PHẦN HAI - Chương 5 (A) 1136 - 1137
I - Sau khi Ellen đi rồi, nhà khách hoàn toàn yên lặng vào chủ nhật. Alfred chơi bóng đá với bạn bè trong làng trên đồng cỏ bên dòng sông. Martha buồn vì thiếu Jack, cô chơi trò chơi như đang nhặt rau, nấu súp và mặc quần áo cho búp bê. Tom làm việc trên thiết kế nhà thờ chính tòa.
Ông đã một hai lần gợi ý cho Philip nên nghĩ về kiểu nhà thờ nào ông muốn xây, nhưng Philip không để ý hoặc muốn làm ngơ. Ông có nhiều điều phải lo. Nhưng Tom vẫn nghĩ về nó, nhất là vào các ngày chủ nhật. Ông thích ngồi trong nhà khách, nhìn ngôi nhà thờ đổ nát qua sân cỏ. Một đôi khi ông phác thảo trên bảng đá, nhưng hầu hết ông thực hiện trong đầu. Ông biết rằng một số người khó hình dung các vật thể và không gian trừu tượng, nhưng đối với ông nó rất dễ dàng.
Ông đã chiếm được cảm tình và lòng biết ơn của Philip qua việc ông xử lý đống đổ nát; nhưng Philip vẫn chỉ coi ông là một thợ xây. Ông đã thuyết phục Philip là ông có khả năng thiết kế và xây dựng một nhà thờ chính tòa.
Vào một ngày chủ nhật, hai tháng sau khi Ellen bỏ đi, ông cảm thấy đã sẵn sàng để vẽ.
Ông làm một tấm đan bằng lau sậy và cành mềm, khoảng ba mét mỗi chiều, đóng khung bằng gỗ xung quanh để nó trông giống như cái khay. Rồi ông đốt cháy một số phấn vôi, trộn lẫn với một số thạch cao, và đổ vào khay. Và khi hỗn hợp đã khô, ông dùng một cây kim vẽ lên đó. Ông dùng một thước bằng sắt cho những đường thẳng, dùng một góc sắt cho những cạnh vuông và com-pa cho những đường vòng.
Ông muốn thực hiện ba bản vẽ: một tiết diện để cắt nghĩa nhà thờ sẽ được xây như thế nào; một mặt thẳng để minh họa tỷ lệ đẹp của nó; và một mặt bằng để tỏ rõ phòng ốc. Ông bắt đầu với thiết kế tiết diện.
Ông tưởng tượng nhà thờ chính tòa là một ổ bánh mì dài, rồi ông cắt lớp vỏ đầu phía tây để nhìn vào bên trong, và ông bắt đầu vẽ.
Nó rất đơn giản. Ông vẽ một cổng vòm có mái phẳng. Đó là gian giữa, nhìn từ cuối nhà thờ vào. Nó cũng có một trần bằng gỗ, giống như nhà thờ cũ. Tom rất muốn xây một mái vòm cong bằng đá, nhưng ông biết Philip không có khả năng để chi phí cho việc đó.
Trên đỉnh gian giữa ông vẽ một một mái nhà hình tam giác. Chiều rộng của tòa nhà sẽ được xác định bởi chiều rộng của mái nhà, và ngược lại nó bị giới hạn bởi số gỗ có sẵn. Rất khó để có được những xà ngang dài hơn ba mươi lăm mét – và chúng rất mắc, vì những gỗ tốt rất có giá nên chủ nhân của nó đã chặt sớm và đem bán trước khi nó đủ cao. Gian giữa của ngôi nhà thờ có lẽ sẽ là ba mươi hai thước.
Gian giữa ông phác họa rất cao, cao bao nhiêu có thể. Nhưng nhà thờ chính tòa phải là một tòa nhà ấn tượng, tạo nên sự kính sợ với kích thước của nó, hướng mắt mọi người lên trời với độ cao của nó. Một lý do thu hút nhiều người đến nhà thờ chính tòa là vì nó lớn nhất trong thời kỳ đó. Một người chưa bao giờ đến nhà thờ chính tòa, người đó trải qua một cuộc đời mà chẳng bao giờ thấy một tòa nhà còn lớn hơn túp lều họ đang ở.
Thật không may, tòa nhà Tom định vẽ có trọng lượng của chì và gỗ trên mái nhà quá nặng, vì thế các bức tường sẽ phình ra hai bên và sụp xuống. Chúng phải có cột đỡ.
Vì mục đích này, Tom vẽ hai đường đi có mái vòm, cao bằng nửa gian giữa và ở hai bên. Đây là hai gian phụ. Chúng có trần cong bằng đá: bởi vì gian phụ thấp và rộng nên chi phí cho đá không tốn nhiều. Mỗi gian phụ có một mái nhà dốc.
Các gian phụ, liên kết với gian giữa bằng mài vòm đá, sẽ hỗ trợ gian giữa, nhưng chúng không cao đủ. Tom phải xây thêm những hỗ trợ khác, chia thành khoảng cách đều đặn, trong khoảng trống của mái gian phụ, bên trên những xà ngang và dưới mái nhà. Ông vẽ một vòm bằng đá bắt đầu từ đỉnh tường của gian phụ sang tới tường của gian giữa. Đầu cuối của thanh hỗ trợ dựa trên tường gian phụ, nơi đó ông xây một cái đòn phụ nhô ra từ bên cạnh bức tường bên ngoài nhà thờ. Ông đặt một tháp nhỏ trên đầu đòn để tăng thêm trọng lượng và trang trí cho nó đẹp hơn.
Một nhà thờ cao uy nghi mà không có những yếu tố tăng cường của gian phụ, các thanh hỗ trợ và các đòn phụ thì không thể đứng vững được; nhưng điều đó khó mà cắt nghĩa cho một tu sĩ, vì thế ông vẽ phác thảo để làm cho nó rõ ràng hơn.
Ông cũng vẽ nền móng, sâu dưới bức tường. Những ai không hiểu về xây dựng thường ngạc nhiên về độ sâu của nền móng.
Nó là một bản vẽ đơn giản, quá đơn giản mà thợ xây tổng thể chính không cần đến, nhưng nó cần thiết để trình bầy cho Tu viện trưởng Philip. Tom muốn ông hiểu những gì được đề xuất, hình dung ra tòa nhà và thích thú về nó. Rất khó để tưởng tượng một ngôi nhà thờ lớn, vững chắc khi mà trước mặt bạn chỉ là một vài đường vẽ trên tấm thạch cao. Philip sẽ cần tất cả sự hướng dẫn mà Tom có thể cho ông.
Bức tường ông vẽ trông vững chắc, nhìn từ ngoài vào, nhưng thực tế nó không phải như vậy. Bây giờ Tom bắt đầu vẽ hình trông nghiêng của bức tường gian giữa, nhìn từ bên trong nhà nhờ. Chúng có ba bậc: Bậc thấp nhất không thể gọi là tường, vì chúng là những hàng cột mà đầu cột nối với nhau bằng mái vòm tròn. Nó được gọi là đường có mái vòm và qua nó có thể nhìn thấy những cửa sổ đầu tròn của gian phụ. Cửa sổ và đường có mái vòm phải hợp với nhau để ánh sáng có thể chiếu vào gian giữa. Những cột trụ ở gian giữa sẽ thẳng hàng với trụ đỡ trên bức tường bên ngoài.
Bên trên mỗi mái vòm của đường đi là một hàng ba mái vòm nhỏ tạo thành một hành lang trên lầu, nơi các tín hữu có thể đứng tham dự thánh lễ. Ánh sáng không xuyên qua đó, bởi vì đàng sau chúng là mái nhà của gian phụ. Bên trên hành lang đố là bức tường có cửa sổ cho ánh sáng chiếu vào gian giữa.
Vào thời điểm khi nhà thờ chính tòa Kingsbridge cũ được xây dựng, các thợ xây cho rằng bức tường dầy sẽ mạnh mẽ, vì thế họ sợ không dám làm nhiều cửa sổ lớn, nên ánh sáng cũng không vào được. Những thợ xây tân thời hiểu rằng một tòa nhà đủ vững vàng nếu bức tường của nó thẳng và chắc chắn.
