← Quay lại trang sách

Chương 16

Remigius kiêu ngạo, ngay cả trong lúc cơ hàn. Ông vào ngôi nhà lớn bằng gỗ ở ngôi làng Hamleigh với đầu ngước cao, và nhìn qua đầu mũi những thanh xà bằng gỗ nâng đỡ mái nhà, những bức tường bằng đất sét và ngọn lửa ở giữa nền nhà được nện kỹ.

William quan sát ông đi vào. Có thể tôi đang xuống dốc, nhưng tôi chưa xuống sâu như ông, cậu nghĩ, chú ý đến đôi dép đã sửa nhiều lần, áo choàng bẩn thỉu, cằm chưa cạo râu và tóc không chải của ông. Remigius chưa bao giờ mập, nhưng bây giờ ông gầy hơn bao giờ hết. Nét biểu hiện kiêu kỳ cố định trên khuôn mặt ông không che dấu được nét mệt mỏi và thất bại dưới vầng mắt ông. Remigius chưa gục ngã nhưng ông đã có những thất bại ê chề.

“Chúa chúc lành cho cậu,” ông nói với William.

William không cần những điều đó. “Ông cần gì, Remigius?” cậu nói, cố tình xúc phạm đến tu sĩ bằng cách không gọi “cha” hay “thầy”.

Remigius nao núng như ông bị đánh. William đoán ông đã nhận được một vài xúc phạm như thế từ khi bỏ tu viện và theo hướng đi riêng. Remigius nói: “Các mảnh đất cậu cho tôi, trong tư cách tôi là trưởng của ủy ban nhà thờ chính tòa ở Shiring, đã bị Richard chiếm lại.”

“Tôi không ngạc nhiên,” William trả lời. “Mọi thứ được trả lại cho người đã sở hữu nó trong thời vua Henry cũ.”

“Nhưng như thế tôi không còn phương tiện hỗ trợ.”

“Không phải chỉ có ông mà còn một số lớn người khác nữa,” William nói không suy nghĩ. “Ông phải trở về Kingsbridge.”

Khuôn mặt Remigius tái xanh vì tức. “Tôi không thể làm chuyện đó,” ông nói bằng giọng buồn.

“Tại sao không?” William nói như hành hạ ông.

“Cậu biết tại sao không.”

“Philip sẽ nghĩ gì? Ông ấy có nghĩ ông đã phản bội bằng cách cho tôi biết chỗ ẩn náu của người sống ngoài vòng pháp luật không? Ông ấy có giận vì ông trở thành trưởng ban nghi lễ nhà thờ chính tòa để thay thế nhà thờ của ông ấy ở Kingsbridge không? Như vậy tôi cho rằng ông không có thể trở về.”

“Cho tôi chút gì đó,” Remigius nài xin. “Một ngôi làng. Một trang trại. Một ngôi nhà thờ nhỏ.”

“Không có phần thưởng cho người thua cuộc, tu sĩ ạ.” William nói gay gắt. Cậu thích thế. “Trong thế giới bên ngoài tu viện, không có ai chăm sóc cho ông đâu. Con vịt ăn con sâu, con cáo vồ con vịt, con người giết con cáo, và ma quỷ săn con người.”

Giọng Remigius trầm xuống như thì thầm. “Tôi phải làm gì?”

William mỉm cười và nói: “Ăn xin.”

Remigius quay gót và rời khỏi nhà.

Vẫn còn tự kiêu, William nghĩ. Nhưng chẳng bao lâu nữa, ông sẽ phải đi ăn xin.

Cậu vui sướng khi có người thất bại hơn cậu. Cậu chẳng bao giờ quên được nỗi tuyệt vọng tột cùng khi đứng trước cổng lâu đài của mình mà bị từ khước không cho vào. Cậu đã nghi khi nghe Richard và một số quân của cậu ấy rời Winchester; khi hiệp ước hòa bình được công bố cảm xúc nôn nao đã trở thành báo động và cậu đã đem các hiệp sĩ và binh lính của cậu cấp tốc về lại lâu đài. Cậu còn để lại một đoàn quân canh giữ lâu đài, vì thế cậu chờ đợi sẽ gặp Richard đóng quân bao vây lâu đài trên cánh đồng. Khi đến gần cậu thấy mọi chuyện đều bình thường, cậu nhẹ người và mắng mình đã phản ứng thái quá với sự biến mất đột ngột của Richard.

Khi đến gần cậu thấy chiếc cầu đã được kéo lên. Cậu dừng lại bên con hào và kêu to: “Mở cửa cho bá tước!”

Richard xuất hiện trên tường thành và nói: “Bá tước đã ở trong thành.”

Nó giống như mặt đất sụp xuống dưới chân cậu. Cậu luôn lo sợ về Richard, luôn cảnh giác về cậu ấy như một đối thủ nguy hiểm, nhưng vào thời điểm đó cậu đã thiếu cảnh giác. Cậu đã nghĩ sự nguy hiểm thực sự sẽ đến khi Stephen chết và Henry nối ngôi, nhưng còn phải mười năm nữa mới đến lúc đó. Bây giờ ngồi trong căn nhà làng và nghĩ về những sai lầm, cậu nhận ra một cách cay đắng rằng thực sự Richard quá không ngoan. Cậu ấy đã vượt qua một khe hẹp. Bao lâu chiến tranh còn tiếp diễn, cậu ấy không thể bị buộc tội vì đã phá vỡ nền hòa bình của nhà vua. Theo điều khoản của hiệp ước hòa bình, cậu có quyền hợp pháp nhận lại lãnh địa. Và Stephen đã già yếu, mệt mỏi và thất bại, không còn sức lực để quan tâm đến những tranh dành khác.

Một cách rộng lượng Richard đã thả tự do cho những người lính muốn tiếp tục phục vụ cho William. Người một mắt, Walter, đã tường thuật cho William cách lâu đài đã bị tiếp thu. Sự phản bội của Elizabeth là điên rồ, nhưng đối với William, vai trò của Aliena trong việc này là một nhục nhã nhất. Đứa bé gái bất lực mà cậu đã hãm hiếp, đã hành hạ và đuổi ra khỏi nhà những năm trước đây bây giờ đã quay về và trả thù cậu. Mỗi lần cậu nghĩ về nó, bao tử cậu quặn lên nỗi cay đắng như thể cậu đã uống dấm.

William muốn đánh nhau với Richard ngay. Cậu vẫn còn giữ đoàn quân của cậu, nuôi sống nó bằng đất đai trong vùng, bằng thuế và nguồn cung cấp từ nông dân. Với một chiến thuật đánh úp, cậu có thể chống lại kẻ thù của cậu. Nhưng Richard có lâu đài và có lợi thế về thời điểm, bởi vì Stephen, người nâng đỡ William đã già yếu, trong khi Richard được Nam tước Henry trẻ ủng hộ, người sẽ trở thành vua Henry thứ hai.

Vì thế William quyết định cắt giảm sự thiệt hại bao nhiêu có thể. Cậu trở về làng Hamleigh và sống trong căn nhà nơi cậu đã lớn lên. Làng Hamleigh và các làng xung quanh đã được cấp cho bố cậu cách đây ba mươi năm. Nó chẳng bao giờ là một phần của lãnh địa, vì thế Richard không có quyền đòi lại.

William hy vọng rằng nếu cậu hạ mình xuống, Richard sẽ hài lòng với sự trả thù và để cậu yên. Cho đến bây giờ nó có kết quả. Tuy nhiên, William ghét làng Hamleigh. Cậu ghét những căn nhà nhỏ, những con vịt dễ bị kích động trên mặt hồ, ngôi nhà thờ bằng đá màu xám nhạt, những trẻ em với đôi má giống như trái táo, những phụ nữ hông rộng và đàn ông mạnh mẽ, bực bội. Cậu ghét sự khiêm tốn, buồn chán và nghèo đói, và cậu ghét nó vì nó tượng trưng cho sự xuống dốc quyền lực của gia đình cậu. Cậu quan sát các nông dân lê bước cày bừa vào mùa xuân và ước lượng phần thu nhập cậu sẽ nhận được, và cậu thấy nó ít ỏi. Cậu đi săn bắn trong vài mẫu rừng của cậu, nhưng không thấy con nai nào. Nhân viên kiểm lâm đã nói với cậu rằng: “Ngài chỉ có thể săn heo rừng, thưa ngài – người sống ngoài vòng pháp luật đã bắt hết nai trong nạn đói.” Cậu tổ chức tòa án ở sảnh đường nhà cậu, nơi gió lùa qua các kẽ hở của tường. Cậu xử khắc nghiệt, bắt phạt nhiều và tùy theo hứng, nhưng nó cũng không đem lại cho cậu sự hài lòng.

