← Quay lại trang sách

Chương 4 (B)

II - Philip vẫn chưa quen ngủ một mình. Ông nhớ không khí ngột ngạt của phòng ngủ chung, âm thanh ngáy và trằn trọc của những người khác, sự làm phiền khi một tu sĩ già thức dậy đi vệ sinh (thông thường sẽ có các tu sĩ già khác theo sau, một cuộc xếp hàng như đi rước làm các tu sĩ trẻ thích thú). Khi đêm về, ông không bận tâm vì ở một mình, nhất là khi ông mệt mỏi; nhưng giữa đêm khi ông thức dậy cho giờ kinh đêm, ông khó có thể ngủ lại được. Thay vì trở lại chiếc giường to êm ấm (ông có một chút ngại ngùng vì ông đã quen nhanh chóng với nó), ông sẽ châm lửa và đọc sách bên ánh sáng của cây nến, hay quỳ gối cầu nguyện hoặc chỉ ngồi yên lặng suy nghĩ.

Ông có nhiều chuyện để suy nghĩ. Tài chánh của tu viện tồi tệ hơn ông dự đoán. Lý do chính có lẽ là toàn bộ tổ chức ít làm ra tiền. Tu viện có nhiều đất đai canh tác cho thuê, nhưng nhiều nông trại có những hợp đồng thuê dài hạn với tiền thuê thấp, và một số họ trả tiền thuê qua sản phẩm – bao nhiêu bao bột, bao nhiêu thùng táo, bao nhiêu xe củ cải. Những mảnh đất không cho thuê do các tu sĩ tự canh tác, nhưng họ dường như không có khả năng tạo nên sản phẩm để bán. Nguồn thu nhập quan trọng của tu viện là những nhà thờ thuộc quyền sở hữu, từ đó tu viện nhận được một phần mười tiền thu nhập. Thật không may, hầu hết nhà thờ này nằm dưới quyền của người phụ trách phụng vụ, và Philiip khó có thể tìm ra ông nhận được bao nhiêu và ông chi tiêu như thế nào. Không có tài khoản bằng văn bản. Tuy nhiên, rõ ràng là thu nhập của người phụ trách phụng vụ quá ít, hay sự điều hành của ông quá tệ để có thể bảo quản nhà thờ chính tòa trong tình trạng tốt; mặc dù từ nhiều năm qua người phụ trách phụng vụ đã thu thập được một bộ sưu tập ấn tượng về chén thánh và đồ thánh trang trí bằng vàng bạc và đá quý.

Philip không nắm được các chi tiết cho đến khi ông có giờ để tham quan tài sản đất đai của tu viện ở khắp nơi. Một điều rõ ràng là từ mấy năm nay tu viện trưởng cũ đã mượn tiền từ người cho vay ở Winchester và London để đáp ứng chi phí hàng ngày. Philip quá chán nản khi ông nhận ra tình trạng bi thảm này.

Tuy nhiên, khi suy nghĩ và cầu nguyện về việc này, ông tìm ra một giải pháp rõ ràng hơn. Philip có một kế hoạch qua ba giai đoạn. Chính ông sẽ từ từ kiểm soát tài chánh của tu viện. Vào thời điểm này, mỗi người có trách nhiệm trong tu viện đều kiểm soát một phần tài sản, và chi phí cho lãnh vực của họ với thu nhập từ tài sản đó: quản lý, người lo phụng vụ, người phụ trách nhà khách, người phụ trách tập sinh và người lo y tế, mỗi người đều có trang trại và nhà thờ ‘của họ’. Đương nhiên không ai trong họ thừa nhận họ có quá nhiều tiền, và nếu họ có dư họ cũng chi tiêu hết vì sợ phần dư sẽ bị xung vào quỹ chung. Philip quyết định sẽ chỉ định một chức vụ mới, được gọi là người phụ trách tài chánh, người nhận tất cả tiền thuộc về tu viện, không có ngoại lệ, và đưa cho mỗi người có trách nhiệm số tiền mà ông ấy cần.

Người phụ trách tài chánh dĩ nhiên sẽ là người Philip có thể tin tưởng được. Trước tiên ông định giao cho Cuthbert đầu trắng, người quản lý; nhưng ông chợt nhớ lại Cuthbert không thích viết. Điều đó không tốt. Từ bây giờ trở đi mọi thu nhập và chi tiêu sẽ phải viết trong một cuốn sổ lớn. Philip quyết định chỉ định Milius, người đầu bếp trẻ, làm tài chánh. Những người có trách nhiệm khác trong tu viện sẽ không thích ý tưởng này. Philip không sợ sự chống đối của họ lắm, vì bây giờ ông là tu viện trưởng và đa số các tu sĩ, những người biết hoặc nghe về những khó khăn tài chánh của tu viện, sẽ ủng hộ cải cách của ông.

Khi ông kiểm soát được tài chánh, ông sẽ thực hiện bước thứ hai của kế hoạch. Tất cả các đất canh tác xa sẽ được cho thuê bằng tiền mặt. Điều này sẽ giúp chấm dứt chi phí vận chuyển hàng hóa qua đoạn đường dài. Tu viện có một trang trại ở Yorkshire cho thuê, họ trả tiền thuê đất là mười hai con cừu, và họ gửi đều đặn mỗi năm số cừu này đến Kingsbridge, ngay cả chi phí vận chuyển còn cao hơn giá trị của mười hai con cừu, và ngoài ra một nửa trong số chúng lại bị chết dọc đường. Trong tương lai, chỉ có những trang trại gần nhất mới cung cấp thực phẩm cho tu viện.

Ông cũng lên kế hạch thay đổi cách tổ chức sản xuất. Hiện nay mỗi trang trại sản xuất mỗi thứ một ít – một số ngũ cốc, một số thịt, một số sữa. Nhiều năm qua Philip đã nghĩ rằng như thế là lãng phí. Mỗi trang trại chỉ sản xuất đủ các mặt hàng cho nhu cầu của riêng họ - hay đúng hơn phải nói rằng, mỗi trang trại luôn luôn tiêu thụ hết những gì họ sản xuất được. Philip muốn mỗi trang trại tập trung vào một lãnh vực duy nhất. Tất cả ngũ cốc sẽ được trồng theo nhóm ở Somerset, nơi tu viện cũng có những nhà máy xay. Sườn đồi xanh tươi của Wiltshire sẽ nuôi bò cho thịt và bơ. Tu viện nhỏ St. John trong rừng sẽ nuôi dê và làm pho mát.

Trọng tâm cải cách kinh tế của Philip là chuyển đổi tất cả trang trại nhỏ và trung bình, những trang trại có đất không mầu mỡ, thành trang trại nuôi cừu.

Ông đã trải qua thời niên thiếu của ông trong một tu viện có trang trại nuôi cừu (mọi trang trại ở Wales đều nuôi cừu), và ông đã thấy giá lông cừu tăng chậm nhưng vững, tăng hàng năm kể từ khi ông còn nhớ được cho đến ngày nay. Với thời gian, cừu sẽ giải quyết được vấn đề tài chánh triền miên của tu viện.

Đó là giai đoạn thứ hai của kế hoạch. Bước thứ ba là phá hủy nhà thờ cũ và xây lại nhà thờ mới. Nhà thờ hiện nay quá cũ, xấu và không thực dụng; và thực tế là tháp đổ ở phía tây bắc có thể làm toàn bộ cấu trúc suy yếu. Nhà thờ mới sẽ cao hơn, dài hơn và – quan trọng nhất – sáng hơn. Chúng cũng được thiết kế làm nổi bật ngôi mộ quan trọng và di tích thánh để khách hành hương đến thăm viếng. Vào thời buổi này, các nhà thờ chính tòa thường thêm những bàn thờ nhỏ và nhà nguyện bên cạnh dành kính các vị thánh đặc biệt. Một nhà thờ thiết kế tốt, đáp ứng được nhu cầu phong phú về các giờ kinh lễ của cộng đoàn, có thể thu hút được nhiều bổn đạo và khách hành hương hơn hiện nay; và trong thời gian dài, nhà thờ có thể tự trang trải được chi phí xây dựng của nó. Khi Philip có thể ổn định kinh tế của tu viện trên nền tảng chắc chắn, ông sẽ xây một nhà thờ mới, biểu tượng cho sự tái sinh của Kingsbridge.

Nó sẽ là biểu tượng sự thành công của ông.