Tom phác họa ba bậc của bức tường gian giữa – đường có mái vòm của gia phụ, hành lang trên lầu và bức tường có cửa sổ lấy ánh sáng phía trên – chính xác theo đúng tỷ lệ 3:1:2. Đường mái vòm là một nửa chiều cao của bức tường, và đường hành lang trên lầu bằng một phần ba phần còn lại. Mọi sự trong nhà thờ đều theo sát tỷ lệ: nó cho tòa nhà một cảm giác nhẹ nhàng. Nghiên cứu lại bản vẽ, Tom cho rằng nó hoàn toàn thanh nhã. Nhưng không biết Philip sẽ nghĩ gì? Tom có thể nhìn thấy mái vòm, từ hàng trước đến hàng sau cùng, như đi diễn hành theo chiều dài của nhà thờ trong nắng chiều, với những khuôn đúc và trạm trổ. Nhưng Philip có thấy như vậy không?
Ông bắt đầu với bản vẽ thứ ba, đó là mặt bằng của nhà thờ. Trong trí tưởng tượng ông thấy mười hai mái vòm trong đường đi. Nhà thờ như thế bị chia thành mười hai nhịp hay ô. Gian giữa có sáu nhịp và bốn nhịp ở gian cung thánh. Ở nhịp thứ bẩy và tám là khu trung tâm, từ đó hướng ra hai phía tạo thành hai gian ngang. Bên trên khu trung tâm vươn lên một tháp cao.
Tất cả nhà thờ chính tòa, và hầu như các nhà thờ khác cũng vậy, thường có mặt bằng hình chữ thập. Hình thánh giá là biểu tượng quan trọng nhất của Kitô giáo, nhưng nó còn có lý do thực dụng nữa: Các gian ngang tạo nên các không gian hữu ích cho các nhà nguyện phụ, văn phòng, cũng như phòng mặc áo lễ.
Sau khi vẽ xong mặt bằng nhà thờ, Tom trở lại với bản vẽ chính, cho thấy bên trong của nhà thờ nhìn từ cuối nhà thờ lên. Bây giờ ông vẽ tháp chuông vươn lên trên và đàng sau gian giữa.
Tháp nhà thờ phải cao hơn gian giữa ít nhất là một rưỡi hoặc cao gấp đôi. Mẫu thấp nhất tạo cho tòa nhà một nét đặc sắc hấp dẫn cân đối, trong đó các gian phụ, gian chính và tháp nhà thờ cao theo tỷ lệ 1:2:3. Tháp nhà thờ cao sẽ ấn tượng hơn, bởi vì gian chính sẽ gấp đôi gian phụ, và tháp gấp đôi gian chính, tỷ lệ sẽ là 1:2:4. Tom chọn mẫu ấn tượng: đây là nhà thờ chính tòa duy nhất mà ông xây, và ông muốn nó vươn lên tới trời. Ông hy vọng Philip sẽ cảm thấy như vậy.
Nếu Philip chấp nhận dự án, dĩ nhiên Tom sẽ vẽ nó lại một lần nữa, cẩn thận hơn và chính xác với kích thước. Và còn nhiều thứ phải vẽ: bệ cột, cột, khung cửa, tháp nhỏ, cầu thang, tượng đầu thú vật và vô số các chi tiết khác nữa – Tom sẽ phải vẽ hàng năm. Nhưng những gì ông có trước mặt là cái cốt yếu của tòa nhà, và nó mang những yếu tố: đơn giản, rẻ tiền, thanh thoát và hoàn toàn theo tỷ lệ.
Ông nóng lòng muốn chỉ cho ai đó xem.
Ông tìm kiếm một thời điểm thuận tiện để đem nó đến Philip; nhưng bây giờ đã xong, ông muốn Philip thấy nó ngay lập tức.
Philip có nghĩ là ông kiêu ngạo không? Tu viện trưởng không yêu cầu ông chuẩn bị bản vẽ. Có lẽ trong đầu ông đã có một thợ xây dựng chính khác, người có nhiều kinh nghiệm hơn ông. Ông ấy có thể khinh miệt cố gắng của Tom.
Ngược lại, nếu Tom không chỉ gì cho Philip, ông ấy có thể nghĩ Tom không đủ khả năng thiết kế, và có thể mướn người nào đó mà không hỏi ý kiến của Tom. Tom thà bị coi là tự phụ hơn là bị người nào đó cướp mất công việc. Buổi chiều trời vẫn còn nắng. Philip chắc ở trong nhà tu viện trưởng, đọc Kinh thánh. Tom quyết định đến gõ cửa phòng ông.
Cẩn thận mang theo bản vẽ, ông ra khỏi nhà.
Khi ông đi ngang qua khu đổ nát, viễn tượng có thể xây một nhà thờ mới dường như có vẻ khó khăn: tất cả những hòn đá to, tất cả những xà ngang gỗ, tất cả những thợ thủ công, và cần biết bao năm tháng… Ông phải kiểm tra lại tất cả, tìm kiếm nguồn nguyên liệu ổn định, giám sát chất lượng gỗ và đá, mượn và sa thải nhân công, không mệt mỏi kiểm soát công việc của thợ bằng hòn rọi và thước nước, làm mẫu cho khuôn đúc, vẽ kiểu và chế tạo máy nâng… Ông tự hỏi không biết ông cố chu toàn được không.
Rồi ông nghĩ, nó sẽ sung sướng làm sao khi tạo nên được cái gì đó từ đống gạch vụn, khi một ngày nào đó trong tương lai được nhìn thấy ngôi nhà thờ mới mọc lên trên đống điêu tàn, và có thể nói: Tôi đã xây nó.
Ngoài ra còn một ý nghĩ khác trong trí ông, dấu ẩn trong góc sâu bụi bặm; một cái mà ông khó thú nhận với chính mình. Agnes đã chết không có phép lành của linh mục, và bà được chôn cất ở một nơi không phải là đất thánh. Ông rất muốn trở lại mộ bà, mang theo một linh mục để cầu nguyện cho bà và đặt lên đó một bia mộ nhỏ; nhưng ông sợ rằng khi ông gợi sự chú ý đến nơi chôn cất của bà, một cách nào đó câu chuyện của đứa bé bị bỏ rơi có thể bị phơi bầy ra ánh sáng. Bỏ rơi một đứa bé được coi là tội giết người. Khi nhiều tuần lễ đã trôi qua, ông lo sợ nhiều hơn về linh hồn của Agnes, và nơi chôn bà có phải là nơi tốt không. Ông không dám hỏi linh mục về chuyện đó vì ông không muốn kể chi tiết. Nhưng ông tự an ủi mình rằng nếu ông xây được một ngôi nhà thờ chính tòa, Thiên Chúa chắc chắn sẽ ân huệ cho ông; và ông thắc mắc không biết ông có thể xin cho Agnes nhận được ân huệ đó thay ông không. Nếu ông có thể cống hiến công việc xây nhà thờ cho Agnes, ông cảm thấy linh hồn của bà được thanh thoát và bà có thể an nghỉ.
Ông đến nhà tu viện trưởng, một nhà bằng đá trên đất bằng. Cửa mở, mặc dù hôm đó là một ngày trời lạnh. Ông do dự. Ông tự nhủ lòng: Bình tĩnh, năng lực, kiến thức, chuyên môn. Một chuyên gia về mọi lãnh vực của một tòa nhà hiện đại. Một người mà bạn có thể tin tưởng.
Ông bước vào. Nhà chỉ có một phòng. Một bên kê chiếc giường lớn với màn cửa sang trọng, phía kia là một bàn thờ nhỏ với tượng Thánh giá và chân nến. Tu viện trưởng đứng ở cửa sổ, đọc một bản viết trên giấy da, vầng trán nhăn nheo lo lắng. Ông nhìn lên, mỉm cười với Tom. “Ông có cái gì đó?”
“Bản vẽ, thưa cha,” Tom nói và cố giữ giọng bình tĩnh, rõ ràng. “Bản vẽ của nhà thờ chính tòa mới. Tôi có thể chỉ cho ông không?”
Philip vừa tỏ vẻ ngạc nhiên, vừa tò mò. “Dĩ nhiên,” ông nói.
Trong góc có một bục lớn. Tom đem nó đến bên cửa sổ có ánh sáng và đặt tấm thạch cao lên trên. Philip nhìn vào bản vẽ. Tom quan sát nét mặt ông. Tom có thể nhận ra rằng tu viện trưởng chưa bao giờ nhìn thấy một bản vẽ mặt thẳng, mặt bằng và mặt cắt nhìn xuyên qua tòa nhà. Ông cau mày.
Tom bắt đầu cắt nghĩa. Ông chỉ vào bản mặt thẳng. “Ông đang đứng ở trung tâm gian giữa, nhìn vào bức tường,” Tom nói. “Đây là hàng cột của đường đi có mái vòm. Chung nối với nhau bởi mái vòm. Qua đường mái vòm, ông có thể nhìn thấy cửa sổ trong gian phụ. Bên trên đường mái vòm là hành lang, và bên trên đó là khoảng tường có hàng cửa sổ.”
