← Quay lại trang sách

PHẦN NĂM - Chương 14 -1152 – 1155

Sau bẩy năm Jack đã chấm dứt hai gian ngang – hai cánh tay của nhà thờ hình thánh giá – và đó là điều mà cậu đã chờ mong. Cậu đã cải tiến ý tưởng của nhà thờ Saint-Denis, làm mọi thứ cao hơn và hẹp hơn – cửa sổ, mái vòm nhọn và ngay cả chính khung vòm. Bên trên hành lang, hàng chùm cột vươn cao duyên dáng và tụ họp ở chính giữa mái vòm. Ánh sáng tràn vào trong qua cửa sổ cao với các đầu nhọn. Các đường gờ được làm tinh tế và đẹp, và các phần trang trí chạm khắc là những cánh lá bằng đá.

Nhưng trong phần cửa sổ phía trên hành lang có vết nứt.

Cậu đứng trên hành lang của phần cửa sổ cao, nhìn vào chỗ nứt sâu ở gian ngang phía bắc, suy tư vào một buổi sáng mùa xuân tràn đầy ánh sáng. Cậu bị sốc và bối rối. Theo kiến thức xây dựng, bức tường đã được xây chắc chắn, nhưng vết nứt tỏ ra điểm yếu. Vòm của cậu cao hơn bất cứ vòm nào mà cậu đã thấy, nhưng không quá cao. Cậu không làm lỗi lầm như Alfred là đặt vòm đá lên trên một cấu trúc không chịu được sức nặng: bức tường của cậu được thiết kế cho một vòm đá. Tuy nhiên các vết nứt đã xuất hiện trong phần cửa sổ trên cao, cùng chỗ nơi bức tường của Alfred sụp đổ. Alfred đã tính sai nhưng Jack chắc chắn đã không làm một lỗi lầm tương tự như vậy. Nó phải có nguyên nhân mới nào đó mà Jack chưa khám phá ra.

Nó không nguy hiểm, nhất là trong thời gian tạm thời. Các vết nứt đã được đổ đầy bằng vữa và chúng chưa xuất hiện trở lại. Tòa nhà an toàn, nhưng nó yếu và sự yếu này lấy đi sự hào hứng của cậu. Cậu muốn nhà thờ của cậu tồn tại cho đến ngày tận thế.

Cậu rời phần cửa sổ trên cao và đi xuống theo cầu thang xoắn vào khu hành lang, nơi cậu đã thiết kế một nền để vẽ dự án, trong một góc phòng nơi ánh sáng chiếu qua một cửa sổ ở hành lang phía bắc. Cậu vẽ một hình thoi, rồi một hình vuông trong hình thoi, rồi một vòng tròn trong hình vuông. Các trụ chính của cột đá bắt đầu từ bốn điểm của hình thoi và vươn lên từ đỉnh cột theo hướng bắc, nam, đông và tây để trở thành một vòm hay khung sườn. Các trụ bổ sung bắt đầu từ các góc của hình vuông, vươn lên thành khung sườn vòm, một bên đi xéo qua gian giữa và một bên qua gian phụ bên cạnh. Vòng tròn ở giữa tượng trưng cho cốt lõi của trụ cột.

Tất cả thiết kế của Jack dựa trên hình học đơn giản và một số tỷ lệ không đơn giản, giả sử như tỉ lệ căn số bình phương của hai với căn số bình phương của ba. Jack đã học tính căn số ở Toledo, nhưng hầu hết thợ xây không tính được và thay vào đó họ dùng cấu trúc hình học đơn giản. Họ biết rằng nếu một vòng tròn được vẽ xung quanh bốn góc của một hình vuông, đường kính của vòng tròn dài hơn một cạnh của hình vuông theo tỷ lệ căn số bình phương của hai với một. Tỷ lệ này, căn số của hai với một, là công thức tính toán cổ xưa phổ thông nhất của thợ xây, đối với các công trình xây dựng đơn giản nó là tỷ lệ của chiều rộng bên ngoài với chiều rộng bên trong, và qua đó cho ra độ dầy của bức tường.

Nhiệm vụ của Jack phức tạp hơn vì có liên quan đến ý nghĩa tôn giáo của các con số. Tu viện trưởng Philip dự định cung hiến nhà thờ mới này cho Đức trinh nữ Maria, bởi vì bức tượng Mẹ khóc làm nhiều phép lạ hơn mộ Thánh Adophus; vì thế ông muốn Jack dùng số chín và bẩy là hai con số tiêu biểu cho Mẹ Maria. Cậu đã thiết kế gian chính với chín ô và gian cung thánh, sẽ được xây khi các phần khác đã hoàn thành, với bẩy ô. Nhịp mái vòm ngầm ở hai gian phụ sẽ được nhìn thấy bẩy vòm mỗi ô, và mặt tiền phía tây có chín cửa sổ nhọn. Jack không biết gì về ý nghĩa thần học của các con số, nhưng do bản năng cậu cảm thấy rằng nếu các con số được dùng đều đặn, nó sẽ tăng thêm sự hài hòa cho tòa nhà khi hoàn thành.

Trước khi cậu có thể chấm dứt bản vẽ về chân cột, cậu bị ngưng lại vì người thợ xây dựng mái chính cần sự giúp đỡ của cậu.

Jack theo ông ấy lên thang cuốn, ngang qua khu có cửa sổ và vào phần mái. Họ đi ngang qua mái vòm tròn, trên đỉnh của khung sườn vòm. Bên trên chúng, các thợ uốn tấm chì lớn và đóng đinh chúng vào các xà nhà. Họ làm việc từ dưới lên, để các tấm trên chồng lên các tấm dưới và giữ cho nước mưa chẩy đi.

Jack nhìn thấy vấn đề ngay lập tức. Cậu đặt một tháp nhọn trang trí ở đầu mỗi khe mái, giữa hai mái dốc, nhưng cậu đã để cho thợ xây cả thiết kế, nhưng thợ xây đã không dự phòng cho nước mưa chảy qua dưới tháp nhọn. Thợ xây phải thay đổi nó. Cậu ra lệnh cho thợ cả làm mái truyền chỉ thị này cho thợ xây, rồi cậu trở về với bản vẽ của cậu.

Cậu kinh ngạc vì Alfred chờ cậu ở đó.

Cậu đã không nói chuyện với Alfred trong mười năm qua, mặc dù lâu lâu từ xa cậu vẫn nhìn thấy cậu ấy ở Shiring hay Winchester. Aliena đã không gặp cậu từ chín năm qua, mặc dù theo giáo hội họ vẫn là vợ chồng. Martha đến thăm cậu ở Shiring một năm một lần. Cô luôn luôn đem về cùng những thông tin tương tự: cậu sung túc, cậu xây nhà cho các người bán thịt ở Shiring; cậu vẫn sống độc thân, vẫn giống như xưa.

Nhưng bây giờ Alfred trông không có gì là sung túc. Cậu trông có vẻ mệt mỏi và chán nản. Alfred luôn luôn to lớn và khỏe mạnh, nhưng bây giờ cậu trông gầy gò: mặt cậu hóp lại, và bàn tay đầy đặn ngày trước bây giờ gầy trơ xương.

Cậu nói: “Chào Jack.”

Thái độ của cậu vẫn hiếu chiến, nhưng giọng nói của cậu dường như muốn lấy lòng – một pha trộn khó chịu.

“Chào Alfred,” Jack nói thận trọng. “Lần trước tôi gặp anh, anh mặc một áo lụa dài và dường như mập mạp.”

“Đó là ba năm về trước – trước khi mùa thu hoạch xấu bắt đầu.”

“À thì ra thế.” Ba mùa thu hoạch xấu gây nên một nạn đói. Nhiều nông nô chết đói, người thuê đất cơ cực, và có lẽ không ai ở Shiring còn có thể xây một căn nhà đá nữa. Alfred đã cảm thấy khó khăn. Jack nói: “Điều gì đã đưa anh trở lại Kingsbridge, sau nhiều năm vắng bóng?”

“Tôi đã nghe nói về các gian ngang của cậu và tôi muốn xem.” Giọng cậu có một sự ngưỡng mộ cưỡng bách. “Cậu đã học xây như thế ở đâu?”

“Paris,” Jack trả lời cộc lốc. Cậu không muốn tranh luận khoảng đời đó của cậu với Alfred, người đã gây ra cuộc ly hương cho cậu.

“Tốt.” Alfred trông ngô nghê, rồi nói với sự thờ ơ: “Tôi muốn làm việc ở đây để học hỏi thêm về những thủ đoạn mới này.”

