Chương 18
Lá thư từ vua Henry đến trong khi các tu sĩ đang trong nhà họp.
Jack đã xây một nhà họp chứa được một trăm năm mươi tu sĩ – số lượng lớn nhất trong một tu viện trên toàn nước Anh. Tòa nhà tròn có mái trần vòm bằng đá và hàng ghế theo bậc bằng đá để ngồi. Ban lãnh đạo tu viện ngồi trên băng đá xung quanh bức tường, cao hơn hàng ghế phía dưới; và Philip cùng Jonathan ngồi trên ghế trạm khắc dựa vào tường đối diện với cửa ra vào.
Một tu sĩ trẻ đọc chương thứ bảy của luật Thánh Biển Đức. “Bậc thứ sáu của đức khiêm nhường là khi một tu sĩ hài lòng với những gì tầm thường và hèn hạ…” Philip nhận ra ông không biết tên người tu sĩ đang đọc. Có phải vì ông quá lớn tuổi hay vì tu viện quá to? “Bậc thứ bẩy của đức khiêm nhường là khi một người không chỉ thú nhận bằng miệng rằng ông thấp kém nhất và hèn hạ nhất so với người khác, nhưng còn tin như vậy trong sâu thẳm của trái tim ông.” Philip biết ông chưa đạt đến bậc khiêm nhường này. Ông đã đạt được nhiều điều trong sáu mươi hai năm qua, và ông đã đạt được nó nhờ sự can đảm, quyết tâm và trí thông minh của ông; nhưng ông cần phải nhắn nhủ lòng thường xuyên rằng lý do thực sự của sự thành công của ông là sự giúp đỡ của Thiên Chúa, không có Thiên Chúa mọi nỗ lực của ông không là gì.
Đàng sau ông, Jonathan luôn cựa quậy. Jonathan còn gặp nhiều khó khăn về đức khiêm nhường hơn Philip. Kiêu ngạo là tật xấu của những người lãnh đạo giỏi. Jonatha đã sẵn sàng lãnh đạo tu viện ngay, nhưng cậu kiên nhẫn chờ. Cậu đã nói chuyện với Aliena và cậu háo hức muốn thử kỹ thuật canh tác mới như cày với ngựa, trồng đậu và yến mạch trên mảnh đất hoang trong mùa xuân. Nó cũng giống như ngày xưa, cách đây ba mươi lăm năm, khi tôi nuôi cừu lấy lông, Philip nghĩ.
Ông biết ông nên từ chức và để Jonathan nhận trách nhiệm tu viện trưởng. Ông muốn dành quãng đời còn lại cho việc cầu nguyện và chiêm niệm. Nó là một tiến trình mà ông cũng thường khuyên người khác. Nhưng bây giờ, khi ông đủ tuổi để về hưu, viễn tượng tương lai làm ông sợ. Ông vẫn khỏe mạnh và trí óc ông minh mẫn hơn bao giờ hết. Một đời sống trong cầu nguyện và chiêm niệm có thể làm ông điên.
Tuy nhiên, Jonathan không thể chờ đợi mãi mãi. Thiên Chúa đã cho cậu khả năng điều hành một tu viện lớn, và cậu không muốn phí phạm khả năng của cậu. Cậu đã thăm nhiều tu viện trong những năm qua và đã tạo được ấn tượng tốt bất cứ nơi đâu cậu đến. Vào những ngày này, nếu một viện phụ chết, các tu sĩ sẽ yêu cầu Jonathan làm ứng viên cho cuộc bầu cử, và Philip sẽ khó từ chối không cho phép.
Người tu sĩ trẻ mà Philip không nhớ tên vừa đọc xong, có tiếng gõ cửa và người gác cổng đi vào. Thầy Steven, người giám thị, cau mày nhìn ông ấy: người gác cổng không được quấy rầy các tu sĩ trong giờ họp. Thầy giám thị chịu trách nhiệm về kỷ luật, và cũng giống như những người khác giữ chức vụ này, thầy khắt khe với các luật lệ.