Ông dự tính sẽ có đủ tiền trong mười năm để xây lại nhà thờ. Ông giật mình – khi đó ông đã gần bốn mươi tuổi. Tuy nhiên ông hy vọng trong vòng một năm nữa, ông có khả năng thực hiện việc sửa chữa ngôi nhà thờ cũ để vào dịp lễ Chúa Thánh thần nhà thờ sẽ có bộ mặt khang trang hơn.

Bây giờ, khi đã có kế hoạch, ông cảm thấy vui vẻ và lạc quan trở lại. Khi đang cân nhắc về chi tiết, ông lờ mờ nghe thấy một tiếng nổ từ xa, giống như tiếng đóng cửa mạnh. Ông tự hỏi không biết ai đã thức dậy và đi ra khỏi phòng ngủ hay hành lang vào giờ này. Ông cho rằng nếu có vấn đề, ông sẽ được thông báo ngay, và tư tưởng của ông lại trở về với tiền thuê và thuế nhà thờ. Một nguồn thu nhập dồi dào nữa của tu viện là quà tặng của cha mẹ những trẻ muốn nhập tu viện, nhưng để thu hút được những tập sinh đúng đắn, tu viện cần một trường học tốt.

Dòng tư tưởng của ông lại bị gián đoạn, lần này bởi một tiếng nổ lớn đến nỗi làm nhà lung lay nhẹ. Đó chắc chắn không phải là tiếng cánh cửa vị đập mạnh, ông nghĩ. Chuyện gì xẩy ra ngoài kia? Ông đến bên cửa sổ và mở ra. Gió lạnh thổi vào làm ông lạnh run. Ông nhìn sang nhà thờ, phòng họp, hành lang, phòng ngủ và nhà bếp. Tất cả xuất hiện bình thường dưới ánh trăng. Khi ông thở, không khí buốt lạnh làm răng ông đau. Nhưng có một cái gì khác thường trong không khí. Ông ngửi, và ông thấy mùi khói.

Ông cau mày lo lắng, nhưng ông không thấy lửa.

Ông quay đầu vào trong phòng và ngửi lần nữa. Ông nghĩ rằng có thể ông ngửi thấy mùi khói từ lò sưởi, nhưng không thấy gì. Bối rối và khẩn trương, ông nhanh chóng sỏ chân vào giầy, nhặt chiếc áo choàng và chạy ra khỏi nhà.

Mùi khói mạnh hơn khi ông vội vã băng ngang sân về hướng hành lang. Không còn nghi ngờ gì nữa, một phần của tu viện bị cháy. Trước hết ông nghĩ đến nhà bếp – các đám cháy thường bắt đầu từ nhà bếp. Ông chạy qua con đường nhỏ giữa nhà ngang phía nam và phòng họp, rồi đi qua sân tu viện. Ban ngày ông sẽ đi ngang qua phòng ăn tới sân nhà bếp, nhưng cửa phòng ăn đóng vào ban đêm, vì thế ông đi ra xuyên qua mái vòm của bức tường phía nam và quay phải tới đàng sau nhà bếp. Không có dấu hiệu của lửa ở đó, cũng không phải trong xưởng bia cũng không phải lò bánh mì, và mùi khói dường như nhẹ hơn ở đây. Ông chạy xa hơn và nhìn qua các góc bên nhà máy bia, xuyên qua sân cỏ đến nhà khách và chuồng ngựa. Ở đó dường như hoàn toàn yên tĩnh.

Có thể cháy ở phòng ngủ sao? Chỉ phòng ngủ mới có lò sưởi. Nghĩ đến ông rùng mình. Trên đường chạy trở lại tu viện, một viễn tượng kinh khủng đến trong đầu, khi ông tưởng tượng tất cả các tu sĩ nằm trên giường, bất tỉnh vì khói và phòng ngủ cháy rực. Ông chạy đến cửa phòng ngủ. Khi ông đến nơi, cửa chợt mở và Cuthbert bước ra, đem theo một ngọn đèn.

Cuthbert nói ngay: “Anh có ngửi thấy gì không?”

“Có! Anh em tu sĩ, tất cả bình an chứ?”

“Ở đây không có gì bị cháy.”

Philip thấy nhẹ nhõm. Ít nhất những người dưới quyền ông được an toàn. “Vậy cháy ở đâu?”

“Nhà bếp làm sao?” Cuthbert nói.

“Không có gì – tôi có kiểm soát rồi.” Bây giờ, sau khi biết không ai gặp nguy hiểm, ông bắt đầu lo về tài sản. Ông vừa suy nghĩ về tài chánh, và ông biết hiện nay ông không thể sửa sang gì được. Ông nhìn vào nhà thờ. Có phải có màu đỏ nhạt phía sau cửa sổ không?

Philip nói: “Cuthbert, lấy chìa khóa nhà thờ nơi người phụ trách phụng vụ.”

Cuthbert đi trước ông. “Tôi có đây.”

“Anh chu đáo quá.”

Họ vội vã đi dọc theo bức tường phía đông tới cửa gian phụ phía nam. Cuthbert vội vàng mở khóa. Khi cánh cửa bật ra, khói bốc ra.

Trái tim Philip ngừng đập. Làm sao nhà thờ có thể cháy được?

Ông bước vào. Lúc đầu cảnh tượng thật khó hiểu. Trên nền nhà thờ, xung quanh bàn thờ và trong gian phụ phía nam này có nhiều mảnh gỗ lớn đang cháy. Lửa bắt ra từ đâu? Tại sao lại có nhiều khói? Và tiếng động như sấm, tiếng động chắc chắn do một đám cháy lớn, từ đâu phát ra?

Cuthbert la to: “Hãy nhìn lên!”

Philip nhìn lên và ông tìm được câu trả lời. Mái trần cháy dữ dội. Ông nhìn nó, thật kinh hoàng: từ dưới nhìn lên trông giống như hỏa ngục. Hầu hết bức trần tô điểm hình vẽ đã biến mất, để lộ ra giàn mái đen và rực lửa, ngọn lửa và khói nhẩy múa trong một điệu nhẩy hung bạo. Philip đứng im bất động cho đến khi cổ ông bị đau vì ngẩng lên, ông mới tỉnh hồn.

Ông chạy đến khu trung tâm, đứng trước bàn thờ, và nhìn quanh nhà thờ. Toàn bộ mái nhà đã bốc cháy, từ cửa phía tây đến cuối hướng đông và xuyên qua cả hai gian phụ hai bên. Trong lúc hoảng loạn ông nghĩ làm sao có thể đem nước lên đó? Ông tưởng tượng một hàng dài các tu sĩ xách nước chạy theo đường hành lang, nhưng ông nhận ra ngay là nó không thể thực hiện được: ngay cả một trăm người cũng không thể xách đủ nước lên mái để dập tắt ngọn lửa bừng bừng như hỏa ngục này được. Toàn bộ mái nhà thờ sắp bị phá hủy, ông nhận ra điều đó với một trái tim tan nát; và mưa gió, bão tuyết sẽ rơi xuống cho đến khi ông tìm được đủ tiền để dựng lại một mái mới.

Một tiếng gẫy khiến ông nhìn lên. Ngay trên đầu ông, một thanh ngang lớn sắp nghiêng qua một bên. Nó sắp rơi lên đầu ông. Ông đi lại gian phụ phía nam, nơi Cuthbert đang đứng run sợ. Toàn bộ một phần mái gồm kèo và dầm, cộng thêm tấm chì lớn rơi xuống. Philip và Cuthbert đứng nhìn, chết sững, quên cả sự an toàn của họ. Mái nhà rơi xuống một mái vòm lớn của khu trung tâm. Sức nặng của gỗ và chì làm nứt tường đá của mái vòm và tạo nên một âm thanh như sấm. Mọi thứ xẩy ra từ từ: những thanh gỗ rơi xuống từ từ, mái vòm nứt ra từ từ, tường đá vỡ ra từ từ rơi trong không trung. Nhiều xà ngang đã lỏng ra, và rồi với một tiếng nổ như một chuỗi sấm sét, một phần bức tường phía bắc đổ xuống, trượt vào gian phụ phía bắc.

Philip hoảng sợ. Nhìn cảnh tượng một ngôi nhà đồ sộ như thế bị phá hủy tạo nên một cú sốc kinh hoàng. Nó giống như nhìn một ngọn núi đổ xuống hay một con sông thành khô cạn: Ông không thể nghĩ nó có thể thực sự xẩy ra. Ông không thể tin vào mắt mình. Nó làm ông mất phương hướng và ông không biết phải làm gì.

Cuthbert kéo tay áo ông. “Đi ra!” ông hét lên.