Jack rất kinh ngạc. Thật sự Alfred can đảm để xin cậu việc làm? Để kéo dài thời gian cậu nói: “Còn nhóm làm việc của anh thì sao?”

“Tôi chỉ còn một mình,” Alfred nói, vẫn cố gắng giữ giọng bình thường. “Không còn đủ công việc cho một nhóm thợ.”

“Hiện nay chúng tôi không thuê thêm ai,” Jack nói trong cùng giọng điệu. “Chúng tôi có đủ một đội ngũ làm việc.”

“Nhưng cậu có thể luôn luôn cần một thợ xây tốt.”

Jack nghe thấy giọng van nơn và nhận ra Alfred thất vọng. Cậu quyết định phải trung thực. “Qua tất cả những gì chúng ta đã trải qua, tôi là người cuối cùng mà anh đến xin giúp đỡ, phải không Alfred?”

“Cậu là người cuối cùng,” Alfed thẳng thắn nói. “Tôi đã cố gắng ở khắp nơi. Không chỗ nào mướn người. Nó là một nạn đói.”

Jack nghĩ lại những lần Alfred đã ngược đãi cậu, hành hạ cậu và đánh đập cậu. Alfred đã đẩy cậu vào tu viện và rồi dồn cậu phải ra đi, xa nhà và xa gia đình. Cậu không có lý do để giúp Alfred. Cậu nói: “Tôi sẽ không thuê anh ngay cả khi tôi cần một người thợ.”

“Tôi nghĩ cậu có thể,” Alfred nói với sự ương ngạnh. “Sau tất cả, bố tôi đã dạy cậu mọi thứ cậu biết. Và vì ông mà cậu trở thành thợ xây dựng chính. Cậu không giúp tôi vì ông ấy sao?”

Vì Tom. Bất ngờ Jack cảm thấy lương tâm cắn rứt. Theo cách riêng, Tom đã cố gắng là một bố dượng tốt. Ông không nhẹ nhàng và thông cảm, nhưng ông đã đối xử với con riêng của ông giống như đối với Jack, và ông đã kiên nhẫn và rộng lượng truyền đạt kiến thức và kỹ năng của ông. Ông đã làm cho mẹ Jack hạnh phúc, hầu như mọi lúc. Sau cùng, Jack nghĩ, tôi là một thợ xây dựng chính thành công và sung túc, đang trên đường đạt được tham vọng của mình là xây một nhà thờ đẹp nhất thế giới; và đó là Alfred, nghèo đói và không có việc làm. Đó chưa phải là một cuộc trả thù đủ sao?”

Không, chưa đủ, cậu nghĩ.

Rồi cậu mủi lòng.

“Được,” cậu nói. “Vì Tom, tôi thuê anh.”

“Cảm ơn,” Alfred nói. Nét mặt của cậu không đọc được. “Tôi có thể bắt đầu ngay không?”

Jack gật đầu. “Chúng tôi đang đặt chân móng cho gian giữa. Hãy tham gia vào đó.”

Alfred dơ tay ra. Jack do dự một lúc, rồi lắc nó. Alfred nắm chắc tay Jack như chưa bao giờ cậu nắm.

Alfred đi ra. Jack đứng nhìn xuống bản vẽ của ông về chân cột trụ cho gian giữa. Cậu đã vẽ nó bằng kích thước thật, vì thế mà khi nó hoàn tất, thợ mộc chính có thể làm một mẫu bằng gỗ trực tiếp từ bản vẽ. Các thợ xây sẽ dùng khuôn mẫu để cắt đá.

Cậu có quyết định đúng không? Cậu nhớ lại bức tường của Alfred đã sụp đổ. Tuy nhiên, cậu sẽ không dùng Alfred cho những công việc khó khăn như mái trần hoặc mái vòm. Cậu ấy sẽ thích hợp cho các bức tường thẳng và nền nhà.

Trong lúc Jack vẫn còn suy nghĩ, tiếng chuông trưa báo hiệu giờ cơm. Cậu để dụng cụ vẽ xuống và đi theo cầu thang xoáy xuống tầng trệt.

Các thợ xây có vợ con về nhà ăn cơm trưa và những người độc thân ăn ở trong lều. Một số công trình xây dựng cung cấp bữa ăn trưa để tránh chậm trễ giờ làm buổi chiều, tránh vắng mặt và say xỉn; nhưng đồ ăn của các tu sĩ thường kham khổ và hầu hết các thợ xây dựng muốn tự lo đồ ăn cho mình. Jack vẫn còn sống trong căn nhà cũ của Tom với Martha, em ghẻ của cậu, người lo việc nhà cho cậu. Khi Aliena bận rộn, Martha chăm sóc Tommy và đứa con thứ hai của Jack, một bé gái có tên là Sally. Martha thường nấu cơm cho Jack và các trẻ em, và một đôi khi Aliena cùng ăn với họ.

Cậu rời tu viện và đi bộ nhanh về nhà. Trên đường đi Jack chợt nghĩ không biết Alfred có chờ đợi dọn về ở với Martha không? Dầu sao cô cũng là em gái của cậu ấy. Jack đã không nghĩ về điều đó khi cậu đồng ý thuê Alfred.

Nó là một nỗi sợ ngu xuẩn, sau đó cậu nghĩ lại. Những ngày mà Alfred có thể bắt nạt cậu đã qua đi. Cậu là thợ xây dựng chính ở Kingsbridge, và nếu cậu nói Alfred không thể chuyển về ở chung nhà thì Alfred sẽ không thể.

Cậu dự kiến sẽ thấy Alfred ngồi ở bàn ăn, và thở phào nhẹ nhõm khi không thấy. Aliena đang lo cho các con ăn, trong khi Martha nấu một nồi trên lửa. Mùi của thịt cừu hầm bốc lên thơm phức.

Cậu hôn nhẹ lên trán Aliena. Cô đã ba mươi ba tuổi, nhưng trông cô như trẻ hơn cả mười tuổi: mái tóc nâu đậm của cô vẫn xoăn và dầy, miệng cô vẫn xinh và đôi mắt đen đẹp. Chỉ khi cô trần truồng, những thay đổi vì thời gian và sinh con mới rõ nét: bộ ngực tuyệt vời của cô trễ xuống hơn, hông rộng hơn và bụng không bằng phẳng và căng như trước.

Jack nhìn trìu mến vào kết quả mà Aliena đã mang trong bụng: bé Tommy chín tuổi, một đứa con trai tóc đỏ khỏe mạnh, to lớn so với lứa tuổi của cậu, xúc thịt cừu vào miệng như thể cậu đã nhịn đói nhiều tuần; và Sally bảy tuổi với mói tóc quăn đen như mẹ, cười hạnh phúc và để lộ một lỗ giữa các răng cửa giống như của Martha khi Jack gặp cô mười bảy năm về trước. Mỗi buổi sáng Tommy đến trường trong tu viện học đọc và viết, nhưng các tu sĩ không nhận con gái nên Aliena phải dạy Sally học.

Jack ngồi xuống, và Martha bắc nồi ra khỏi lửa và ngồi xuống bên bàn. Martha là một thiếu nữ kỳ lạ, mặc dù cô đã hai mươi tuổi nhưng cô không quan tâm đến việc lập gia đình. Cô luôn dành nhiều cảm tình cho Jack và bây giờ cô hoàn toàn hài lòng là người người giúp việc cho cậu.

Không nghi ngờ gì, Jack là chủ một gia đình đặc biệt trong quận. Cậu và Aliena là hai cư dân hàng đầu trong thị trấn: cậu là thợ xây dựng chính ở nhà thờ chính tòa và cô là chủ nhà máy vải lớn nhất, ngoại trừ ở Winchester. Mọi người đều coi họ là vợ chồng mặc dù họ bị cấm qua đêm với nhau, và mỗi người sống trong nhà riêng, Aliena với em cô và Jack với em ghẻ của cậu. Mỗi chiều chủ nhật và ngày lễ họ đều biến mất, và mọi người biết họ làm gì, dĩ nhiên, ngoại trừ Tu viện trưởng Philip. Trong khi đó mẹ Jack sống trong một hang động ở rừng, vì bà được coi là một phù thủy.