Cậu bỏ dở công việc xây dựng nhà thờ mới ở Shiring, dĩ nhiên. Cậu không có thể xây một nhà đá cho riêng cậu, huống hồ gì xây một nhà thờ. Các thợ xây đã bỏ việc khi cậu ngưng trả tiền lương cho họ và cậu không biết những gì đã xẩy ra cho họ: có lẽ tất cả họ đã trở lại Kingsbridge và làm việc cho Tu viện trưởng Philip.

Nhưng bây giờ cậu thường có ác mộng.

Tất cả dường như giống nhau. Cậu thấy mẹ trong thế giới thần chết. Bà chẩy máu từ tai và mắt, và khi bà mở miệng nói, nhiều máu ra theo. Cảnh tượng làm cậu kinh hãi. Trong ánh sáng ban ngày cậu không không thể nói tại sao giấc mơ lại làm cậu sợ vì bà không đe dọa cậu. Nhưng vào ban đêm, khi bà đến với cậu, cậu hoàn toàn hoảng sợ, một sự hoảng sợ kinh hoàng, vô lý và mù quáng. Khi còn bé cậu lội vào một cái ao và mặt đất bất ngờ lún sâu hơn, rồi cậu bị chìm xuống, không thở được; và nhu cầu cần không khí này đã là một biến cố không thể phai mờ trong tuổi thơ của cậu. Nhưng cơn ác mộng bây giờ còn nhiều lần kinh hoàng hơn. Trốn chạy khỏi khuôn mặt máu me của mẹ cậu cũng giống như chạy trốn trong cát lún. Khi cậu tỉnh dậy, rên rỉ và đổ mồ hôi, cơ thể cậu mệt mỏi và căng thẳng. Và cậu thấy Walter cầm nến đứng bên cạnh – William ngủ trong sảnh đường, cách những đàn ông khác bằng một bức ngăn, vì họ không có phòng ngủ ở đây. “Ông kêu to trong giấc ngủ, thưa ngài,” Walter thì thầm. William thở mạnh, nhìn chằm chằm vào chiếc giường thực, bức tường thực và Walter thực, trong khi ảnh hưởng của giấc mơ từ từ nhạt dần cho đến khi cậu không còn sợ nữa. Rồi cậu nói: “Không có gì cả. Nó chỉ là giấc mơ. Hãy đi đi.” Nhưng cậu sợ ngủ lại. Vào ngày hôm sau người ta thấy cậu như bị bỏ bùa.

Một vài ngày sau khi nói chuyện với Remigius, cậu ngồi trên cùng chiếc ghế cứng, bên cạnh cùng đống lửa, khi Giám mục Waleran bước vào.

William giật mình. Cậu nghe tiếng chân ngựa nhưng cậu nghĩ đó là Walter trở về từ nhà máy xay. Cậu không biết phải làm gì khi nhìn thấy giám mục. Waleran luôn luôn kiêu ngạo và trịch thượng, và nhiều lần ông đã làm William cảm thấy ngu ngốc, vụng về và thô lỗ. Cậu cảm thấy xấu hổ khi Waleran nhìn thấy cảnh sống cơ bần của cậu bây giờ.

William không đứng lên chào vị khách. “Ông muốn gì?” cậu nói cộc lốc. Cậu không có lý do gì để lịch sự, cậu muốn Waleran đi sớm bao nhiêu có thể.

Giám mục bỏ qua sự thô lỗ của cậu. “Cảnh sát trưởng đã chết,” ông nói.

Lúc đầu William không hiểu Waleran muốn nói gì. “Điều đó liên quan gì tới tôi?”

“Cần một cảnh sát trưởng mới.”

William muốn nói vậy thì sao? Nhưng cậu đã chợt dừng lại. Waleran nghĩ về ai sẽ là người trở thành cảnh sát trưởng mới. Có lẽ đó là lý do ông đến để nói với William về chuyện đó. Hy vọng bừng lên trong lòng cậu, nhưng cậu cố đè nó xuống: nơi đâu Waleran nhúng tay vào, niềm hy vọng thường kết thúc trong chán nản và tuyệt vọng. Cậu nói: “Ông nghĩ đến ai?”

“Ông.”

Đó là câu trả lời mà William không dám hy vọng. Cậu ước mong cậu có thể tin vào nó. Một cảnh sát trưởng khôn ngoan, cứng rắn có thể quan trọng và ảnh hưởng như một bá tước hay giám mục. Nó có thể là con đường đưa cậu trở lại với quyền lực và giầu sang. Cậu cố dò xét đầu mối. “Tại sao Vua Stephen lại chỉ định tôi?”

“Ông đã hỗ trợ vua chống lại Nam tước Henry, và kết quả là ông đã mất cả lãnh địa. Tôi nghĩ là vua sẽ bồi thường cho ông.”

“Chưa có ai làm điều gì chỉ vì lòng biết ơn,” William nói, lập lại câu nói của mẹ cậu.

Waleran nói: “Stephen không thể hài lòng với bá tước ở Shiring, một người chống lại ông ấy. Nhà vua muốn vị cảnh sát trưởng là một lực lượng đối kháng chống lại Richard.”

Bây giờ đã rõ tại sao. Ngược lại với ý muốn, William cảm thấy hứng khởi. Cậu tin rằng cậu thực sự có thể thoát khỏi hang góc được gọi là làng Hamleigh này. Cậu sẽ lại có một đoàn hiệp sĩ và binh lính đáng kể, thay vì vài ba người đáng thương như bây giờ. Cậu sẽ chủ trì các phiên xử quận ở Shiring, làm nhụt ý chí Richard. “Cảnh sát trưởng sống ở lâu đài Shiring,” cậu luyến tiếc nói.

“Ông sẽ lại giầu có,” Waleran thêm vào.

“Vâng.” Nếu khai thác đúng, chức cảnh sát trưởng có thể đem lại nhiều lợi nhuận. William có thể có nhiều tiền như khi ông là bá tước. Nhưng cậu tự hỏi tại sao Waleran lại đề cập đến nó.

Một lúc sau Waleran trả lời câu hỏi đó. “Sau đó, ông có thể tài trợ cho nhà thờ mới.”

Thì ra vậy. Waleran chẳng bao giờ làm gì mà không có động cơ kín đáo. Ông muốn William trở thành cảnh sát trưởng để cậu xây cho ông một ngôi nhà thờ. Nhưng William cũng có cùng ước muốn đó. Nếu cậu có thể hoàn thành nhà thờ để tưởng nhớ đến mẹ cậu, có lẽ cậu sẽ không còn những cơn ác mộng. “Ông có thực sự nghĩ chuyện này sẽ xẩy ra không?” cậu hồ hởi hỏi.

Waleran gật đầu. “Nó sẽ mất tiền, dĩ nhiên, nhưng tôi nghĩ chúng ta sẽ thành công.”

“Tiền?” William lo lắng nói. “Bao nhiêu?”

“Khó có thể nói. Ở một vài nơi như Lincoln hay Bristol, chức cảnh sát trưởng giá năm hay sáu trăm bảng Anh; nhưng cảnh sát trưởng ở đó giầu hơn cả Hồng y. Ở một nơi nhỏ như Shiring, nếu ông là ứng cử viên được nhà vua chấp thuận – điều này tôi có thể lo cho ông – có lẽ ông có thể có được nó với giá một trăm bảnh Anh.”

“Một trăm bảng Anh!” Niềm hy vọng của William sụp đổ. Ngay từ đầu ông đã sợ bị thất vọng. “Nếu tôi có một trăm bảng Anh, tôi đã không sống như thế này,” cậu cay đắng nói.

“Ông có thể có số tiền ấy,” Waleran nói nhẹ nhàng.

“Từ đâu?” William chợt có một ý tưởng. “Ông có thể cho tôi không?”

“Đừng quá ngu!” Waleran nói với sự khinh thường. “Đó là lý do tại sao có người Do Thái.”

William nhận ra với một cảm xúc hỗn độn của hy vọng và tức giận rằng vị giám mục lại đúng.