Người gác cổng nói thì thào: “Một sứ giả của nhà vua!”
Philip nói với Jonathan: “Em ra xem chuyện gì.” Sứ giả sẽ trao bức thư cho một nhân viên cao cấp trong tu viện. Jonathan đi ra. Các tu sĩ thì thầm với nhau. Philip kiên quyết nói: “Chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho những người đã qua đời.”
Khi lời cầu cho người quá cố bắt đầu, ông tự hỏi vua Henry thứ hai muốn nói gì với tu viện Kingsbridge. Nó có khả năng là một tin vui. Henry đã bất hòa với giáo hội từ sáu năm qua. Cuộc tranh cãi bắt đầu về thẩm quyền của tòa án giáo hội, nhưng sự cứng đầu của nhà vua và sự nhiệt thành của Tổng giám mục thành Canterbury, Thomas Becket, đã ngăn chặn thỏa hiệp, và cuộc tranh cãi đã trở thành cuộc khủng hoảng. Becket đã phải ép buộc đi lưu vong ở Pháp.
Đáng buồn là giáo hội ở Anh đã không nhất trí ủng hộ ông. Các giám mục như Waleran Bigod đứng về phía nhà vua để được đặc quyền của hoàng gia. Tuy nhiên, giáo hoàng đã thúc ép Henry làm hòa với Becket. Có lẽ hậu quả tệ hại nhất của cuộc tranh cãi này là vua Henry, vì cần sự hỗ trợ của giáo hội Anh, đã cho những giám mục thèm khát quyền lực như Waleran ảnh hưởng lớn ở hoàng gia. Đó là lý do tại sao một lá thư của nhà vua lại đáng ngại hơn bình thường đối với Philip.
Jonathan trở lại và trao cho Philip một cuộn giấy được niêm phong bằng sáp có con triện to lớn của hoàng gia. Tất cả tu sĩ chờ đợi. Philip thấy khó có thể yêu cầu họ tập trung vào việc cầu nguyện cho người qua đời trong khi ông có lá thư trong tay. “Được,” ông nói. “Chúng ta sẽ tiếp tục cầu nguyện sau.” Ông phá vỡ con triện và mở lá thư. Ông liếc qua phần chào hỏi rồi đưa cho Jonathan, người có mắt sáng hơn. “Làm ơn đọc nó.”
Sau lời chào đầu bình thường, nhà vua viết: “Làm giám mục thành Lincoln, tôi đề cử người phục vụ trung thành của chúng tôi Waleran Bigod, hiện đang là giám mục thành Kingsbridge…” Giọng Jonathan bị át đi vì những lời bình luận sôi nổi. Philip lắc đầu ghê tởm. Waleran đã mất hết uy tín ở địa phương sau những tiết lộ ở phiên tòa của Philip: ông không còn có thể tiếp tục làm giám mục. Vì thế ông đã thương thuyết với nhà vua để đề cử ông thành giám mục ở Lincoln. Lincoln là một trong những địa phận giầu nhất thế giới và là địa phận quan trọng thứ ba trong vương quốc, sau Canterbury và York. Từ đó chỉ còn một bước nhỏ để trở thành tổng giám mục. Henry ngay cả có thể đã chuẩn bị cho Waleran thay thế Thomas Becket. Ý nghĩ về Waleran trở thành tổng giám mục của Canterbury, người lãnh đạo giáo hội Anh, quá kinh khủng đến nỗi Philip cảm thấy bệnh vì sợ.
Khi các tu sĩ yên lặng, Jonathan tiếp tục: “… và tôi đã đề nghị hội đồng địa phận bầu ông.” Được, việc đó nói thì dễ hơn là làm, Philip nghĩ. Một lời đề nghị của hoàng gia thì gần như mệnh lệnh, nhưng không hoàn toàn: nếu hội đồng địa phận ở Lincoln chống lại Waleran, hay nếu họ có riêng một ứng viên, họ có thể gây khó khăn cho nhà vua. Sau cùng nhà vua có lẽ sẽ đạt được mục đích theo cách của mình, nhưng nó không phải là chuyện đương nhiên.