Philip không rời mắt khỏi cảnh tượng. Ông nhớ lại ông đã dự định mười năm tiết kiệm và làm việc cật lực để cải tổ lại nền tài chánh của tu viện. Bây giờ, bất ngờ, ông phải xây lại mái nhà mới, bức tường phía bắc mới, và có lẽ còn nhiều hơn thế nữa, nếu sự phá hủy còn tiếp tục… Đây là một công việc của ma quỷ, ông nghĩ. Làm sao một mái nhà có thể bắt lửa vào một đêm băng giá vào tháng giêng?

“Coi chừng, chúng ta sẽ chết!” Cuthbert hét lên, và sự sợ hãi trong giọng nói của ông làm rung động trái tim Philip. Ông quay lại và cả hai chạy ra khỏi nhà thờ vào tu viện.

Các tu sĩ đã được đánh thức và đang ra khỏi phòng ngủ. Khi họ đi ra, dĩ nhiên họ đứng lại và nhìn vào nhà thờ. Thầy phụ trách nhà bếp Millius đứng ở cửa, hối thúc họ đi tiếp để tránh bế tắc, chỉ đạo họ ra khỏi nhà thờ và đi về hướng nam của tu viện. Giữa đường họ thấy Tom đứng đó, ông nói họ quay lại dưới mái vòm và đi qua bằng cách đó. Philip nghe Tom nói: “Đi đến nhà khách – tránh xa nhà thờ ra.”

Ông ấy lo xa quá, Philip nghĩ, ở trong tu viện họ chưa đủ an toàn sao? Nhưng điều đó cũng chẳng thiệt hại gì và nó có thể là một biện pháp phòng ngừa hợp lý. Thực ra, ông nghĩ lại, chính ông phải là người nghĩ ra chuyện ấy.

Nhưng sự thận trọng của Tom làm ông phân vân, không biết sự phá hủy sẽ còn đi đến đâu. Nếu tu viện không an toàn thì phòng họp sẽ ra sao? Ở đó, trong phòng bên với tường đá dầy và không cửa sổ, có một két bằng gỗ sồi, trong đó chứa một ít tiền họ có, cộng với chén lễ bằng đá quý, tất cả tài liệu của tu viện cũng như giấy chứng nhận quyền sở hữu của tu viện. Một lúc sau ông nhìn thấy Alan, người phụ trách kho báu, một tu sĩ trẻ làm việc chung với người phụ trách phụng vụ và đặc trách về đồ thánh.

Philip gọi ông. “Kho đồ quý của tu viện phải được dời ra khỏi nhà họp – người phụ trách phụng vụ ở đâu?”

“Ông đi rồi, thưa cha.”

“Đi tìm ông ấy, lấy chìa khóa, rồi đem những gì quý giá ra khỏi phòng họp và đem xuống nhà khách. Chạy đi!”

Alan chạy đi. Philip quay về phía Cuthbert. “Tốt hơn anh nên kiểm soát xem anh ấy có thi hành không.” Cuthbert gật đầu và theo Allen.

Philip nhìn lại nhà thờ. Trong vài khoảnh khắc, tư tưởng ông đã bị chi phối, bây giờ ngọn lửa trở nên mạnh mẽ, ánh lửa chiếu qua mọi cửa sổ. Thực ra người phụ trách phụng vụ phải nghĩ đến kho báu của tu viện, thay vì vội vã trốn chạy, lo cho bản thân mình. Có điều gì bị bỏ quên không? Philip không thể suy nghĩ một cách hệ thống, vì mọi chuyện xẩy ra quá nhanh chóng. Các tu sĩ đã vào nơi an toàn, kho báu được di chuyển đến chỗ bảo đảm.

Ông đã quên các Thánh.

Ở cuối nhà thờ phía đông, dưới ngai giám mục, là mộ thánh Adolphus, vị tử đạo người Anh trong thời tiên khởi. Trong mộ là một quan tài bằng gỗ chứa xương thánh nhân. Vào những thời điểm định kỳ, nắp ngôi mộ được mở ra cho dân chúng nhìn thấy quan tài. Ngày nay thánh Adolphus không được biết đến nhiều như ngày xưa, khi mà những bệnh nhân đã được chữa lành một cách kỳ diệu khi chạm đến mộ ngài. Hài cốt của một vị thánh là một điểm thu hút lớn cho một nhà thờ, thúc đẩy sự thờ phượng và hành hương. Chúng mang lại nhiều tiền cho nhà thờ đến nỗi, một cách xấu hổ, các tu sĩ đã ăn cắp xương thánh của các nhà thờ khác. Philip dự định làm sống lại sự tôn thờ thánh Adolphus. Ông phải cứu hài cốt thánh.

Ông cần sự hỗ trợ để mở nắp mộ và mang quan tài đi. Người phụ trách phụng vụ chính ra phải nghĩ đến chuyện này. Nhưng ông đã biến mất. Người tu sĩ tiếp sau ra khỏi phòng ngủ là Remigius, vị tu viện phó kiêu căng. Ông ấy cũng phải làm chuyện đó. Philip gọi ông và nói: “Giúp tôi cứu hài cốt thánh.”

Đôi mắt xanh nhạt của Remigius sợ hãi nhìn nhà thờ đang cháy, nhưng sau một lúc do dự, ông theo Philip đi theo đường phía đông và bước qua ngưỡng cửa.

Vào bên trong, Philip dừng lại. Ông mới ra ngoài chỉ vài phút mà ngọn lửa đã bốc nhanh. Có mùi khó chịu trong mũi và ông nhận ra rằng các gỗ trong mái nhà đều tẩm hắc ín để tránh mục nát. Mặc dù ngọn lửa cháy phừng phực, vẫn có một cơn gió lạnh: khói thoát ra từ lỗ hổng trên mái, và ngọn lửa kéo không khí lạnh vào qua các cửa sổ. Gió lùa quạt ngọn lửa bốc lên. Than hồng rơi như mưa trên sàn nhà thờ, và nhiều thanh xà ngang lớn cháy trên mái trông như chúng có thể rơi xuống bất cứ lúc nào. Cho đến bây giờ ông chỉ lo lắng về các tu sĩ khác, rồi đến tài sản của tu viện, nhưng bây giờ lần đầu tiên ông lo sợ cho chính mình, và ông do dự khi đi xa hơn vào hỏa ngục.

Càng do dự lâu, nguy hiểm càng lớn; và nếu ông nghĩ về nó nhiều quá, thần kinh ông sẽ yếu đi. Ông vén áo choàng lên, hô to: “Hãy theo tôi!” và chạy vào gian phụ. Ông tránh những đốm lửa nhỏ trên nền nhà, hồi hộp vì bất cứ lúc nào một thanh gỗ cháy cũng có thể rơi xuống. Ông không kịp thở và muốn hét lên vì căng thẳng. Rồi, bất ngờ, ông đến được chỗ an toàn ở lối đi phía bên kia.

Ông dừng lại ở đó một lúc. Lối đi có mái vòm bằng đá nên không bắt lửa. Remigius ở bên cạnh ông. Philip hít phải khói, ông ho và thở hổn hển. Đi ngang qua gian phụ chỉ mất vài phút, nhưng dường như nó kéo dài lâu hơn một giờ kinh đêm.

“Chúng ta sẽ bị chết!” Remigius nói.

“Thiên Chúa sẽ phù trợ chúng ta,” Philip nói. Rồi ông nghĩ: “Vì thế tại sao tôi lại sợ?”

Không có giờ cho suy tư thần học.

Ông đi dọc theo gian phụ và ở khúc quanh ông rẽ vào gian cung thánh, vẫn giữ lối đi cạnh. Ông cảm thấy sức nóng từ các băng ghế bằng gỗ giữa gian cung thánh, và sự mất mát này đau nhói tim ông: những băng ghế này được thực hiện tốn kém và chạm trổ đẹp. Ông xua chúng ra khỏi tâm trí và tập trung vào nhiệm vụ trước mắt. Ông đi qua gian cung thánh đến cuối nhà thờ phía đông.

Mộ thánh nằm ở nửa giữa nhà thờ. Đó là một mộ đá lớn đặt nằm trên chân thấp. Philip và Remigius phải mở nắp đá, đặt nó qua một bên, bê quan tài lên khỏi mộ đá và đem nó đến chỗ an toàn trong khi mái nhà trên đầu họ đang cháy. Philip nhìn Remigius. Đôi mắt xanh nhạt của ông mở to sợ hãi. Vì Remigius, Philip giấu nỗi sợ hãi của mình. “Anh cầm đầu kia, tôi đầu này,” ông chỉ tay và nói, và không chờ câu trả lời, ông chạy đến ngôi mộ.