Nét mặt của Philiip rạng rỡ. Ông bắt đầu hiểu và ông có thể học nhanh chóng. Ông nhìn bản vẽ mặt bằng, và Tom có thể nhìn thấy vẻ bối rối của ông.
Tom nói: “Khi chúng ta đi chung quanh khu vực, và đánh dấu nơi đâu bức tường sẽ được xây, nơi đâu cột trụ sẽ được dựng và vị trí cửa ra vào và trụ tường, chúng ta sẽ có một bản vẽ giống thế này, và nó sẽ cho chúng ta biết nơi đâu phải đóng cọc và căng dây.”
Khuôn mặt Philip lại tươi ra. Tom nghĩ, việc Philip không hiểu bản vẽ ngay là một cơ hội tốt cho ông, vì qua đó Tom có thể chứng tỏ được sự đáng tin và khả năng của ông. Sau đó Philip nhìn vào bản vẽ mặt cắt. Tom cắt nghĩa: “Đây là ở giữa gian chính, có mái gỗ. Đàng sau gian chính là tháp nhà thờ. Đây là gian phụ, ở hai bên gian chính. Ở cạnh bên ngoài của gian phụ là trụ tường.”
“Trông có vẻ lộng lẫy,” Philip nói. Bản vẽ mặt cắt ấn tượng ông hơn cả. Nó giống như mặt tiền phía tây được mở ra, giống như cửa tủ mở và người ta có thể nhìn vào phía trong.
Ánh mắt Philip lại quay về với bản vẽ mặt bằng. “Gian chính chỉ có sáu ô sao?”
“Vâng, gian cung thánh có bốn ô.”
“Nó có quá nhỏ không?”
“Ông có thể chi phí cho một công trình lớn hơn không?”
“Tôi không có khả năng xây dựng cái gì cả,” Philip nói. “Ông có biết dự án ông đang có đây sẽ tốn bao nhiêu không?”
“Tôi biết chắc chắn phí tổn xây dựng của nó,” Tom nói. Ông nhìn thấy nét kinh ngạc trên mặt Philip: Ông đã không ngờ Tom biết tính toán. Tom đã dành nhiều giờ tính toán đến đồng xu cuối cùng cho dự án của ông. Tuy nhiên, ông đưa cho Philip một con số chẵn. “Nó sẽ không tốn hơn ba ngàn.”
Philip cười. “Tôi đã tốn cả hàng tuần qua để tính toán tiền thu nhập hàng năm của tu viện.” Ông vẫy bản giấy da mà ông đang đọc một cách lo lắng khi Tom bước vào. “Đây là câu trả lời. Ba trăm trong một năm. Chúng tôi tiêu hết từng đồng xu.”
Tom không ngạc nhiên. Trong thời gian qua tu viện đã được điều hành một cách yếu kém, điều đó quá rõ. Ông tin rằng Philip sẽ cải tổ kinh tế tu viện. “Ông sẽ tìm được tiền, thưa cha,” ông nói. “Với sự giúp đỡ của Chúa,” ông thêm vào.
Philip lại nhìn vào bản vẽ, ông chưa chắc chắn. “Cần bao nhiêu năm để xây nhà thờ này?”
“Nó tùy thuộc vào số nhân công,” Tom nói. “Khi ông mướn ba mươi thợ xây, cùng với những người làm công nhật, thợ học nghề, thợ mộc và thợ rèn phụ việc với họ, thời gian hoàn thành sẽ mất mười lăm năm: một năm cho chân móng, bốn năm cho gian cung thánh, bốn năm cho hai gian ngang và sáu năm cho gian chính.”
Một lần nữa Philip nhìn ấn tượng. “Tôi ước muốn ban lãnh đạo trong tu viện của tôi có khả năng tính toán và dự phóng trước như ông,” ông nói. Ông đăm chiêu nghiên cứu bản vẽ. “Vì thế mỗi năm tôi phải tìm ra hai trăm đồng. Khi chúng ta tính như vậy, nghe nó không có vẻ khó lắm.” Ông ngẫm nghĩ. Tom phấn khởi: Philip đã bắt đầu nghĩ về nó như là một dự án có thể thực hiện, không phải chỉ là một thiết kế trừu tượng. “Giả sử tôi có nhiều tiền hơn, việc xây dựng có nhanh hơn không?”
“Đến một giới hạn nào đó,” Tom trả lời thận trọng. Ông không muốn làm cho Philip quá lạc quan, vì nó có thể gây thất vọng. “Ông có thể mướn sáu mươi thợ, và xây toàn bộ nhà thờ cùng lúc, thay vì xây từ đông sang tây; và nó sẽ mất khoảng tám đến mười năm. Nhiều hơn sáu mươi người, trong một kích thước xây dựng như thế này, họ sẽ dẫm chân lên nhau và làm chậm tiến độ.”
Philip gật đầu. “Nếu tôi chỉ có ba mươi thợ xây, phần nhà thờ phía đông sẽ hoàn tất trong năm năm?”
“Vâng, và ông có thể sử dụng nó cho các giờ kinh, và thiết lập một bàn thờ cho xương thánh Adolphus.”
“Thật sao!” Philip thật sự hào hứng. “Tôi đã nghĩ mười năm nữa chúng tôi mới có nhà thờ mới.” Ông nhìn Tom thăm dò. “Trước đây ông đã xây nhà thờ chính tòa chưa?”
“Chưa, nhưng tôi đã thiết kế và xây nhiều nhà thờ nhỏ. Ngoài ra tôi làm việc nhiều năm ở nhà thờ chính tòa Exeter, với nhiệm vụ là trợ tá cho thợ xây dựng tổng thể chính.”
“Ông muốn tự mình xây nhà thờ chính tòa này, phải không?”
Tom ngập ngừng. Ông biết ông nên thẳng thắn với Philip, một người không có kiên nhẫn cho chuyện vòng vo. “Vâng, thưa cha. Tôi muốn ông chỉ định tôi làm thợ xây dựng tổng thể chính,” ông nói bình tĩnh bao nhiêu có thể.
“Tại sao?”
Tom không ngờ Philip lại đặt câu hỏi đó. Có nhiều lý do. Bởi vì tôi đã nhìn thấy nhiều nhà thờ chính tòa xấu và tôi có thể xây đẹp hơn, ông nghĩ. Bởi vì đối với một nghệ nhân bậc thầy không có gì thỏa mãn hơn, có lẽ ngoại trừ tình yêu đối với một phụ nữ đẹp, là được thực hiện kỹ năng của mình. Bởi vì những việc như vậy cho cuộc đời con người ý nghĩa. Philip muốn câu trả lời nào? Tu viện trưởng có lẽ muốn ông nói điều gì đạo đức. Không ngần ngại, ông nói sự thật. “Bởi vì nó sẽ rất đẹp,” ông nói.
Philip lạnh lùng nhìn ông. Tom không thể nói ông tức giận hay ông nghĩ gì. “Bởi vì nó sẽ rất đep,” Philip lập lại. Tom bắt đầu cảm thấy nó thật ngớ ngẩn, và muốn nói thêm điều gì đó, nhưng ông không biết nói gì. Nhưng sau đó ông nhận ra rằng Philip thật sự không nghi ngờ gì hết. Lời nói của Tom đánh động tâm hồn ông. Sau cùng Philip gật đầu, như tỏ vẻ đồng ý sau khi đắn đo. “Vâng, và còn gì tốt hơn là làm những điều đẹp đẽ cho Thiên Chúa?” Tom nói.
Tom vẫn yên lặng, chờ đợi Philip nói câu: “vâng, ông sẽ là thợ cả.”
Philip dường như đi đến quyết định. “Tôi đang chuẩn bị cùng với giám mục Waleran đến gặp vua ở Winchester trong ba ngày nữa,” ông nói. “Tôi không biết dự định của giám mục, nhưng tôi chắc chắn chúng tôi sẽ xin vua Stephen giúp đỡ trong việc xây dựng nhà thờ mới cho Kingsbridge.”
“Chúng tôi mong nhà vua sẽ chấp nhận ước muốn của ông,” Tom nói.
“Vua còn nợ chúng ta một đặc ân,” Philip nói với một nụ cười bí ẩn. “Ông phải giúp chúng ta.”
“Và nếu ông ấy giúp?” Tom nói.