Đã hai năm qua, từ khi vết nứt xuất hiện, Jack đã không tìm được giải pháp cho vấn đề. Tệ hơn nữa, các vết nứt tương tự đã xuất hiện ở ô thứ nhất gian giữa. Có một lỗi quan trọng trong thiết kế của cậu. Cấu trúc đủ mạnh để chống đỡ sức mạnh của mái trần, nhưng không chống lại được cơn gió mạnh thổi vào bức tường cao.

Cậu đứng trên giàn giáo cao so với mặt đất, quan sát vết nứt mới và nghiền ngẫm về nó. Cậu cần nghĩ ra cách giằng phần trên của bức tường để nó không rung chuyển theo gió.

Cậu nhớ lại cách mà phần dưới của bức tường đã được củng cố. Bức tường bên ngoài của gian phụ cứng cáp, những trụ dầy nối với tường gian giữa bởi nửa vòng cung dấu trong mái gian phụ. Nửa vòng cung và cột trụ hỗ trợ bức tường từ xa, giống như trụ tường bên ngoài. Vì các cột chống được dấu nên gian giữa nhìn nhẹ nhàng và duyên dáng.

Cậu cần tạo nên một hệ thống tương tự để nâng đỡ phần trên của bức tường. Cậu có thể làm gian phụ thành hai tầng và lập lại cách kiến trúc ở phần dưới. Nhưng như thế ánh sáng xuyên qua cửa sổ ở phần trên sẽ bị chặn lại, và toàn bộ ý tưởng của kiểu kiến trúc mới là mang nhiều ánh sáng vào nhà thờ sẽ không thực hiện được.

Dĩ nhiên không phải lối đi bên cạnh đã đóng vai trò hỗ trợ, nhưng chính là những trụ cột nặng trong bức tường cạnh và nửa vòng cung kết nối ở trên. Gian phụ đã che dấu các yếu tố kiến trúc này. Nếu cậu có thể xây cột trụ và nửa vòng cung để nâng đỡ phần trên bức tường mà không cần kết hợp chúng với gian phụ, cậu có thể giải quyết được vấn đề.

Một giọng nói gọi ông từ bên dưới.

Cậu cau mày. Trước khi nghe tiếng gọi, cậu có một ý tưởng nào đó, nhưng bây giờ nó lại biến mất. Cậu nhìn xuống. Tu viện trưởng Philip gọi cậu.

Cậu đi vào tháp và xuống cầu thang xoắn. Philip đợi cậu ở bên dưới. Tu viện trưởng đang tức giận. “Richard đã phản bội tôi!” ông nói không mào đầu.

Jack ngạc nhiên: “Bằng cách nào?”

Philip không trả lời ngay câu hỏi. “Tôi đã làm cho cậu ấy mọi thứ,” ông bung ra. “Tôi đã mua len của Aliena khi những người khác bắt ép cô – nếu không có tôi, cô ấy chẳng bao giờ bắt đầu công việc buôn bán được. Khi việc buôn bán khó khăn tôi đã cho cậu ấy công việc trưởng ban canh gác. Và tháng mười một năm trước tôi đã tiết lộ cho cậu ấy về hiệp ước hòa bình và nó giúp cậu ấy chiếm lại được lâu đài lãnh chúa. Và bây giờ khi cậu ấy có lại lãnh địa và cai trị trong huy hoàng, cậu ấy đã quay lưng lại với tôi.”

Jack chưa bao giờ thấy Philip tức giận. Đầu trọc của ông đỏ lên vì phẫn nộ và ông nói lắp bắp.

“Richard đã phản bội ông bằng cách nào?” Jack hỏi.

Một lần nữa ông lại làm ngơ trước câu hỏi. “Tôi luôn biết Richard là một người có cá tính yếu. Cậu ấy ít khi hỗ trợ Aliena, qua nhiều năm cậu chỉ đòi hỏi nơi cô ấy và chẳng bao giờ để ý đến nhu cầu của cô ấy. Nhưng tôi không nghĩ cậu ấy lại là kẻ hung ác.”

“Cậu ấy đã làm gì?”

Sau cùng Philip nói với cậu. “Cậu ấy từ chối không cho chúng ta sử dụng mỏ đá.”

Jack bị sốc. Đó là một hành động vô ơn. “Nhưng cậu ấy biện hộ ra sao?”

“Tất cả mọi thứ được trả lại cho chủ nhân trong thời gian của vua Henry thứ nhất. Và mỏ đá được trao cho chúng ta bởi vua Stephen.”

Sự tham lam của Richard là quá mức, nhưng nó không làm Jack tức giận như Philip. Bây giờ họ đã xây xong nửa nhà thờ, hầu hết với đá mà họ phải mua, bằng cách nào đó nó sẽ tiếp tục. “Nói một cách nghiêm khắc, tôi cho rằng cậu ấy đúng,” cậu lập luận.

Philip bị xúc phạm. “Làm sao cậu dám nói điều đó?”

“Nó cũng giống như ông làm cho tôi,” Jack nói. “Sau khi tôi mang về cho ông tượng Mẹ khóc, thiết kế cho ông một mẫu nhà thờ mới tuyệt đẹp, xây một tường thành bảo vệ ông khỏi hiểm họa William. Ông loan báo rằng tôi không thể sống chung với người đàn bà là mẹ của các con tôi. Đó là sự vô ơn.”

Philip bị sốc vì sự so sánh đó. “Nó hoàn toàn khác nhau!” ông phản đối. “Tôi không muốn cậu sống xa nhau. Chính Waleran đã cản trở việc vô hiệu hóa hôn nhân của cậu. Nhưng luật Chúa nói cậu không được ngoại tình.”

“Tôi chắc Richhard sẽ nói tương tự như vậy,” Jack cố chấp. “Không phải Richard là người ra lệnh lấy lại tài sản. Cậu ấy chỉ thi hành luật.”

Tiếng chuông trưa vang lên.

“Có sự khác biệt giữa luật Thiên Chúa và luật của con người,” Philip nói.

“Nhưng chúng ta phải giữ cả hai,” Jack phản đối. “Và bây giờ tôi phải đi ăn cơm trưa với mẹ của các con tôi.”

Cậu đi và để Philip đứng lại bối rối. Cậu không thực sự nghĩ Philip vô ơn như Richard, nhưng cảm xúc cậu thoải mái ra. Cậu quyết định sẽ hỏi Aliena về quặng mỏ. Richard có thể bị thuyết phục để trao lại quyền sử dụng quặng mỏ. Cô ấy sẽ biết.

Cậu rời sân tu viện và đi qua những con đường về nhà nơi cậu sống với Martha. Aliena và các con ở trong nhà bếp như thường lệ. Nạn đói đã qua đi với mùa gặt hái được mùa năm trước, và đồ ăn không còn khan hiếm: có bánh mì và thịt cừu nướng trên bàn.

Jack hôn các con. Sally cho cậu một nụ hôn trẻ con mềm mại, nhưng Tommy, bây giờ đã mười một tuổi và muốn mau lớn, xấu hổ chìa má cho cậu. Jack mỉm cười nhưng không nói gì: cậu nhớ lại cậu cũng đã nghĩ hôn là ngớ ngẩn.

Aliena có vẻ bối rối. Jack ngồi trên ghế dài bên cạnh cô và nói: Philip đang nổi giận vì Richard không cho ông mỏ đá.”

“Thật tệ hại,” Aliena nói nhẹ nhàng. “Làm sao Richard có thể vô ơn như thế.”

“Em có nghĩ rằng có thể thuyết phục cậu ấy đổi ý không?”

“Em thực sự không biết,” cô nói. Cô không tập trung.

Jack nói: “Hình như em không quan tâm đến vấn đề này lắm?”

Cô nhìn cậu thách thức. “Không, em không quan tâm.”

Cậu biết tâm trạng này. “Tốt hơn em nói cho anh biết em đang nghĩ gì.”

Cô đứng lên. “Hãy vào phía phòng trong.”

Với một cái nhìn tiếc rẻ về đĩa thịt cừu, cậu rời bàn và theo cô vào trong phòng ngủ. Như thường lệ, họ để cửa mở để tránh nghi ngờ nếu có người nào đó vào nhà. Aliene ngồi trên giường và khoanh tay trước ngực. “Em đã có một quyết định quan trọng,” cô bắt đầu.

“Em đã sống cả quãng đời trưởng thành dưới hai chiếc bóng. Một là lời thề em đã hứa với bố của em trước khi ông qua đời. Chiếc bóng thứ hai là quan hệ của em với anh.”