Remigius theo sau.

Họ đứng ở hai đầu và nâng nắp mộ. Cả hai đều nâng.

Nắp mộ không di chuyển.

Philip nhận ra rằng ông phải cần nhiều người nữa. Ông không dừng lại để suy nghĩ. Nhưng bây giờ đã quá trễ: Nếu ông đi ra và gọi thêm trợ giúp, khi ông trở lại có thể gian phụ không còn đi qua được nữa. Nhưng ông cũng không thể để xương thánh ở lại đây. Một xà nang có thể rơi xuống đập vỡ ngôi mộ và quan tài bằng gỗ sẽ bị bắt lửa, rồi tro tàn bay trong gió. Như vậy sẽ là một sự phạm thánh khủng khiếp và là một sự mất mát lớn lao cho nhà thờ chính tòa.

Ông chợt có một ý tưởng. Ông di chuyển xung quanh và đến bên ngôi mộ, rồi ra lệnh cho Remigius đứng bên cạnh ông. Ông quỳ xuống, đặt cả hai tay vào cạnh nắp mộ và đẩy hết sức. Khi Remigius cùng làm theo ông, nắp mộ mở ra. Chậm rãi họ nâng nó cao hơn. Philip đứng trên một đầu gối, Remigius làm theo; rồi cả hai đứng lên. Khi nắp mộ nằm nghiêng, họ cố hơn và nó lăn qua một bên. Nó rơi xuống đất và bể thành hai.

Philip nhìn vào trong mộ. Quan tài ở trong tình trạng tốt, gỗ vẫn tốt, thanh tay cầm bằng sắt bị hoen rỉ bên ngoài. Philip đứng ở một đầu, nắm lấy hai tay cầm. Ở đầu kia, Remigius cũng làm tương tự. Họ nâng quan tài lên một vài phân, nhưng nó nặng hơn Philip tưởng tượng, và một lúc sau Remigius buông tay và nói: “Tôi không thể tiếp tục – tôi già hơn anh.”

Philip đè nén sự tức giận. Quan tài có thể được lót bằng chì. Nhưng bây giờ, nắp mộ đã được mở, quan tài thậm chí dễ bị tổn hại hơn trước. “Hãy đến đây,” Philip gọi lớn tiếng. “Chúng ta cố nâng đầu này.”

Remigius đến bên ngôi mộ, đứng gần Philip. Mỗi người nắm lấy tay cầm của hòm và nâng. Đầu hòm nâng lên tương đối dễ dàng. Khi họ dựng quan tài đứng thẳng, họ ngưng lại thở. Philip nhận ra rằng họ đã nâng phía cuối quan tài, vì thế bây giờ thánh nhân đứng dựng đầu xuống. Philip âm thầm xin lỗi. Những mảnh gỗ cháy nhỏ rơi xuống thường xuyên bên cạnh họ. Mỗi khi có tia lửa bắn lên áo choàng của ông, Remigius giũ chúng điên cuồng cho đến khi nó rơi xuống, và mỗi khi có cơ hội ông ấy đều ngước nhìn mái nhà cháy. Philip có thể nhận ra ông ấy đã mất hết can đảm.

Họ lật nghiêng quan tài để nó dựng vào thành mộ, sau đó đẩy thêm. Đầu kia được nâng cao hơn khỏi mặt đất và quan tài nằm bấp bênh trên cạnh ngôi mộ; rồi họ hạ nó xuống cho đến khi đầu kia đụng mặt đất. Họ lật quan tài một lần nữa cho nó nằm đúng mặt. Xương thánh bị lăn lộn trong đó như viên xúc xắc bị lắc trong bát, Philip nghĩ và nhìn nhận đây là sự phạm thánh mà ông chưa bao giờ làm, nhưng không còn cách nào khác.

Đứng ở đầu quan tài, mỗi người nắm một tay cầm, nâng lên, và kéo xuyên qua nhà thờ đến chỗ tương đối an toàn dưới mái vòm. Góc quan tài bằng sắt cày lên thành rãnh nhỏ trên nền đất. Khi họ đến gần mái vòm, một phần của mái nhà gồm những thanh gỗ cháy và chì nóng rơi xuống ngay chỗ mộ thánh mà bây giờ chỉ còn là mộ trống. Tiếng rơi vang lên điếc tai, sàn nhà rung lên và mộ thánh bị vỡ thành mảnh vụn. Một xà ngang lớn rơi chỉ cách Philip và Reminigus có vài phân, đập vào quan tài làm tay họ rớt ra. Mọi chuyện quá sức chịu đựng đối với Remigius. “Đây là công việc của ma quỷ!” ông điên dại hét lên và chạy đi.

Philip chạy theo ông. Nếu đêm nay ma quỉ thực sự hành động ở đây, thì không thể nói được những gì còn có thể xẩy ra. Philip chưa bao giờ nhìn thấy ma quỷ nhưng ông đã nghe nhiều người kể về chuyện đó. Nhưng các tu sĩ là để chống lại Satan, không chạy trốn nó, Philip tự nhủ một cách nghiêm khắc. Chờ mong, ông nhìn vào những gian phụ, rồi ông hít một hơi dài, nắm hai cay cầm và nâng quan tài lên.

Ông tìm cách kéo quan tài qua những xà ngang nằm trên nền nhà. Gỗ quan tài bị sứt mẻ, nhưng ngạc nhiên là không bị hư hỏng. Ông kéo nó xa thêm. Một đám than hồng nhỏ rơi xuống xung quanh ông. Ông liếc nhìn lên mái nhà. Có phải trên đó là một nhân vật hai chân đang nhẩy múa nhạo báng trong ngọn lửa hay đó chỉ là ngọn khói? Ông nhìn xuống và thấy áo choàng của mình đã bắt lửa. Ông quỳ xuống, dùng tay hất lửa ra và đập áo xuống nền nhà, và ngọn lửa bị dập tắt ngay. Rồi ông nghe thấy một tiếng động, nó như tiếng rít của hai thanh gỗ cọ vào nhau, hay là tiếng cười nhạo báng của một con quỷ. “Lạy thánh Adolphus, xin bảo vệ con,” ông kêu xin và lại tiếp tục kéo chiếc quan tài.

Từng phân, ông kéo quan tài trên mặt đất. Lúc này ma quỷ để ông yên. Ông không nhìn lên – tốt nhất không nên liếc nhìn con quỷ. Cuối cùng ông đến được chỗ an toàn trên lối đi, và cảm thấy an tâm hơn. Tấm lưng đau đòi hỏi ông phải dừng lại nghỉ ngơi vài phút. Còn một đoạn đường dài mới đến được cửa gần nhất ở gian phụ phía nam. Ông không chắc chắn có kéo được quan tài qua cả đoạn đường dài đó không, trước khi toàn bộ mái nhà rơi xuống. Có lẽ đó là điều ma quỷ chờ đợi. Philip không thể ngăn cản mình ngước nhìn lên ngọn lửa trên cao. Khi ông nhìn lên, nhân vật hai chân trốn sau thanh gỗ màu đen. Nó biết tôi không thể làm được, Philip nghĩ. Ông nhìn theo lối đi, ông bị cám dỗ bỏ hài cốt thánh lại và chạy đi vì sự sống của mình – và ông nhìn thấy thầy Milius, Cuthbert đầu trắng và thợ xây Tom đang tiến về phía ông, cả ba nhân vật hữu hình vội vã đến giúp ông. Trái tim ông nhẩy mừng, và bất ngờ ông không còn chắc chắn thực sự có một con quỷ ở trên mái nhà không.

“Tạ ơn Chúa!” ông cầu xin. “Làm ơn giúp tôi,” ông nói với những người đến giúp, nhưng thực ra không cần thiết.

Thợ xây Tom xem xét mái nhà cháy. Dường như ông không thấy con quỷ nào, nhưng ông nói: “Chúng ta hãy làm nhanh lên.” Mỗi người nắm lấy một góc và nâng quan tài lên vai họ. Nó vẫn nặng, mặc dù bốn người khiêng. Philip ra lệnh: “Tiến lên!” Họ đi dọc lối đi nhanh bao nhiêu có thể, oằn người vì nặng.

Khi họ đến gian phụ phía nam. Tom kêu lên: “Đợi đã!” Nền nhà có nhiều đám cháy nhỏ, và nhiều mảnh gỗ vỡ rơi xuống liên tục. Philip cố gắng tìm kiếm một lối đi xuyên qua đống lửa. Họ chưa kịp tiếp tục đi thì một tiếng ầm vang lên ở cuối nhà thờ phía tây. Philip nhìn lên đầy sợ hãi. Tiếng ầm ầm thành tiếng sấm.

