← Quay lại trang sách

Chương 4 (C)

III - Jack thức dậy khi gà gáy cúc cu đầu tiên. Cậu mở mắt ra và thấy Tom dậy. Cậu vẫn nằm lắng nghe Tom đái trên mặt đất trước cửa. Cậu muốn mò đến chỗ ấm áp Tom đã để lại và ôm mẹ, nhưng cậu biết nếu Alfred nhìn thấy cậu ấy sẽ cười cậu chết, vì thế cậu ở lại chỗ cũ. Tom trở lại và đánh thức Alfred dậy.

Tom và Alfred uống phần bia còn lại từ bữa tối hôm trước và ăn bánh cũ, rồi họ đi làm. Một số bánh còn dư, và Jack hy vọng hôm nay họ sẽ để lại, nhưng cậu thất vọng: Như thường lệ, Alfred đã đem theo.

Alfred làm việc cả ngày bên cạnh Tom. Jack và mẹ một đôi khi đi vào rừng. Mẹ đặt bẫy, trong khi Jack săn vịt bằng ná cao su. Bất cứ thứ gì họ bắt được, họ đem bán cho dân làng hoặc quản lý Cuthbert. Đây là nguồn tiền mặt duy nhất, vì Tom không được trả lương. Với số tiền này họ mua quần áo, da hay mỡ để làm nến. Vào những ngày họ không vào rừng, mẹ sẽ đóng giầy, may quần áo, làm nến hay mũ, trong khi Jack và Martha chơi với trẻ em trong làng. Vào chủ nhật, sau thánh lễ, Tom và bà mẹ thường hay ngồi nói chuyện bên lò sưởi. Một đôi khi họ bắt đầu hôn nhau, và Tom đưa tay vào trong váy của mẹ, rồi họ đuổi các đứa trẻ ra ngoài và khóa cửa lại. Đây là thời điểm xấu nhất trong tuần, vì Alfred tỏ vẻ khó chịu và đổ sự nóng giận của cậu lên hai đứa trẻ.

Hôm nay là ngày thường, và Alfed sẽ bận rộn từ sáng đến tối. Jack thức dậy và đi ra ngoài. Trời lạnh nhưng khô. Một lúc sau Martha cũng ra. Khuôn viên nhà thờ đổ nát đã đầy người, họ khênh đá, xúc gạch vụn qua hai bên, dùng gỗ chống lại các bức tường và phá hủy những cái không còn sử dụng được.

Mọi người, kể cả các tu sĩ và dân làng, đều đồng ý là ma quỷ đã đốt nhà thờ, vì thế mà Jack trong một thời gia dài đã quên rằng chính cậu là người châm lửa. Khi cậu nhớ lại chính cậu là người châm lửa, cậu cảm thấy hài lòng với chính cậu. Cậu đã dám mạo hiểm và cứu gia đình khỏi chết đói.

Các tu sĩ sẽ ăn sáng trước, và người lao động phải chờ cho đến khi các tu sĩ đi vào nhà họp. Đó là thời gian chờ đợi lâu dài đối với Jack và Martha. Jack thường đói bụng khi ngủ dậy và không khí lạnh buổi sáng làm tăng thêm sự thèm ăn của cậu.

“Chúng ta hãy đến sân nhà bếp,” Jack nói. Những người giúp việc trong bếp có thể cho chúng ta ít bánh vụn. Martha đồng ý ngay: Cô luôn coi Jack là người tuyệt vời và luôn đồng ý với những gì Jack đề nghị.

Khi chúng đến khu nhà bếp, chúng gặp thầy Bernard, người phụ trách lò bánh. Bởi vì những người giúp việc đang làm việc bên ngoài, nên ông phải tự đi lấy củi. Ông còn trẻ, nhưng mập. Ông thở hổn hển và đổ mồ hôi vì gánh nặng của bó củi. “Chúng con sẽ lấy củi giúp thầy,” Jack đề nghị.

Bernard ném củi xuống bên cạnh lò nấu và đưa cho Jack chiếc giỏ rộng. “Trên đời còn có những đứa trẻ tốt,” ông thở hổn hển. “Chúa chúc lành cho các con.”

Jack cầm giỏ và cả hai chạy đến đống củi đàng sau nhà bếp. Chúng xếp gỗ đầy giỏ và khiêng giỏ về.

Khi chúng trở về, lò đã nóng, và Bernard đổ giỏ của chúng trực tiếp vào lửa và sai chúng đi lấy thêm. Tay Jack bị đau nhưng bao tử của cậu còn đau hơn, và cậu vội vã lấy đầy một rổ nữa.

Lần thứ hai, khi chúng trở lại, Bernard đang xếp bánh lên một cái khay. “Hãy lấy cho thầy một giỏ củi nữa, và các con sẽ có bánh nóng,” ông nói. Miệng Jack đầy nước.

Lần thứ ba chúng xếp đầy giỏ, cao hơn những lần trước và lảo đảo đi về, mỗi đứa cầm một tay nắm. Vừa khi chúng đến sân, chúng gặp Alfred đi với một cái xô, có lẽ trên đường đi lấy nước từ con rạch chẩy từ hồ xay lúa ngang qua sân cỏ trước khi biến mất dưới lòng đất của nhà máy bia. Alfred ghét Jack nhất là từ khi cậu cho con chim chết vào trong ly bia của cậu ấy. Thông thường khi nhìn thấy Alfred, Jack sẽ tránh và tìm lối khác đi. Bây giờ cậu tự hỏi có nên đặt giỏ xuống và chạy không, nhưng điều đó có vẻ hèn nhát, ngoài ra cậu có thể ngửi thấy mùi bánh mới từ lò, và cậu đói cồn cào; vì thế cậu nắm chặt chiếc giỏ đi tiếp mà trái tim đập thình thịch.

Alfred cười chúng, cả hai khiêng một trọng lượng mà mình cậu có thể bê được dễ dàng. Chúng tránh xa cậu một vòng, nhưng cậu đi về phía chúng và đẩy Jack ngã xuống. Jack ngã mạnh xuống đất, và cảm thấy đau nơi xương sống. Giỏ đổ nghiêng và củi vương vãi. Nước mắt cậu chẩy ra, vì tức giận chứ không phải vì đau đớn. Nó không đẹp khi Alfred làm chuyện đó rồi bỏ đi, trong khi chúng không trêu ghẹo cậu. Jack chỗi dậy, kiên nhẫn nhặt củi vào giỏ, và làm ra vẻ không có gì để Martha khỏi phải lo lắng. Chúng cầm giỏ lên và tiếp tục đi vào lò bánh.

Ở đó chúng có phần thưởng của chúng. Khay bánh được để cho nguội trên một kệ đá. Khi chúng vào, Bernard lấy một cái cho vào miệng, rồi nói: “Rất ngon. Tự lấy mà ăn. Nhưng coi chừng, nó còn nóng lắm đấy.”

Jack và Martha mỗi người lấy một nắm. Jack cắn cẩn thận, sợ nóng miệng, nhưng nó ngon quá đến nỗi cậu ăn hết luôn một lúc. Cậu nhìn vào những miếng bánh còn lại. Còn lại chín cái. Cậu liếc nhìn thầy Bernard, người đang cười với cậu. “Thầy biết con muốn gì,” vị tu sĩ nói. “Tiếp tục đi, lấy nhiều vào.”

Jack nâng vạt áo choàng và quấn phần còn lại vào trong đó. “Chúng ta đem về cho mẹ,” cậu nói với Martha.

“Con là đứa trẻ tốt,” Bernard nói. “Vậy, đi thôi!”

“Cám ơn thầy,” Jack nói.

Chúng rời lò bánh và đi thẳng về nhà khách. Jack hào hứng. Mẹ cậu sẽ hài lòng với cậu. Cậu bị cám dỗ ăn một cái bánh nữa trước khi đưa cho mẹ, nhưng cậu chống lại nó: Nó sẽ rất đẹp nếu biếu mẹ tất cả nhiều như vậy.

Khi chúng đi qua sân cỏ, chúng lại gặp Alfred.

Có lẽ cậu đã lấy đầy xô nước rồi đi đổ nó, và bây giờ cậu quay lại để lấy thêm. Jack quyết định tỏ vẻ lãnh đạm và hy vọng Alfred sẽ bỏ qua cho cậu. Nhưng cách cậu mang bánh, quấn nó trong vạt áo choàng, không thể che dấu được; và Alfred quay về phía chúng.