Jonathan tiếp tục: “Tôi ra lệnh cho quý ông, ban lãnh đạo của tu viện Kingsbridge, tổ chức một cuộc bầu cử giám mục mới cho Kingsbridge; và tôi đề cử cho chức vụ này người phục vụ trung thành của chúng tôi Peter thành Warenham, tổng đại diện của Canterbury.”
Một tiếng hét tập thể phản đối xuất phát từ các tu sĩ đang họp. Philip lạnh người vì kinh hoàng. Nhà vua đã chọn tổng đại diện Peter, một người kiêu ngạo, luôn bực bội, tự cho mình là đúng, làm giám mục mới của Kingsbridge. Peter cùng mẫu người như Waleran. Cả hai đều ngoan đạo và kính sợ Thiên Chúa, nhưng không có cảm xúc cho lỗi lầm của mình, vì thế mà họ cho ước muốn của họ là ý muốn của Thiên Chúa, và theo đuổi mục đích của mình bằng sự vô tâm. Với Peter làm giám mục, Jonathan trong chức vụ tu viện trưởng sẽ phải chiến đấu cả đời cho công lý và sự hợp lý trong một vùng được cai trị bởi bàn tay sắt của một người không có trái tim. Và nếu Waleran thành tổng giám mục thì sẽ không còn hy vọng gì về một viễn tượng tươi sáng hơn.
Philip thấy một thời kỳ đen tối trước mặt, giống như giai đoạn tồi tệ của cuộc nội chiến, khi các bá tước như William làm gì họ muốn, khi các linh mục kiêu ngạo sao lãng cộng đoàn của họ và các tu viện co lại trong chiếc bóng nghèo khổ, yếu ớt của mình. Ý nghĩ đó làm ông tức giận.
Ông không phải là người duy nhất tức giận. Giám thị Steven đứng lên, mặt đỏ và hét to: “Không thể được!” mặc dù theo luật của Philip, mọi người trong nhà hội phải nói một cách bình tĩnh và thanh thản.
Các tu sĩ reo hò, nhưng Jonathan chứng tỏ sự khôn khéo của mình bằng cách hỏi vị giám thị: “Chúng ta có thể làm gì?”
Đầu bếp Bernard, vẫn béo như trước, nói: “Chúng ta phải từ chối yêu cầu của nhà vua.”
Nhiều tu sĩ lên tiếng đồng tình.
Steven nói: “Chúng ta sẽ viết thư cho nhà vua và nói chúng ta sẽ bầu người mà chúng ta muốn.” Một lúc sau ông ngại ngùng thêm vào: “dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa, dĩ nhiên.”
Jonathan nói: “Tôi không đồng ý việc chúng ta từ chối thẳng thừng. Chúng ta càng nhanh chóng phản đối nhà vua, chúng ta càng mau làm cơn thịnh nộ của nhà vua đổ xuống trên đầu chúng ta.”
Philip nói: “Jonathan có lý. Một người thua trận với nhà vua, người đó có thể được tha thứ, nhưng người thắng nhà vua, người đó phải chịu số phận bi đát.”
Steven bùng lên. “Anh muốn bỏ cuộc sao?”
Philip cũng lo lắng và sợ hãi như tất cả những người khác, nhưng ông phải tỏ ra bình tĩnh. “Steven, làm ơn bình tĩnh,” ông nói. “Chúng ta phải chiến đấu chống lại sự chỉ định kinh khủng này, dĩ nhiên. Nhưng chúng ta sẽ tiến hành nó một cách cẩn thận và khôn ngoan, luôn tránh cuộc đối đầu công khai.”
Steven nói: “Nhưng anh định làm gì?”