Tom bí ẩn nói: “Nó yếu, giống như cái kia.”

“Cái gì?” Philip la to.

“Tháp phía tây nam.”

“Ồ, không!”

Tiếng sấm to hơn. Philip nhìn, kinh hoàng, khi toàn bộ bức tường nhà thờ phía tây nghiêng về phía trước, như bàn tay Chúa xô nó. Hơn mười mét mái nhà rơi xuống gian giữa với sức va chạm như một cuộc động đất. Sau đó toàn bộ tòa tháp tây nam sụp đổ và đất đá rơi giống như trận lở đất vào trong nhà thờ.

Philip tê liệt vì sốc. Nhà thờ đổ nát trước mắt ông. Sẽ cần hàng nhiều năm để xây dựng lại phần thiệt hại ngay cả khi ông có thể tìm được tiền. Ông phải làm gì? Làm sao tu viện Kingsbridge có thể tiếp tục? Có phải đây là kết cục của tu viện Kingsbridge?

Ông tỉnh lại vì quan tài di chuyển trên vai ông khi ba người khác tiếp tục đi. Philip đi theo, nơi đâu họ kéo đi. Tom tìm kiếm lối đi xuyên qua những đám cháy. Một cục gỗ cháy rơi đúng trên nóc quan tài, nhưng may mắn nó trượt xuống đất mà không trúng họ. Một lúc sau họ đến phía bên kia và đi qua cửa, ra khỏi nhà thờ vào không khí lạnh ban đêm.

Sự thiệt hại của nhà thờ làm Philip không còn sức sống, nên ông cũng không còn cảm xúc gì khi được thoát nạn. Họ vội vã đi quanh hành lang tu viện và đi qua cổng vòng cung ở phía nam. Khi họ đã đi xa khỏi những tòa nhà, Tom nói: “Đủ rồi.” Họ đặt quan tài cẩn thận xuống mặt đất giá lạnh.

Philip cần vài phút để thở. Trong lúc nghỉ ngơi ông nhận ra rằng lúc này không phải là lúc hành động mù quáng. Ông là tu viện trưởng, ông có trách nhiệm ở đây. Ông phải làm gì bây giờ? Việc quan trọng đầu tiên là kiểm soát xem tất cả các tu sĩ có an toàn không. Ông hít thêm hơi thở, rồi vươn vai và nhìn vào người bên cạnh. “Cuthbert, anh ở lại đây và trông coi quan tài của thánh nhân,” ông nói. “Những người còn lại theo tôi.”

Ông dẫn họ đi phía sau nhà bếp, ngang qua nhà máy bia và nhà máy xay, rồi xuyên qua sân đến nhà khách. Các tu sĩ, gia đình Tom và hầu hết dân làng đang đứng thành nhóm ở đó, thì thầm với nhau và nhìn vào nhà thờ rực lửa. Philip quay lại nhìn vào nhà thờ trước khi nói chuyện với họ. Cảnh tượng thật đau lòng. Toàn bộ phía tây là một đống đổ nát, và ngọn lửa lớn bốc lên từ những gì còn lại trên mái nhà.

Ông không nhìn nữa. “Mọi người có mặt hết ở đây chưa?” ông nói to.

Nếu anh em biết có ai vắng mặt, làm ơn nói to tên người đó.”

Một người nào đó nói: “Cuthbert đầu trắng.”

“Anh ấy đang bảo vệ xương thánh. Còn ai nữa không?”

Không còn người nào.

Philip nói với Milius: “Hãy đếm các tu sĩ. Tất cả phải là bốn mươi lăm người, cả anh và tôi.” Ông biết mình có thể tin tưởng Milius được nên ông không bận tâm đến vấn đề đó nữa và quay qua thợ xây Tom. “Cả gia đình của ông có ở đây không?”

Tom gật đầu rồi chỉ vào gia đình mình. Họ đứng gần tường nhà khách; người đàn bà, đứa con trai lớn và hai đứa nhỏ. Đứa con trai nhỏ nhìn Philip sợ hãi. Đây phải là một biến cố kinh hoàng cho đứa trẻ, ông nghĩ.

Người phụ trách phụng vụ ngồi trên thùng bọc sắt chứa những đồ quý giá của tu viện. Philip đã quên chuyện đó: ông an tâm khi thấy nó an toàn. Ông nói với người phụ trách phụng vụ: “Anh Andrew, hài cốt thánh Adolphus ở sau phòng ăn. Anh đem theo một số anh em và mang hài cốt thánh đến…” Ông nghĩ một lúc. Nơi an toàn nhất có lẽ là nhà tu viện trưởng. “Đem tới nhà tôi.”

“Đem tới nhà anh?” Andrew cãi lại. “Hài cốt các thánh thuộc về trách nhiệm của tôi, không phải của anh.”

“Nếu như vậy thì anh đã phải cứu hài cốt đó khỏi nhà thờ!” Philip nóng lên. “Hãy làm theo lời tôi, không nói thêm lời nào nữa!” Người phụ trách phụng vụ miễn cưỡng đứng lên, trông có vẻ tức giận.

Philip nói: “Làm nhanh lên, nếu không tôi sẽ cách chức anh ngay tại đây và bây giờ!” Ông quay lưng lại và nói với Milius. “Bao nhiêu?”

“Bốn mươi bốn, cộng với Cuthbert. Mười một tập sinh. Năm khách. Mọi người có mặt đủ cả.”

“Đó là một hồng ân.” Philip nhìn vào đống lửa. Đó là một điều kỳ diệu vì mọi người vẫn sống sót và không ai bị thương tích gì. Ông nhận ra mình đã hết hơi, nhưng ông quá lo lắng, không thể ngồi yên và nghỉ ngơi được. “Có gì quý giá mà chúng ta cần cứu nữa không?” ông nói. “Chúng ta có thùng giữ đồ quý giá và xương thánh…”

Alan, người quản lý kho báu, lên tiếng. “Còn sách vở thì sao?”

Philip rên rỉ. Dĩ nhiên, những cuốn sách! Chúng được giữ trong tủ khóa ở hành lang phía đông, gần cửa vào phòng họp, nơi các tu sĩ có thể sử dụng trong lúc nghiên cứu. Cần nhiều thời gian để đem các cuốn sách ra khỏi tủ. Có lẽ một số người trẻ khỏe mạnh có thể khênh cả tủ đến một nơi an toàn. Philip nhìn quanh. Người phụ trách phụng vụ đã chọn nửa tá người theo ông để khênh hài cốt thánh và họ đã đi đến giữa sân. Philip chọn ba tu sĩ trẻ và ba tập sinh lớn tuổi, rồi ông bảo họ theo ông.

Ông trở lại khoảng sân trước nhà thờ đang cháy. Ông quá mệt để có thể chạy. Họ đi ngang qua nhà máy xay lúa, nhà máy bia, và đi đàng sau nhà bếp vào phòng ăn. Cuthbert đầu trắng và người phụ trách phụng vụ đang lo việc di chuyển hài cốt thánh. Philip hướng dẫn nhóm theo lối đi giữa phòng ăn và phòng ngủ và dưới đường mái vòm phía nam vào trong hành lang tu viện.

Ông có thể cảm nhận sức nóng của lửa. Tủ sách lớn có trạm trổ hình Mô Sê với bia đá. Philip chỉ đạo nhóm trẻ nghiêng tủ sách về phía trước, rồi ghé vai vào vác. Họ khênh nó theo hành lang tới đường có mái vòm phía nam. Ở đó Philip dừng nghỉ, quay nhìn lại, trong khi nhóm trẻ vẫn tiếp tục đi. Trái tim ông nặng trĩu nỗi buồn khi ông nhìn cảnh tượng nhà thờ bị tàn phá. Bây giờ còn ít khói, nhưng nhiều lửa. Toàn bộ mái nhà đã bị thiêu hủy. Khi ông quan sát, mái nhà trên khu trung tâm dường như trệ xuống, và ông nhận ra chẳng bao lâu nữa nó sẽ sập xuống. Một tiếng nổ như sấm, lớn hơn mọi tiếng nổ từ trước đến giờ, và toàn bộ mái của gian phụ phía nam rơi xuống. Philip cảm thấy một nỗi đau, như chính thân thể ông đang bị cháy. Một lúc sau bức tường của gian phụ nghiêng về phía hành lang tu viện. Xin Chúa giúp chúng con, nó sắp đổ, Philip nghĩ. Khi bức tường đá rạn nứt và bể ra, ông nhận ra nó đang đổ về phía ông, và ông quay lại định chạy; nhưng trước khi ông bước được ba bước, một vật gì đập trúng phía sau đầu ông và ông bất tỉnh.