Jack nói: “Nhưng em đã hoàn thành lời thề với bố của em rồi.”

“Vâng. Và em muốn được tự do khỏi chiếc bóng thứ hai nữa. Em quyết định sẽ rời bỏ anh.”

Tim Jack như ngừng đập. Cậu biết cô không dễ gì nói những điều như thế: cô rất nghiêm chỉnh. Cậu nhìn cô, không nói lên lời. Lời nói của cô làm cậu mất phương hướng: cậu chẳng bao giờ nghĩ rằng cô sẽ rời xa cậu. Làm sao chuyện này có thể xẩy ra? Một nghi ngờ đến với cậu và cậu nói ra ngay: “Em có người nào khác?”

“Đừng ngớ ngẩn.”

“Vậy tại sao?”

“Bởi vì em không còn có thể chịu đựng được nữa,” cô nói, và mắt cô đầy nước mắt. “Chúng ta không thể chờ đợi mười năm cho sự vô hiệu hóa hôn nhân này. Nó sẽ chẳng bao giờ có, Jack. Chúng ta phải cam chịu sống như thế này mãi mãi – trừ khi chúng ta chia tay nhau.”

“Nhưng…” cậu tìm cái gì đó để nói. Quyết định của cô đã rõ ràng nên tranh cãi với cô dường như vô vọng, giống như đi tránh cơn giông bão. Tuy nhiên cậu cố gắng. “Như chúng ta đang sống không tốt hơn là xa nhau sao?”

“Về lâu về dài không hơn gì.”

“Nhưng nếu em đi xa, nó sẽ thay đổi gì?”

“Em phải gặp người khác và phải lòng họ. Sau đó em có thể sống một cuộc sống bình thường,” cô nói, nhưng cô khóc.

“Em vẫn còn kết hôn với Alfred.”

“Nhưng không ai biết hoặc để ý đến. Hôn nhân của em có thể được một linh mục chúc lành, một linh mục chẳng bao giờ nghe nói về thợ xây Alfred và sẽ coi cuộc hôn nhân ấy là vô hiệu khi biết về nó.”

“Anh không tin những gì em nói.”

“Mười năm rồi, Jack. Em đã chờ đợi mười năm để có cuộc sống bình thường với anh. Em không thể chờ thêm nữa.”

Lời cô như những cú đánh vào cậu. Cô tiếp tục nói nhưng cậu không còn hiểu cô. Tất cả những gì cậu có thể nghĩ là được sống với cô. Cậu ngắt ngang cô: “Như em biết, anh sẽ chẳng yêu người nào khác.”

Cô nhăn mặt như thể cô đau, nhưng cô tiếp tục với những gì cô muốn nói. “Em cần vài tuần để thu xếp mọi việc. Em sẽ tìm một nhà ở Winchester. Em muốn các con quen dần với ý này trước khi cuộc sống của chúng bắt đầu -”

“Em định mang con anh đi sao?” cậu nói ngớ ngẩn.

Cô gật đầu. “Em xin lỗi,” cô nói. Lần đầu tiên dường như cô nghi ngờ về quyết định của cô. “Em biết chúng sẽ nhớ anh. Nhưng chúng cũng cần một đời sống bình thường nữa.”

Jack không thể chịu được nữa. Cậu quay đi.

Aliena nói: “Đừng đi. Chúng ta phải nói nhiều nữa. Jack –“

Cậu đi ra, không trả lời.

Cậu nghe cô khóc sau lưng cậu: “Jack!”

Cậu đi ngang phòng khách, không nhìn con cái và rời khỏi nhà. Trong sững sờ, không biết đi đâu, cậu đi về hướng nhà thờ. Các thợ xây vẫn ăn trưa. Cậu không thể khóc: nước mắt không làm vơi đi nỗi khổ. Không nghĩ ngợi, cậu leo cầu thang gian ngang phía bắc, lên đến đỉnh, và bước lên mái nhà.

Bên dưới hầu như không có gió nhưng bên trên gió thổi mạnh. Jack nhìn xuống. Nếu cậu từ đây rơi xuống, cậu sẽ rớt trên mái nhà gian phụ, gần gian ngang. Có thể cậu sẽ chết, nhưng không chắc chắn. Cậu đi tới gian trung tâm và đứng đó, nơi mái nhà bất ngờ kết thúc. Khi ngôi nhà thờ kiểu kiến trúc mới không vững vàng và Aliena rời bỏ cậu, cậu không còn gì để sống.

Quyết định của cô không tình cờ như nó có vẻ như thế, dĩ nhiên. Sự bất mãn của cô đã lớn lên trong nhiều năm – không phải chỉ có cô mà cả cậu cũng vậy. Nhưng họ đã quen với bất hạnh. Sau khi chiếm lại được lãnh địa, Aliena dường như tỉnh lại từ hôn mê và cô nhận ra cô chính là người chịu trách nhiệm cho cuộc đời cô. Tình trạng đã bất ổn từ trước, chứ không phải như cơn bão đã gây nên những vết nứt trong tường nhà thờ.

Cậu nhìn vào bức tường gian ngang và mái của hai gian phụ. Cậu có thể nhìn thấy trụ tường nặng nhô ra khỏi bức tường ở hai gian ngang, và cậu có thể tưởng tượng nửa vòng cung dưới mái của hai gian phụ, nối liền trụ tường với chân của bức tường có cửa sổ phía trên. Vấn đề có thể giải quyết được bằng cách, cậu đã nghĩ trước khi Philip làm cậu phân tâm buổi sáng hôm nay, là một trụ tường cao, có lẽ cao hai mươi bộ, với một vòng cung thứ hai bắt ngang khoảng trống tới bức tường nơi các vết nứt xuất hiện. Vòng cung và trụ tường cao sẽ tăng thêm độ giữ phần trên của nhà thờ và giữ bức tường vững chắc khi gió thổi.

Điều đó có thể giải quyết được vấn đề. Sự phức tạp là, nếu ông xây thêm một tầng thứ hai của gian phụ để che dấu trụ tường và nửa vòng cung thứ hai, cậu có thể mất ánh áng; và nếu cậu không xây…

Khi tôi không xây thêm tầng phía trên, cậu nghĩ, chuyện gì sẽ xẩy ra?

Cậu bị chi phối bởi cảm xúc rằng không có gì quá quan trọng từ khi cuộc sống của cậu bắt đầu tan rã và chia lìa; và trong tâm trạng đó cậu có thể nhìn thấy không có vấn đề gì nếu trụ tường đứng trơ trọi một mình. Đứng ở đây, trên đỉnh mái nhà, cậu dễ dàng tưởng tượng nó sẽ như thế nào. Một hàng cột đá mạnh mẽ sẽ vươn lên từ bức tường của hai gian phụ. Từ đỉnh mỗi cột, một nửa vòng cung sẽ bắt ngang khoảng trống sang đến phần cửa sổ phía trên. Có lẽ cậu sẽ trang trí đầu mỗi cột. Như vậy trông nó đẹp hơn.

Nó là một tư tưởng cách mạng khi xây một trụ chống mạnh mẽ, lộ thiên mà mọi người có thể nhìn thấy. Nó cũng thích hợp với phong cách kiến trúc mới là tỏ ra tòa nhà đã được xây như thế nào.

Một cách nào đó trực giác của cậu nói nó đúng.

Càng nghĩ về nó, cậu càng thích nó. Cậu tưởng tượng nhà thờ từ hướng tây. Nửa vòng cung sẽ trông giống như những cánh chim, tất cả thẳng hàng, sẵn sàng cất cánh. Chúng không cần vĩ đại. Chúng có thể mảnh mai và thanh lịch, nhẹ nhàng nhưng mạnh mẽ, giống như những cánh chim. Những trụ tường có cánh, cậu nghĩ, đối với những nhà thờ nhẹ nó có thể bay.

Tôi tự hỏi, cậu nghĩ, nó có thành công không.

Một cơn gió bất ngờ làm cậu mất thăng bằng. Cậu bấp bênh trên góc mái nhà. Có lúc cậu nghĩ cậu sẽ ngã và chết. Sau đó cậu lấy lại thăng bằng và lui lại, tim cậu đập mạnh.

Chậm rãi và cẩn thận, cậu trở lại theo mái nhà tới cửa tháp và đi xuống.