Jack luôn tức giận vì không được phép cưới Aliena. Cậu nằm thao thức, lắng nghe Martha ngáy trong phòng bên cạnh, và nghĩ: tôi đã hai mươi tám tuổi – tại sao tôi phải ngủ một mình? Ngày hôm sau cậu lại khó chịu với Tu viện trưởng Philip, từ chối tất cả những đề nghị và yêu cầu từ cuộc họp của tu viện vì cho rằng không khả thi hoặc quá mắc, và từ chối thảo luận để tìm kiếm những lựa chọn khác hoặc thỏa hiệp, như thể chỉ có một cách để xây nhà thờ chính tòa và cách đó là của Jack. Trong những trường hợp như vậy, Philip để cậu yên vài ngày và chờ cho cơn bão đi qua.

Aliena cũng không hạnh phúc, và cô đổ lên đầu Jack. Cô trở nên thiếu kiên nhẫn và cố chấp, phê bình mọi chuyện Jack làm, đưa các con đi ngủ khi cậu bước vào, nói cô không đói khi cậu ăn. Một hay hai ngày sau, cô sẽ bật khóc và nói lời xin lỗi, và rồi họ lại hạnh phúc, cho đến khi sự căng thẳng lại đến.

Jack múc một số thịt hầm vào chén và ăn. “Đoán xem ai đến công trường xây dựng hôm nay?” Cậu hỏi. “Alfred.”

Martha đánh rơi nắp nồi xuống bếp. Jack nhìn cô và thấy nỗi sợ hãi trên mặt cô. Cậu quay qua Aliena và thấy cô trắng bệch.

Aliena nói: “Anh ấy làm gì ở Kingsbridge?”

“Đi tìm việc. Các thương gia ở Shiring đã bị ảnh hưởng của nạn đói, tôi đoán thế, và họ không còn xây nhà đá như trước nữa. Anh ấy đã cho nhóm thợ của anh ấy nghỉ việc và anh ấy không có việc làm.”

“Em mong rằng anh đã đuổi anh ấy đi,” Aliena nói.

“Anh ấy nói anh nên cho anh ấy một công việc vì Tom,” Jack lo lắng nói. Cậu đã không dự đoán một phản ứng mạnh mẽ như thế của hai phụ nữ. “Mọi thứ anh đã mắc nợ Tom.”

“Đồ cứt,” Aliena nói, và Jack nghĩ: cô đã học chữ đó từ mẹ mình.

“Dù sao anh cũng đã thuê anh ấy,” cậu nói.

“Jack!” Aliena hét lên. “Tại sao anh làm như thế? Anh không thể để cho anh ấy – con quỷ đó - trở lại Kingsbridge.”

Sally lên tiếng khóc. Tommy mở to mắt nhìn mẹ. Jack nói: “Alfred không phải là con quỷ. Anh ấy đói và không có tiền. Anh cứu anh ấy vì nhớ tới bố anh ấy.”

“Anh không nên thương hại anh ấy, nếu như anh ấy đã ép anh ngủ trên nền đất phía cuối chân giường của anh ấy như một con chó trong chín tháng trời. Anh ấy đã đối xử tồi tệ với em - hãy hỏi Martha.”

Martha nói: “Ngay cả với em.”

Jack nói: “Tình trạng tồi tệ của anh ấy bây giờ đối với anh đã là một trả thù đủ rồi.”

“Nhưng nó chưa đủ đối với em!” Aliena gầm lên. “Trời ơi, anh là một kẻ ngu ngốc, Jack Jackson. Một đôi khi tôi cảm tạ Thiên Chúa vì tôi không kết hôn với anh.”

Nó làm cậu đau. Jack nhìn đi chỗ khác. Cậu biết cô không nghĩ thế, nhưng cô không nên nói thế ngay cả trong lúc tức giận. Cậu lấy cái muỗng và tiếp tục ăn. Nó không dễ nuốt.

Aliena vỗ đầu Sally và đặt một miếng cà rốt vào miệng nó. Sally ngừng khóc.

Jack nhìn Tommy. Cậu vẫn nhìn Aliena với bộ mặt sợ hãi. “Ăn đi Tommy,” Jack nói. “Ngon lắm!”

Họ chấm dứt bữa ăn trưa trong im lặng.

Vào mùa xuân năm đó gian ngang của nhà thờ đã hoàn tất, Tu viện trưởng Philip đi một vòng giám sát đất đai của tu viện ở phía nam. Sau ba năm mất mùa ông cần một mùa gặt hái tốt, và ông muốn kiểm soát tình hình các trang trại.

Ông mang Jonathan với ông. Đứa bé mồ côi trong tu viện bây giờ đã mười sáu tuổi, cao lớn, ngượng nghịu và thông minh. Giống Philip vào lứa tuổi đó, cậu đã biết cậu muốn làm gì với cuộc đời cậu: cậu đã xong chương trình tập sinh và đã có lời khấn, và bây giờ cậu là Thầy Jonathan. Cũng giống Philip, cậu quan tâm đến việc phụng sự Thiên Chúa trong những công việc cụ thể. Cậu làm việc như phụ tá cho Cuthbert Whitehead, một quản lý đã lớn tuổi. Philip hãnh diện về cậu: cậu đạo đức, chăm chỉ và được lòng nhiều người.

Người hộ tống của họ là Richard, em trai của Aliena. Sau cùng Richard đã tìm được chỗ đứng của mình ở Kingsbridge. Sau khi họ xây tường thành, Philip đã đề nghị với ban lãnh đạo giáo xứ chỉ định Richard làm trưởng ban canh gác, chịu trách nhiệm cho an ninh của thị trấn. Cậu tổ chức người gác ban đêm, lo duy trì và cải thiện tường thành, và vào những ngày chợ hoặc ngày lễ cậu được quyền bắt kẻ gây rối và say rượu. Nhiệm vụ này là những việc cần thiết khi một ngôi làng lớn mạnh thành thị trấn, là những việc một tu sĩ không nên làm; vì thế ban lãnh đạo giáo xứ mà lúc đầu Philip tưởng như là mối đe dọa cho uy quyền của ông, bây giờ lại thành hữu dụng. Và Richard vui mừng. Cậu đã ba mươi tuổi, nhưng đời sống hoạt động làm cho cậu trông trẻ hơn.

Philip ước muốn chị của Richard cũng được ổn định. Nếu một người nào đó bị giáo hội bỏ quên, người đó phải là Aliena. Jack là người đàn ông cô yêu và là bố của con cô, nhưng giáo hội khẳng định cô đã kết hôn với Alfred, mặc dù cô chẳng có quan hệ xác thịt với cậu ấy; và cô không nhận được sự vô hiệu hóa hôn nhân vì giám mục chống lại. Nó đáng xấu hổ và Philip cảm thấy có lỗi, mặc dù ông không có trách nhiệm gì trong việc này.

Vào cuối chuyến đi, trên đường về xuyên qua khu rừng vào một buổi sáng mùa xuân đẹp, Jonathan nói: “Em tự hỏi làm sao Thiên Chúa lại để con người chết đói.”

Nó là một câu hỏi mà mỗi tu sĩ trẻ sớm hay muộn gì cũng sẽ đặt ra, và có nhiều câu trả lời cho nó. Philip nói: “Đừng đổ lỗi nạn đói này cho Thiên Chúa.”

“Nhưng Thiên Chúa làm nên thời tiết gây ra mất mùa.”

“Nạn đói không phải chỉ là hậu quả của mất mùa,” Philip nói. “Cứ vài ba năm lại có vụ mất mùa, nhưng dân chúng không phải chết đói. Về cuộc khủng hoảng này, hậu quả của nhiều năm nội chiến đóng một vai trò quan trọng.”

“Tại sao nội chiến lại ảnh hưởng đến việc đó?” Jonathan hỏi.

Lần này Richard với kinh nghiệm của một người lính trả lời cậu: “Trong chiến tranh những nông dân gặp nhiều thiệt thòi,” cậu nói. “Các thú vật được dùng nuôi quân đội, cánh đồng lúa bị đốt cháy để ngừa quân địch cướp và các trang trại bị bỏ hoang vì các người trẻ phải tham gia quân đội.”

Philip thêm vào: “Và khi tương lai không chắc chắn, dân chúng không nỗ lực đầu tư thời gian và công sức giải phóng mặt bằng mới, tăng gia đàn gia súc, đào mương và xây dựng nhà kho.”

“Nhưng chúng ta không ngừng làm những công việc đó,” Jonathan nói.

“Tu viện khác. Nhưng hầu hết các nông dân bỏ hoang nông trại của họ trong thời gian chiến tranh, vì thế mà khi thời tiết xấu đến họ không thể chống lại nó. Các tu sĩ nhìn xa hơn. Nhưng chúng ta có vấn đề khác. Giá của len giảm vì nạn đói.”