Đối với Tom, ngọn lửa cuồng nhiệt đang phá hủy nhà thờ Kingsbridge lại là ngọn hải đăng của hy vọng.

Ông nhìn qua sân cỏ vào đám cháy bốc cao lên trời từ những tàn tích của nhà thờ, và tất cả những gì ông có thể nghĩ là: điều đó có nghĩa là ông có việc làm.

Tư tưởng này có trong đầu Tom từ khi ông bước ra khỏi nhà khách với đôi mắt ngái ngủ và nhìn thấy ánh lửa đỏ chập chờn sau cửa sổ nhà thờ. Tâm hồn Tom chứa đựng một sự xấu hổ và lạc quan hạnh phúc trong suốt thời gian qua, ngay cả khi ông thúc giục các tu sĩ ra khỏi nơi nguy hiểm, hặc khi ông chạy vào nhà thờ đang cháy tìm Philip cũng như khênh hài cốt thánh ra ngoài.

Bây giờ, khi có thời gian suy nghĩ lại, ông biết mình không được phép vui vì nhà thờ bị cháy; nhưng rồi, ông nghĩ, không ai bị thương, và kho báu của tu viện được an toàn, ngoài ra nhà thờ đã cũ và xấu xí; vì thế tại sao lại không vui?

Các tu sĩ trẻ trở lại qua sân cỏ, khênh theo tủ sách nặng. Tất cả những gì tôi có thể làm bây giờ, Tom nghĩ, là làm sao tôi nhận được công việc xây dựng lại ngôi nhà thờ này. Và bây giờ là lúc nói chuyện với tu viện trưởng Philip.

Tuy nhiên, Philip không đi chung với các tu sĩ khênh tủ sách. Họ đến nhà khách và đặt tủ sách xuống. “Tu viện trưởng ở đâu?” Tom hỏi họ.

Người lớn tuổi nhất ngạc nhiên và quay nhìn lại. “Tôi không biết,” ông nói. “Tôi nghĩ ông ấy đi sau chúng tôi.”

Có lẽ ông ở lại để quan sát đám cháy, Tom nghĩ; nhưng có thể ông đang gặp khó khăn.

Không để mất giờ, Tom chạy qua sân cỏ và vòng đàng sau nhà bếp. Ông hy vọng Philip được an toàn, không những vì ông tốt, nhưng còn vì ông là người bảo trợ của Jonathan. Không có Philip thì không biết chuyện gì đã xẩy ra cho đứa bé.

Tom thấy Philip trong lối đi giữa phòng ăn và phòng ngủ. Ông an tâm khi thấy Philip ngồi thẳng, tuy bị choáng váng nhưng không bị thương. Tom giúp ông đứng lên.

“Một cái gì đó đánh vào đầu tôi,” Philip chếnh choáng nói.

Tom bỏ ông, nhìn vào gian phụ phía nam đã đổ vào hành lang tu viện. “May mắn là ông vẫn sống,” Tom nói. “Chắc Chúa có một chương trình cho ông.”

Philip lắc đầu cho tỉnh táo. “Tôi bị bất tỉnh một lúc, nhưng bây giờ đã khá rồi. Những cuốn sách ở đâu?”

“Họ đã đem đến nhà khách.”

“Chúng ta hãy đến đó.”

Tom cầm lấy tay Philip khi họ đi. Tu viện trưởng không bị thương nặng, nhưng ông buồn, Tom có thể thấy điều đó.

Khi họ trở về nhà khách, ngọn lửa trong nhà thờ đã giảm; tuy nhiên ông có thể nhìn rõ khuôn mặt mọi người, và ông hoảng sợ nhận ra là trời đã hừng sáng.

Philip tổ chức lại công việc. Ông bảo thầy nhà bếp Milius nấu cháo cho mọi người và cho quyền Cuthbert đầu trắng mở một thùng rượu làm ấm người trong lúc chờ đợi. Ông ra lệnh đốt lửa lò sưởi và cho các tu sĩ lớn tuổi vào sưởi ấm. Trời bắt đầu mưa. Những hạt mưa do gió mang theo cứng lạnh làm ngọn lửa trong nhà thờ tàn nhanh.

Khi mọi người bận rộn, Tu viện trưởng Philip đi một mình ra khỏi nhà khách, theo hướng nhà thờ. Tom thấy ông và đi theo. Đây là cơ hội. Nếu ông được trao việc, ông sẽ làm việc ở đây nhiều năm.

Philip đứng nhìn chằm chằm vào đống đổ nát cuối nhà thờ phía tây, lắc đầu buồn bã, giống như chính đời sống của ông bị tàn phá vậy. Tom đứng yên lặng bên ông. Một lúc sau Philip đi tiếp, dọc theo phía bắc của gian chính, xuyên qua nghĩa địa. Tom đi với ông, nghiên cứu những thiệt hại.

Bức tường phía bắc của gian giữa vẫn còn đứng vững, nhưng gian phụ phía bắc và một phần bức tường phía bắc của gian cung thánh đã đổ. Phần cuối nhà thờ phía đông vẫn còn. Họ đi xung quanh phần cuối và nhìn về phía nam. Hầu hết bức tường phía nam đã đổ xuống và gian phụ phía nam đã sụp đổ vào hành lang tu viện. Nhà họp vẫn còn đứng vững.

Họ đi đến cổng có mái vòm dẫn vào lối đi phía đông của hành lang tu viện. Ở đó một đống gạch đã cản ngăn họ lại. Trông có vẻ hỗn độn, nhưng với cặp mắt rành nghề, Tom biết rằng hành lang tu viện không bị thiệt hại nặng, chỉ bị chôn vùi dưới đống gạch đổ nát. Ông trèo lên đống đá vụn cho đến khi ông có thể nhìn vào trong nhà thờ. Ngay sau bàn thờ, một cầu thang dẫn xuống tầng hầm. Tầng hầm nằm ngay dưới gian cung thánh. Tom nhìn vào, nghiên cứu những vết nứt trên nền nhà bằng đá. Ông không thấy gì. Có thể tầng hầm vẫn còn nguyên vẹn. Ông không nói cho Philip biết bây giờ: ông sẽ giữ thông tin này cho đến một thời điểm quan trọng.

Philip đi tiếp, đi vòng phía sau phòng ngủ. Tom vội vã theo ông. Họ thấy nhà ngủ không ảnh hưởng gì. Tiếp theo họ thấy một số tòa nhà khác ít nhiều không hề hấn gì: phòng ăn, nhà bếp, lò bánh mì, nhà máy bia. Philip có thể tìm thấy trong đó sự an ủi, nhưng mặt ông vẫn buồn.

Họ chấm dứt nơi họ đã bắt đầu, đàng trước đầu phía tây đã bị tàn phá. Họ đi với nhau một vòng khuôn viên tu viện mà không nói với nhau một lời. Philip thở dài và phá vỡ sự yên lặng. “Đó là công việc của ma quỷ,” ông nói.

Tom nghĩ: đây là thời điểm của tôi. Ông thở một hơi dài và nói: “Nó có thể là công việc của Thiên Chúa.”

Philip nhìn ông ngạc nhiên. “Tại sao như thế?”

Tom nói cẩn thận: “Không ai bị thương. Sách vở, kho báu và hài cốt thánh được cứu. Chỉ có nhà thờ hư hỏng. Có lẽ Chúa muốn một nhà thờ mới.”

Philip mỉm cười hoài nghi. “Và tôi cho rằng Chúa muốn ông xây dựng nó.” Ông không quá choáng váng để không nhận ra rằng cách suy nghĩ của Tom là cách muốn nghĩ đến mình.

Tom đứng trên mặt đất. “Nó có thể là như vậy,” ông bướng bỉnh nói. “Không phải ma quỷ sai một thợ xây dựng tổng thể đến đây vào đúng đêm nhà thờ bị cháy.”

Philip nhìn đi chỗ khác. “Tốt, sẽ có một nhà thờ mới, nhưng tôi không biết bao giờ. Và lúc này tôi phải làm gì? Làm sao tu viện có thể tiếp tục sống? Chúng tôi ở đây là để phụng thờ Thiên Chúa và học hỏi.”