Jack sẽ sẵn sàng cho cậu một cái, nhưng cậu biết Alfred sẽ lấy tất cả khi anh ấy có cơ hội. Jack bật chạy.

Alfred đuổi theo và chẳng bao lâu bắt kịp cậu. Alfred dơ một chân ra cản Jack, và Jack ngã bay xuống. Bánh nóng nằm rải rác khắp mặt đất.

Alfred nhặt lên một cái, lau đất bám trên nó và đưa vào miệng. Mắt anh ấy mở to vì ngạc nhiên. “Bánh mới!” anh ấy nói, rồi bắt đầu nhặt những cái khác.

Jack tranh chân, cố gắng lấy một trong những chiếc bánh rơi, nhưng Alfred đánh cậu với cả bàn tay một cách mạnh mẽ khiến cậu ngã xuống một lần nữa. Alfred vội vàng vơ phần bánh còn lại, rồi đi, miệng nhai ngấu nghiến. Jack bật khóc.

Martha nhìn thông cảm, nhưng Jack không muốn sự thông cảm: cậu đã chịu quá nhiều sỉ nhục. Cậu bỏ đi, khi Martha theo sau, cậu quay lại và nói: “Đi chỗ khác!” Cô đau đớn, nhưng cô dừng lại và để cậu đi.

Cậu đi về phía đống đổ nát, lau khô nước mắt bằng vạt áo dài. Trong trái tim cậu có tư tưởng giết người. Tôi đã phá hủy nhà thờ chính tòa, cậu nghĩ; tôi có thể giết Alfred.

Khu vực xung quanh chỗ đổ nát đã được dọn và quét sạch. Một vài quan chức trong giáo hội sẽ đến khảo sát sự thiệt hại, Jack nhớ lại.

Alfred có ưu thế về thể lực: cậu có thể làm gì cậu muốn vì cậu rất to lớn. Jack đi quanh một lúc, tức giận, ước gì Alfred ở trong nhà thờ này khi những viên đá đổ xuống.

Sau cùng cậu thấy Alfred. Cậu ấy ở trong gian phụ phía bắc, hốt đá vụn vào giỏ, và cậu ấy bám đầy bụi. Gần giỏ là một xà ngang của mái nhà còn lại hầu như không bị hư hại, chỉ bị cháy xém và đen vì hắc ín. Jack dùng ngón tay chà lên bề mặt của thang gỗ, nó để lại một đường màu trắng. Bị cảm hứng, Jack viết lên thanh gỗ: “Alfred là một con heo.”

Một vài nhân công để ý đến. Họ ngạc nhiên là Jack biết viết. Một thanh niên trẻ hỏi: “Cậu viết gì vậy?”

“Hãy hỏi Alfred,” Jack trả lời.

Alfred nhìn vào bảng viết và khó chịu. Cậu ấy có thể đọc được tên mình, Jack biết điều đó, nhưng không đọc được phần còn lại. Cậu ấy nổi giận. Cậu biết cậu bị xúc phạm, nhưng cậu không biết bị xúc phạm như thế nào, và đó là sự nhục nhã. Cậu trông có vẻ ngu ngốc. Sự tức giận của Jack đã dịu đi. Alfred to con hơn, nhưng Jack thông minh hơn.

Không người nào biết những chữ đó có nghĩa gì. Rồi một tập sinh đi qua, đọc hàng chữ, mỉm cười. “Alfred là ai?” Cậu ấy hỏi.

“Anh đó,” Jack nói và dùng ngón cái chỉ. Alfred giận dữ, nhưng cậu không biết phải làm gì, vì thế cậu ấy đứng dựa vào cái xẻng, nhìn khờ dại.

Anh tập sinh cười. “Một con heo! Ê! Anh đang đào gì – hạt sồi chăng?” Anh ấy nói.

“Chắc vậy!” Jack hào hứng nói, để có một đồng minh.

Alfred ném chiếc xẻng và túm lấy Jack.

Jack đã chuẩn bị, và lao đi như mũi tên từ một cây cung. Người tập sinh đưa một chân ra ngáng chân Jack – có lẽ vì muốn cân bằng hai phía – nhưng Jack nhanh nhẹ nhẩy qua. Cậu chạy dọc theo nơi trước đây là thánh điện, chạy xung quanh đống đá đổ nát và nhẩy qua những xà ngang trên mặt đất. Cậu có thể nghe thấy tiếng chân và hơi thở nặng nề của Alfred ngay phía sau, và sự sợ hãi tăng thêm tốc độ cho cậu.

Một lúc sau cậu nhận ra cậu đã chạy sai đường. Cuối nhà thờ không có đường ra. Cậu đã sai lầm. Cậu nhận ra, với trái tim ủ rũ, rằng lần này cậu sẽ bị đau lắm.

Nửa bức tường cuối phía đông đã bị đổ, và những tảng đá được xếp chồng lên đỡ phần còn lại của bức tường. Không còn cách nào khác, cậu đành trèo lên đống đá. Lên đến đỉnh đống đá, cậu thấy trước mặt là một vực thẳm cao khoảng năm mét. Cậu đứng chênh vênh bên bờ vực. Nó quá cao để nhẩy xuống mà không bị thương tích. Alfred chụp lấy cổ chân cậu và cậu mất thăng bằng. Cậu đứng một chân trên tường, một chân trên không, hai tay quẫy mạnh để lấy lại thế đứng. Alfred giữ chặt cổ chân cậu, rồi bất ngờ thả ra. Jack rơi xuống, không còn có thể điều khiển được thế rơi, và cậu nghe thấy mình hét lên. Phía bên trái cậu đập xuống đất, mặt cậu không may mắn đập vào một hòn đá.

Trong mắt cậu, bầu trời như tối lại.

Khi cậu mở mắt ra, Alfred đứng trên cậu – chắc cậu ấy phải tìm ra được một lối xuống. Bên cạnh cậu ấy là một vị tu sĩ lớn tuổi. Jack biết ông; đó là Remigius, tu viện phó. Remigius nhìn cậu và nói: “Đứng lên, cậu bé!”

Jack không biết mình có thể đứng lên được không. Cậu không thể cử động phía tay trái. Mặt cậu phía trái đã bị tê liệt. Cậu nghĩ cậu sẽ chết, nhưng ngạc nhiên thay, cậu có thể cử động. Dùng cánh tay phải đẩy mình lên, cậu phải vật lộn với đau đớn mới đứng lên được, đặt tất cả trọng lượng vào chân phải. Khi sự tê dại qua đi, cậu cảm thấy đau.

Remigius cầm cánh tay trái của cậu. Jack kêu lên vì đau. Remigius bỏ cậu và nắm tai Alfed. Có lẽ ông sẽ có hình phạt kinh khủng cho cả hai, Jack nghĩ. Nhưng Jack đau quá không còn muốn quan tâm đến điều đó.

Remigius nói với Alfred. “Nào, cậu nhỏ, tại sao em lại giết em trai của em?”

“Nó không phải là em của em,” Alfred nói.

Nét mặt Remigius thay đổi. “Không phải em trai của em?” ông nói. “Các em không có chung cha và mẹ sao?”

“Bà ấy không phải là mẹ em, Alfred nói. “Mẹ em đã chết.”

Một cái nhìn xảo quyệt hiện ra trên khuôn mặt ông. “Mẹ em chết khi nào?”

“Vào lễ Giáng sinh.”

“Lễ Giáng sinh vừa qua?”

“Vâng.”

Mặc dù đau đớn, Jack vẫn có thể nhìn ra Remigius rất quan tâm về vấn đề này vì lý do nào đó. Giọng nói của vị tu sĩ run lên vì kinh ngạc khi ông nói: “Vì thế bố của em chỉ gặp mẹ của cậu bé này mới đây thôi?”

“Vâng.”

“Và từ khi họ… ở chung với nhau, họ có gặp linh mục và làm phép cưới không?”

“Uh… Em không biết.” Alfred không hiểu ‘phép cưới’ là gì, Jack có thể nói điều đó. Chính cậu cũng không hiểu.

Remigius sốt ruột nói: “Họ có làm đám cưới không?”

“Không.”