II

Công việc xây dựng nhà thờ chính tòa ở Shiring đã hoàn toàn ngừng hẳn. Tu viện trưởng Philip nhận thấy một chút hả hê về việc đó. Sau nhiều lần chán chường nhìn vào công trường xây dựng bỏ hoang, ông không thể không cảm thấy hài lòng vì chuyện đó bây giờ lại xẩy ra cho kẻ thù của ông. Thợ xây Alfred chỉ có thời gian đập phá nhà thờ cũ và đặt chân móng cho gian cung thánh mới trước khi William bị hạ bệ và tiền bạc khô kiệt. Philip nhủ lòng rằng vui mừng về sự đổ nát của một nhà thờ là một tội. Tuy nhiên, ý Chúa rõ ràng rằng nhà thờ chính tòa được xây ở Kingsbridge, chứ không phải ở Shiring. Vận xấu đã theo đuổi dự án của Waleran dường như là một dấu hiệu rõ ràng của ý Thiên Chúa.

Bây giờ nhà thờ lớn nhất của thị trấn đã bị đập đi, tòa án quận được tổ chức ở sảnh đường lớn của lâu đài. Philip cưỡi ngựa cùng với Jonathan lên đồi. Sau khi Remigius rời bỏ tu viện, Jonathan đã thành người phụ tá của Philip. Ông đã vị sốc vì sự bội bạc của Remigius, nhưng sau đó ông vui vì đã thoát được ông ấy. Sau khi đánh bại Remigius trong cuộc bầu cử, ông ấy là một cái gai trong mắt Philip. Từ khi ông đi, tu viện sống thoải mái hơn.

Milius trở thành tu viện phó. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục giữ chức vụ thủ quỹ và có một đội ngũ ba người dưới quyền ông. Từ khi Remigius ra đi, không ai có thể tưởng tượng được ông sẽ làm gì.

Philip có một sự hài lòng sâu xa khi làm việc với Jonathan. Ông vui vẻ giải thích cho cậu cách tu viện được điều hành, dạy cậu những khía cạnh của thế giới và chỉ cho cậu cách đối xử với con người. Chàng trai được nhiều người quý mến, nhưng một đôi khi cậu thiếu thông cảm và cậu có thể làm cho những người thiếu tự tin cáu tiết. Cậu phải học rằng những người đối xử một cách thù địch với cậu xuất phát từ yếu điểm của họ. Cậu chỉ nhìn thấy sự thù địch và phản ứng lại một cách giận dữ, thay vì nhìn thấy yếu điểm của họ và làm cho họ an tâm.

Jonathan có một trí thông minh sắc sảo, cậu thường làm cho Philip ngạc nhiên. Một đôi khi Philip thấy cậu mắc tội tự cao và nghĩ rằng Jonathan cũng giống như ông.

Hôm nay ông đem Jonathan theo ông để cậu tìm hiểu tòa án quận hoạt động như thế nào. Philip đang yêu cầu cảnh sát trưởng ra lệnh cho Richard để tu viện được dùng mỏ đá. Ông chắc chắn rằng Richard sai về mặt pháp lý. Luật mới về việc trao trả tài sản cho chủ cũ thời vua Henry cũ không ảnh hưởng đến quyền của tu viện. Mục đích của nó là cho phép Nam tước Henry thay thế các bá tước của Stephen bằng các bá tước của ông và thưởng công cho những người đã ủng hộ ông ấy. Nó rõ ràng không thể áp dụng cho các tu viện. Trong trường hợp này Philip tin rằng sẽ thắng, nhưng có một sự kiện không rõ ràng: vị cảnh sát trưởng đã chết và người thay thế sẽ được công bố vào ngày hôm nay. Không ai biết ai sẽ lên thay, nhưng mọi người dự đoán công việc đó sẽ được đảm trách bởi một trong bốn công dân hàng đầu ở Shiring: David Merchant, người bán lụa; Rees Welsh, một linh mục đã làm việc ở tòa án hoàng cung; Giles Lionheart, một hiệp sĩ với đất đai ngay bên ngoài thị trấn; hay Hugh Bastard, con trai không hợp pháp của giám mục ở Salisbury. Philip hy vọng Rees sẽ được chọn, không phải vì ông ấy là đồng hương của ông, nhưng bởi vì ông là người ủng hộ giáo hội. Nhưng Philip không quá lo lắng: bất cứ ai trong bốn người cũng sẽ xét xử cho quyền lợi của ông.

Họ cưỡi ngựa vào lâu đài. Nó không được bảo vệ nghiêm ngặt. Shiring đã thoát được nhiều cuộc chiến, vì bá tước của Shiring có một lâu đài riêng rẽ ở ngoại ô. Lâu đài này đúng hơn là trung tâm hành chính, với văn phòng và chỗ ở cho cảnh sát trưởng và binh lính của ông, và một ngục tối giam giữ tội nhân. Philip và Jonathan đem ngựa vào chuồng và đi vào đại sảnh trong tòa nhà lớn nhất.

Bàn ghế thường được kê theo hình chữ T đã được sắp xếp lại. Hàng đầu trên đỉnh của chữ T vẫn giữ nguyên, được nâng lên cao bằng một bục; và những bàn khác được kê dọc theo bức tường hai bên, do đó nguyên đơn và bị cáo ngồi xa nhau và tránh bạo động.

Sảnh đường đã đầy. Giám mục Waleran ngồi trên bục, trông ác độc. Trước sự ngạc nhiên của Philip, William Hamleigh ngồi với ông, nói chuyện to nhỏ với giám mục và quan sát những người vào sảnh đường. William làm gì ở đây? Từ chín tháng qua, cậu đã nằm dí ở trong làng, và Philip – cùng với nhiều người khác trong vùng – hy vọng rằng cậu sẽ ở đó mãi mãi. Nhưng cậu đang ở đây, ngồi trên ghế như thể cậu vẫn còn là bá tước. Cậu làm gì ở đây và cậu muốn gì, Philip tự hỏi.

Philip và Jonathan ngồi xuống bên phòng và chờ đợi phiên tòa bắt đầu. Trong tòa án có một bầu khí bận rộn và lạc quan. Bây giờ chiến tranh đã kết thúc, thành phần ưu tú của đất nước lại quan tâm đến việc kinh doanh để tạo nên của cải. Kinh doanh là một mảnh đất mầu mỡ và những nỗ lực của họ đã có hiệu quả: người ta chờ đợi một mùa gặt hái tốt đẹp trong năm nay. Giá len tăng. Philip thuê lại hầu hết các thợ xây đã nghỉ việc trong cao điểm của nạn đói. Ở khắp mọi nơi, những người sống sót là những cá nhân trẻ, mạnh mẽ và khỏe mạnh, và bây giờ họ tràn đầy hy vọng. Người ta cảm nhận bầu khí này trong sảnh đường lớn ở Shiring – qua thái độ của con người, trong giọng nói của họ, qua những bộ giầy mới của đàn ông, qua những khăn đầu sặc sỡ của phụ nữ và qua thực tế là họ đang sở hữu một cái gì đó có giá trị nên họ mới đem ra tòa.

Họ đứng lên khi phó cảnh sát trưởng và Bá tước Richard bước vào. Hai người trèo lên bục và vẫn đứng, phó cảnh sát trưởng đọc lệnh của hoàng gia bổ nhiệm cảnh sát trưởng mới. Khi ông đọc phần mở đầu dài dòng, Philip lướt nhìn bốn ứng cử viên được dự kiến. Ông hy vọng người thắng cử có sự can đảm để tranh đấu cho luật pháp trước những ông trùm địa phương đầy quyền lực như Giám mục Waleran, Bá tước Richard và Lãnh chúa William. Ứng cử viên được bổ nhiệm có lẽ đã được thông báo trước – không có lý do gì để giấu kín nó – nhưng không có ai trong số họ có vẻ phấn khởi. Thông thường người được bổ nhiệm sẽ đứng bên cạnh người sẽ đọc lệnh bổ nhiệm, nhưng những người đứng đó chỉ có Richard, Waleran và William. Philip kinh hoàng nghĩ rằng có lẽ Waleran được chỉ định làm cảnh sát trưởng. Rồi ông kinh hãi hơn khi nghe đọc: “… được chỉ định làm cảnh sát trưởng ở Shiring là William Hamleigh, và tôi ra lệnh cho mọi người giúp đỡ ông…”

Philip nhìn Jonathan và nói: “William!”

Có tiếng ngạc nhiên và phản đối trong số cư dân thị trấn.