“Tôi nghĩ Chúa đã gửi ông đến cho tôi với một mục đích, thợ xây Tom ạ,” Philip nói. “Nếu vua Stephen trợ cấp chúng ta tiền bạc, ông có thể xây nhà thờ.”
Đến lượt Tom cảm động. Ông không biết phải nói gì. Ông đạt được ước mơ trong đời – tuy còn tùy thuộc vào điều kiện. Mọi sự tùy thuộc vào sự trợ giúp của vua. Ông gật đầu, chấp nhận lời hứa và mạo hiểm. “Cảm ơn cha,” ông nói. Chuông đổ báo hiệu giờ kinh tối. Tom thu dọn bản vẽ.
“Ông có cần nó không?” Philip hỏi.
Tom nhận ra rằng để bản vẽ ở lại đây thì tốt hơn. Nó sẽ luôn nhắc nhở Philip. “Không, tôi không cần nó,” ông nói. “Tôi có nó trong đầu.”
“Tốt, tôi sẽ giữ nó ở đây.”
Tom gật đầu và đi ra cửa. Ông chợt nghĩ nếu ông không hỏi về Agnes bây giờ, có lẽ ông sẽ chẳng bao giờ hỏi nữa. Ông quay lại.
“Thưa cha,”
“Vâng?”
“Vợ trước của tôi… bà tên là Agnes… bà đã chết mà không được linh mục làm phép và không được chôn ở đất thánh. Bà không có tội, nó chỉ là … do hoàn cảnh. Tôi phân vân… Một đôi khi một người xây một nhà nguyện, hay thành lập một tu viện trong hy vọng rằng đời sau Thiên Chúa sẽ nhớ đến lòng đạo đức của họ. Ông có nghĩ rằng thiết kế của tôi có giúp cứu linh hồn Agnes không?”
Philip nhăn trán. “Abraham được yêu cầu dâng đứa con duy nhất. Thiên Chúa không bao giờ đòi hỏi của lễ bằng máu nữa, bởi vì của lễ lớn lao nhất đã được dâng tiến. Nhưng câu chuyện Abraham muốn nói lên ý nghĩa là Thiên Chúa đòi hỏi những gì tốt nhất chúng ta có, những gì quý giá trong trái tim chúng ta. Có phải thiết kế này là cái tốt nhất ông có thể dâng lên Thiên Chúa không?”
“Ngoại trừ các con tôi, vâng.”
“Vậy hãy yên tâm, thợ xây Tom ạ. Chúa sẽ chấp nhận điều ông dâng Chúa.”
II
Philip không hiểu tại sao Waleran Bigod muốn gặp ông tại tại lâu đài đổ nát của Bá tước Bartholomew.
Ông buộc phải đến thị trấn Shiring và qua đêm ở đó, rồi sáng nay lên đường tới lâu đài bá tước. Khi con ngựa từ từ chạy đến và tòa lâu đài lờ mờ hiện ra trong sương mù buổi sáng, ông đoán ra nó có thể vì thuận lợi: Waleran trên đường từ chỗ này đến chỗ kia, vì thế qua đây gần hơn là đến Kingsbridge, và lâu đài là một nơi dễ đến.
Philip muốn biết nhiều hơn về những dự định của Waleran. Từ ngày Waleran đến thăm nhà thờ cũ bị cháy đến nay, Philip không gặp lại ông. Waleran không biết Philip cần bao nhiêu tiền để xây nhà thờ, và Phlip cũng không biết Waleran dự định muốn yêu cầu gì nơi vua. Dường như Waleran muốn giữ ý định riêng cho mình. Điều đó làm Philip lo âu.
Ông mừng vì thợ xây Tom đã cho ông biết về phí tổn cần thiết để xây dựng nhà thờ mới. Một lần nữa ông lại vui vì có Tom bên cạnh. Tom là người của ngạc nhiên. Ông không biết đọc và viết, nhưng ông có thể thiết kế nhà thờ, vẽ dự án, tính toán số nhân công và thời gian xây dựng, và tính ra được chi phí cần thiết cho toàn bộ công trình. Ông là một người trầm tĩnh, mặc dù bên ngoài trông ông đáng sợ: ông cao lớn, đầy râu, mặt rạm nắng, đôi mắt sắc sảo và vầng trán cao. Một đôi khi Phlip cảm thấy như bị đe dọa bởi Tom và ông cố gắng trấn tĩnh bằng giọng nói chân thành. Nhưng Tom rất nghiêm nghị. Cuộc đàm thoại về người vợ của ông thật cảm động, và nó biểu lộ lòng đạo đức mà trước đó ông chưa bao giờ tỏ ra. Tom là một trong những người giữ niềm tin tôn giáo của mình sâu thẳm trong tim. Một đôi khi họ là những người tốt nhất.
Khi Philip đến lâu đài, tâm hồn ông trĩu nặng. Trước đây nó là một lâu đài thịnh vượng, có thành trì bảo vệ khu vực xung quanh, tạo công ăn việc làm cho bao nhiêu người trong vùng. Bây giờ nó chỉ còn là đống đổ nát, những túp lều chung quanh chân tường đã thành hoang phế, giống như các cành cây trụi lá vào mùa đông. Và Philip chịu trách nhiệm về nó. Ông đã tiết lộ âm mưu được cưu mang nơi đây, và đã kéo cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, qua Percy Hamleigh, đến trên lâu đài và cư dân nơi đây.
Ông nhận ra bức tường thành và nhà khách không bị tổn thất nhiều trong cuộc chiến. Nó có nghĩa là kẻ tấn công đã vào bên trong trước khi cổng thành có thể đóng lại. Ông đi ngựa qua cây cầu gỗ vào trong sân thứ nhất của lâu đài. Nơi đây chứng tích cuộc chiến rõ ràng hơn: ngoài ngôi nhà nguyện bằng đá, tất cả những kiến trúc khác của lâu đài chỉ còn lại những thanh gỗ cháy dở ngổn ngang trên mặt đất, và một cơn gió nhẹ thổi bay những tro tàn dọc theo chân tường thành.
Không có dấu hiệu của giám mục. Philip đi ngựa qua sân, vượt qua cầu dẫn vào khu vực bên trên. Ở đây có một khu nhà ở bằng đá với một cầu thang bằng gỗ trông lỏng lẻo dẫn lên cửa vào lầu hai. Philip nhìn lên tường thành phòng thủ với những cửa sổ hẹp: mặc dù nó vĩ đại, nhưng nó vẫn không bảo vệ được Bartholomew.
Từ những cửa sổ này, ông có thể nhìn qua tường thành và quan sát giám mục đến. Ông cột con ngựa vào tay cầm của cầu thang và đi lên.
Khi ông vừa đụng nhẹ, cửa mở ra. Ông bước vào trong. Hội trường lớn tối tăm và bụi bặm, lò sưởi nguội lạnh, có một cầu thang xoắn ốc dẫn lên trên. Philip đi tới cửa sổ. Bụi làm ông khó chịu. Từ cửa sổ ông không nhìn thấy gì, nên ông quyết định lên tầng trên.
Trên đầu cầu thang xoắn, ông đối diện với hai cánh cửa. Ông đoán cửa nhỏ vào nhà vệ sinh và cửa lớn dẫn vào phòng ngủ bá tước. Ông đi vào cửa lớn.
Phòng không trống.
Philip ngừng lại, chết cứng. Ở đó, giữa phòng, đối diện với ông là một phụ nữ đẹp tuyệt vời. Lúc đầu ông tưởng mình đang mơ, và tim ông rộn ràng. Những lọn tóc đen gợn lên như đám mây bao phủ khuôn mặt mê hồn. Cô nhìn ông qua đôi mắt mở lớn, và ông nhận ra cô cũng giật mình giống như ông. Khi ông thoải mái ra và sắp bước vào phòng thì ông bị ghì chặt từ phía sau và cảm thấy một lưỡi kiếm lạnh đè vào cổ ông, và một giọng đàn ông hỏi: “Ông là ai?”
Cô gái di chuyển về phía ông. “Hãy nói tên ra, nếu không Matthew sẽ giết ông,” cô nói một cách uy quyền.
Thái độ của cô cho thấy cô thuộc gia đình quyền quý, nhưng ngay cả quyền quý cũng không được phép hăm dọa tu sĩ. “Hãy nói với Matthew bỏ tay ra khỏi tu viện trưởng của Kingsbridge, nếu không ông sẽ gặp khó khăn,” Philip điềm tĩnh nói.