“Em không nhìn thấy sự liên quan,” Jonathan nói.

“Tôi cho rằng dân chúng đang chết đói nên không mua quần áo nữa.” Đây là lần đầu tiên giá len không tăng lên hàng năm, Philip nhớ lại. Ông phải giảm tốc độ xây dựng nhà thờ, không nhận thêm tập sinh, cắt giảm rượu và thịt trong các bữa ăn của tu sĩ. “Thật không may mắn, chúng ta phải tiết kiệm đúng vào lúc có nhiều người đến Kingsbridge tìm kiếm việc làm.”

Jonathan nói: “Và vì thế họ xếp hàng dài trước cổng tu viện xin bánh và súp.”

Philip gật đầu. Ông đau dớn nhìn thấy những người cường tráng xin cơm bánh vì họ không tìm được việc làm. “Nhưng hãy nhớ rằng nó là hậu quả của chiến tranh, không phải mất mùa,” ông nói.

Với lòng nhiệt thành trẻ trung Jonathan nói: “Em hy vọng có một chỗ đặc biệt trong hỏa ngục cho các vua chúa đã gây nên sự khốn khổ như thế.”

“Tôi cũng hy vọng như vậy.”

Một nhân vật lạ xuất hiện từ lùm cây và chạy về hướng Philip. Quần áo của ông rách nát, tóc ông lù xù và khuôn mặt đầy bụi đất. Philip nghĩ người này chạy trốn trước một con heo điên hay một con gấu.

Rồi người này lao vào Philip. Quá bất ngờ, Philip ngã xuống ngựa.

Kẻ tấn công ngồi trên mình ông. Hắn hôi như một con vật và tiếng rên của ông cũng giống như một con vật nữa. Philip luồn lách và dẫy dụa. Kẻ tấn công dường như muốn lấy túi da mà Philip đeo trên vai. Philip nhận ra hắn muốn cướp của ông. Không có gì trong túi, ngoại trừ một cuốn sách ‘Bài ca của Salomon’. Philip cố thoát thân, không phải ông gắn bó với cuốn sách, nhưng vì tên cướp bẩn quá.

Nhưng dây đeo đã rối và tên cướp không lấy được. Họ lăn lộn trên mặt đất cứng, Philip muốn thoát ra, còn tên cướp muốn cố giữ túi da. Philip mơ hồ nhận ra ngựa ông đã trốn đi.

Bất ngờ tên cướp bị Richard kéo ra. Philip lăn người ra và ngồi lên, nhưng ông chưa đứng lên được. Ông bàng hoàng và hụt hơi. Ông hít không khí trong lành, nhẹ người vì thoát được tên cướp độc hại. Ông cảm thấy nhiều chỗ bị đau nhức, nhưng không bị gẫy gì. Ông chú ý đến người khác.

Richard đã vật tên cướp xuống đất và đứng trên hắn, một chân trên vai hắn và chĩa mũi kiếm vào cổ hắn. Jonathan giữ hai con ngựa còn lại và nhìn ngơ ngác.

Philip thận trọng đứng lên, cảm thấy loạng quạng. Khi tôi bằng tuổi Jonathan, ông nghĩ, tôi có thể ngã ngựa và đứng dậy được ngay.

Richard nói: “Nếu ông trông tên cướp này, tôi sẽ lấy lại con ngựa của ông.” Cậu đưa cho Philip cây kiếm.

“Được,” Philip nói. Ông đẩy thanh kiếm đi. “Tôi không cần nó.”

Richard do dự, rồi cất thanh kiếm đi. Kẻ trộm nằm yên. Chân hắn thò ra khỏi áo ngoài, gầy như que củi và có cùng màu như que củi; và hắn đi chân không. Phlip không ở trong tình trạnh nguy hiểm nghiêm trọng: người đàn ông nghèo khổ này quá yếu để siết cổ con gà. Richard đi tìm ngựa cho Philip.

Khi tên cướp thấy Richard đi, hắn cựa quậy. Philip biết hắn muốn tìm cách trốn. Ông nói: “Ông muốn ăn gì không?”

Tên cướp ngẩng đầu nhìn Philip như thể hắn nghĩ Philip bị điên.

Philip đi đến bên con ngựa của Jonathan và mởi túi đeo bên yên. Ông lấy một ổ bánh, bẻ ra và cho tên cướp một nửa. Bán tín bán nghi hắn cầm lấy và nhét tất cả vào miệng.

Philip ngồi trên mặt đất và theo dõi hắn. Người đàn ông ăn như một con vật, cố nhét vào miệng bao nhiêu có thể vì sợ bữa ăn có thể bị lấy lại. Lúc đầu Philip nghĩ hắn là một ông già, nhưng bây giờ khi nhìn kỹ hơn, ông nhận ra tên cướp còn rất trẻ, chừng hai mươi lăm.

Richard trở về, đem theo con ngựa của Philip. Cậu phẫn nộ khi thấy tên cướp đang ngồi ăn. “Tại sao ông lại cho hắn đồ ăn của chúng ta?” cậu hỏi Philip.

“Bởi vì ông ấy sắp chết đói,” Philip nói.

Richard không trả lời, nhưng thái độ của cậu nói lên rằng, cậu cho các tu sĩ là điên khùng.

Khi tên cướp ăn xong, Philip nói: “Ông tên gì?”

Người đàn ông cảnh giác. Ông ấy do dự. Có lẽ đã từ lâu ông ấy không nói chuyện với người nào, Philip nghĩ. Sau cùng hắn nói: “David.”

Dù sao hắn vẫn còn tỉnh táo, Philip nghĩ. Ông nói: “Chuyện gì đã xẩy ra với ông, David?”

“Tôi đã mất nông trại của tôi sau mùa gặt vừa qua.”

“Ai là chủ ruộng của ông?”

“Bá tước thành Shiring.”

William Hamleigh. Philip không ngạc nhiên.

Sau ba năm mất mùa hàng ngàn người thuê đất đã không có khả năng trả tiền thuê đất. Khi những người thuê đất của Philip không đủ khả năng trả tiền thuê, ông tha cho họ vì ông nghĩ đơn giản là nếu họ nghèo khó, họ cũng lại đến tu viện xin ăn. Các chủ đất khác, đặc biệt là William tận dụng cơ hội của cuộc khủng hoảng để đuổi người thuê và lấy lại trang trại của họ. Hậu quả là số người sống ngoài vòng pháp luật ở trong rừng tăng lên và họ sống bằng của ăn cướp từ khách du hành. Đó là lý do tại sao Philip phải đem Richard theo hộ vệ khắp nơi ông đi.

“Gia đình ông thì sao?” Philip hỏi tên cướp.

“Vợ tôi đem con về ở với mẹ. Nhưng ở đó không có chỗ cho tôi.”

Nó là một câu chuyện quen thuộc. Philip nói: “Ăn cướp của một tu sĩ là một tội, David; và sống bằng trộm cướp là một sai lầm.”

“Nhưng tôi sống thế nào được?” người đàn ông thét lên.

“Nếu ông dự định sống trong rừng, tốt hơn ông nên bắt chim và cá.”

“Tôi không biết cách bắt.”

“Làm người ăn cướp ông cũng không thành công hơn,” Philip nói. “Với hai tay không ông có cơ hội gì chống lại ba chúng tôi, và Richard đây có trang bị đủ vũ khí?”

“Tôi hoàn toàn tuyệt vọng.”

“Được, lần sau khi ông tuyệt vọng, hãy đến một tu viện. Ở đó luôn luôn có cái gì đó cho người nghèo.” Philip đứng lên. Hương vị chua của đạo đức giả trong miệng ông. Ông biết các tu viện không có thể cho tất cả những người sống ngoài vòng pháp luật ăn. Hầu hết họ không làm gì khác ngoài việc trộm cướp. Nhưng vai trò của ông trong đời là để tư vấn đời sống đạo đức, không phải để biện hộ cho tội lỗi.

Ông không thể làm gì nhiều hơn cho người bất hạnh này. Ông cầm lấy sợi dây cương và leo lên yên ngựa. Ông có thể nói rằng những vết thương từ việc ngã ngựa vừa qua sẽ còn làm ông đau nhức nhiều ngày nữa. “Hãy đi và đừng phạm tội nữa,” ông nói theo lời của Chúa Giê Su; rồi ông thúc ngựa đi.

“Ông tốt quá, thực sự tốt,” Richard nói khi họ cưỡi ngựa đi.