Jonathan nói: “Tại sao cậu ấy có thể làm được chuyện đó?”

“Cậu ấy phải trả cho nó.”

“Cậu ấy lấy tiền ở đâu?”

“Mượn. Anh nghĩ như vậy.”

William di chuyển đến ngai gỗ ở giữa đỉnh dãy bàn và mỉm cười. Một thời cậu đã là một thanh niên đẹp trai, Philip nhớ lại. Cậu vẫn dưới bốn mươi, nhưng cậu trông già hơn. Thân cậu nặng nề, mặt cậu đỏ vì rượu và tất cả sức mạnh sống động và lạc quan làm nên khuôn mặt trẻ hấp dẫn đã biến mất, nhường chỗ cho một cái nhìn tàn tạ.

Khi William ngồi xuống, Philip đứng lên.

Jonathan đứng lên theo và thì thầm: “Chúng ta ra về à?”

“Theo anh,” Philip rít lên.

Căn phòng yên lặng. Tất cả ánh mắt dõi theo họ khi họ đi ngang căn phòng xử án. Đám đông rẽ ra cho họ đi. Họ đến cửa và đi ra ngoài. Lời bình luận tuôn ra vừa khi cánh cửa đóng sau lưng họ.

Jonathan nói: “Khi William xử án, chúng ta không có cơ hội.”

“Tệ hơn nữa,” Philip nói. “Khi chúng ta khăng khăng trong việc kiện của chúng ta, chúng ta có thể mất những quyền lợi khác.”

“Trời ơi! Em chẳng bao giờ nghĩ về điều đó.”

Philip gật đầu một cách chua chát. “Với William là cảnh sát trưởng, Waleran là giám mục và Richard phản bội là bá tước, tu viện Kingsbridge không còn cơ hội có được công lý trong quận nữa. Họ có thể làm những gì họ muốn.”

Trong khi người coi ngựa gắn yên, Philip nói: “Anh đang kiến nghị nhà vua nâng Kingsbridge lên thành phố. Qua cách đó chúng ta có riêng tòa án, và chúng ta trả thuế trực tiếp cho nhà vua. Tác dụng là chúng ta ở ngoài thẩm quyền của cảnh sát trưởng.”

“Trong quá khứ anh luôn luôn chống lại chuyện đó,” Jonathan nói.

“Anh chống lại chuyện đó vì nó tạo cho thành phố nhiều quyền lực như tu viện. Nhưng bây giờ anh nghĩ chúng ta phải chấp nhận nó như cái giá phải trả cho sự độc lập. Lựa chọn khác là William.”

“Nhà vua có sẵn sàng cho chúng ta quyền pháp lý của một thành phố không?”

“Ông ấy có thể, ở một giá nào đó. Nhưng nếu ông ấy từ chối, có lẽ Henry sẽ cho khi ông ấy lên ngôi.”

Họ lên ngựa và cưỡi qua thành phố một cách chán nản. Họ đi qua cổng và qua bãi rác ngay bên ngoài thành. Một vài người già yếu tìm kiếm trong đống rác cái gì đó để ăn, để mặc hay để đốt. Philip nhìn họ không để ý lắm, nhưng mắt ông bất ngờ dán chặt vào một người. Một hình dáng cao quen thuộc khom lưng trên đống giẻ rách, lựa nó ra. Philip kìm dây cương ngựa lại. Jonathan tiến lên bên cạnh ông.

“Hãy nhìn,” Philip nói.

Jonathan nhìn theo ánh mắt ông. Một lúc sau cậu lặng lẽ nói: “Remigius.”

Philip quan sát. Waleran và William đã hiển nhiên bỏ rơi Remigius một thời gian trước đây, khi quỹ xây dựng nhà thờ mới khô cạn. Họ không còn cần ông. Remigius đã phản bội Philip, phản bội tu viện và phản bội Kingsbridge, trong hy vọng được trở thành Tu viện trưởng ở Shiring, nhưng bây giờ chẳng còn gì.

Philip quay ngựa ra khỏi con đường và vượt qua đống rác đến chỗ Remigius đứng. Jonathan theo ông. Một mùi hôi như sương mù sông lên từ mặt đất. Khi đến gần, ông thấy Remigius gầy trơ xương. Tu phục của ông bẩn thỉu và ông đi chân không. Ông đã sáu mươi tuổi và trải qua cả cuộc đời trưởng thành trong tu viện Kingsbridge: không ai dạy ông cách sống ngoài đời. Philip thấy ông kéo từ đống rác một đôi giày da. Đôi giày có lỗ rách trong lòng bàn chân, nhưng Remigius nhìn nó với biểu hiện của một người tìm được kho tàng chôn dấu. Khi ông định thử chúng, ông nhìn thấy Philip.

Ông đứng thẳng lên. Mặt ông biểu lộ một cuộc nội chiến giữa xấu hổ và thách đố trong trái tim của ông. Một lúc sau ông nói: “Anh đến đây để hả hê về nỗi khổ của tôi à?”

“Không,” Philip nói nhẹ nhàng. Kẻ thù cũ của ông trong tình trạng đáng thương như thế này làm Philip không cảm thấy gì hơn là thương xót ông. Ông xuống ngựa và lấy một bình ra khỏi bao ở yên ngựa. “Tôi đến để cho anh một hớp rượu.”

Remigius không muốn nhận, nhưng ông quá đói khát để từ chối. Ông do dự một lúc, rồi giật lấy bình. Ông nghi ngờ ngửi rượu và đưa bình vào miệng. Khi đã bắt đầu uống, ông không còn có thể ngừng lại. Rượu chỉ còn nửa bình và ông đã uống hết trong vài phút. Ông lảo đảo và hạ bình xuống.

Philip cầm lấy nó và cất lại vào trong bị. “Anh cũng cần cái gì để ăn,” ông nói. Ông đem ra một ổ bánh nhỏ.

Remigius lấy bánh và cho vào miệng. Rõ ràng từ nhiều ngày qua ông đã không có gì ăn và từ nhiều tuần không có một bữa ăn tươm tất. Ông có thể chết sớm, Philip buồn bã nghĩ; nếu không vì đói thì cũng chết vì xấu hổ.

Bánh đã trôi xuống nhanh. Philip nói: “Anh có muốn trở lại tu viện không?”

Ông nghe thấy Jonathan thở mạnh. Giống như nhiều tu sĩ khác, Jonathan đã hy vọng chẳng bao giờ thấy Remigius nữa. Có lẽ cậu nghĩ Philip điên nên mới đề nghị cho Remigius trở về.

“Trở về? Ở vị trí nào?” Nó tỏ ra con người cũ của Remigius.

Philip lắc đầu buồn bã. “Anh sẽ chẳng bao giờ nhận bất cứ một địa vị nào trong tu viện của tôi, Remigius. Anh có thể trở lại như một tu sĩ bình thường và khiêm tốn. Hãy xin Chúa tha thứ cho anh và sống cuộc đời còn lại trong cầu nguyện và suy niệm, chuẩn bị linh hồn anh cho cuộc sống mai sau.”

Remigius ngẩng đầu lên và Philip chờ đợi một sự từ chối; nhưng nó chẳng bao giờ đến. Remigius mở miệng muốn nói, rồi đóng lại và nhìn xuống. Philip đứng yên và im lặng, quan sát và tự hỏi chuyện gì sẽ xẩy ra. Sự yên lặng kéo dài. Philip nín thở. Khi Remigius nhìn lên, mặt ông đầy nước mắt. “Vâng, thưa cha, xin vui lòng,” ông nói. “Em muốn về lại nhà.”

Philip cảm thấy một thoáng của niềm vui. “Vậy hãy lên ngựa của tôi.”

Remigius sửng sốt.

Jonathan nói: “Anh đang làm gì thế?”

Philip nói với Remigius: “Đi nào, làm như anh nói.”

Jonathan hoảng hốt. “Nhưng anh đi bằng gì?”

“Anh sẽ đi bộ,” Philip vui vẻ nói. “Một người trong chúng ta phải đi bộ.”

“Hãy để Remigius đi bộ!” Jonathan nói với giọng phẫn nộ.

“Hãy để ông ấy cưỡi ngựa,” Philip nói. “Hôm nay ông ấy đã làm hài lòng Chúa.”

“Thế còn anh? Anh đã không làm hài lòng Chúa hơn Remigius sao?”