“Tôi hiểu.” Dường như Remigius hài lòng với câu trả lời này, mặc dù Jack đã nghĩ khác. Vị tu sĩ nghĩ một lúc lâu, không nói lời nào, rồi như nhớ tới hai cậu bé, ông nói: “Tốt, nếu các em muốn ở trong khu tu viện và ăn bánh của các tu sĩ, các em không được đánh nhau, ngay cả khi các em không là anh em ruột với nhau. Chúng tôi, những người con của Chúa, không muốn nhìn thấy đổ máu – đó là một trong những lý do tại sao chúng tôi sống một cuộc sống xa lìa thế giới.” Với lời phát biểu ngắn gọn này, Remigius cho hai đứa trẻ tự do và quay đi. Và Jack có thể chạy về với mẹ.

Nó kéo dài ba tuần, thay vì hai tuần, nhưng Tom đã chuẩn bị tầng hầm sẵn sàng như một nhà thờ tạm thời, và hôm nay giám mục đề cử sẽ đến cử hành thánh lễ đầu tiên trong đó. Tu viện đã dọn sạch đống đổ nát, và Tom đã sửa chữa những phần hư hỏng: Hành lang tu viện là một kiến trúc đơn giản, nó chỉ là một đường đi với mái che, vì thế mà công việc sửa sang dễ dàng. Hầu hết phần còn lại của nhà thờ chỉ là đống đổ nát, một số bức tường còn lại nhưng có nguy cơ sụp xuống, nhưng Tom đã dọn sạch một đường đi xuyên qua gian phụ phía nam tới cầu thang tầng hầm.

Tom nhìn quanh. Tầng hầm có diện tích đủ lớn, khoảng năm mươi mét vuông, đủ cho các buổi đọc kinh của các tu sĩ. Nó là một căn phòng khá tối, với hàng cột nặng và một mái vòm thấp, nhưng nó được xây chắc chắn, đó là lý do tại sao nó sống sót qua cơn hỏa hoạn. Họ đem đến một cái bàn để làm bàn thờ, và những băng ghế từ phòng ăn làm ghế ngồi cho các tu sĩ. Khi người phụ trách phụng vụ đem đến khăn thêu phủ bàn thờ và chân nến trạm đá quý, nó trông tuyệt vời.

Khi công việc trở lại bình thường, nhân công của Tom cũng giảm đi. Hầu hết các tu sĩ sẽ trở về với đời sống cầu nguyện của họ, và nhiều người làm công việc chân tay sẽ trở về công việc đồng áng và hành chính của tu viện. Tuy nhiên, Tom vẫn có nửa số công nhân trong tu viện làm việc với ông. Tu viện trưởng Philip đã thi hành một cải tổ mạnh mẽ số công nhân phục vụ trong tu viện, ông cảm thấy số nhân công quá đông. Nếu có ai không sẵn sàng chuyển công việc của họ như giữ ngựa hoặc phụ bếp, ông sẵn sàng đuổi họ. Một vài người đã đi, nhưng hầu hết còn ở lại.

Tu viện đã nợ Tom ba tháng tiền lương. Số lương cho một thợ xây dựng tổng thể chính là bốn xu một ngày, tất cả lên đến bẩy mươi hai xu. Mỗi ngày nợ càng tăng, và nó càng khó khăn hơn cho Philip để có thể trả hết cho Tom. Sau nửa năm Tom sẽ yêu cầu ông bắt đầu trả tiền lương cho ông. Khi đó ông sẽ nhận được hai ký rưỡi bạc, số tiền mà Philip phải trả trước khi ông có thể sa thải Tom. Số nợ làm Tom cảm thấy an tâm.

Dù đó là một cơ hội, nhưng ông không dám tin rằng công việc này sẽ kéo dài suốt đời ông. Đây là một nhà thờ chính tòa; và nếu những người có thẩm quyền quyết định xây một nhà thờ mới, và nếu họ tìm ra tiền để trả cho nó, nó có thể là một kiến trúc lớn nhất trong vương quốc, với hàng chục thợ xây làm việc trong nhiều thập kỷ.

Thực sự điều đó quá lớn để hy vọng. Nói chuyện với các tu sĩ và dân làng, Tom biết rằng Kingsbridge đã chẳng bao giờ có một nhà thờ chính tòa quan trọng. Nó nằm xa trong một ngôi làng yên tĩnh, có hàng loạt giám mục không tham vọng và rõ ràng nó xuống dốc. Tu viện thì tầm thường và không có xu nào dính túi. Hầu hết các tu viện thu hút vua chúa, giám mục và khách quan trọng vì họ có nhà khách sang trọng, có trường học nổi tiếng, có thư viện lớn lao, hay vì sự nghiên cứu của các triết gia tu sĩ hay sự uyên bác của tu viện trưởng hay viện phụ; nhưng Kingsbridge đã không có những danh tiếng này. Khả năng là Philip sẽ xây một nhà thờ nhỏ, xây dựng đơn giản, trang bị khiêm tốn, và việc xây dựng không kéo dài hơn mười năm.

Tuy nhiên, nó thích hợp hoàn toàn với Tom. Ngay cả trước khi đống đổ nát nguội đi, Tom nhận ra rằng đây là cơ hội cho ông xây nhà thờ chính tòa.

Tu viện trưởng Philip từ lâu đã tin rằng Thiên Chúa đã gửi Tom đến Kingsbridge. Tom biết rằng ông chiếm được sự tin tưởng của Philip qua cách tổ chức hiệu quả việc thu dọn và làm cho tu viện có thể sống được. Khi thời điểm đến ông sẽ nói với Philip về kiểu mẫu nhà thờ mới. Nếu ông biết cẩn thận dùng hoàn cảnh, đây là một cơ hội mà Philip sẽ đề nghị ông vẽ kiểu mẫu. Thực tế là nhà thờ mới có lẽ sẽ khiêm tốn, vì thế mà phương án sẽ được giao cho Tom, thay vì giao cho một bậc thầy có nhiều kinh nghiệm về xây dựng nhà thờ chính tòa. Niềm hy vọng của Tom rất lớn.

Chuông đổ báo hiệu giờ họp. Đây cũng là dấu hiệu các nhân công khác đi ăn sáng. Tom rời tầng hầm và đi đến phòng ăn. Trên đường đi ông gặp Ellen.

Bà đứng giận dữ trước mặt ông, như muốn cản đường ông và đôi mắt bà có một cái nhìn kỳ lạ. Martha và Jack ở bên cạnh bà. Jack nhìn khủng khiếp: một mắt nhắm lại, phía khuôn mặt trái bị bầm tím và sưng lên, và lết đi trên chân phải, như thể chân trái không còn cử động được. Tom thương hại cậu. “Điều gì xẩy ra cho con?” ông hỏi.

Ellen nói: “Alfred đã gây nên.”

Tom rên rỉ trong lòng. Ông cảm thấy xấu hổ thay cho Alfred, vì cậu lớn hơn Jack nhiều. Nhưng Jack không phải là thiên thần. Có lẽ Alfred đã bị trêu chọc. Tom ngó quanh tìm cậu, và thấy cậu đang đi về nhà ăn, mặt đầy bụi. “Alfred!” ông gầm lên. “Lại đây!”

Alfred quay quanh, nhìn thấy và chậm rãi đến gần, trông như có vẻ có lỗi.

Tom nói với cậu ấy: “Con làm điều này à?”

“Nó ngã từ bức tường xuống,” Alfred nói ủ rũ.

“Con có đẩy nó không?”

“Con chạy theo nó.”

“Ai đã bắt đầu trước?”

“Jack đặt cho con một tên.”

Jack nói qua hàm môi sưng vù: “Con gọi anh là con heo, vì anh đã lấy bánh của chúng con.”

“Bánh?” Tom nói. “Con lấy bánh ở đâu trước bữa ăn sáng?”

“Thầy làm bánh Bernard cho chúng con bánh, vì chúng con lấy củi cho thầy.”

“Con phải chia bánh cho Alfred,” Tom nói.

“Con sẽ chia.”

Alfred nói: “Vậy tại sao mày lại chạy đi?”

“Tôi mang nó về nhà cho mẹ,” Jack phản ứng. “Bởi vì anh sẽ ăn hết.”

Mười bốn năm nuôi con đã dạy Tom rằng không dễ gì để khám phá ra điều gì đúng hay điều gì sai trong cuộc tranh cãi của trẻ con. “Hãy đi ăn sáng, cả ba đứa, và nếu hôm nay còn đánh nhau, Alfred, con sẽ có một bộ mặt giống Jack, và bố sẽ là người làm điều đó. Bây giờ giải tán.”

Các đứa trẻ đi khỏi.

Tom và Ellen đi chậm hơn. Sau một lúc Ellen nói: “Đó là tất cả những gì anh muốn nói sao?”