“Tôi không chắc chắn,” Philip nói. Lúc đầu ông đã chán nản, nhưng bây giờ ông bắt đầu cảm thấy hung hăng. Ông đã luôn phải chống lại cuộc chiến này trong đời ông. Ông chống lại nó ở đây trong tu viện, khi ông đánh bại Remegius để trở thành tu viện trưởng; ông đã chống lại nó trong miền, chống lại William Hamleigh và Waleran Bigod; và bây giờ ông đang chuẩn bị chống lại nó trên bình diện quốc gia.
“Tôi nghĩ, tôi phải qua Pháp,” ông nói, “để gặp Tổng giám mục Thomas Becket.”
Trong các cuộc khủng hoảng khác trong suốt đời ông, Philip có thể đưa ra một kế hoạch. Bất cứ khi nào ông hay tu viện của ông hay thị trấn của ông bị đe dọa bởi sức mạnh của người vô luật pháp và man rợ, ông luôn nghĩ ra một số hình thức phòng thủ hay tấn công. Ông không luôn chắc chắn sẽ thành công nhưng ông chẳng bao giờ phải bối rối, không biết phải làm gì như bây giờ.
Ông vẫn còn bối rối khi ông đến thành phố Sens, vùng đông nam của Paris, thuộc vương quốc Pháp.
Nhà thờ chính tòa ở Sens là tòa nhà rộng nhất mà ông đã thấy. Gian giữa rộng đến năm mươi bộ. So sánh với nhà thờ chính tòa Kingsbridge, nhà thờ Sens cho một ấn tượng về không gian hơn là ánh sáng.
Du hành xuyên nước Pháp lần đầu trong đời, Philip nhận ra có nhiều kiểu nhà thờ trên thế giới hơn là ông đã tưởng tượng, và ông hiểu du hành đã ảnh hưởng lên suy nghĩ cách mạng của Jack Jackson. Khi đi ngang Paris, Philip cố ý dành thăm nhà thờ tu viện Thánh Denis, và ông thấy nơi Jack đã tìm được vài ý tưởng cho cậu. Ông cũng đã thấy hai nhà thờ với trụ tường có cánh như ở Kingsbridge: rõ ràng các thợ xây bậc thầy khác cũng phải đối diện với vấn đề như Jack đã gặp, và đã đi đến cùng kết luận.
Philip đi chào xã giao tổng giám mục ở Sens, William Whitehands, một giáo sĩ trẻ xuất sắc và là cháu của vua Stephen đã qua đời. Tổng giám mục William mời Philip dùng cơm trưa. Mặc dù ông cảm thấy hãnh diện, nhưng ông từ chối: ông đã đi một đoạn đường dài để gặp Thomas Becket, và bây giờ ông đã ở gần, ông không còn kiên nhẫn để chờ đợi. Sau khi tham dự thánh lễ ở nhà thờ chính tòa, ông ra khỏi thành phố theo dòng sông Yonne về hướng bắc.
Đối với một tu viện sung túc nhất ở nước Anh, cuộc du hành của Philip giản dị: ông mang theo hai người lính hộ vệ, một tu sĩ trẻ tên là Michael Bristol như người phụ tá, và một con ngựa chở sách thánh, bản chép và minh họa đẹp đẽ của thư viện Kingsbridge để làm quà tặng cho các viện phụ và giám mục trên đường đi. Những cuốn sách đắt tiền tạo nên những quà tặng ấn tượng và tương phản với đoàn tùy tùng khiêm tốn của Philip. Đây là chủ ý: ông muốn mọi người tôn trọng tu viện, chứ không phải tu viện trưởng.