Philip lắc đầu buồn bã. “Vấn đề thực sự là: tôi chưa tốt đủ.”

Vào ngày chủ nhật trước lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, William Hamleigh kết hôn.

Đó là ý tưởng của mẹ cậu.

Đã nhiều năm bà đã thôi thúc cậu tìm một người vợ và có con để nối dõi, nhưng cậu luôn thờ ơ. Phụ nữ làm cậu chán và, trong một cách mà cậu không hiểu và thực sự không muốn nghĩ về, họ làm cậu lo lắng. Cậu luôn luôn nói với mẹ là cậu sẽ kết hôn ngay nhưng cậu không làm gì về chuyện đó.

Sau cùng bà tìm cho cậu một cô dâu.

Tên cô là Elizabeth. Cô là con gái của Harold thành Weymouth, một hiệp sĩ giàu có và là người ủng hộ mạnh mẽ vua Stephen. Bà mẹ đã cắt nghĩa cho cậu rằng, nếu cậu cố gắng một chút cậu có thể có một hôn nhân tốt hơn – giả sử như với con gái một bá tước – nhưng cậu không để tâm trí vào việc đó, nên với Elizabeth là được rồi.

Wiliam đã gặp cô ấy trong cung vua ở Winchester, và bà mẹ đã để ý khi cậu nhìn chằm chằm vào cô. Cô có khuôn mặt đẹp, mái tóc nâu sáng dầy, cặp ngực to và hông bé – một mẫu người William ưa thích.

Cô mười bốn tuổi.

Khi William nhìn cô, cậu đã tưởng tượng gặp cô vào một đêm tối và ép cô vào các con hẻm sau của Winchester: cậu không nghĩ về hôn nhân. Tuy nhiên bà mẹ đã nhanh chóng tìm ra rằng, ông bố là người dễ chịu và cô là đứa con vâng lời nên cô sẽ làm theo lời bố. Sau khi bà chắc chắn với William rằng sẽ không có sự sỉ nhục như Aliena đã gây ra cho gia đình, bà mẹ sắp xếp một cuộc gặp.

William lo âu. Lần trước, khi cậu làm chuyện này, cậu mới là chàng trai hai mươi chưa kinh nghiệm gặp một thiếu nữ kiêu kỳ của một gia đình quý tộc. Nhưng bây giờ cậu đã là một chiến binh cứng rắn, ba mươi bảy tuổi, và cậu đã là bá tước thành Shiring từ mười năm qua. Thật là khờ dại khi cậu lo lắng về cuộc gặp với một cô gái mười bốn tuổi.

Tuy nhiên cô lại hồi hộp hơn. Cô cố gắng làm hài lòng cậu. Cô hăng hái kể về nhà và gia đình cô, về ngựa và chó, về mối quan hệ họ hàng và bạn bè của cô. Cậu ngồi im lặng, ngắm nhìn khuôn mặt cô, tưởng tượng cô sẽ ra sao khi cô trần truồng.

Giám mục Waleran làm phép cưới cho họ trong nhà nguyện của lâu đài lãnh chúa. Sau đó là một buổi tiệc kéo dài tới đêm. Theo phong tục, tất cả những nhân vật quan trọng trong quận phải được mời, và William sẽ xấu hổ nếu không thiết đãi một bữa tiệc hoành tráng. Họ nướng ba con bò, hàng chục con cừu và heo trong khuôn viên lâu đài, và khách khứa uống cạn bia, rượu táo và rượu vang trong hầm rượu của lâu đài. Mẹ của William chủ trì bữa tiệc với một cái nhìn đắc thắng trên khuôn mặt bà. Giám mục Waleran khó chịu về buổi tiệc thô tục, và ông ra về khi cậu của cô dâu bắt đầu kể những câu truyện hài hước về các đôi mới lấy nhau.

Cô dâu và chú rể lui về phòng ngủ của họ khi đêm xuống, và để khách khứa tiếp tục say sưa. William đã có mặt ở nhiều đám cưới đủ để biết những gì các người khách trẻ đang nghĩ, vì thế cậu cắt đặt Walter ở ngoài phòng và chặn cửa để tránh bị làm phiền.

Elizabeth cởi áo ngoài, giày rồi đứng đó trong bộ áo lụa. “Em không biết phải làm gì,” cô nói đơn giản. “Anh phải chỉ cho em biết.”

Điều đó không hoàn toàn như William đã tưởng tượng. Cậu đi về phía cô. Cô ngấc mặt lên, và cậu hôn lên môi mềm mại của cô. Nhưng nó không tạo nên kích thích. Cậu nói: “Cởi áo ra và nằm xuống giường.”

Cô cởi áo qua khỏi đầu. Cô khá đầy đặn. Bộ ngực lớn của cô có núm vú nhỏ. Một đám lông màu nâu sáng bao phủ khu tam giác giữa chân cô. Ngoan ngoãn, cô đến giường và nằm xuống.

William đá chiếc giày của cậu ra. Cậu ngồi trên giường bên cạnh cô và siết chặt ngực cô. Da cô mềm mại. Người con gái ngọt ngào, chiều chuộng và vui vẻ này không giống với tưởng tượng đã làm cậu thèm khát, tưởng tượng về một người phụ nữ đầy đam mê, nằm thở hổn hển và đổ mồ hôi dưới người cậu, và cậu cảm thấy bị lừa.

Cậu đặt tay lên giữa hai đùi cô và cô dạng chân ngay. Cậu cho ngón tay vào cô. Cô kêu lên một tiếng nhỏ vì đau, nhưng vội vàng nói: “Không sao cả.”

Cậu phân vân không biết có phải cậu đã làm sai cách không. Cậu có một tưởng tượng hoàn toàn khác, trong đó hai người nằm bên nhau, vuốt ve, nói chuyện và làm quen dần với nhau. Tuy nhiên tiếng kêu của cô đã kích thích cậu, và cậu bỏ qua sự nghi ngờ và cậu sờ cô thô bạo hơn. Cậu quan sát khuôn mặt cô khi cô phải chống cự lại nỗi đau âm thầm.

Cậu lên giường và quỳ giữa hai chân cô. Cậu không bị kích thích hoàn toàn. Cậu tự cọ sát cho nó cứng hơn nhưng không kết quả. Cậu chắc rằng nụ cười chết tiệt của cô đã làm cậu bất lực. Cậu cho hai ngón tay vào cô và cô kêu lên đau đớn. Như thế tốt hơn. Rồi cô khờ dại này lại cười. Cậu nhận ra cậu phải chấm dứt nụ cười trên mặt cô. Cậu tát mạnh vào cô. Cô kêu lên và môi cô chảy máu. Như thế càng tốt hơn.

Cậu đánh cô thêm.

Cô bắt đầu khóc.

Sau đó mọi chuyện tốt đẹp.

Chủ nhật sau đó rơi vào lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống và một số đông sẽ tham dự ở nhà thờ chính tòa. Giám mục Waleran sẽ chủ sự giờ lễ. Sẽ có nhiều người tham dự hơn mọi khi vì mọi người đều muốn ngắm gian ngang mới vừa được hoàn thành gần đây. Tin đồn rằng nó tuyệt đẹp. Trong giờ lễ này William sẽ giới thiệu vợ cậu cho người dân bình thường trong quận. Từ khi xây tường thành cậu đã không đến đây, nhưng Philip không thể cấm cậu đi nhà thờ.

Hai ngày trước lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, mẹ cậu qua đời.

Bà ấy chừng sáu mươi tuổi. Nó hoàn toàn bất ngờ. Bà cảm thấy khó thở sau bữa cơm tối vào ngày thứ sáu và lên giường sớm. Cô hầu đánh thức William trước bình minh và cho cậu biết mẹ cậu đang bị nạn. Cậu ra khỏi giường, lấy tay chà lên mặt và đi gấp vào phòng bà. Cậu thấy bà há hốc miệng để thở, không còn nói nên lời và một cái nhìn kinh khủng trong mắt bà.