Tom nhìn vào bà. Bà vẫn còn giận, nhưng ông không thể làm được gì. Ông nhún vai: “Như thường lệ, cả hai đứa đều có lỗi.”

“Tom, làm sao anh có thể nói như thế được?”

“Đứa này cũng xấu như đứa kia.”

“Alfred lấy bánh của chúng. Jack gọi Alfred là con lợn. Đó không phải là lý do đến nỗi phải đổ máu.”

Tom lắc đầu. “Con trai luôn đánh nhau. Em không thể dành cả cuộc đời của em để xét xử các cuộc tranh cãi của chúng. Tốt nhất hãy để chúng tự giải quyết lấy.”

“Không thể để như thế được, Tom,” bà nói bằng giọng nghiêm trọng. “Hãy nhìn mặt của Jack, rồi nhìn vào Alfred. Đó không phải là kết quả cuộc đánh nhau của trẻ con. Đó là cuộc tấn công đồi bại của một người đàn ông trưởng thành đối với một cậu bé.”

Tom phẫn nộ vì thái độ của bà. Alfred không hoàn hảo, ông biết, nhưng Jack cũng vậy. Tom không muốn Jack trở thành người được yêu thích, nuông chiều trong gia đình này. “Alfred không phải là người đàn ông trưởng thành, nó mới mười bốn tuổi. Nhưng nó đi làm. Nó góp phần trong việc nuôi sống gia đình, trong khi đó Jack chỉ chơi suốt ngày giống như một đứa trẻ. Trong quan niệm của anh, Jack phải tỏ sự tôn trọng đối với Alfred. Nhưng nó không tôn trọng Alfred, rồi em sẽ thấy.”

“Em không quan tâm đến điều ấy!” Ellen nói. “Anh có thể nói những gì anh thích, nhưng con em bị thâm tím và có thể bị thương nặng, và em không chấp nhận được!” Bà bắt đầu khóc. Bằng giọng êm hơn, nhưng vẫn đầy tức giận, bà nói: “Nó là con em và em không thể chịu được khi nhìn thấy nó như vậy.”

Tom thông cảm bà, và ông muốn an ủi bà, nhưng ông sợ phải thú nhận là thua cuộc. Ông có cảm tưởng cuộc đối thoại này là một bước ngoặt. Sống riêng với mẹ, ngoài ra không còn ai khác, Jack quá được chiều chuộng. Tom không muốn thừa nhận rằng Jack cần một sự bảo trợ đặc biệt để chống lại những va chạm trong cuộc sống hàng ngày. Điều đó sẽ tạo ra một tiền lệ gây ra những khó khăn bất tận trong những năm tới. Tom biết, thực sự lần này Alfed đã đi quá xa, và ông cũng muốn nói chuyện với Alfred về chuyện này; nhưng ông không muốn nói bây giờ. “Đánh nhau là một phần trong đời sống,” ông nói với Ellen. “Jack phải học để chấp nhận hay để tránh chúng. Tôi không thể bảo vệ nó cả đời được.”

“Anh có thể bảo vệ nó khỏi đứa con ác độc của anh.”

Tom nhăn mặt. Ông ghét nghe bà gọi Alfred là ác độc. “Tôi có thể, nhưng tôi sẽ không làm,” ông tức giận nói. “Jack phải học để tự bảo vệ lấy mình.”

“Thế thì anh xuống hỏa ngục!” Ellen nói, rồi bà quay lại và ra đi.

Tom đi vào nhà ăn. Túp lều bằng gỗ, nơi các công nhân ăn uống, đã bị hư hại khi tháp tây nam đổ xuống, vì thế họ dùng bữa trong nhà ăn tu viện sau khi các tu sĩ đã ăn xong và đi khỏi. Tom ngồi xa những người khác, không muốn tiếp xúc. Người phụ bếp đem cho ông một bình bia và vài miếng bánh trong một cái giỏ. Ông nhúng một miếng bánh trong bia cho mềm và bắt đầu ăn.

Alfred là một thanh niên có quá nhiều sinh lực, ông nghĩ và thở dài vào ly bia. Cậu có một chút ác ôn, Tom biết trong thâm tâm của mình, nhưng cậu sẽ trầm tĩnh lại với thời gian. Trong lúc này, Tom sẽ không đòi hỏi con cái ông phải đối xử đặc biệt với đứa con mới đến. Chúng đã phải chịu đựng quá nhiều. Chúng đã mất mẹ, chúng đã phải lang thang trên đường, chúng đã gần chết đói. Ông sẽ không đặt thêm gánh nặng trên chúng, nếu ông có thể làm được. Chúng được quyền hưởng một chút sự nuông chiều. Jack phải tránh xa Alfred.

Một sự bất đồng ý kiến với Ellen luôn để lại cho Tom một trái tim u sầu. Họ đã cãi nhau nhiều lần, thường là về con cái. Cho đến bây giờ, cuộc cãi nhau vừa rồi là tồi tệ nhất. Khi mặt bà đanh lại và thù địch, ông không thể hiểu được, vì mới trước đó họ còn say đắm trong tình yêu. Trong sự tức giận, bà dường như là một người lạ; sự giận dữ đã xâm nhập vào đời sống bình yên của ông.

Ông đã chẳng bao giờ có những cuộc cãi vã tức giận, gay gắt với người vợ thứ nhất như thế. Nhìn lại, dường như ông và Agnes luôn đồng ý với nhau về những vấn đề quan trọng, và ngay cả khi họ không đồng ý với nhau, họ cũng không làm cho người khác tức giận. Cuộc sống chung giữa người đàn ông và đàn bà phải như thế, ông nghĩ. Ellen phải nhận ra rằng bà là một thành phần trong một gia đình và bà không thể chỉ giữ ý riêng của mình.

Ngay cả khi Ellen tức giận nhất, ông cũng chẳng bao giờ ước muốn bà ấy ra đi, nhưng mỗi lần như vậy ông thường nghĩ về Agnes với niềm tiếc nuối. Agnes đã chia sẻ với ông một phần lớn cuộc đời ông, và bây giờ ông luôn có cảm giác mất mát một cái gì đó. Khi bà còn sống, ông đã chẳng bao giờ nghĩ rằng ông may mắn có được bà, hay biết ơn vì có bà; nhưng bây giờ bà đã qua đời, ông nhớ bà và cảm thấy xấu hổ vì đã đối xử với bà như đó là chuyện đương nhiên.

Vào những khoảnh khắc yên tĩnh trong ngày, sau khi đã phân công, chỉ dẫn nhân công và họ đã bận rộn với công việc của họ, Tom trở lại với tay nghề của mình, xây lại bức tường, sửa lại hàng cột trong tầng hầm, và một đôi khi ông tưởng tượng ông đang nói chuyện với Agnes. Chủ yếu ông nói về Jonathan, người con trai mới sinh của họ. Tom nhìn thấy nó mỗi ngày, khi nó được cho ăn trong nhà bếp, đi dạo trong hành lang tu viện và được đem vào phòng ngủ của tu sĩ. Nó dường như hoàn toàn khỏe mạnh và vui vẻ, và không ai, ngoại trừ Ellen, biết rằng ông có một quan tâm đặc biệt đến nó. Tom cũng nói với Agnes về Alfred và Tu viện trưởng Philip và ngay cả về Ellen, cắt nghĩa cảm xúc của ông về họ giống như ông đã làm (ngoại trừ trường hợp của Ellen) khi Agnes còn sống. Ông cũng kể cho bà về kế hoạch cụ thể trong tương lai: niềm hy vọng được thuê làm ở đây nhiều năm và giấc mơ của ông về việc tự vẽ dự án và xây dựng một nhà thờ chính tòa. Trong đầu, ông nghe thấy tiếng bà trả lời và lời bà hỏi. Có khi bà hài lòng, khuyến khích, hào hứng, nghi ngờ hoặc có khi không đồng ý. Một đôi khi ông cảm thấy bà đúng, một đôi khi sai. Nếu ông kể cho ai nghe về cuộc đối thoại này, chắc họ sẽ nói rằng ông nói chuyện với ma, và ông cần đến linh mục, nước phép và trừ tà; nhưng ông biết những gì đang xẩy ra không phải là cái gì siêu nhiên. Nó xẩy ra vì ông biết bà quá rõ đến nỗi ông có thể tưởng tượng được bà sẽ cảm thấy như thế nào và sẽ nói gì trong tình huống như vậy.