Philip chìm trong tuyệt vọng. Đây là lúc Tom có thể cho ông niềm hy vọng. “Con trai tôi và tôi có thể dọn sạch hành lang tu viện và có thể sử dụng lại trong vòng một tuần lễ,” ông nói, cố giữ cho giọng nói của ông có vẻ tin cẩn hơn.

Philip ngạc nhiên. “Ông có thể làm điều đó thật không?” Rồi gương mặt ông lại thay đổi, và ông trông có vẻ thất vọng. “Nhưng làm sao với nhà thờ?”

“Thế còn tầng hầm? Ông có thể cử hành nghi thức phụng vụ ở đó, phải không?”

“Vâng, tốt lắm.”

Tôi chắc chắn tầng hầm không bị hư hại nhiều,” Tom nói. Đúng như thế, ông gần như chắc điều đó.

Philip nhìn ông như thể ông là thiên thần của lòng thương xót.

“Không cần nhiều thời gian để khai thông con đường từ hành lang tu viện đến tầng hầm,” Tom nói. “Hầu hết phía nhà thờ bên đó đã hoàn toàn bị phá hủy, nó thật là may mắn và thật kỳ lạ, bởi vì nó có nghĩa là không còn nguy cơ bị sụp gạch nữa. Tôi đã khảo sát những bức tường vẫn còn đứng. Có lẽ một số chỗ cần chống đỡ, sau đó, chúng cần được kiểm soát mỗi ngày về nết nứt và ngay cả như vậy ông cũng không nên vào nhà thờ khi có gió mạnh.” Tất cả những điều đó quan trọng, nhưng Tom có thể nhận thấy Philip không quan tâm lắm. Những gì Philip cần bây giờ là những tin tích cực, để nâng tinh thần ông. Và cách thức là cho ông những gì ông muốn. Tom đổi giọng nói. “Với một vài tu sĩ trẻ cùng tôi làm việc, tôi có thể sửa chữa vài thứ và trong vòng hai tuần lễ tu viện sẽ lại có cuộc sống bình thường.”

Philip nhìn chằm chằm vào ông. “Hai tuần?”

“Hãy cho tôi và gia đình tôi đồ ăn và chỗ ở, và ông có thể trả lương cho tôi khi nào ông có tiền.”

“Trong hai tuần lễ, ông có thể sửa sang lại tu viện cho tôi?” ông hỏi lại hoài nghi.

Tom không chắc chắn ông có thể làm xong trong hai tuần không, nhưng nếu nó kéo dài thêm một tuần thì cũng chẳng chết ai.

Hai tuần”, ông nói chắc chắn. “Sau đó, chúng ta có thể kéo những bức tường còn lại xuống – đó là công việc của thợ chuyên nghiệp, nếu ông muốn được an toàn - rồi dọn các đống đổ nát, xếp các viên đá để sử dụng lại. Trong khi đó chúng ta có thể lên kế hoạch cho nhà thờ mới.” Tom nín thở. Ông đã làm những gì ông có thể. Chắc chắn Philip sẽ thuê ông ngay bây giờ.

Philip gật đầu, lần đầu tiên ông mỉm cười. “Tôi nghĩ, Chúa đã sai ông đến với tôi,” ông nói. “Chúng ta đi ăn sáng, sau đó bắt tay vào việc.”

Tom run rẩy thở phào. “Cảm ơn!” ông nói. Có một chút run run trong giọng nói của ông mà ông không kiểm soát được, nhưng ông không quan tâm đến nữa, và với tiếng nấc ông nói: “Tôi không thể nói cho ông biết điều này giá trị đối với tôi lớn lao như thế nào.”

Sau bữa sáng, Philip có một cuộc họp bất thường trong nhà kho của Cuthbert, dưới nhà bếp. Các tu sĩ hồi hộp. Họ là những người đã chọn hay ít nhất đã quen với một cuộc sống an toàn, có kế hoạch và bình thản, nên bây giờ họ mất phương hướng. Sự hoang mang của họ làm Philip động lòng. Hơn bao giờ hết, ông cảm thấy mình là người chăn chiên, và nhiệm vụ của người chăn chiên là chăm sóc cho những sinh vật bất lực; ngoài ra đây không phải là những động vật câm, mà họ là những người anh em của ông, và ông yêu thương họ. Cách thức để an ủi họ, ông đã quyết định, là nói cho họ những gì sẽ xẩy ra, dùng công việc chân tay để họ quên đi những căng thẳng, và trở về với đời sống thường ngày sớm bao nhiêu có thể.

Mặc dù trong điều kiện bất thường, Philip không rút ngắn nghi thức buổi họp. Ông ra lệnh đọc tiểu sử vị tử đạo trong ngày, sau đó là lời nguyện cho những tu sĩ đã qua đời. Đây là lý do tồn tại của đan viện: cầu nguyện là sự biện minh cho sự hiện diện của họ. Tuy nhiên, một số các tu sĩ còn bất an, ông chọn chương hai mươi trong quy luật của thánh Biển Đức, phần có tựa đề là “về sự tôn kính khi cầu nguyện.” Sau đó là tên những người đã qua đời. Nghi thức quen thuộc làm dịu thần kinh họ, và ông thấy nét sợ hãi đã biến khỏi khuôn mặt những người xung quanh, có lẽ các tu sĩ đã nhận ra rằng thế giới của họ chưa kết liễu.

Vào cuối buổi họp, Philip đứng dậy nói với họ. “Thảm họa xẩy ra cho chúng ta vào đêm qua thực ra chỉ ảnh hưởng đến thể lý,” ông nói, cố gắng diễn tả sự ấm áp và bình tĩnh qua giọng nói của mình bao nhiêu có thể. “Đời sống chúng ta thuộc về tinh thần; công việc của chúng ta là cầu nguyện, thờ phượng và chiêm niệm.” Ông nhìn quanh phòng họp, gặp gỡ bao nhiêu ánh mắt có thể để thu hút sự chú ý của họ; rồi ông nói: “Chúng ta sẽ tiếp tục công việc đó trong vài ngày tới, điều đó tôi hứa với anh em.”

Ông dừng lại để cho lời ông được thấm thía. Sự căng thẳng trong phòng đã dịu đi. Ông để cho họ yên tĩnh một lúc, rồi ông tiếp tục: “Thiên Chúa, trong sự khôn ngoan của Ngài, đã gửi cho chúng ta một thợ xây ngày hôm qua để giúp chúng ta vượt qua cơn khủng hoảng này. Ông đã bảo đảm với tôi, nếu chúng ta làm việc dưới sự chỉ đạo của ông, tu viện chúng ta có thể sử dụng lại bình thường trong vòng một tuần.

Có tiếng thì thầm của sự hài lòng bất ngờ.

“Tôi sợ rằng nhà thờ của chúng ta sẽ không sử dụng lại được cho các buổi phụng vụ - nó phải xây lại, và dĩ nhiên nó cần nhiều năm. Tuy nhiên thợ xây Tom tin rằng tầng hầm không bị thiệt hại nhiều. Tầng hầm được cúng hiến, vì thế chúng ta có thể cử hành nghi thức phụng vụ ở đó. Tom nói rằng ông ấy có thể làm cho nó chắc chắn lại trong vòng một tuần, sau khi tu viện sửa xong. Vì thế, như anh em thấy, chúng ta có thể cử hành thánh lễ lại bình thường vào chủ nhật trước mùa chay.”

Một lần nữa lại có thể nghe thấy được sự thở phào nhẹ nhõm của họ.

Philip thấy ông đã thành công trong việc làm họ thoải mái và an tâm. Vào lúc bắt đầu buổi họp, họ sợ hãi và bối rối; bây giờ họ bình tĩnh và hy vọng. Philip nói thêm: “Anh em nào cảm thấy yếu mệt, không lao động chân tay được sẽ được miễn. Anh em nào làm việc cả ngày với thợ xây Tom sẽ được phép ăn thịt đỏ và uống rượu vang.”

Philip ngồi xuống. Remigius là người đầu tiên lên tiếng. “Chúng ta phải trả cho người thợ xây này bao nhiêu tiền?” ông nghi ngờ hỏi.

Người ta có thể tin rằng Remigius cố gắng tìm lỗi. “Bây giờ không phải trả gì,” Philip lập lại. “Tom biết chúng ta gặp khó khăn về tài chánh. Ông ấy chỉ cần chúng ta cung cấp thực phẩm và chỗ ăn ở cho ông và gia đình, cho đến khi chúng ta có thể trả tiền lương cho ông ấy.” Đó là mơ hồ, Philip nhận ra: nó có nghĩa là Tom có quyền nhận tiền lương từ khi tu viện có thể trả. Nhưng trong thực tế tu viện nợ tiền lương mỗi ngày của ông ấy, bắt đầu từ hôm nay. Nhưng trước khi Philip có thể cắt nghĩa sự thỏa thuận, Remigius lên tiếng tiếp. “Và họ sẽ ở đâu?”