Hơi thở hổn hển run rẩy của bà và đôi mắt chằm chằm của bà làm William hoảng sợ. Bà tiếp tục nhìn cậu như thể bà chờ đợi cậu sẽ làm gì đó. Cậu quá sợ hãi đến nỗi cậu quyết định rời phòng, và cậu quay đi; rồi cậu thấy người hầu đứng ở cửa, và cậu xấu hổ về sự sợ hãi của cậu. Cậu ép mình nhìn vào mẹ. Khuôn mặt bà dường như thay đổi thường xuyên trong ánh sáng lập lòe của một ngọn nến. Hơi thở khàn, đứt quãng của bà to dần, to dần cho đến khi đổ đầy đầu cậu. Cậu không hiểu tại sao nó không đánh thức cả tòa lâu đài dậy. Cậu bịt tai lại bằng hai bàn tay nhưng cậu vẫn nghe thấy nó. Dường như bà muốn hét lên với cậu, cách mà bà đã làm khi cậu còn là một đứa bé, và khuôn mặt bà cũng giận dữ nữa, miệng mở rộng, đôi mắt chằm chằm, mái tóc rối. Cậu tin chắc rằng bà đòi hỏi một cái gì đó phải lớn lên, và cậu cảm thấy chính mình trẻ đi và nhỏ đi, cho đến khi cậu cảm thấy một sự khiếp sợ mù quáng mà cậu chưa bao giờ có, một sự khiếp sợ đến từ nhận biết rằng người duy nhất cậu yêu lại là một con quái vật giận dữ. Nó thường xẩy ra như thế này: Bà muốn cậu đến bên bà, hay đi ra, hay lên ngựa, hay xuống ngựa; và cậu sẽ chần chừ làm theo, vì thế bà sẽ la lên; và rồi cậu quá sợ hãi đến nỗi không hiểu bà muốn cậu làm gì; và nó sẽ là một bế tắc cuồng loạn, với tiếng la hét lớn hơn và lớn hơn của bà và cậu trở thành mù quáng, điếc và câm trước sự hoảng loạn.

Nhưng lần này khác.

Lần này bà chết.

Trước hết mắt bà nhắm lại. William bắt đầu cảm thấy bình tĩnh hơn. Dần dần hơi thở bà nông hơn. Khuôn mặt bà xám đi dù có nhiều mụn nhọt. Ngay cả ngọn nến dường như cháy yếu đi, và chiếc bóng chuyển động không còn làm cậu sợ. Sau cùng hơi thở bà dừng lại.

“Đây,” William nói, “có phải bây giờ bà tốt hơn không?”

Người giúp việc bật khóc.

Cậu ngồi xuống bên cạnh giường, nhìn vào khuôn mặt bất động của bà. Người giúp việc gọi vị linh mục. Ông giận dữ nói: “Tại sao bà không kêu tôi sớm hơn?” William không chăm chú nghe ông ấy. Cậu vẫn ngồi với bà cho đến bình minh; rồi các phụ nữ giúp việc yêu cầu cậu ra ngoài để họ có thể “lo cho bà”. William đi xuống sảnh đường, nơi cư dân lâu đài – hiệp sĩ, binh lính, giáo sĩ và người giúp việc – đang ăn sáng nhẹ. Họ ngồi ở bàn bên cạnh người vợ trẻ của cậu và uống ít rượu. Một hai người hiệp sĩ và người quản lý nói với cậu, nhưng cậu không trả lời. Sau đó Walter đi vào và ngồi bên cậu. Walter đã ở bên cậu nhiều năm và ông ấy biết khi nào nên im lặng.

Một lúc sau William hỏi: “Những con ngựa đã sẵn sàng chưa?”

Walter nhìn ngạc nhiên. “Để làm gì?”

“Cho cuộc hành trình đến Kingsbridge. Nó cần hai ngày đường – chúng ta phải khởi hành sáng nay.”

“Tôi nghĩ chúng ta không nên đi – trong hoàn cảnh…”

William giận dữ. “Tôi có nói là chúng ta không nên đi sao?”

“Không, thưa ngài.”

“Vậy thì chúng ta đi.”

“Vâng, thưa ngài.” Walter đứng dậy.

Họ lên đường sáng hôm đó, William và Elizabeth cùng với đoàn tùy tùng gồm các hiệp sĩ và người hầu cận. William cảm thấy như cậu ở trong mơ. Phong cảnh dường như di chuyển qua cậu, thay vì ngược lại. Elizabeth cưỡi ngựa bên cạnh cậu, yên lặng và bị thương nhẹ. Khi họ dừng lại Walter lo lắng mọi chuyện. Mỗi bữa ăn William ăn một ít bánh và uống nhiều chén rượu. Trong đêm ông ngủ chập chờn.

Khi họ đến gần Kingsbridge, ngang qua cánh đồng màu xanh họ có thể thấy nhà thờ chính tòa từ xa. Nhà thờ chính tòa cũ là một tòa nhà thấp, bành ra với những cửa sổ nhỏ như con mắt lấp láy dưới lông mày cong tròn. Nhà thờ mới trông hoàn toàn khác, ngay cả nó chưa hoàn thành. Nó cao và mỏng, và các cửa sổ lớn không tưởng được. Khi họ đến gần hơn, William thấy nhà thờ làm cho các tòa nhà tu viện xung quanh nó thành nhỏ xíu.

Con đường đông đúc với người cuỡi ngựa và người đi bộ, tất cả hướng về Kingsbridge: lễ Chúa Thánh thần hiện xuống được phổ biến vì nó rơi vào đầu mùa hè khi thời tiết tốt và những con đường khô ráo. Năm nay có nhiều người đến hơn mọi năm vì bị thu hút bởi sự mới lạ của tòa nhà mới.

Vào chặng đường cuối William và đoàn của cậu phi nước đại, đẩy dạt người đi bộ sang một bên, rồi chạy lên cây cầu gỗ bắc ngang dòng sông. Kingsbridge bây giờ là một trong những thị trấn chắc chắn nhất nước Anh. Nó có một bức tường đá dầy với công sự và lỗ châu mai, và nơi đây, trước kia là cây cầu dẫn thẳng vào con đường chính, bây giờ là một tháp canh bằng đá có cánh cửa sắt to lớn đóng lại vào ban đêm. Tôi không nghĩ tôi có thể đốt cháy thị trấn này lần nữa, William mơ hồ nghĩ.

Dân chúng nhìn chằm chằm khi cậu cưỡi ngựa theo con đường chính vào tu viện. Dân chúng luôn nhìn William, dĩ nhiên, vì cậu là lãnh chúa. Hôm nay họ lại quan tâm tới cô dâu trẻ bên phía trái cậu. Bên phải cậu là Walter, như mọi khi.

Họ cưỡi ngựa vào khu tu viện và xuống ngựa ở chuồng ngựa. William đưa ngựa cho Walter và quay lại nhìn vào nhà thờ. Đầu phía đông, phần đầu của hình thánh giá, ở phía xa nên bị che khuất. Đầu phía tây, phần đuôi của hình thánh giá, chưa được xây dựng, nhưng hình dáng của nó được đánh dấu trên mặt đất bằng cọc và dây, và một vài nền móng đã được đào. Giữa hai phần này là phần mới, hai cánh tay của thánh giá là gian ngang phía bắc và phía nam, với một không gian ở giữa được gọi là khu trung tâm. Các cửa sổ to như có thể. William chưa bao giờ nhìn thấy một tòa nhà như thế trong đời cậu.

“Thật tuyệt vời,” Elizabeth nói, phá vỡ sự im lặng phục tùng của cô.

William ước gì cậu đã để cô lại ở nhà.

Với một chút kính sợ cậu chậm rãi bước lên gian giữa, giữa hàng cọc và dây, với Elizabeth theo sau. Ô thứ nhất của gian giữa đã được xây một phần, nhưng nó trông như đang đỡ mái vòm nhọn to lớn, kéo dài từ cổng phía tây đến khu trung tâm. William đi dưới mái vòm không thể tưởng tượng được này và đến khu trung tâm đầy người.

Tòa nhà mới trông như không thật: nó quá cao, quá mảnh mai, quá duyên dáng và dễ vỡ để đứng thẳng. Nó như không có tường, không có gì đỡ mái nhà nhưng một hàng cột uyển chuyển vươn lên tới trời. Như những người xung quanh, William ngẩng cổ lên nhìn và thấy rằng các cột tiếp tục vươn lên trên mái trần và gặp nhau ở chính giữa mái vòm, giống như các cành cây đu đan chéo với nhau ở trong rừng.

Buổi lễ bắt đầu. bàn thờ được thiết lập ở gần cuối gian cung thánh, với các tu sĩ ở sau nó, vì thế mà khu trung tâm và cả hai gian ngang dành cho cộng đồng. Nhưng mặc dù vậy đám đông vẫn tràn lên cả gian giữa chưa được xây dựng. William tiến lên phía trước, như nó là đặc quyền của cậu, và đứng gần bàn thờ chung với giới quý tộc khác trong vùng, những người gật đầu với cậu và thì thầm với nhau.