Agnes đến trong trí ông vào những lúc ông không ngờ. Khi ông gọt vỏ một quả lê cho Martha bằng con dao ăn, ông nhớ lại Agnes đã luôn cười ông, vì ông cố gắng muốn gọt vỏ thành một dải liên tục. Bất cứ khi nào ông phải viết, ông lại nghĩ đến bà, bởi vì bà đã truyền lại cho ông những gì bà học được từ bố bà, một mục sư; và ông nhớ lại bà đã dạy ông cách cắt một cây viết lông hoặc cách đánh vần chữ ‘caementarius’, chữ Latin có nghĩa là ‘thợ xây.’ Khi ông rửa mặt vào chủ nhật, ông sẽ chà xà bông vào bộ râu và nhớ lại khi còn trẻ, bà đã nói với ông rằng rửa sạch râu sẽ giữ cho mặt khỏi bị chấy và mụn. Không ngày nào qua đi mà không có những liên hệ nhắc nhớ đến bà.

Ông biết ông may mắn có được Ellen. Bà độc nhất có một cái gì đó bất thường, và cái bất thường đó làm cho bà trở thành thu hút. Ông biết ơn bà vì bà đã an ủi ông trong lúc ông đau khổ vào buổi sáng sau khi Agnes qua đời; nhưng một đôi khi ông ước muốn ông đã gặp bà ấy vài ngày – thay vì vài giờ - sau khi ông đã chôn cất vợ ông, để ông có đủ thời gian một mình than khóc. Ông không cần thời gian tang chế - đó chỉ dành cho vua chúa và các tu sĩ, không phải cho dân thường – nhưng ông cần thời gian để quen với sự vắng mặt của Agnes trước khi bắt đầu sống chung với Ellen. Những ngày đầu tiên sau khi Agnes qua đời, ông đã không có những tư tưởng này. Mối đe dọa bị chết đói cộng với kích thích về tình dục của Ellen tạo ra trong ông cảm xúc phấn chấn cuồng loạn. Nhưng kể từ khi ông có việc làm và đời sống ổn định, ông cảm thấy nỗi đau của sự hối tiếc. Và một đôi khi, khi ông nghĩ như thế về Agnes, dường như không những ông nhớ thương Agnes mà ông còn khóc thầm cho tuổi trẻ đã qua của mình. Chẳng bao giờ ông còn có thể khờ dại, hung hăng, ham sống và mạnh mẽ như ông đã là, khi ông rơi vào tình yêu với Agnes.

Ông ăn hết bánh và rời nhà ăn trước mọi người khác. Ông đi vào hành lang tu viện. Ông hài lòng với công việc của ông ở đây: thật khó mà tưởng tượng được rằng mới ba tuần trước khuôn viên này đã bị chôn vùi dưới đống gạch đổ nát. Dấu hiệu còn lại duy nhất của cuộc thảm họa là những vết đá nứt mà ông không tìm được cái thay thế.

Mặc dù vậy vẫn còn nhiều bụi. Ông phải quét hành lang lần nữa, sau đó rải nước. Ông đi qua nhà thờ đổ nát. Trong gian phụ phía bắc ông nhìn thấy một thanh xà ngang đen với dòng chữ trên hắc ín: “Alfred là một con heo.” Điều này đã làm Alfred điên tức. Nhiều thanh gỗ rơi từ mái nhà đã không bị cháy thành tro, vì thế còn nhiều xà ngang đen nằm rải rác khắp nơi. Tom quyết định sẽ quy tụ một nhóm công nhân để thu thập những thanh gỗ này và mang nó đến hàng củi. “Hãy dọn cho nó gọn gàng,” Agnes luôn nói khi có người quan trọng đến thăm. “Em muốn họ cảm thấy vui, và em muốn hãnh diện về anh.” Vâng, em yêu, Tom nghĩ, và ông tự mỉm cười khi ông bắt tay vào việc.

Waleran Bigod và đoàn tùy tùng xuất hiện ở xa khoảng một dặm trên cánh đồng. Họ có ba người, phóng ngựa nhanh. Waleran dẫn đầu trên con ngựa đen, chiếc áo choàng đen bay ra phía sau. Philip và những người trọng tuổi có chức vụ trong tu viện đứng đợi ở chuồng ngựa để chào họ.

Philip không chắc chắn phải đối xử với Waleran như thế nào. Không thể phủ nhận được là Waleran đã lừa dối ông, vì ông ấy đã không nói cho Philip biết là giám mục đã chết; nhưng khi sự việc xẩy ra rõ ràng, Waleran cũng không tỏ ra xấu hổ; và Philip đã không biết phải nói điều gì với ông ấy. Ông vẫn chưa biết phải nói gì, nhưng ông đoán rằng sự phàn nàn không đem lại kết quả gì. Ngoài ra toàn bộ bi kịch đã bị che khuất bởi thảm họa của cuộc hỏa hoạn. Philip chỉ cần cảnh giác hơn với ông trong tương lai.

Ngựa của Waleran là con ngựa đực, mặc dù đã đi nhiều dặm nhưng nó vẫn hoảng hốt và dễ bị kích động. Ông giữ đầu nó xuống khi ông đi vào chuồng ngựa. Philip không đồng ý: giáo sĩ không cần phải phô trương trên lưng ngựa, và hầu hết những người theo Chúa chọn con vật hiền lành hơn.

Waleran nhẩy xuống ngựa bằng một chuyển động nhẹ nhàng và đưa dây cương cho người giữ ngựa. Philip chào ông một cách xã giao. Waleran quay người và quan sát đống đổ nát. Với vẻ mặt ảm đạm ông nói: “Đây là một ngọn lửa đắt tiền, Philip ạ,” Ông dường như thực sự đau khổ, một điều làm Philip ngạc nhiên.

Trước khi Philip có thể trả lời, Remigius lên tiếng: “Đây là công việc của ma quỷ, thưa ngài giám mục.”

“Các anh nghĩ như thế sao?” Waleran nói. “Theo kinh nghiệm của tôi, ma quỷ thường hỗ trợ các tu sĩ trong công việc như thế, giả sử như các tu sĩ đốt lửa trong nhà thờ để sưởi ấm trong giờ kinh sáng, hay vô ý để quên nến cháy trong gác chuông.”

Philip thích thú khi nhìn thấy Waleran cho Remigius một trận, nhưng ông không thể không chống lại những lời kết tội của Waleran. “Tôi đã cho điều tra về nguyên nhân gây ra cuộc hỏa hoạn,” ông nói. “Không ai đốt lửa trong nhà thờ vào tối hôm đó – tôi chắc chắn điều đó vì chính tôi có mặt trong buổi đọc kinh đêm. Và trước đó hàng tháng không có ai trèo lên mái nhà thờ.”

“Vậy ông giải thích ngọn lửa từ đâu tới?” Waleran hoài nghi hỏi.

Philip lắc đầu. “Không có bão. Ngọn lửa dường như bắt đầu ở vùng lân cận của khu trung tâm. Như thường lệ, sau giờ kinh chúng tôi để lại trên bàn thờ một cây nến cháy. Có thể khăn bàn thờ bén lửa, và một đốm lửa đã được gió đưa lên trần nhà bằng gỗ, một trần nhà đã cũ và khô.” Philip nhún vai. “Nó không phải là một lời giải thích hợp lý, nhưng đó là lời giải thích tốt nhất mà chúng tôi có.”

Waleran gật đầu. “Chúng ta hãy quan sát kỹ hơn những thiệt hại.”

Họ di chuyển ra ngoài, về phía nhà thờ. Hai người cùng đoàn với Waleran là một kỵ binh và một linh mục trẻ. Chàng kỵ binh ở lại trông ngựa. Vị linh mục tháp tùng Waleran, và được giới thiệu với Philip là Dean Baldwin. Khi họ đi ngang qua sân cỏ đến nhà thờ, Remigius đặt tay lên cánh tay của Waleran, giữ ông lại và nói: “Nhà khách không thiệt hại gì, ông thấy đó.”

Mọi người dừng lại và quay đầu lại. Philip tự hỏi không biết Remigius đang muốn gì đây. Nếu nhà khách không bị thiệt hại gì, tại sao mọi người lại đứng lại và nhìn nó? Vợ của người thợ xây đang từ bếp lên, và tất cả họ quan sát bà đi vào nhà. Philip nhìn Waleran. Ông dường như bị sốc. Philip nhớ lại thời điểm tại tòa giám mục, khi Waleran nhìn thấy vợ của người thợ xây, và ông dường như đã hoảng sợ. Có điều gì về người đàn bà này?