Ông được trả tự do. Ông quay lưng lại và thấy một người đàn ông mảnh khảnh chạc tuổi ông. Matthew có lẽ từ nhà vệ sinh ra.
Ông quay lại phía cô gái. Cô khoảng mười bẩy tuổi. Mặc dù cô kiêu kỳ, nhưng cô ăn mặc xoàng xĩnh. Khi ông đang quan sát cô, chiếc hòm sát tường đàng sau cô mở lên và một cậu bé nhẩy ra, nhìn bẽn lẽn. Cậu cầm một thanh kiếm. Philip không biết cậu nằm trong đó chờ đợi hay vì ẩn trốn.
“Còn cô là ai?” Philip hỏi.
“Tôi là con gái của bá tước ở Shiring, tên tôi là Aliena.”
Con gái của bá tước! Philip nghĩ. Tôi không biết cô ta vẫn sống ở đây. Ông nhìn cậu con trai. Cậu khoảng mười lăm tuổi, trông giống cô gái, ngoại trừ mũi tẹt và mái tóc ngắn. Philip nhướng mắt hỏi cậu.
“Tôi là Richard, người thừa hưởng gia tài của bá tước,” cậu bé nói bằng giọng ồm ồm của tuổi dậy thì.
Đàng sau Philip, người đàn ông nói: “Còn tôi là Matthew, quản lý của lâu đài.”
Ba người này đã ẩn nấp ở đây từ khi Bá tước Bartholomew bị bắt, Philip nhận ra. Người quản lý chăm sóc các trẻ nhỏ: ông ta phải có một kho thực phẩm và tiền bạc cất dấu. Philip quay về phía cô gái: “Tôi biết bố cô ở đâu nhưng mẹ cô đâu?”
“Mẹ tôi đã chết từ nhiều năm qua.”
Philip cảm thấy có lỗi. Những đứa trẻ giờ thành mồ côi, và một phần do lỗi của ông. “Cô không có họ hàng nào khác chăm sóc cho cô sao?”
“Tôi đang trông giữ lâu đài cho đến khi bố tôi trở về,” cô nói. Philip nhận ra chúng đang sống trong thế giới ảo tưởng. Chúng đang sống như chúng vẫn thuộc về một gia đình giầu có và quyền lực. Với người cha trong tù và bị giáng chức, cô là người con gái khác. Cậu con trai không còn thừa hưởng gì cả. Bá tước Bartholomew sẽ chẳng bao giờ trở về lâu đài này nữa, chỉ trừ khi nhà vua quyết định treo cổ ông ở đây. Ông thương hại cô, nhưng một cách nào đó ông thán phục ý chí mạnh mẽ của cô, một ý chí nuôi sống sự tưởng tượng và lôi kéo hai người khác theo. Cô phải là một nữ hoàng, ông nghĩ.
Từ bên ngoài vẳng về tiếng vó ngựa trên gỗ: nhiều con ngựa đang đi qua cây cầu gỗ. Aliena nói với Philip: “Tại sao ông lại đến đây?”
“Một cái hẹn,” Philip nói. Ông quay lại và bước về phía cửa, nhưng Matthew ngăn ông lại. Họ đứng yên lặng nhìn nhau. Bốn người trong phòng không động tĩnh. Philip tự hỏi có phải họ muốn chặn không cho ông đi. Nhưng rồi người quản lý đứng qua một bên.
Philip đi ra. Ông kéo vạt áo choàng và vội vã xuống thang. Khi ông xuống đến dưới, ông nghe thấy tiếng bước chân sau ông. Matthew bắt kịp ông.
“Đừng nói cho ai biết chúng tôi ở đây,” ông nói.
Philip nhận ra Matthew hiểu hoàn cảnh thực tế của họ. “Các ông muốn ở đây bao lâu?” Philip hỏi.
“Bao lâu có thể,” người quản lý trả lời.
“Và nếu các ông phải đi, các ông sẽ đi đâu?”
“Tôi không biết.”
Philip gật đầu. “Tôi sẽ giữ bí mật,” ông nói.
“Cảm ơn cha.”
Philip đi ngang qua hội trường bụi bặm và ra ngoài. Nhìn xuống, ông thấy giám mục Waleran và hai người khác đang gìm cương gần con ngựa của ông. Waleran mặc một áo choàng nặng bằng lông màu đen và đội mũ lông đen. Ông nhìn lên và Philip bắt gặp đôi mắt tái nhợt của ông. “Kính chào giám mục,” Philip trân trọng nói. Ông xuống cầu thang gỗ. Hình ảnh cô gái trên lầu vẫn ám ảnh ông và ông không dễ đuổi nó ra khỏi đầu như ông muốn. Waleran xuống ngựa. Ông có hai người tùy tùng, Philip nhận ra: Dean Baldwin và người kỵ binh.
Ông gật đầu chào họ, rồi quỳ xuống hôn tay Waleran. Waleran chấp nhận sự kính trọng nhưng không quan tâm lắm: một lúc sau ông rút tay về. Ông thích quyền lực thực sự chứ không phải vỏ bên ngoài của nó.
“Ông chỉ đi có một mình, Philip?” Waleran hỏi.
“Vâng. Tu viện nghèo và đoàn tùy tùng đối với tôi là một phung phí. Khi tôi còn là tu viện trưởng của St. John ở trong rừng, tôi chẳng có hộ tống và tôi vẫn sống.”
Waleran nhún vai. “Đi theo tôi,” ông nói. “Tôi muốn chỉ ông điều này.” Ông đi qua sân tới tòa tháp gần nhất. Philip theo sau. Waleran vào qua cửa thấp ở chân tháp và trèo lên cầu thang bên trong. Những con giơi treo mình trên mái trần thấp và Philip cúi đầu xuống, sợ đụng vào chúng.
Rồi họ lên đến đỉnh, đứng trên thành lũy nhìn qua vùng xung quanh.
“Đây là một trong những lãnh địa bá tước nhỏ nhất trong nước,” Waleran nói.
“Đúng vậy.” Philip rùng mình. Trên đó gió lạnh và ẩm ướp, và áo choàng của ông cũng không dầy như của Waleran. Ông tự hỏi không biết Waleran muốn chỉ ông điều gì.
“Một vài mảnh đất màu mỡ, nhưng đa số là rừng và đất đá.”
“Vâng.” Vào một ngày đẹp trời, họ có thể thấy nhiều khu rừng và đồng ruộng, nhưng bây giờ, mặc dù sương mai đã tan, nhưng họ khó có thể nhận ra góc khu rừng phía nam và đồng cỏ xung quanh lâu đài.
“Lãnh địa này có một quặng mỏ sản xuất những tảng đá vôi thượng hạng,” Waleran tiếp tục. “Rừng của nó có nhiều gỗ tốt và nông trại của nó tạo ra của cải đáng kể. Nếu chúng ta được lãnh địa này, Philip, chúng ta có thể xây nhà thờ chính tòa của chúng ta.”
“Nếu ngựa có cánh, chúng có thể bay,” Philip nói.
“Ôi, người yếu lòng tin!”
Philip nhìn đăm đăm vào Waleran. “Ông nói thật đấy chứ?”
“Rất thật.”
Philip vẫn còn hoài nghi, tuy vậy một hy vọng mong manh nẩy lên trong ông. Nếu điều này thành sự thật! Nhưng ông nói: “Vua cần sự hỗ trợ về quân sự. Ông ấy sẽ trao lãnh địa này cho người nào có thể đem quân ra trận.”
“Nhà vua mắc nợ giáo hội về vương miện của ông, và mắc nợ chúng ta về chiến thắng Bartholomew. Hiệp sĩ không phải là tất cả những gì ông ta cần.”
Waleran nói nghiêm trang, Philip nhận ra. Điều ấy có thể không? Nhà vua có thể trao lãnh địa của Shiring cho giáo hội, để tài trợ kinh tế cho việc xây nhà thờ chính tòa Kingsbridge không? Khó có thể tin được, mặc dù lập luận của Waleran là hợp lý. Nhưng Philip không thể ngừng tưởng tượng nó sẽ tuyệt vời làm sao nếu có được đá, gỗ và tiền trả cho thợ; và Philip nhớ Tom nói rằng ông có thể mướn sáu mươi thợ và hoàn thành nhà thờ trong tám đến mười năm. Chỉ nghĩ về nó thôi đã thấy thú vị.
“Nhưng còn cựu bá tước sẽ ra sao?” ông hỏi.