Ngay bên ngoài cổng phía bắc của Sens, trong một cánh đồng đầy ánh nắng bên bờ sông, ông thấy tu viện Thánh Colombe đáng kính, nơi Tổng giám mục Thomas đã sống từ ba năm qua. Một trong các linh mục của Thomas chào ông thân thiện, gọi người phục vụ chăm sóc cho ngựa và hành lý, và hướng dẫn ông vào trong nhà khách, nơi tổng giám mục đang ở. Philip nghĩ rằng những người lưu vong phải vui mừng lắm khi có khách từ quê nhà viếng thăm, không những vì lý do tình cảm mà còn bởi vì nó là biểu hiệu của sự hỗ trợ.
Philip và người phụ tá được mời đồ ăn và rượu, rồi được giới thiệu với những người làm việc của Thomas. Những người của ông là các linh mục, hầu hết còn trẻ và – Philip nghĩ – thông minh. Chỉ một lúc ngắn sau, Michael đã tranh luận với một người về đề tài biến đổi bản thể. Philip nhấm nháp ly rượu và lắng nghe mà không tham dự vào. Sau cùng một linh mục nói với họ: “Quan điểm của cha là gì, thưa cha? Cha chưa nói lời nào.”
Philip mỉm cười. “Những vấn đề khúc mắc của thần học không làm tôi đau đầu nhiều.”
“Tại sao?”
“Bởi vì chúng chỉ được giải quyết ở thế giới sau đó. Hiện tại người ta có thể trì hoãn nó.”
“Rất hay,” một giọng nói mới cất lên, và Philip ngẩng lên và thấy Tổng giám mục Thomas thành Canterbury.
Philip cảm nhận ngay sự hiện diện của một nhân vật đặc biệt. Thomas cao, mảnh khảnh và đặc biệt đẹp trai, với vầng trán rộng, mắt sáng, làn da trắng và mái tóc đen. Ông trẻ hơn Philip chừng mười tuổi, có nghĩa là ông chừng năm mươi hay năm mươi mốt. Mặc dù những bất hạnh, ông có nét sống động và vui vẻ. Philip thấy ngay ông là một người thật hấp dẫn, và điều này giải thích một phần cho sự tiến thân nhanh chóng của ông, từ một hoàn cảnh bình thường.
Philip quỳ và hôn tay ông.
Philip nói: “Tôi rất hân hạnh được làm quen với ông! Tôi luôn luôn muốn thăm viếng Kingsbridge. Tôi đã nghe nhiều về tu viện của ông và ngôi nhà thờ mới tuyệt vời.”
Philip bị quyến rũ và hãnh diện. Ông nói: “Tôi đến để gặp ông bởi vì mọi sự chúng tôi đạt được đang ở trong tình trạng nguy hiểm, có thể bị tàn phá bởi nhà vua.”
“Tôi muốn nghe mọi chuyện ngay bây giờ,” Thomas nói. “Hãy vào trong phòng tôi.” Ông quay lại và ra khỏi phòng.
Philip theo sau, vừa cảm thấy vui vừa sợ hãi.
Thomas đưa ông vào căn phòng nhỏ. Có một cái giường giá trị bằng da và gỗ với khăn giường bằng lụa đẹp và chăn thêu, nhưng Philip cũng nhìn thấy một tấm nệm mỏng cuộn trong góc, và ông nhớ lại những câu truyện rằng Thomas chẳng bao giờ dùng những đồ đạc sang trọng được chủ nhà cung cấp. Nhớ lại chiếc giường thoải mái của mình ở Kingsbridge, Philip nhói lên cảm giác tội lỗi khi nghĩ rằng ông ngáy trong sự thoải mái, trong khi người thủ lãnh của các giám mục nước Anh lại ngủ trên nền đất.
“Hãy nói về nhà thờ chính tòa,” Thomas nói. “Ông nghĩ gì về nhà thờ ở Sens?”
“Tuyệt vời,” Philip nói. “Ai là người xây dựng tổng thể chính?”
“William thành Sens. Tôi hy vọng một ngày nào đó sẽ thu hút ông ấy đến Canterbury. Hãy ngồi xuống. Kể cho tôi nghe những gì xẩy ra ở Kingsbridge.”