Waleran liếc nhanh Remigius và gật đầu thật nhẹ, sau đó ông quay về phía Philip và nói: “Ai sống ở đó?”

Philip hoàn toàn chắc chắn Waleran đã nhận ra bà, nhưng ông trả lời: “Ông thợ xây cả và gia đình ông ấy.”

Waleran gật đầu và họ tiếp tục di chuyển. Bây giờ Philip biết tại sao Remigius đã gợi sự chú ý đến nhà khách: ông muốn chắc chắn Waleran nhìn thấy người phụ nữ. Philip quyết tâm sẽ hỏi bà vào dịp sớm nhất.

Họ đi vào trong khu đổ nát. Một nhóm bẩy hoặc tám người, gồm các tu sĩ và nhân công của tu viện đang nâng một xà ngang bị cháy một nửa dưới sự hướng dẫn của Tom. Toàn khu vực bận rộn nhưng gọn gàng. Philip cảm thấy không khí nhộn nhịp và hiệu quả là công của ông, mặc dù Tom là người chịu trách nhiệm.

Tom đến gặp họ. Ông cao hơn hẳn mọi người. Philip nói với Waleran: “Đây là thợ xây chính của chúng tôi, Tom. Ông ấy đã điều động để làm cho hành lang tu viện và tầng hầm có thể sử dụng lại. Chúng tôi rất biết ơn ông ấy.”

“Tôi nhớ ông,” Waleran nói với Tom. “Ông đã đến gặp tôi sau lễ giáng sinh. Tôi không có việc cho ông.”

“Vâng, đúng thế,” Tom nói bằng giọng trầm và đầy bụi. “Có lẽ Chúa để dành tôi để tôi giúp Tu viện trưởng Philip trong thời gian rắc rối này.”

“Một thợ xây thần học,” Waleran chế giễu.

Tom đỏ mặt dưới làn da đầy bụi. Philip nghĩ rằng Waleran phải có thần kinh mạnh lắm mói dám nhạo cười người đàn ông to lớn như thế, ngay cả mặc dù Waleran là giám mục và Tom chỉ là một thợ xây.

“Bước kế tiếp của ông là gì?” Waleran hỏi.

“Chúng ta phải làm cho nơi đây an toàn bằng cách đập xuống những bức tường còn lại, trước khi chúng rơi vào người nào đó,” Tom trả lời, đủ ngoan ngoãn. “Rồi chúng ta sẽ dọn sạch khu vực để chuẩn bị xây nhà thờ mới. Chúng ta phải tìm những cây cao sớm bao nhiêu có thể để làm xà cho mái nhà mới – gỗ càng được ngâm dầu lâu thì mái nhà càng tốt.

Philip nói vội vàng: “Trước khi chúng ta bắt đầu chặt cây, chúng ta phải tìm ra tiền để trả cho họ.”

“Chúng ta sẽ nói về chuyện đó sau,” Waleran nói một cách bí ẩn.

Sự nhận xét này làm Philip háo hức. Ông hy vọng Waleran có một kế hoạch tìm tiền để xây dựng nhà thờ chính tòa. Nếu tu viện phải tùy thuộc vào nguồn lực riêng, công trình không thể bắt đầu trong nhiều năm nữa. Philip đã trăn trở điều này trong ba tuần qua, và ông vẫn chưa tìm ra được giải pháp.

Ông hướng dẫn nhóm đi dọc theo con đường đã được dọn sẵn thông qua đống đổ nát đến hành lang tu viện. Qua một cái nhìn, Waleran có thể nhận ra khu vực này đã được sửa sang. Họ tiếp tục di chuyển từ đó xuyên qua sân cỏ đến nhà tu viện trưởng, nằm ở góc đông nam tu viện.

Khi đã vào trong, Waleran cởi áo khoác và ngồi xuống, đưa bàn tay nhợt nhạt trên lò sưởi. Thầy Milius, người phụ trách nhà bếp, phục vụ rượu gia vị nóng trong chén bằng gỗ nhỏ. Waleran nhấm nháp và nói với Philip: “Ông có bao giờ nghĩ rằng thợ xây Tom đã châm lửa để cho mình có việc làm không?”

“Có, tôi có nghĩ đến,” Phillip trả lời. “Nhưng tôi không nghĩ ông ấy đã làm chuyện đó. Ông ấy phải vào được trong nhà thờ, và nhà thờ thì chắc chắn đã khóa.”

“Ông ấy có thể lẻn vào ban ngày và trốn ở trong đó.”

“Như thế ông ấy sẽ không ra được sau khi châm lửa,” ông lắc đầu. Đó không phải là lý do thực sự ông chắc chắn Tom vô tội. “Dù sao tôi không tin ông ấy có thể làm như vậy. Ông ấy là người thông minh – hơn là ông nghĩ lúc mới gặp – nhưng ông ấy không quỷ quyệt. Nếu ông ấy có tội, tôi nghĩ tôi có thể nhận ra trên khuôn mặt ông ấy, khi tôi nhìn vào mắt ông ấy và hỏi ông ấy nghĩ ngọn lửa bắt đầu từ đâu.”

Một chút ngạc nhiên cho Philip, Waleran đồng ý ngay lập tức. “Tôi tin ông có lý,” ông ấy nói. “Một cách nào đó, tôi không thấy là ông ấy có thể đốt nhà thờ. Ông ấy không phải là mẫu người như vậy.”

“Chúng ta chẳng bao giờ biết chắc chắn ngọn lửa bắt đầu từ đâu,” Philip nói. “Nhưng chúng ta phải đối diện với vấn đề làm sao có tiền để xây nhà thờ mới. Tôi không biết…”

“Vâng,” Waleran cắt lời và giơ tay ngăn Philip lại. Ông nhìn những người khác trong phòng. “Tôi phải nói chuyện riêng với Philip,” ông nói. “Những người còn lại xin tạm ra khỏi phòng.”

Philip hồi hộp. Ông không thể tưởng tượng được tại sao Waleran lại nói chuyện riêng với ông về việc này.

Remigius nói: “Trước khi chúng tôi đi, thưa ngài giám mục, có một số điều anh em đã nhờ tôi nói với ngài.”

Philip nghĩ: Chuyện gì đây?

Waleran nhướng mày hoài nghi. “Và tại sao họ lại nhờ ông, thay vì nhờ tu viện trưởng, để nói vấn đề đó với tôi?”

“Bởi vì Tu viện trưởng Philip không lắng nghe điều họ khiếu nại.”

Philip tức giận và hoang mang. Đây không phải là điều khiếu nại. Remigius chỉ muốn gây khhó khăn cho Philip trước mặt giám mục tân cử. Philip bắt gặp một cái nhìn dò xét của Waleran. Ông nhún vai và tỏ vẻ không tập trung. “Tôi không chờ đợi để nghe những lời phàn nàn,” ông nói. “Làm ơn vào đề ngay, ông Remigius – nếu ông hoàn toàn chắc chắn rằng vấn đề này đủ quan trọng để yêu cầu sự chú ý của một giám mục.”

Remigius nói: “Có một phụ nữ sống trong tu viện.”

“Không cần lập lại nữa,” Philip nói với sự bực tức. “Bà ấy là vợ của người thợ xây, và bà ấy ở trong nhà khách.”

“Bà ấy là một phù thủy,” Remigius nói.

Philip tự hỏi tại sao Remigius lại làm điều này. Ông đã một lần thử đưa đề tài này ra và đã bị chống đối. Mọi người không đồng quan điểm trong vấn đề này, nhưng tu viện trưởng có quyền, và Waleran phải ủng hộ Philip, trừ khi ông muốn được tham gia mỗi khi Remigius không đồng quan điểm với bề trên của ông ấy. Mệt mỏi, Philip nói: “Bà ấy không phải là một phù thủy.”

“Anh đã thẩm vấn người phụ nữ chưa?” Remigius hỏi.

Philip nhớ lại ông đã hứa sẽ hỏi bà ấy, nhưng ông chưa làm: Ông đã gặp chồng bà và bảo ông ấy về nói với bà là phải thận trọng, nhưng chính ông chưa nói chuyện với người phụ nữ đó. Nó là một điều đáng tiếc, vì nó cho phép Remigius gây điểm; nhưng nó không phải là một điểm, và Philip cảm thấy chắc chắn Waleran không đứng về phía Remigius. “Tôi chưa thẩm vấn bà ấy,” Philip thừa nhận. “Nhưng không có bằng chứng gì về việc bà ấy là một phù thủy, và cả gia đình ấy hoàn toàn trung thực và là Kitô hữu.”