“Bartholomew đã thú nhận tội phản quốc. Ông không bao giờ chối tội mưu phản, nhưng ông cho rằng những gì ông làm không phải là phản quốc, vì Stephan là một kẻ cướp ngôi. Tuy nhiên, sự tra tấn của nhà vua đã làm ông đầu hàng.”
Philip rùng mình và không dám nghĩ họ đã làm gì Bartholomew để một người đàn ông cứng rắn như ông ấy phải thay đổi. Ông đuổi tư tưởng này ra khỏi đầu. “Lãnh địa của Shiring,” ông lẩm bẩm. Nó là một yêu cầu vô cùng tham vọng. Nhưng ý tưởng này đáng sợ. Ông cảm thấy đầy sự lạc quan vô lý.
Waleran ngước nhìn bầu trời. “Chúng ta hãy đi,” ông nói. “Nhà vua đợi chúng ta ngày kia.”
William Hamleigh quan sát hai người của Chúa từ nơi cậu ẩn nấp đàng sau tường lũy của tháp bên cạnh. Cậu biết cả hai người. Người cao ráo, người giống như con chim đen với chiếc mũi nhọn và áo khoác đen, là giám mục mới của Kingsbridge. Người nhỏ, hăng hái với đầu trọc và mắt xanh sáng là Tu viện trưởng Philip. William tự hỏi họ làm gì ở đây.
Cậu đã quan sát vị tu sĩ khi ông vào, nhìn quanh như thể ông muốn tìm ai rồi đi vào khu nhà. William không đoán được Philip có gặp ba người kia không – ông chỉ vào trong đó một lúc và những người kia chắc đã tránh ông. Khi giám mục đến, Tu viện trưởng Philip đã bước ra và cả hai trèo lên tháp. Bây giờ giám mục chỉ vào các mảnh đất xung quanh lâu đài thân thuộc như mảnh đất này là của ông. Qua cách đứng và cử chỉ của họ, William có thể nhận ra là giám mục đang sôi nổi và tu viện trưởng hoài nghi. Họ đang có một âm mưu, Williiam chắc chắn điều đó.
Tuy nhiên, cậu đến đây không phải để theo dõi họ mà để theo dõi Aliena.
Cậu đã làm việc này càng ngày càng thường xuyên hơn. Cô săn đuổi cậu trong tâm trí mọi nơi mọi lúc, và cậu đau khổ trong những giấc mơ ban ngày, trong những giấc mơ mà cậu thấy Aliena bị trói và trần truồng trong cánh đồng lúa mì, hay co rúm như con chó sợ hãi trong góc phòng ngủ, hay bị lạc trong rừng vào buổi chiều tối. Nó trầm trọng đến nỗi cậu muốn thấy cô bằng xương bằng thịt. Cậu đã đến lâu đài lãnh chúa từ sáng sớm, để Walter, người cận vệ, ở lại trông coi ngựa trong rừng, và một mình cậu đi qua cánh đồng đến lâu đài. Cậu lẻn vào trong tìm được một chỗ nấp, từ đó cậu có thể quan sát khu nhà ở và khu nhà phía trên. Một đôi khi cậu phải chờ lâu mới thấy cô. Sự kiên nhẫn của cậu bị thử thách rất nhiều, nhưng mà đi về mà không thoáng được nhìn thấy cô thì còn đau khổ hơn, vì thế mà cậu luôn ở lại. Rồi, khi cô xuất hiện, cổ họng cậu khô cứng, tim cậu đập nhanh hơn, và bàn tay ẩm ướt. Thường cô đi với em trai hay với người quản lý nữ tính, nhưng một đôi khi cô đi một mình. Một buổi chiều mùa hè, khi cậu đã đợi cô từ buổi sáng sớm, cô đi đến giếng lấy nước, cởi bỏ quần áo và tắm rửa. Chỉ nhớ lại cảnh đó cũng đủ đốt cháy cậu. Cô có bộ ngực sâu, kiêu hãnh chuyển động một cách khêu gợi khi cô nâng bàn tay để chà xà bông vào tóc. Núm vú cô co lại khi cô tạt nước lạnh lên mình. Đám lông đen quăn xoắn giữa hai chân cô rậm rạp, và khi cô tắm rửa ở chỗ đó, chà mạnh với bàn tay đầy xà bông, Williiam không còn kiểm soát được mình và xuất tinh trong quần.
Kể từ đó không còn gì đẹp xẩy ra nữa, và cô chắc chắn sẽ không tắm trong mùa đông, nhưng cũng có những thú vui nhỏ hơn. Khi ở một mình, cô hát và ngay cả nói chuyện với chính mình. William nhì thấy cô bện tóc, nhẩy múa và đuổi chim bồ câu ra khỏi tường thành như một đứa nhỏ. Bí mật quan sát cô làm những chuyện riêng tư như vậy, William cảm thấy một cảm giác quyền lực trên cô, một cảm giác cho cậu sự thích thú.
Dĩ nhiên cô không thể xuất hiện, bao lâu vị giám mục và tu sĩ còn ở đây. May mắn là họ không ở lâu. Họ rời thành lũy nhanh chóng và vài phút sau cùng với đoàn tùy tùng cưỡi ngựa ra khỏi lâu đài. Họ đến đây để chỉ ngắm phong cảnh từ thành lũy? Nếu chỉ có vậy, một phần nào họ đã thất vọng vì thời tiết xấu.
Người quản lý đã ra lấy củi cho lò sưởi trước đó, trước khi các khách đến thăm. Ông nấu ăn trong pháo đài. Chẳng bao lâu sau ông lại ra lấy nước ở giếng. William đoán họ ăn cháo vì họ không có lò để nướng bánh. Trễ hơn trong ngày, người quả lý sẽ rời lâu đài, một đôi khi ông mang theo cậu nhỏ. Một khi họ đã đi thì việc Aliena xuất hiện chỉ còn là vấn đề thời gian.
Khi cậu chán nản vì chờ đợi, William sẽ nhớ lại cảnh cô tắm. Hình ảnh trong ký ức gần như ảnh thật. Nhưng hôm nay cậu không an tâm. Chuyến viếng thăm của giám mục và tu viện trưởng dường như làm mất đi bầu khí. Cho đến nay luôn có một bầu khí mê hoặc về lâu đài và ba cư dân sống trong đó, nhưng sự xuất hiện của những người này trên những con ngựa vấy bùn của họ đã bẻ gẫy sức quyến rũ của nó. Nó giống như một giấc mơ tuyệt vời giữa đêm bị quấy rầy bởi tiếng động: cố gắng bao nhiêu có thể, cậu vẫn không ngủ mê lại được.
Cậu cố gắng đoán những gì các vị khách dự định, nhưng cậu không hiểu được. Cậu chắc chắn một điều là họ đang âm mưu chuyện gì đó. Có một người có thể giải được: mẹ cậu. Cậu quyết định bỏ theo dõi Aliena và về nhà báo cho mẹ những gì cậu nhìn thấy.
Họ đến Winchester vào chiều tối ngày hôm sau. Họ vào qua cửa thành, bên bức tường phía nam của thành phố, và đi ngay đến sân nhà thờ chính tòa. Ở đây họ chia tay nhau. Waleran đến tòa giám mục của Winchester, một dinh thự trên khu đất gần sân nhà thờ chính tòa. Philip đến chào tu viện trưởng và xin một tấm nệm trong nhà ngủ tu sĩ.
Sau ba ngày trên đường, Philip thấy sự bình an và yên tĩnh của tu viện làm ông tươi tỉnh lại như một dòng nước trong ngày nóng nực. Tu viện trưởng Winchester là một người đầy đặn, dễ tính với làn da hồng và mái tóc bạc. Ông mời Philip ăn tối với ông trong nhà ông. Trong khi ăn, họ nói chuyện về giám mục của mình. Tu viện trưởng Winchester rõ ràng là người kính sợ Giám mục Henry và tùy thuộc vào ông. Philip nghĩ rằng, tranh cãi với một giám mục, người giầu có và quyền lực như Henry, chẳng mang lại kết quả gì. Cũng vậy, Philip không muuốn bị điều hành quá nhiều bởi giám mục của ông.
Ông ngủ sâu và thức dậy giữa đêm cho giờ kinh đêm. Khi ông bước chân vào nhà thờ chính tòa Winchester, đây là lần đầu tiên, ông cảm thấy như bị đe dọa.
Tu viện trưởng đã nói với ông rằng đây là nhà thờ lớn nhất thế giới, và khi thấy, ông tin điều đó là sự thật.