“Chúa Giê Su nói rằng thiên đàng vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn hơn là chín mươi chín người công chính,” Philip phản đối. “Em không nhớ đến dụ ngôn người con hoang đàng sao? Khi cậu ấy trở về, cha cậu đã giết con bê béo. Các thiên thần vui mừng vì nước mắt của Remigius. Chuyện nhỏ nhất anh có thể làm là cho ông ấy con ngựa của anh.”

Ông cầm lấy dây cương và dẫn đường qua đống rác ra tới đường. Jonathan theo sau. Khi họ ra tới đường, Jonathan xuống ngựa và nói: “Anh làm ơn lấy con ngựa của em, và cho phép em được đi bộ.”

Philip quay lại cậu và nói với một chút nghiêm khắc. “Hãy lên ngựa của em. Đừng tranh luận với anh và hãy nghĩ về những gì đã xẩy ra và tại sao.”

Jonathan bối rối. Cậu lên ngựa và không nói gì nữa.

Họ quay về hướng Kingsbridge. Nó xa chừng hai mươi dặm. Philip đi bộ, ông cảm thấy tuyệt vời. Sự trở lại của Remigius bù đắp hơn cho sự mất mỏ đá. Tôi thua trong vụ kiện, ông nghĩ, nhưng nó chỉ mất những hòn đá. Những gì tôi đạt được còn có giá trị hơn.

Hôm nay tôi đã thắng một linh hồn.

III

Táo chín mới nổi trôi trong thùng, tỏa màu đỏ vàng trong ánh mặt trời lấp lánh trên mặt nước. Sally, chín tuổi và dễ kích động, cúi mình trên thành thùng với hai bàn tay chắp sau lưng và cố gặm một trái táo bằng răng của mình. Trái táo trôi đi, khuôn mặt cô chúi xuống nước, rồi cô ngẩng lên thổi phì phì và ré lên cười. Aliena cười nhẹ và lau mặt cô con gái nhỏ.

Nó là một buổi chiều mùa hè ấm áp, một ngày lễ và là ngày nghỉ, và hầu hết dân làng tụ họp trên cánh đồng bên kia sông cho trò chơi gặm táo trôi trên mặt nước. Đây là những dịp Aliena rất thích, nhưng đây là ngày lễ cuối cùng của cô ở Kingsbridge làm cô luôn bận tâm và xuống tinh thần. Cô vẫn quyết định rời Jack, nhưng từ khi quyết định cô đã bắt đầu cảm thấy trước nỗi đau của mất mát.

Tommy đang lang thang gần thùng nước và Jack gọi: “Chơi đi con, Tommy – hãy thử xem.”

“Con chưa chơi đâu,” cậu trả lời.

Vào lứa tuổi mười một Tommy biết cậu thông minh hơn em gái cậu và cậu nghĩ cậu hơn hầu hết mọi người nữa. Cậu nhìn một lúc, nghiên cứu kỹ thuật của những người đã thắng trò chơi. Aliena chăm chú nhìn cậu quan sát. Cô yêu cậu một cách đặc biệt. Jack bằng tuổi này khi cô gặp Jack lần đầu, và Tommy giống Jack khi còn nhỏ. Nhìn cậu cô nhớ lại tuổi thơ. Jack muốn Tommy trở thành thợ xây, nhưng Tommy chưa tỏ ra cậu thích thú về xây dựng. Tuy nhiên, thời gian còn dài.

Sau cùng cậu bước lên thùng. Cậu cúi mình xuống và gục đầu xuống chậm rãi. Cậu đẩy trái táo cậu chọn xuống mặt nước, nhấn cả mặt xuống sâu, và rồi ngẩng lên đắc thắng với một trái táo trong hàm răng.

Khi Tommy để tâm đến điều gì đó, cậu cũng đạt được nó. Trong cậu có một chút gì đó của ông ngoại, Bá tước Bartholomew. Cậu có một ý chí mạnh mẽ và một cảm giác nhậy cảm cho đúng và sai, tốt và xấu.

Sally kế thừa bản chất dễ tính và coi thường luật lệ do con người tạo ra của Jack. Khi Jack kể cho các con những câu truyện, Sally luôn luôn có cảm tình với những người yếu thế, trong khi Tommy thường hay lên án. Mỗi đứa trẻ có cá tính từ một phần của cha mẹ và nét mặt của người kia: Sally vui vẻ có nét cân đối và lọn tóc đen rối của Aliena, và Tommy dứt khoát có tóc màu cà rốt, nước da trắng và mắt xanh của Jack.

Tommy reo lên: “Cậu Richard đến!”

Aliena quay lại và dõi theo ánh mắt của cậu. Chắc chắn rồi, em cô, Bá tước Richard đang cưỡi ngựa vào bãi cỏ cùng với một nhóm các hiệp sĩ và cận thần. Aliena kinh ngạc. Làm sao cậu có đủ can đảm để chường mặt ra ở đây sau khi cậu đã đối xử tệ như thế với Philip về quặng mỏ?

Cậu đi đến thùng, mỉm cười và bắt tay mọi người. “Thử cắn một trái táo, cậu Richard,” Tommy nói. “Cậu có thể làm nó.”

Richard nhúng đầu vào thùng và ngẩng lên với một trái táo trong hàm răng trắng của cậu và bộ râu bạch kim của cậu ướt sũng. Trong trò chơi cậu thành công hơn là trong đời sống thật, Aliena nghĩ.

Cô không thể cho cậu tiếp tục như thể cậu chẳng làm điều gì sai. Những người khác có thể sợ nói bất cứ điều gì vì cậu là bá tước, nhưng đối với cô, cậu chỉ là một người em nhỏ dại khờ. Cậu đến hôn cô, nhưng cô đẩy cậu ra và nói: “Làm sao em dám ăn cắp mỏ đá của tu viện?”

Jack thấy cuộc tranh cãi nổ ra nên nắm tay các con và đi chỗ khác.

Richard có vẻ đau. “Tất cả tài sản được trả lại cho chủ cũ –“

“Đừng nói với chị điều đó,” Aliena ngắt lời. “Sau khi Philip đã làm tất cả cho em!”

“Mỏ đá là một phần thừa kế của em,” cậu nói. Cậu kéo cô ra bên cạnh và nói nhỏ để những người khác không nghe được. “Ngoài ra, em cần tiền. Em phải bán đá, Allie.”

“Đó là tại vì em đi săn cả thời gian!”

“Nhưng em phải làm gì?”

“Em phải làm cho đất thành giầu có! Có nhiều việc phải làm – sửa lại những đổ vỡ do chiến tranh và nạn đói gây ra, mang lại phương pháp canh tác mới, dọn rừng và thoát nước ngập – đó là cách tăng sự giầu có của em. Không phải ăn cắp mỏ đá mà Vua Stephen đã cho tu viện Kingsbridge.”

“Em chẳng bao giờ lấy bất cứ cái gì không phải là của em.”

“Em cũng chẳng bao giờ làm cái gì khác!” Aliena bùng lên. Aliena quá tức giận để nói ra những điều mà tốt hơn không nên nói. “Em chẳng bao giờ làm bất cứ cái gì. Em lấy tiền của chị mua những vũ khí ngớ ngẩn. Em lấy công việc Philip cho em. Em lấy lãnh địa khi nó được trao cho em trên một cái đĩa chị đã dọn sẵn. Bây giờ em không thể điều hành nó mà không cần lấy những cái không thuộc về em.” Cô quay đi và giận dữ bỏ đi.

Richard đi theo cô, nhưng một người nào đó giữ cậu lại, cúi đầu và hỏi thăm cậu. Aliena nghe cậu trả lời lịch sự, sau đó bị lôi kéo vào cuộc trò chuyện. Như vậy lại tốt hơn: cô đã nói phần của cô và không muốn tranh cãi với cậu nữa. Cô đến chiếc cầu và quay lại. Bây giờ một người khác nói chuyện với cậu. Cậu vẫy cô, ra hiệu như muốn tiếp tục nói chuyện với cô, nhưng cậu bị mắc kẹt. Cô thấy Jack, Tommy và Sally đang chơi một trò chơi với gậy và bóng. Cô chăm chú nhìn họ chơi chung với nhau dưới ánh mặt trời, và cô cảm thấy cô không thể chia lìa họ. Nhưng còn cách nào khác, cô nghĩ, để tôi có một đời sống bình thường?

Cô vượt qua cây cầu vào thị trấn. Cô muốn ở một mình một lúc.

