã quá ngu. Các tu sĩ đã mở khóa cửa khi họ đi vào, thì dĩ nhiên khi đi ra họ sẽ khóa lại.
Sự sợ hãi trào lên cổ cậu. Cậu châm lửa đốt nhà thờ và bây giờ cậu bị nhốt trong đó.
Cậu chiến đấu với cơn sợ và cố gắng suy nghĩ. Cậu đã thử các cửa từ bên ngoài và mọi cửa đều khóa; nhưng có lẽ một vài cửa chỉ khóa bằng thanh cửa, chứ không bằng ổ khóa, nên chúng có thể mở được từ bên trong.
Cậu vội vã xuyên qua khu trung tâm đến gian phía bắc và thử cánh cửa của hàng hiên phía bắc. Cửa khóa.
Cậu chạy nhanh xuống gian giữa tới đầu cuối phía tây và thử ở mỗi cửa ra vào. Cả ba cửa đều đóng bằng khóa. Sau cùng cậu thử chiếc cửa nhỏ, dẫn từ lối đi phía bắc của tu viện vào gian ngang phía nam. Cửa đó cũng khóa nữa.
Jack muốn khóc, nhưng điều đó không tốt. Cậu nhìn lên mái trần bằng gỗ. Cậu đang mơ hay đó là sự thật mà cậu có thể nhìn thấy, qua ánh trăng, một ít khói bốc lên từ trần nhà, gần góc của gian ngang phía nam.
Cậu nghĩ: Tôi phải làm gì bây giờ?
Nếu các tu sĩ thức dậy, vội vã vào nhà thờ để chữa lửa, trong sự hốt hoảng như vậy chắc không ai để ý đến một cậu bé lẻn ra khỏi cửa? Hoặc người ta sẽ nhìn thấy cậu ngay, túm lấy và la mắng cậu? Hoặc họ vẫn ngủ, không hay biết gì, cho đến khi toàn bộ tòa nhà sụp đổ, và cậu bị đè bẹp dưới đống đá lớn?
Nước mắt trào lên mắt, và cậu ước gì mình đã chẳng châm ngọn nến vào đống rác.
Cậu nhìn quanh. Nếu cậu đến một cửa sổ và hét lên, liệu có ai nghe thấy không?
Từ trên cao có một vật gì đó sập xuống. Cậu ngẩng lên và nhìn thấy một lỗ hổng trên trần gỗ, nơi một xà ngang lớn rơi xuống và xuyên thủng mái trần. Cái lỗ tạo ra một vết đỏ trên nền đen. Một lúc sau lại một tiếng ầm khác, và một xà ngang lớn chọc thủng trần nhà và rơi xuống, quay một vòng trong không khí, đụng mặt đất gây ra một tiếng ầm làm rung chuyển hàng cột ở gian giữa. Sau đó là làn mưa của những tia lửa và than hồng rơi xuống. Jack lắng nghe và chờ đợi tiếng kêu gào, tiếng cầu cứu hay tiếng chuông báo động; nhưng không có gì. Từng thanh gỗ vẫn tiếp tục đổ xuống. Và khi tiếng đổ này không đánh thức họ dậy, chắc chắn họ cũng chẳng nghe thấy tiếng kêu cứu của cậu.
Tôi sẽ chết ở đây, cậu điên dại nghĩ; tôi sẽ bị đốt cháy hay bị nghiền nát, chỉ trừ khi tôi tìm được một lối ra.
Cậu nghĩ tới cây tháp bị sụp đổ. Cậu đã dò thám nó từ bên ngoài và không tìm thấy đường vào, nhưng lúc đó cậu quá nhát, sợ bị rơi xuống và sợ đống đá tụt xuống. Có lẽ nếu cậu coi lại, lần này từ bên trong, cậu có thể thấy những cái mà cậu không để ý đến; và có lẽ sự tuyệt vọng sẽ giúp cậu, ép cậu chui qua chỗ mà trước đây cậu đã không tìm thấy.
Cậu chạy tới cuối hướng tây. Ánh sáng của ngọn lửa chiếu qua trần nhà, kết hợp với ngọn lửa hắt lên từ những xà ngang rơi xuống trên nền nhà trong gian giữa, bây giờ tạo nên một ánh sáng mạnh hơn cả ánh trăng, và mái vòm của gian giữa tràn đầy màu vàng thay vì bạc.
Jack tìm hiểu đống đá đổ nát từ tòa tháp. Chúng vững vàng như một bức tường. Không có đường xuyên qua. Một cách ngớ ngẩn cậu vụt miệng kêu lên “Mẹ ơi!” mặc dù cậu biết bà sẽ chẳng bao giờ nghe được.
Một lần nữa cậu cố gắng chống lại sự sợ hãi. Trong trí của cậu có một cái gì đ?