Nhà thờ dài gần một dặm: Philip đã gặp những làng có thể đặt vào trong đó. Nó có hai tháp cao, một ở trên khu trung tâm và một cái khác ở cuối phía tây. Tháp ở giữa đã bị sập đổ cách đây ba mươi năm trên mộ của William Rufus, một vị vua không tin Chúa, và có lẽ không nên được chôn ở đây; nhưng nó đã được xây dựng lại. Đứng ngay bên dưới tháp mới hát kinh sáng, Philip cảm thấy toàn thể tòa nhà có một bầu khí xứng đáng và mạnh mẽ. So sánh với nhà thờ này, nhà thờ chính tòa do Tom thiết kế rất khiêm tốn – nếu nó được xây. Ông nhận ra rằng ông đang ở trong vòng cao nhất của những người quyền thế trong nước, và ông thấy lo âu. Ông chỉ là một cậu bé từ ngôi làng đồi Welsh, người đã may mắn trở thành tu sĩ. Hôm nay ông sẽ nói chuyện với nhà vua. Làm sao ông lại có quyền đó?
Ông trở lại nhà ngủ với các tu sĩ khác, nhưng ông thức và lo nghĩ. Ông sợ mình có thể nói hay làm điều gì đó xúc phạm đến vua Stephen hoặc Giám mục Henry và khiến họ chống lại Kingsbridge. Những người sinh ra ở Pháp thường chế nhạo người Anh về cách nói của họ: Họ sẽ nghĩ sao về giọng nói của người Welsh? Trong thế giới của tu viện, người ta đánh giá Philip theo tiêu chuẩn: đạo đức, vâng lời và sự nhiệt thành cho công việc của Chúa. Những tiêu chuẩn này không có giá trị gì ở đây, giữa lòng thủ đô của một vương quốc lớn nhất thế giới. Ông cảm thấy như mất đi chiều sâu của mình. Ông bị áp lực vì cảm thấy rằng một cách nào đó mình là kẻ mạo danh, một người không là gì trở thành một người nào đó, và với thời gian sẽ bị khám phá ra và sẽ bị đuổi về trong nhục nhã.
Ông thức dậy vào lúc bình minh, tham dự giờ kinh sáng, rồi dùng bữa sáng trong phòng ăn. Các tu sĩ có bia mạnh và bánh mì trắng: đây là một tu viện thịnh vượng. Sau ăn sáng, khi các tu sĩ đi vào nhà nguyện, Philip đi bộ tới dinh thự giám mục, một tòa nhà bằng đá đẹp với cửa sổ lớn, trong một khu đất rộng có tường bao quanh.
Waleran tin tưởng sự ủng hộ của Giám mục Henry về dự án táo bạo của ông. Henry rất có thế lực đến nỗi ông có thể cho mọi việc có thể. Ông là Henry thành Blois, em trai của vua. Ông vừa là một giáo sĩ có quan hệ tốt nhất với hoàng gia, lại là người giầu nhất vì ông là viện phụ của tu viện giầu có Glastonbury. Ông có triển vọng thành tổng giám mục của Canterbury. Kingsbridge không thể có được một đồng minh mạnh mẽ hơn. Có thể nó sẽ thực sự xẩy ra, Philip nghĩ; có thể vua sẽ giúp chúng ta có khả năng xây nhà thờ mới. Khi ông nghĩ về nó, trái tim ông như nổ tung vì hy vọng. Người quản gia nói với Philip rằng Giám mục Henry sẽ chỉ tiếp khách trước giữa trưa. Philip quá hồi hộp để trở về tu viện. Cảm thấy thiếu kiên nhẫn, ông đi xem thành phố lớn nhất mà ông chưa bao giờ được thấy.
Tòa giám mục nằm ở góc đông nam của thành phố. Philip đi theo bức tường phía đông, ngang qua khu đất của một tu viện khác, tu viện St. Mary, vào trong khu phố dường như dành cho đồ da và len. Khu vực có những dòng nước nhỏ chằng chịt. Nhìn kỹ, Philip nhận ra chúng không phải tự nhiên mà là các kênh nhân tạo, chia nhánh dòng sông Itchen để chẩy qua các đường phố và cung cấp số lượng lớn cần thiết cho thuộc da và giặt lông cừu. Các khu kỹ nghệ tương tự thường được xây dựng bên dòng sông, và Philip ngạc nhiên vì sự táo bạo của con người, những người đã dám đem nước từ dòng sông đến xưởng việc của họ - thay vì ngược lại.
Dù có kỹ nghệ, thị trấn vẫn yên tĩnh và ít đông đúc hơn bất cứ thị trấn nào Philip đã đi qua. Những nơi như Salisbury hay Hefold dường như bị bó kín trong các bức tường, giống như một người mập trong chiếc áo dài: những căn nhà quá gần nhau, sân sau quá nhỏ, khu chợ quá đông đúc, đường sá quá chật hẹp; và người và súc vật như tranh giành nhau chỗ ở, tạo nên cảm giác như một cuộc chiến có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Nhưng Winchester rộng rãi, dường như đủ chỗ cho mọi người. Khi đi xung quanh, Philip dần dần nhận ra một phần nguyên do của cảm giác rộng rãi này là vì các đường phố được sắp xếp theo mô hình giống như lưới sắt vuông. Các đường phố hầu hết thẳng đứng và giao nhau ở góc bên phải. Ông chưa bao giờ thấy như vậy. Thị trấn được xây theo một dự án. Có hàng chục nhà thờ, đủ kiểu và kích thước khác nhau. Một vài cái được xây bằng gỗ, những cái khác bằng đá, mỗi cái phục vụ cho nhu cầu riêng của từng khu phố nhỏ. Thành phố chắc phải giầu có để trợ cấp cho nhiều linh mục.
Đi dọc theo đường Fleshmonger, ông cảm thấy muốn bệnh. Chưa bao giờ ông nhìn thấy quá nhiều thịt sống trong một chỗ như thế này. Máu chẩy ra từ cửa hàng thịt xuống đường, những con chuột mập mạp chạy qua chân khách hàng.
Phía cuối nam của con đường Fleshmonger dẫn vào giữa đường High Street, đối diện với dinh thự hoàng gia cũ. Các vua đã không sử dụng dinh thự này từ khi pháo đài mới được xây trong lâu đài, Philip đã nghe nói như vậy, nhưng những đồng tiền xu của hoàng gia vẫn được đúc trong tầng hầm của tòa nhà, được bao bọc bởi tường dầy và cửa sắt. Philip đứng lại một lúc trước song sắt, nhìn những tia lửa tung tóe khi chiếc búa đập xuống khuôn. Ông kinh hoàng về sự giầu có trước mắt mình.
Một số đông người khác cũng đứng trước cửa xem. Không nghi ngờ gì, đó là một cảnh mà khách đến Winchester đều muốn coi. Một phụ nữ trẻ đứng bên cạnh mỉm cười với Philip, và ông cười lại. Cô nói: “Với một đồng xu, bạn có thể làm bất cứ gì bạn muốn.”
Ông tự hỏi không biết cô ta muốn nói gì và ông thờ ơ mỉm cười lại. Rồi cô ta mở áo choàng, và ông kinh hoàng thấy rằng dưới áo choàng cô ta hoàn toàn khỏa thân. “Bất cứ điều gì bạn muốn, chỉ một xu bạc thôi,” cô nói.
Ông cảm thấy một khuấy động nhẹ của mong muốn, giống như bóng ma của trí nhớ đã lâu ngày bị quên lãng; rồi ông nhận ra cô là một gái điếm. Ông đỏ mặt vì bối rối. Ông quay lại và vội vã bỏ đi. “Đừng sợ,” cô gọi theo. “Tôi thích một đầu trọc.” Tiếng cười chế nhạo đuổi theo ông.
Cảm thấy nóng và bực bội, ông rẽ xuống đường hẻm dẫn ra chợ. Ông có thể thấy đàng sau quầy hàng tháp nhà thờ vút cao. Ông vội vã xuyên qua đám đông, bỏ ngoài tai tiếng chào hàng, và tìm đường vào sân nhà thờ.
Ông cảm thấy sự yên lặng trật tự của nhà thờ giống như một cơn gió mát. Ông dừng lại bên nghĩa trang và tập trung lại tư tưởng. Ông cảm thấy xấu hổ và tức giận. Làm sao cô ta dám thử thách một người trong tu phục tu sĩ? Rõ ràng cô ta cho rằng ông là một du khách… Có phải những tu sĩ khi ra khỏi tu viện là khách hàng của cô? Dĩ nhiên, nó có thể, ông nhận ra. Các tu sĩ cũng phạm các tội mà người bình thường phạm. Ông bị sốc vì sự trơ tráo cả người phụ nữ. Hình ảnh sự trần truồng vẫn tồn tại trong ông, giống như ngọn bấc của một cây nến, nó có thể bốc cháy đàng sau đôi mắt khép kín.