“Tôi cho họ ở nhà khách.”

“Họ có thể ở trọ trong một gia đình dưới làng.”

“Tom đã cho chúng ta một đề nghị rộng lượng,” Philip sốt ruột nói. “Chúng ta may mắn có được ông ta. Tôi không muốn ông ta ngủ chung ở nhà những người khác trong chuồng dê và lợn, trong khi chúng ta có nhà đàng hoàng bỏ không.”

“Gia đình này có hai người đàn bà…”

“Một đàn bà và một bé gái,” Philip chữa lại.

“Thì một đàn bà. Nhưng chúng tôi không muốn một người đàn bà sống trong tu viện.”

Các tu sĩ thì thầm. Họ không thích cách ngụy biện của Remigius. Philip nói: “Chuyện đàn bà ở lại nhà khách là chuyện hoàn toàn bình thường.”

“Nhưng không phải cho người đàn bà này.” Remigius buột miệng nói, sau đó ông hối hận ngay.

Philip nhíu mày. “Vậy là anh biết người đàn bà đó?”

“Bà ấy đã ở vùng này,” Remigus nói miễn cưỡng.

Philip tò mò. Đây là lần thứ hai ông chứng kiến thái độ bất thường về người vợ của thợ xây Tom: Waleran Bigod cũng đã hoảng hốt khi nhìn thấy bà. Philip nói: “Có chuyện gì với bà ấy?”

Trước khi Remigius có thể trả lời, thầy Paul, người tu sĩ lớn tuổi trông coi cây cầu, lên tiếng. “Tôi nhớ,” ông nói bằng giọng nói mơ hồ. “Có một phụ nữ hoang dã ở trong rừng đã thường sống ở đây – ô, phải mười lăm năm trước đây rồi. Người vợ ông thợ xây nhắc tôi nhớ đến người đàn bà đó.”

“Người ta nói bà ấy là một phù thủy,” Remigius nói. “Chúng ta không thể để một phù thủy sống trong tu viện.”

“Tôi không biết về chuyện đó,” thầy Paul nói trong cùng giọng chậm rãi, thâm trầm. “Bất cứ phụ nữ nào sống hoang dã, dù sớm hay muộn, đều bị gọi là phù thủy. Người ta nói như thế, nhưng không phải như vậy. Tôi để cho Tu viện trưởng Philip xét đoán trong sự khôn ngoan của ông, xem bà ấy có là mối nguy hiểm không.”

“Sự khôn ngoan không đến ngay lập tức khi nhận một trách vụ trong tu viện,” Remigius phản đối.

“Đúng vậy,” thầy Paul nói chậm rãi. Ông nhìn thẳng vào Remigius và nói: “Một đôi khi nó chẳng bao giờ đến.”

Các tu sĩ cười về món đòn đánh trả này, nhất là món đòn đó lại đến từ một người mà không ai ngờ đến. Philip phải giả vờ là không hài lòng. Ông vỗ tay ra hiệu yên lặng. “Đủ rồi!” ông nói. “Vấn đề này hệ trọng. Tôi sẽ hỏi người đàn bà này. Bây giờ chúng ta trở lại nhiệm vụ của chúng ta. Những ai muốn miễn lao động có thể lui về trạm xá để cầu nguyện và chiêm niệm. Những người khác hãy theo tôi.”

Ông rời nhà kho và đi quanh phía sau nhà bếp đến cổng mái vòm phía nam, qua đó vào hành lang tu viện. Một vài tu sĩ rời nhóm và đi vào trạm xá, trong số họ có Remigius và người phụ trách phụng vụ Andrew. Cả hai không có gì là đau yếu cả, Philip nghĩ, nhưng nếu họ tham gia nhóm lao động có lẽ họ sẽ gây thêm khó khăn, vì thế ông vui khi họ đi. Hầu hết các tu sĩ theo Philip.

Dưới sự điều hành của Tom, một số nhân viên của tu viện đã bắt tay vào việc thu dọn. Ông đứng ở đầu đống đá đổ nát trong sân tu viện với một viên phấn to trong tay, đánh dấu các viên đá bằng mẫu tự T, chữ đầu trong tên của ông.

Lần đầu tiên Philip tự hỏi làm sao có thể di chuyển những viên đá to lớn này. Chúng quá lớn để một người có thể nâng lên. Ông không cần chờ lâu để có câu trả lời: một viên đá được lăn vào hai thanh ngang nằm song song và hai người khiêng đi. Thợ xây Tom chắc chắn đã chỉ cho họ làm thế.

Công việc tiến hành nhanh chóng, với sự giúp đỡ của hầu hết sáu mươi người giúp việc trong tu viện, tạo thành một dòng người mang đá đi, rồi trở lại lấy thêm. Quang cảnh làm Philip lên tinh thần, và ông dâng một lời cầu nguyện tạ ơn âm thầm vì đã có thợ xây Tom.

Tom nhìn thấy tu viện trưởng và trèo xuống khỏi đống đá vụn. Trước khi nói chuyện với Philip, ông quay sang một người giúp việc, người thợ may chuyên may áo cho các tu sĩ. “Hãy chỉ dẫn cho các tu sĩ đi khênh đá,” ông ra lệnh. “Chú ý là chỉ khênh những viên đá tôi đã đánh dấu, nếu không cả đống đá sẽ trượt xuống và làm chết người.” Ông quay sang Philip. “Tôi đã đánh dấu để họ có đủ việc làm một thời gian.”

“Họ mang đá đi đâu?” Philip hỏi.

“Đi theo tôi, tôi sẽ chỉ cho ông. Tôi cũng muốn kiểm soát xem họ có xếp đúng cách không.”

Philip đi với Tom. Những viên đá được đem đến phía đông của khu tu viện. “Một vài nhân viên vẫn phải làm việc thường nhật của họ,” Philip nói trong khi đi. “Người giữ ngựa vẫn phải chăm sóc ngựa, người phục vụ trong bếp vẫn phải nấu ăn, một số người phải kiếm củi, cho gà ăn và đi chợ. Nhưng công việc của họ không quá sức nên tôi có thể dành một nửa số nhân viên cho ông. Ngoài ra ông có thêm khoảng ba mươi tu sĩ.”

Tom gật đầu. “Được rồi!”

Họ đi qua cuối nhà thờ phía đông. Người lao động xếp những hòn đá vẫn còn ấm dựa vào bức tường phía đông của khu tu viện, một vài mét cách trạm xá và nhà tu viện trưởng. Tom nói: “Những tảng đá cũ phải được giữ gìn cho nhà thờ mới. Chúng không được dùng để xây tường, vì những đá đã dùng rồi khi dùng lại chúng không còn tốt; nhưng chúng có thể dùng làm chân tường. Tất cả các viên đá vỡ cũng phải được cất giữ. Chúng sẽ được trộn với vữa và đổ vào khoang giữa của bức tường mới, tạo thành cốt lõi của tường.”

“Tôi hiểu.” Philip quan sát trong khi Tom chỉ thị công nhân cách xếp đá lồng vào nhau để đống đá không bị đổ. Nó chứng tỏ rằng Tom không thiếu kinh nghiệm chuyên môn.

Khi Tom đã vừa ý với công nhân, Philip nắm tay ông và dẫn ông đi xung quanh nhà thờ, tới nghĩa địa phía bắc. Mưa đã ngừng, nhưng đá của các ngôi mộ vẫn ướt. Các tu sĩ được chôn cất ở phía đông nghĩa trang, dân làng ở phía tây. Gian phụ nhà thờ phía bắc phân chia hai phần của nghĩa trang bây giờ đã bị tàn phá. Philip và Tom dừng lại. Ánh mặt trời yếu ớt chiếu qua đám mây. Trong ánh sáng ban ngày, không có gì còn là bí ẩn ở những xà gỗ đen. Philip cảm thấy xấu hổ vì đêm qua ông nghĩ đã nhìn thấy con quỷ.

Ông nói: “Một vài tu sĩ không thoải mái vì có một phụ nữ sống trong khu tu viện.” Nét mặt Tom tỏ ra một cái gì đó còn hơn là lo lắng: ông dường như sợ hãi, thậm chí hoảng sợ. Ông thực sự yêu bà, Philip nghĩ. Ông vội vàng tiếp tục: &ldqu