“Bà ấy là một phù thủy và phạm tội gian dâm,” Remigius nói. Sự tức giận làm mặt ông đỏ bừng.

“Anh muốn nói cái gì?” Philip tức lên. “Bà ấy gian dâm với ai?”

“Với ông thợ xây.”

“Ông ấy là chồng bà, anh ngu dốt ạ.”

“Không, ông ấy không phải,” Remigius đắc thắng nói. “Họ không cưới hỏi, và họ chỉ sống với nhau từ một tháng nay.”

Philip buông tay. Ông không ngờ chuyện đó. Remigius đã làm ông hoàn toàn bất ngờ.

Nếu những gì Remigius nói là thật, thì người phụ nữ này, nói theo cách nghiêm túc, là một người gian dâm. Đó là một loại gian dâm thường được bỏ qua, bởi vì nhiều cặp ở với nhau một thời gian và đã không nhận được phép lành của linh mục, thông thường cho đến khi họ có đứa con thứ nhất. Thực vậy, ở những vùng quê xa, các cặp thường sống như vợ chồng trong hàng chục năm, sinh con cái, và khi một linh mục đến thăm, họ xin ngài làm phép cưới cho họ khi họ đã có cháu. Tuy nhiên, đó là sự cho phép của các linh mục coi xứ dành cho những nông dân nghèo ở vùng xa các xứ đạo. Nhưng đây lại là trường hợp của một nhân viên quan trọng của tu viện, xẩy ra trong khuôn viên tu viện.

“Điều gì cho phép anh nghĩ rằng họ chưa cưới hỏi?” Philip nghi ngờ nói, mặc dù ông cảm thấy chắc chắn Remigius đã kiểm tra sự kiện trước khi trình bầy trước mặt Waleran

“Tôi gặp hai đứa trẻ đánh nhau, và chúng bảo tôi chúng không phải là anh em. Sau đó, tòan bộ câu chuyện bị lộ ra.”

Philip thất vọng vì Tom. Gian dâm là một tội thông thường, nhưng đối với các tu sĩ, những người từ bỏ tất cả nhục dục, thì đó là một tội ghê gớm. Làm sao ông lại dám làm điều này? Ông phải biết rằng Philip ghét điều đó. Philip cảm thấy tức giận Tom hơn là ông đã tức giận Remigius. Nhưng Remigius đã che dấu. Philip hỏi ông ấy: “Tại sao ông không nói cho tôi, tu viện trưởng của ông, biết ngay về điều này?”

“Tôi chỉ mới nghe biết điều này sáng nay thôi.”

Philip ngồi dựa lưng vào ghế, thất bại. Remigius đã đánh bật ông và bây giờ ông bị coi như khờ dại. Đây là cuộc trả thù của Remigius cho cuộc thất bại trong cuộc bầu cử vừa qua. Philip nhìn Waleran. Cuộc khiếu nại được trình lên ông ấy và bây giờ ông ấy có thể tuyên án.

Waleran không chần chừ. “Trường hợp này đủ rõ ràng,” ông nói. “Người phụ nữ phải xưng tội, và làm việc đền tội công khai. Bà phải rời khỏi tu viện và sống trong sạch, xa Tom một năm. Sau đó họ có thể kết hôn.”

Một năm xa cách là một hình phạt nặng nề. Philip cảm thấy nó hợp lý vì cả hai đã gây tai tiếng cho tu viện. Nhưng ông lo lắng không biết bà ấy sẽ phản ứng ra sao. “Bà ấy có thể không tùng phục lời tuyên án của ông,” ông nói.

Waleran nhún vai. “Thì bà ấy sẽ bị thiêu đốt trong hỏa ngục.”

“Nếu bà ấy rời Kingsbridge, tôi sợ Tom sẽ đi theo bà.”

“Chúng ta sẽ có thợ xây dựng chính khác.”

“Dĩ nhiên.” Philip tiếc nếu mất Tom. Nhưng qua biểu hiện của Waleran, Philip có thể nói rằng đối với ông ấy không có gì quan trọng nếu Tom và vợ ông rời Kingsbridge và chẳng bao giờ quay trở lại; và ông ngạc nhiên tại sao bà ấy lại quá quan trọng như thế.

Waleran nói: “Bây giờ giải tán, và để tôi nói chuyện với tu viện trưởng.”

“Đợi vài phút,” Philip nói mạnh. Đây là nhà ông, và đây là tu sĩ của ông. Ông là người triệu tập và giải tán họ, chứ không phải Waleran. “Chính tôi sẽ nói chuyện với ông thợ xây về chuyện này. Không ai trong anh em được phép nói cho bất cứ ai, anh em nghe rõ chưa? Tôi sẽ có một hình phạt nặng cho những ai không vâng lời tôi trong việc này. Đã rõ chưa, Remigius?”

“Vâng,” Remigius nói.

Philip nhìn Remigius dò hỏi và không nói gì. Nó là một sự yên lặng mang nhiều ý nghĩa.

“Vâng, thưa cha,” sau cùng Remigius nói.

“Được rồi, anh em đi đi.”

Remigius, Andrew, Milius, Cuthbert và Dean Baldwin tất cả đi ra. Waleran tự lấy thêm một ít rượu nóng và duỗi chân ra phía lò sưởi. “Đàn bà luôn gây phiền toái,” ông nói. “Khi một con ngựa cái ở trong chuồng, tất cả con ngựa đực bắt đầu tấn công người giữ ngựa, đá vào chuồng và gây náo loạn. Ngay cả những con ngựa thiến cũng bắt đầu có thái độ bất thường. Các tu sĩ giống như ngựa thiến: họ từ chối đam mê thể lý, nhưng họ vẫn còn có thể say đắm.”

Philip bối rối. Ông cảm thấy không cần có những lời nói rõ ràng như thế. Ông nhìn xuống bàn tay. “Việc xây dựng nhà thờ mới sẽ như thế nào?” ông nói.

“Vâng. Có lẽ ông đã nghe rằng việc mà ông đến gặp tôi - về việc Bá tước Bartholomew có âm mưu chống lại vua Stephan – mang lại nhiều điều tốt cho chúng ta.”

“Vâng.” Nó tưởng chừng như đã lâu lắm rồi, từ ngày Philip đến tòa giám mục, trong sợ hãi và run rẩy, nói về âm mưu chống nhà vua mà giáo hội đã chọn. “Tôi nghe Percy Hamleigh đã tấn công lâu đài lãnh chúa và bắt ông ấy làm tù nhân.”

“Đúng – Bartholomew bây giờ ở trong ngục thất ở Winchester, đợi nghe tuyên án về số phận của mình,” Waleran nói với vẻ hài lòng.

“Còn Bá tước Robert của Gloucester thì sao? Ông là một trong những người chủ mưu cuộc nổi dậy.”

“Ông ấy bị hình phạt nhẹ hơn. Trong thực tế không bị gì. Ông đã cam kết trung thành với vua Stephan, và sự dính líu của ông với vụ âm mưu đã được… bỏ qua.”

“Nhưng những việc này có liên quan gì đến nhà thờ chính tòa mới của chúng ta?”

Waleran đứng dậy và đi ra cửa sổ. Khi ông nhìn ra nhà thờ đổ nát, có một nét buồn trong mắt ông, và Philip nhận ra rằng mặc dù Waleran tính toán thế tục, nhưng ông có một lòng đạo đức. “Nhà vua còn mắc nợ chúng ta vì chúng ta đã giúp nhà vua chống lại âm mưu của Bartholomew. Không nên để lâu quá, ông và tôi phải đi gặp nhà vua.”

“Gặp vua?” Philip nói. Ông có một chút bối rối bởi đề nghị này.

“Nhà vua sẽ hỏi chúng ta muốn được phần thưởng gì.”

Philip nhận ra điều Waleran muốn nói và ông hớn hở. “Và chúng ta nói với ông ấy là…”

Waleran quay trở lại, nhìn vào mắt Philip, và đôi mắt ấy trông giống như viên ngọc đen, lấp lánh tham vọng. “Chúng ta sẽ nói với ông ấy là chúng ta muốn có một nhà thờ chính tòa mới cho Kingsbridge,” ông nói.