Cô đã thuê một căn nhà ở Winchester, một căn nhà rộng với một cửa tiệm ở tầng trệt, một phòng khách ở tầng trên, một phòng ngủ riêng, và một nhà kho lớn ở cuối sân để chứa vải. Nhưng càng gần đến ngày dọn đi, cô càng không muốn đi.

Các con đường ở Kingsbridge nóng và bụi bặm, và không khí đầy ruồi được phát sinh từ những đống phân. Tất cả cửa tiệm đã đóng cửa và các nhà đã gài then. Thị trấn hoang vắng. Mọi người ở trên bãi cỏ.

Cô đến nhà Jack. Đó là nơi những người khác sẽ đến khi trò chơi cắn táo qua đi. Cửa nhà mở. Cô cau mày khó chịu. Ai đã để cửa như vậy? Rất nhiều người có chìa khóa nhà: cô, Jack, Richard và Martha. Không có gì nhiều để ăn cắp. Aliena chắc chắn không để tiền ở đó: từ nhiều năm nay Philip đã cho cô gửi nó trong kho bạc của tu viện. Nhưng cả nhà sẽ đầy ruồi.

Cô đi vào. Trời tối và lạnh. Những con ruồi nhẩy múa giữa phòng, nhặng bò trên khăn bàn và vài con ong bay quanh nồi mật.

Và Alfred đang ngồi ở bàn.

Aliena hét lên một tiếng hoảng sợ nhỏ, sau đó bình tĩnh lại và nói: “Làm sao anh có thể vào được?”

“Anh có chìa khóa.”

Cậu ấy đã giữ nó từ lâu, Aliena nghĩ. Cô nhìn cậu. Vai rộng của cậu đã gầy trơ xương và khuôn mặt cậu hốc hác. Cô nói: “Anh làm gì ở đây?”

“Anh muốn gặp em.”

Cô thấy mình run lên, không phải vì sợ mà vì giận. “Em không muốn gặp anh, bây giờ và chẳng bao giờ nữa,” cô khạc nhổ. “Anh đối xử với em như một con chó, và rồi khi Jack thương hại anh và thuê anh làm, anh đã phản bội sự tin tưởng của anh ấy và đem tất cả thợ của anh ấy đến Shiring.”

“Anh cần tiền,” cậu nói với một pha trộn của van nài và thách thức trong giọng nói.

“Vậy hãy đi làm.”

“Việc xây dựng đã ngưng lại ở Shiring. Anh không thể tìm được việc làm ở Kingsbridge.”

“Vậy hãy đi London – hãy đi Paris.”

Cậu bướng bỉnh như con bò. “Anh nghĩ em sẽ giúp anh.”

“Ở đây không có gì cho anh. Tốt hơn anh nên đi ra.”

“Em không có lòng thương xót sao?” cậu nói, giọng cậu không còn thách thức mà chỉ còn van xin.

Cô dựa vào bàn. “Alfred, anh không hiểu là em ghét anh sao?”

“Tại sao?” Cậu nói. Cậu trông đáng thương như thể điều đó là một bất ngờ cho cậu.

Trời ơi! Cậu ấy quá ngu ngốc, cô nghĩ; nó gần như cậu ấy muốn một lời xin lỗi. “Đi đến tu viện nếu anh cần sự từ thiện,” cô nói một cách mệt mỏi. “Khả năng tha thứ của tu viện trưởng vượt trên sức người phàm. Nhưng em thì không.”

“Nhưng em là vợ anh,” Alfred nói.

Nó đã đủ. “Em không phải là vợ anh,” cô rít lên. “Anh không phải là chồng em. Anh chẳng bao giờ là chồng em. Bây giờ hãy ra khỏi nhà này.”

Trước sự ngạc nhiên của cô, cậu nắm tóc cô. “Em là vợ anh,” cậu nói. Cậu kéo cô qua bàn về phía cậu, và với bàn tay còn lại cậu ôm ngực cô và bóp mạnh.

Aliena hoàn toàn bất ngờ. Đó là điều cuối cùng cô chờ đợi từ một người đàn ông đã ngủ cùng phòng với cô chín tháng trời mà không thực hiện một hành vi tình dục nào. Tự động cô hét lên và giằng mình ra khỏi cậu, nhưng cậu nắm chặt tóc cô và kéo cô lại. “Không có ai nghe tiếng em hét đâu,” cậu nói. “Họ ở bên kia bờ sông.”

Đột nhiên cô sợ hãi kinh hoàng. Họ ở một mình, và cậu ấy rất khỏe. Sau nhiều dặm đường cô đã đi qua, sau nhiều năm cô đã mạo hiểm trong các chuyến đi, bây giờ cô bị tấn công ngay tại nhà bởi một người đàn ông mà cô đã kết hôn!

Cậu nhìn thấy nỗi sợ trong mắt cô và nói: “Em sợ ư? Tốt hơn em nên tử tế với anh.” Rồi cậu hôn lên môi cô. Cô cắn môi cậu mạnh bao nhiêu có thể. Cậu gầm lên đau đớn.

Cô không nhìn thấy những cú đấm đang tới. Nó đập mạnh lên má cô đến nỗi cô đã kinh hoàng nghĩ rằng cậu ấy đã đập vỡ xương cô. Một lúc cô hoa mắt và mất thăng bằng. Cô lảo đảo ra khỏi bàn và cảm thấy mình ngã xuống. Lau sậy trên nền nhà làm nhẹ đi cái ngã của cô. Cô lắc đầu cho tỉnh táo và với tay lấy con dao trong tay áo bên trái. Nhưng trước khi cô có thể rút ra, cả hai cổ tay của cô đã bị giữ và cô nghe Alfred nói: “Anh biết về con dao găm nhỏ đó. Anh đã nhìn thấy em thay quần áo, nhớ không?” Cậu buông tay cô, đấm một cái nữa vào mặt cô và nắm lấy con dao găm.

Aliena cố luồn lách đi. Cậu ngồi trên chân cô và đặt bàn tay trái lên cổ cô. Aliena đập tay xung quanh. Bất ngờ mũi giao găm kề ngay mắt cô. “Hãy yên hay anh sẽ móc mắt em,” cậu nói.

Cô cứng người. Ý nghĩ bị mù làm cô hoảng sợ. Cô đã nhìn thấy người bị mù vì hình phạt. Họ đi ăn xin ngoài đường, đôi mắt rỗng nhìn chằm chằm vào người qua lại. Những đứa nhỏ trêu chọc họ, ngáng chân cho họ vấp ngã để họ giận giữ và cố gắng đuổi theo bắt kẻ trêu chọc họ. Thông thường họ sẽ chết trong vòng một hay hai năm.

“Anh nghĩ có thể làm em bình tĩnh lại,” Alfred nói.

Tại sao cậu ấy làm điều đó? Cậu ấy chẳng bao giờ có ham muốn nào với cô. Có phải vì cậu thất bại và giận dữ, và cô có điểm yếu? Có phải cô đại diện cho thế giới từ chối cậu?

Cậu nghiêng người về phía trước, hai đầu gối bên cạnh hông cô, giữ con dao vào mắt cô. Một lần nữa cậu đưa mặt cậu gần với mặt cô. “Bây giờ,” cậu nói, “hãy tử tế.” Cậu hôn cô.

Mặt chưa cạo râu của cậu làm xước da mặt cô. Hơi thở cậu toàn mùi bia và hành. Cô giữ miệng khép kín.

“Không được,” cậu nói. “Hãy hôn lại anh.”

Cậu hôn cô một lần nữa, và dí con dao gần hơn. Khi nó đụng vào mắt cô, cô chuyển động môi cô. Miệng cậu làm cô muốn nôn. Cậu đẩy lưỡi thô của cậu giữa đôi môi cô. Cô cảm thấy như cô phải ựa ra và cố gắng đè nén cảm giác kinh tởm vì sợ cậu ấy sẽ giết cô.

Cậu kéo người lên khỏi cô, nhưng vẫn giữ con dao vào mặt cô. “Bây giờ,” cậu nói. “Hãy sờ cái này.” Cậu lấy tay cô kéo vào trong áo dài của cậu. Cô chạm vào cơ quan sinh dục của cậu. “Cầm lấy nó,” cậu nói. Cô nắm nó. “Bây giờ cọ xát nhẹ nhàng.”

Cô vâng lời cậu. Khi cô làm cậu th?