Ông thở dài. Đó là một buổi sáng đầy hình ảnh: con kênh nhân tạo, con chuột trong cửa hàng thịt, đống bạc xu mới đúc, người phụ nữ trần truồng. Philip biết rằng những hình ảnh này sẽ trở lại với ông trong giờ suy niệm.
Ông đi vào nhà thờ chính tòa. Ông cảm thấy quá bẩn thỉu để quỳ gối cầu nguyện, nhưng chỉ cần đi dọc xuống gian giữa cũng có thể gột rửa ông đôi chút. Ông ra cửa phía nam, xuyên qua tu viện đến dinh thự giám mục.
Tầng trệt là một nhà nguyện. Philip lên cầu thang tới hội trường và bước vào. Một đám nhỏ người giúp việc và giáo sĩ trẻ ở gần cửa ra vào, đứng xung quanh hoặc ngồi trên ghế băng sát tường. Ở cuối phòng Waleran và Giám mục Henry đang ngồi ở một cái bàn. Người quản gia nói: “Giám mục đang ăn sáng,” như thể ông ta muốn ngăn ông không được gặp họ.
“Tôi sẽ cùng bàn với họ,” Philip nói.
“Tốt hơn ông nên đợi,” người quản gia nói.
Philip cho rằng người quản gia nghĩ ông chỉ là một tu sĩ bình thường. “Tôi là tu viện trưởng của Kingsbridge,” ông nói.
Người quản gia nhún vai và đứng qua một bên. Philip đến bàn ăn. Gám mục Henry ngồi ở đầu, Waleran bên tay phải của ông. Henry là một người thấp, vai rộng, khuôn mặt hay gây gỗ. Ông trạc tuổi như Waleran, một hai tuổi lớn hơn Philip; chưa ngoài ba mươi. Tuy nhiên, trái ngược với làn da trắng bệch của Waleran và thân hình gầy gò của Philip, Henry có nước da hồng hào, chân tay mập mạp, chứng tỏ ông là người thích ăn uống. Mắt ông tỉnh táo và thông minh, khuôn mặt ông nói lên tính quyết định. Là người trẻ nhất trong bốn anh em, có lẽ ông đã phải tranh đấu cho mọi thứ trong đời ông. Philip ngạc nhiên vì đầu ông trọc, một dấu hiệu cho thấy ông đã sống trong tu viện và vẫn coi mình là một tu sĩ. Tuy nhiên, ông không mặc vải thô, mà ông mặc áo dài đẹp nhất làm bằng lụa màu tím.
Waleran mặc một áo sơ mi lụa trắng dưới lớp áo dài đen, và Philip nhận ra rằng cả hai đều ăn mặc chuẩn bị cho buổi tiếp kiến với nhà vua. Họ ăn thịt bò nguội và uống rượu đỏ. Philip đói bụng sau cuộc đi bộ, miệng ông đầy nước. Waleran nhìn lên thấy Philip và một nét khó chịu nhẹ hiện trên mặt ông.
“Xin kính chào,” Philip nói.
Waleran nói với Henry: “Đây là tu viện trưởng của tôi.”
Philip không hài lòng lắm vì được gới thiệu là tu viện trưởng của Waleran.
Ông nói: “Philip thành Gwyned, tu viện trưởng của Kingsbridge, thưa giám mục.”
Philip dự định hôn nhẫn giám mục, nhưng Henry chỉ nói: “Thật tuyệt!” và đưa lên miệng một miếng thịt bò. Philip đứng đó lúng túng không biết phải xử thế làm sao. Họ không mời ông ngồi sao?
Waleran nói: “Chúng tôi sẽ gặp ông sau, Philip.”
Philip nhận ra là ông bị từ chối. Ông quay đi, cảm thấy bị bẽ mặt. Ông trở lại nhóm đứng gần cửa. Người quản gia, người đã cố ngăn Philip lại, cười với ông bằng một cái nhìn như muốn nói “tôi đã bảo rồi mà.” Philip đứng xa những người khác. Chợt ông cảm thấy xấu hổ về chiếc áo choàng màu nâu ông đã mặc ngày mặc đêm trong nửa năm qua. Các tu sĩ dòng Biển Đức thường nhuộm tu phục màu đen, nhưng từ nhiều năm nay Kingsbridge đã bỏ thói quen đó vì tiết kiệm tiền. Philip luôn tin rằng mặc quần áo đẹp là xa hoa, không thích hợp với những người dâng mình cho Chúa, ngay cả ở trong địa vị nào; nhưng bây giờ ông nhìn ra vấn đề. Có lẽ nếu ông đến trong quần áo lụa và lông thú, ông sẽ không bị ngược đãi như hôm nay. À, tốt, ông nghĩ, một tu sĩ phải khiêm nhường, vì thế mà nó tốt cho linh hồn tôi.
Hai giám mục rời bàn ăn và đến bên cửa. Một người tùy tùng chuẩn bị cho Henry một chiếc áo choàng màu đỏ có thêu và đường viền bằng lụa. Khi ông mặc áo, Henry nói: “Hôm nay ông không phải nói nhiều, Philip.”
Waleran thêm vào: “Hãy để chúng tôi nói.”
Henry nói: “Hãy để tôi nói,” ông nhấn mạnh trên chữ ‘tôi’. “Nếu vua hỏi ông, hãy trả lời rõ ràng và đừng phóng đại sự kiện. Nhà vua biết nhu cầu ông muốn có nhà nhờ mới mà không cần ông phải rên la hay nghiến răng.”
Philip không cần phải dặn điều đó. Tuy nhiên Philip gật đầu đồng ý và che dấu sự phẫn uất của mình.
“Chúng ta đi thôi,” Henry nói. “Anh tôi dậy sớm, và xử lý nhanh chóng công việc, sau đó đi săn bắn trong rừng.”
Họ đi ra. Một kỵ binh mang một thanh gươm ngang lưng, trên tay cầm một cây gậy đi trước Henry khi họ đi bộ tới High Street và rồi lên đồi theo hướng cổng phía tây. Người ta đứng qua hai bên cho hai giám mục đi qua, nhưng không nhường chỗ cho Philip, vì thế ông lẽo đẽo theo sau. Lâu lâu có người xin phép lành và Henry làm dấu thánh giá trên không, nhưng không dừng bước. Đến trước cổng nhà họ đi sang đường bên cạnh và qua cây cầu gỗ bắt ngang thành hào. Mặc dù được bảo đảm rằng ông không phải nói nhiều, Philip vẫn có một nỗi sợ trong lòng: ông sắp được gặp vua.
Lâu đài ở góc phía tây nam của thành phố. Tường phía tây và nam của nó là một phần tường của thành phố. Nhưng bức tường chia cách phía sau lâu đài và thành phố cũng không kém cao và chắc chắn so với tường phòng thủ bên ngoài, như thể nhà vua cần được bảo vệ trước thế giới bên ngoài cũng như trước các công dân của mình.
Họ đi vào qua cổng thấp và đến ngay pháo đài kiên cố trội hẳn lên giữa khu vực lâu đài. Nó là một tháp hình vuông. Đếm các lỗ châu mai, Philip nghĩ nó phải cao bốn tầng. Như thông thường, tầng trệt bao gồm nhà kho, một cầu thang bên ngoài dẫn đến lối vào tầng trên. Hai người lính gác dưới chân cầu thang cúi chào khi Henry đi qua.
Họ đi vào hội trường. Hội trường có nền trải thảm, có một lò sưởi, một vài ghế băng và vài chỗ ngồi được khoét trong tường. Trong góc, hai binh sĩ gác cầu thang dẫn lên lầu. Một người nhận ngay ra giám mục Henry. Ông gật đầu và lên cầu thang, có lẽ báo tin cho vua là em vua đang đợi.
Philip toát mồ hôi vì lo âu. Trong vài phút nữa tương lai ông sẽ được định đoạt. Ông ước gì có thể tin tưởng hơn vào những người đồng minh của mình, và ước gì buổi sáng nay đã quỳ cầu nguyện cho sự thành công của mình thay vì đi dạo phố Winchester. Ông ước gì đã mặc một chiếc áo sạch sẽ hơn.
Có hai mươi hay ba mươi người khác tr