Tom biết rằng cơn giận dữ của Ellen sẽ trào lên.

Bà đã tức giận về những gì xẩy ra cho Jack. Tom cần phải xoa dịu bà. Nhưng bây giờ lại thêm thông tin về “việc đền tội”, nó sẽ khích động bà. Ông ước mong có thể trì hoãn một hai ngày cho bà có thời gian nguôi ngoai; nhưng ông không thể, bởi vì Tu viện trưởng Philip đã nói bà phải đi ngay trước khi trời tối. Ông phải nói với bà ngay lập tức, và mặc dù Philip đã nói với ông vào giữa trưa, nhưng mãi đến giờ cơm chiều Tom mới nói với Ellen.

Họ đi vào nhà cơm với những công nhân khác, khi các tu sĩ đã chấm dứt bữa ăn của họ và đi ra. Các bàn ăn đầy người, nhưng Tom nghĩ rằng nó có thể không phải là một điều xấu: sự hiện diện của người khác có thể kiềm chế bà, ông nghĩ.

Ông đã sai lầm, chẳng bao lâu nữa ông sẽ nhận ra.

Ông cố gắng khai triển thông tin dần dần. Trước hết ông nói: “Họ biết chúng ta chưa kết hôn.”

“Ai nói với họ?” bà tức giận nói. “Có phải một vài kẻ phá đám không?”

“Alfred. Nhưng đừng đổ lỗi cho nó – tu sĩ ranh mãnh Remgius đã moi móc từ nó. Tuy nhiên, chúng ta đã chẳng dặn chúng phải giữ kín điều đó.”

“Tôi không đổ lỗi cho nó,” bà trầm tĩnh nói. “Vậy họ nói gì?”

Ông nghiêng người qua bàn và nói bằng giọng trầm: “Họ nói em là người gian dâm,” ông nói, hy vọng không người nào nghe thấy.

“Một gian phụ?” bà nói to. “Còn anh thì sao? Các tu sĩ không biết rằng gian dâm phải cần đến hai người ư?”

Những người ngồi bên cạnh bắt đầu cười.

“Pssst!” Tom ra hiệu. “Họ nói chúng ta phải kết hôn.”

Bà nhìn ông chằm chằm. “Nếu tất cả chỉ có vậy thì anh không phải nhìn em buồn bã như vậy. Hãy nói cho em nghe phần còn lại.”

“Họ muốn em xưng tội.”

“Đạo đức giả,” bà nổi cáu nói.

Có nhiều tiếng cười hơn. Người ta ngừng nói chuyện và lắng nghe Ellen nói.

“Hãy nói nhỏ thôi,” Tom năn nỉ.

“Em nghĩ rằng họ bắt em làm việc đền tội nữa. Sỉ nhục là một phần của nó. Họ muốn em làm gì? Nói đi, hãy nói sự thật, anh không thể nói dối một phù thủy.”

“Đừng nói như thế!” Tom rít lên. “Nó làm cho mọi sự thành trầm trọng hơn.”

“Vậy hãy nói cho em.”

“Chúng ta phải xa nhau một năm, và em phải sống trong sạch…”

“Đái vào nó!” Ellen la lên.

Bây giờ mọi người nhìn.

“Đái vào anh, thợ xây Tom à!” bà nói. Bà nhận ra bà có một số đông khán giả. “Đái vào các ông các bà nữa,” bà nói. Hầu hết mọi người cười to. Thật khó mà làm tổn thương một phụ nữ đáng yêu với khuôn mặt đỏ bừng và đôi mắt vàng mở rộng. Bà đứng lên. “Đái vào tu viện Kingsbridge!” Bà nhẩy lên bàn, và mọi người vỗ tay. Bà đi trên mặt bàn. Người ta dọn dẹp chén đũa và ly bia cho bà có lối đi, rồi họ ngồi lại và cười nói. “Đái vào tu viện trưởng!” bà nói. “Đái vào tu viện phó, người lo phụng vụ, người lo thánh ca, người lo kho báu, và tất cả tài liệu, đặc ân và thùng đầy tiền bạc!” Bà đi đến cuối bàn. Đàng sau đó là một bàn nhỏ, nơi một tu sĩ sẽ ngồi đọc sách trong bữa ăn tối của các tu sĩ. Có một cuốn sách mở trên bàn. Ellen nhẩy từ bàn ăn sang bàn đọc sách.

Bất ngờ Tom biết bà định làm gì. “Ellen!” ông gọi. “Đừng! Làm ơn đừng!”

“Đái trên tu luật Thánh Biển Đức!” bà hét lên. Rồi bà vén váy lên, khụy gối xuống và đái trên cuốn sách mở.

Các đàn ông cười vang, đập vào bàn, la hét, huýt sáo và vỗ tay. Tom không chắc chắn họ chia sẻ quan điểm với Ellen về việc coi thường luật của thánh Biển Đức, hay họ thích nhìn một phụ nữ xinh đẹp phơi trần trước mặt họ. Có một cái gì đó khiêu dâm trong thái độ thô tục sỗ sàng của bà, nhưng nó cũng hấp dẫn để coi một người công khai lăng mạ cuốn sách mà các tu sĩ kính trọng. Bất cứ vì lý do nào, họ thích nó.

Bà nhẩy xuống bàn, và trong tiếng vỗ tay, bà chạy ra khỏi cửa.

Mọi người nói chuyện như pháo rang. Chưa ai đã thấy cảnh đó bao giờ. Tom hoảng sợ và xấu hổ: hậu quả sẽ khó lường, ông biết. Nhưng một cách nào đó ông nghĩ: Bà thuộc hạng đàn bà nào?

Ngay sau đó Jack cũng đứng lên và theo mẹ ra ngoài, với một nụ cười trên khuôn mặt sưng phồng.

Tom nhìn Alfred và Martha. Alfred có một chút hoang mang, nhưng Martha cười khúc khích. “Đi thôi, cả hai đứa,” Tom nói và cả ba rời nhà ăn.

Khi họ ra ngoài, họ không thấy Ellen. Họ đi qua sân cỏ về nhà khách và thấy Ellen ở đó. Bà ngồi trên ghế đợi ông. Bà mặc áo choàng, và cầm chiếc bị da lớn. Bà trông lạnh lùng, im lặng và trầm ngâm. Trái tim Tom lạnh đi khi ông nhìn thấy chiếc túi sách, nhưng ông làm như không thấy. “Sẽ phải trả giá đắt trong hỏa ngục,” ông nói.

“Em không tin có hỏa ngục,” bà nói.

“Anh hy vọng họ cho em xưng tội và làm việc đền tội.”

“Em không xưng tội.”

Sự tự kiềm chế nổ ra. “Ellen, em đừng đi!”

Bà trông buồn rầu. “Hãy nghe đây, Tom. Trước khi gặp anh, em có thực phẩm để ăn và có nơi để ở. Em được an toàn, chắc chắn và có thể tự sống: Em không cần ai. Từ khi em ở với anh, em đã đến gần sự chết đói hơn bất cứ lúc nào khác trong đời em. Bây giờ anh có việc, nhưng không có gì là chắc chắn: tu viện không có tiền để xây một nhà thờ mới, và anh có thể lại lang thang trên đường vào mùa đông tới.”

“Philip sẽ tìm được tiền bằng cách nào đó,” Tom nói. “Anh chắc ông ấy sẽ làm được.”

“Anh không thể chắc chắn,” bà nói.

“Em không tin anh,” Tom cay đắng nói. Rồi trước khi có thể ngăn mình, ông nói thêm: “Em giống như Agnes, em không tin vào nhà thờ chính tòa của anh.”

“Ô, Tom, nếu chỉ về phía em, em sẽ ở lại,” bà buồn bã nói. “Nhưng hãy nhìn vào con em.”

Tom nhìn Jack. Khuôn mặt cậu thâm tím, tai cậu sưng lên to gấp đôi kích thước bình thường, lỗ mũi đầy máu khô và một răng cửa bị gẫy.

Ellen nói: “Em sợ nó sẽ lớn lên giống như một con vật nếu em tiếp tục sống trong rừng. Nhưng nếu đây là giá phải trả để dạy nó sống như những người khác thì giá đó quá mắc. Vì thế em trở lại rừng.”

“Đừng nói thế,” Tom tuyệt vọng nói. “Chúng ta hãy bàn về chuyện đó. Đừng quyết định vội vàng…”

“Đó không phải là quy?