Mái trần bằng gỗ của gian cung thánh cũ không thích hợp với mái vòm cao phía đông của khu trung tâm, và nó rõ ràng là nhà xây dựng chính có ý sẽ phá hủy gian cung thánh và xây dựng lại theo kiểu mới.

Vừa khi ý tưởng này đến trong đầu cậu, William đã nhìn thấy người xây dựng chính Jack Jackson. Cậu là chàng đẹp trai với mái tóc đỏ, và cậu mặc một áo dài màu đỏ đậm thêu ở viền tay và cổ áo, giống như một nhà quý tộc. Cậu có vẻ hài lòng với chính mình, không nghi ngờ gì vì cậu xây hai gian ngang quá nhanh và mọi người ngạc nhiên về thiết kế của cậu. Cậu dắt một bé trai chừng chín tuổi giống cậu như đúc. William sửng sốt nhận ra rằng đó phải là con của Aliena, và cậu cảm thấy đau nhói vì ghen tị. Một lúc sau cậu thấy Aliena. Cô đứng một bên phía sau Jack với một nụ cười tự hào trên khuôn mặt. Tâm hồn William rộn ràng: cô vẫn đáng yêu như ngày nào. Elizabeth là một thay thế nghèo nàn, một mô phỏng nhợt nhạt của một Aliena thật sự và sống động. Trong tay Aliena dắt một bé gái chừng bảy tuổi, và Williiam nhớ lại cô đã có một đứa con thứ hai với Jack ngay cả họ chưa kết hôn.

William nhìn kỹ hơn Aliena. Cô không còn hoàn toàn đẹp như trước: xung quanh mắt cô có đường nhăn và đàng sau nụ cười tự hào là một chút buồn bã. Sau nhiều năm cô vẫn chưa có thể lấy Jack, dĩ nhiên, William nghĩ về nó và cảm thấy hài lòng: Giám mục Waleran đã giữ lời hứa và nhiều lần ngăn chặn việc vô hiệu hóa hôn nhân của họ. Ý nghĩ đó thường cho William niềm an ủi.

Đó là Waleran, bây giờ William nhận ra, người đang nâng Mình Thánh Chúa lên cao để mọi người trong cộng đoàn có thể nhìn thấy. Hàng trăm người quỳ xuống. Tấm bánh trở thành Mình Chúa Kitô vào thời điểm đó, một biến đổi làm William kính sợ, mặc dù cậu không hiểu điều gì thực sự xẩy ra.

Cậu tập trung vào buổi lễ, chăm chú theo dõi hành động mầu nhiệm của linh mục, lắng nghe những câu Latin mà không hiểu gì và lẩm bẩm những câu thưa quen thuộc. Cảm giác choáng váng của mấy ngày qua vẫn chưa nguôi ngoai, và ngôi nhà thờ mới huyền diệu, với ánh sáng mặt trời đùa chơi trên các hàng cột không tưởng được, tăng thêm cảm giác như thể trong một giấc mơ.

Buổi lễ sắp kết thúc, Giám mục Waleran nói với cộng đoàn: “Giờ đây chúng ta cầu nguyện cho linh hồn Nữ bá tước Regan Hamleigh, mẹ của bá tước William thành Shiring, người mới qua đời đêm thứ sáu.”

Khi nghe tin, có tiếng xì xèo bàn tán, còn William nhìn chằm chằm vào vị giám mục trong kinh hoàng. Sau cùng cậu nhận ra những gì bà đã cố gắng nói trước khi chết. Bà đã yêu cầu gặp một linh mục – nhưng cậu đã không đi tìm linh mục cho bà. Cậu đã nhìn bà suy yếu dần, cậu đã nhìn mắt bà nhắm lại, cậu đã nghe hơi thở bà ngưng lại và cậu đã để bà chết mà không được xưng tội. Làm sao cậu lại có thể làm như thế? Kể từ đêm thứ sáu linh hồn bà đã ở trong hỏa ngục, chịu nhiều đau khổ mà bà đã nhiều lần mô tả cho cậu, mà không có lời nguyện nào xoa dịu bà. Trái tim cậu trĩu nặng quá nhiều tội lỗi đến nỗi cậu cảm thấy nó đập chậm lại, và có lúc cậu tưởng mình cũng sẽ chết. Làm sao cậu có thể để bà ở nơi sợ hãi đó, để linh hồn bà bị biến dạng như khuôn mặt bà bị những vết ung nhọt, trong khi bà mong mỏi niềm hạnh phúc trên thiên đàng? “Tôi phải làm gì?” cậu nói to, và đám đông xung quanh nhìn cậu ngạc nhiên.

Khi buổi lễ chấm dứt và các tu sĩ theo hàng đi ra, William vẫn còn quỳ đàng trước bàn thờ. Phần còn lại của cộng đoàn cũng bước ra ánh sáng mặt trời, bỏ mặc cậu ngoại trừ duy nhất Walter còn ở lại gần đó, quan sát và chờ đợi. William vẫn cầu nguyện với tất cả sức lực, giữ hình ảnh mẹ trong đầu, trong khi cậu lập lại kinh ‘Lạy Cha’ và những lời kinh khác mà cậu còn nhớ được. Một lúc sau cậu nhận ra còn nhiều việc khác cậu có thể làm. Cậu có thể thắp nến, cậu có thể xin các linh mục và tu sĩ dâng lễ cho linh hồn bà thường xuyên; cậu có thể xây một nhà nguyện đặc biệt vì lợi ích cho linh hồn bà. Nhưng tất cả những gì cậu nghĩ được dường như vẫn chưa đủ. Nó dường như cậu có thể nhìn thấy bà, thấy bà lắc đầu, nhìn cậu đau khổ và thất vọng, rồi nói: “Con còn để mẹ phải đau khổ bao lâu nữa?”

Cậu cảm thấy một bàn tay đặt trên vai cậu và cậu ngẩng lên. Giám mục Waleran đứng trước mặt cậu, vẫn còn mặc chiếc áo đỏ tuyệt đẹp ông vẫn mặc trong dịp lễ Chúa Thánh thần hiện xuống. Đôi mắt đen của ông nhìn sâu vào mắt William, và William cảm thấy như thể cậu không giữ được bí mật nào trước cái nhìn xuyên thấu đó. Waleran nói: “Tại sao ông khóc?”

William nhận ra khuôn mặt cậu đẫm nước mắt. Cậu nói: “Bây giờ mẹ tôi ở đâu?”

“Bà ấy được thanh tẩy bằng lửa.”

“Bà ấy có phải đau khổ không?”

“Đau khổ kinh khủng. Nhưng chúng ta có thể làm cho linh hồn những người thân yêu của chúng ta chóng đi qua nơi sợ hãi đó.”

“Tôi sẽ làm mọi sự!” William nức nở. “Hãy cho tôi biết, tôi phải làm gì!”

Mắt Waleran long lanh với tham vọng. “Hãy xây một nhà thờ,” ông nói. “Giống như nhà thờ này. Nhưng ở Shiring.”

Một cơn giận dữ lạnh lùng luôn nổi lên trong Aliena mỗi khi cô đi qua vùng đất xưa kia thuộc về lãnh địa của bố cô. Tất cả các mương bị ngưng đọng, các hàng rào gẫy đổ và trống rỗng, và các chuồng bò xiêu vẹo làm cô tức giận; những cánh đồng trơ trọi làm cô buồn; và những ngôi làng bỏ hoang phá vỡ tim cô. Nó không phải chỉ vì mất mùa. Lãnh địa có thể nuôi sống cư dân, ngay cả trong năm nay, nếu nó được quản lý đúng. Nhưng William không có ý niệm về quản lý và điều hành mảnh đất của cậu. Đối với cậu, lãnh địa là một kho tàng tư nhân, không phải mảnh đất để nuôi sống dân. Khi nông nô của cậu thiếu đồ ăn, họ chết đói. Khi người thuê đất của cậu không trả được tiền thuê, cậu đuổi họ đi. Từ khi William trở thành bá tước, diện tích đất canh tác đã thu nhỏ lại, vì những mảnh đất của người thuê bị đuổi đã trở lại thành mảnh đất hoang. Và cậu cũng không nhìn thấy được rằng, điều này không thể mang lại lợi ích cho chính cậu về lâu về dài.

Aliena cảm thấy có một phần trách nhiệm trong sự tồi tệ này. Nó là mảnh đất của bố cô, và cô và Richard đã không chiếm lại được cho gia đình. Họ đã bỏ cuộc khi Wiliam trở thành bá tước và Aliena mất hết tài sản; nhưng sự thất bại này vẫn làm cô đau lòng, và cô chưa quên lời thề với bố cô.

Trên con đường từ Winchester tới Shiring, với một xe đầy sợi và một người phu xe khỏe mạnh có thanh kiếm ở thắt lưng, cô nhớ lại đã cùng với bố cô cưỡi ngựa trên con đường này. Ông liên tục mở mang thêm đất canh tác bằng cách phá rừng, thoát nước đầm lầy hay cày xới sườn đồi. Trong những năm mất mùa ông luôn luôn để dành hạt giống cung cấp cho những người không biết lo xa hoặc những người quá đói không có cái để dành. Ông không bao giờ ép người thuê đất phải bán thú vật hoặc máy cày của họ để trả tiền thuê, bởi vì ông biết rằng nếu họ làm thế, họ sẽ không có khả năng để canh tác vào năm sau. Ông bảo trì đất tốt, giữ cho nó mầu mỡ để nó cung cấp nhiều sản phẩm, như một nông dân tốt lo lắng cho con bò sữa của mình.

Bất cứ khi nào cô nghĩ về những ngày xưa, những ngày có người bố thông minh, tự hào và cương trực bên cạnh, cô cảm thấy sự mất mát ông như một vết thương. Cuộc sống đã bắt đầu đi xuống từ khi mất ông. Khi nhìn lại những gì cô đã làm kể từ đó, tất cả đối với cô dường như chỉ là khoảng trống: sống trong lâu đài với Matthew như trong một thế giới ảo tưởng; đến Winchester trong một hy vọng mỏng manh để gặp vua; ngay cả phấn đấu để hỗ trợ cho Richard khi cậu chiến đấu trong cuộc nội chiến. Cô đã đạt được những cái mà người khác nghĩ là thành công: cô đã trở thành một thương gia len giàu có. Nhưng cái đó chỉ đem lại cho cô vẻ hạnh phúc bên ngoài. Cô đã tìm thấy một cách sống và một chỗ đứng trong xã hội cho cô sự bảo đảm và ổn định, nhưng trong trái tim cô vẫn đau và mất mát – cho đến khi Jack xuất hiện trong đời cô.

Kể từ khi cô không thể lấy Jack, mọi chuyện lại thành tồi tệ. Cô trở nên căm ghét Tu viện trưởng Philip, người mà một lần trong đời cô đã coi như ân nhân và cố vấn của cô. Từ nhiều năm nay cô không còn nói chuyện thân thiện với ông. Dĩ nhiên, nó không phải do lỗi ở ông mà họ không nhận được sự vô hiệu hóa hôn nhân; nhưng ông là người đã quyết định họ phải sống xa nhau, và Aliena không thể tha thứ cho ông về điều đó.

Cô yêu con cái của cô, nhưng cô lo âu về chúng khi chúng được nuôi nấng trong một gia đình không tự nhiên như thế, với một người bố ra đi mỗi tối trước khi chúng lên giường ngủ. May mắn là cho đến nay không có hậu quả xấu nào: Tommy là một đứa bé vạm vỡ, đẹp trai, thích bóng đá, chạy đua và chơi quân đội đánh nhau; và Sally là một bé gái dịu dàng, chu đáo, thích kể chuyện cho búp bê của cô và thích nhìn Jack làm việc trên bản vẽ. Nhu cầu thường ngày và tình yêu đơn sơ của chúng là yếu tố bình thường chắc chắn trong cuộc sống lập dị của Aliena.

Cô vẫn còn làm việc, dĩ nhiên. Từ khi trưởng thành cô đã là thương gia của một số ngành nghề. Hiện tại cô có hàng chục công nhân trong các làng rải rác; họ kéo sợi và dệt cho cô trong nhà của họ. Một vài năm trước đây cô có hàng trăm, nhưng cô cũng cảm thấy ảnh hưởng của nạn đói giống như mọi người khác, nên cô không sản xuất nhiều vải hơn số lượng có thể bán ra. Ngay cả nếu cô kết hôn với Jack, cô vẫn muốn có một công việc độc lập của riêng cô.

Tu viện trưởng luôn nói rằng việc vô hiệu hóa hôn nhân có thể được cấp bất cứ lúc nào, nhưng Aliena và Jack đã sống cuộc sống khó chịu này bảy năm nay, ăn chung với nhau, cùng nhau nuôi dạy con cái và ngủ riêng.

Cô cảm thấy niềm bất hạnh của Jack mạnh mẽ hơn cô. Cô ngưỡng mộ cậu. Không ai biết cô yêu cậu nhiều như thế nào, có lẽ ngoại trừ mẹ cậu, Ellen, người thấy mọi sự. Cô yêu cậu vì cậu đã đem cô trở về với đời sống. Cô đã sống giống như con sâu bướm trong cái kén, và cậu đã kéo cô ra và cho cô biết cô là con bướm. Cô sẽ trải qua một cuộc đời mà không biết đến niềm vui và nỗi đau của tình yêu, nếu cậu không bước vào khu vườn bí mật của cô, và chia sẻ truyện thơ của cậu cho cô, và hôn cô nhẹ nhàng, và sau đó từ từ, dịu dàng đánh thức tình yêu ngủ sâu trong trái tim cô. Cậu quá kiên nhẫn, quá khoan dung mặc dù cậu còn trẻ. Vì điều đó cô sẽ mãi mãi yêu thương cậu.

Khi đi ngang khu rừng cô tự hỏi có lẽ nào tình cờ cô gặp mẹ Jack, Ellen, không. Họ thỉnh thoảng gặp bà, ở một hội chợ trong thị trấn nào đó; và chừng một lần trong năm bà lại lẻn vào Kingsbridge vào lúc hoàng hôn và qua đêm với các cháu của bà. Aliena cảm thấy một sự đồng cảm với Ellen: họ, cả hai là phụ nữ khác người, không phù hợp với khuôn mẫu nào. Tuy nhiên, cô ra khỏi khu rừng mà không gặp Ellen.

Khi đi ngang qua đồng lúa cô kiểm tra hoa trái trên cánh đồng. Nó sẽ là một mùa thu hoạch tốt, cô dự đoán. Họ không có mùa hè tốt, bởi vì có mưa và trời lạnh. Nhưng họ không có lũ lụt và bệnh ngũ cốc, một thứ bệnh đã phá hủy mùa gặt trong ba năm vừa qua. Aliena thầm cảm tạ. Hàng ngàn người sắp chết đói và một mùa đông xấu nữa sẽ giết chết hầu hết trong số họ.

Cô dừng lại cho bò uống nước ở một hồ giữa làng được gọi là Monksfield thuộc về tài sản của bá tước. Nó là một ngôi làng đẹp, rộng lớn, được bao bọc bởi những mảnh đất màu mỡ nhất trong vùng, và ngay cả nó một linh mục và một nhà thờ đá. Tuy nhiên năm nay chỉ có nửa cánh đồng xung quanh được gieo trồng. Những mảnh được gieo trồng bây giờ bao phủ với lúa vàng, phần còn lại mọc đầy cỏ dại.

Hai lữ khách khác cũng đã dừng lại ở đó cho ngựa uống nước. Aliena nhìn họ thận trọng. Một đôi khi cùng đi với người khác là điều tốt để bảo vệ lẫn nhau; nhưng nó cũng có thể gây nguy hiểm đối với phụ nữ. Aliena khám phá ra rằng một người đàn ông, như phu xe của cô chẳng hạn, sẽ sẵn sàng làm mọi điều mà cô ra lệnh khi họ ở một mình, nhưng trước mặt các đàn ông khác ông ấy sẽ trở thành bất tuân.

Tuy nhiên một trong hai lữ khách ở ao hồ Monksfield là một phụ nữ. Aliena nhìn kỹ hơn và nhận ra người phụ nữ đúng hơn là một cô gái. Aliena nhận ra cô. Cô đã thấy cô gái này ở nhà thờ chính tòa Kingsbridge vào lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Đây là Nữ bá tước Elizabeth, vợ của William Hamleigh.

Cô trông đáng thương và nhút nhát. Cùng đi với cô là một binh lính, rõ ràng là người hộ vệ của cô. Đó có thể đã là số phận của tôi, Aliena nghĩ, nếu tôi kết hôn với William. Tạ ơn Chúa là tôi đã ch?