Philip kể cho Thomas về Giám mục Waleran và Tổng đại diện Peter. Thomas quan tâm sâu sắc đến mọi việc Philip nói và đặt nhiều câu hỏi thông minh. Ông không những quyến rũ, ông còn thông minh. Ông cần cả hai để vươn lên đến vị trí mà từ đó ông có thể khuất phục được ý muốn của một trong những vị vua mạnh nhất nước Anh từ trước đến nay. Có tin đồn rằng dưới lớp áo tổng giám mục của ông, ông mặc chiếc áo sơ mi mềm mại, và dưới vẻ hấp dẫn bên ngoài, ông có một ý chí sắt.
Khi Philip chấm dứt câu chuyện, Thomas trông nghiêm trọng. “Điều này không thể cho phép xẩy ra được,” ông nói.
“Thực vậy,” Philip nói. Giọng chắc chắn của Thomas cho ông can đảm. “Ông có thể ngăn chặn nó không?”
“Chỉ khi nào tôi trở lại chức vụ của tôi ở Canterbury.”
Đó không phải là câu trả lời mà Philip chờ đợi. “Nhưng ông có thể viết ngay cho giáo hoàng không?”
“Tôi sẽ,” Thomas nói, “ngay hôm nay. Giáo hoàng sẽ không nhận Peter là giám mục ở Kingsbridge, tôi hứa với ông. Nhưng chúng ta không thể ngăn cản ông ở trong dinh thự giám mục. Và chúng ta không thể chỉ định ai khác.”
Philip bị sốc và mất tinh thần bởi tính quyết đoán tiêu cực của Thomas. Trên đường đến đây ông đã nuôi hy vọng rằng Thomas sẽ làm những gì ông không thể làm, và đưa ra cách làm thất bại kế hoạch của Waleran. Nhưng Thomas xuất chúng cũng bị bối rối. Niềm hy vọng duy nhất là ông có thể trở về Canterbury. Khi đó dĩ nhiên ông sẽ có quyền phủ nhận sự đề cử giám mục. Philip nói một cách chán nản: “Có hy vọng nào là ông sớm có thể trở về không?”
“Một vài hy vọng, nếu ông là một người lạc quan,” Thomas lập lại. “Giáo hoàng đã soạn ra một hiệp ước hòa bình và ép tôi và Henry phải đồng ý. Các điều khoản này đối với tôi có thể chấp nhận được: hiệp ước cho tôi những gì tôi đòi hỏi. Henry nói nó cũng có thể chấp nhận được đối với ông ấy. Tôi nhất định đòi ông ta chứng minh sự chân thật của ông bằng cách cho tôi một cái hôn hòa bình. Ông ấy từ chối.” Khi ông nói, giọng ông thay đổi. Sự to nhỏ của cuộc nói chuyện tự nhiên dần dần bình lặng và đều đều. Tất cả sự sống động biến đi khỏi khuôn mặt ông và ông trông như một linh mục giảng cho một cộng đoàn buồn ngủ về sự từ bỏ mình. Philip nhận ra trong biểu hiện của ông sự bướng bỉnh và hãnh diện đã giữ ông tranh đấu trong những năm qua. “Sự từ chối cái hôn là một dấu hiệu rằng ông có kế hoạch thu hút tôi về lại Anh và rồi không giữ lời hứa về những điều khoản đã được thỏa thuận.”
Philip gật đầu. Cái hôn hòa bình là một phần trong phụng vụ thánh lễ, và là dấu chỉ của sự tin tưởng. Không có nó, một hiệp ước không hoàn thành, từ một giao ước hôn nhân đến một thỏa thuận ngừng bắn. “Tôi có thể làm gì?” Philip nói, như hỏi với chính mình hơn là hỏi Thomas.
“Trở lại nước Anh và vận động cho tôi,” Thomas nói. “Viết thư cho các tu viện trưởng và viện phụ theo ông. Gửi những đoàn đại biểu từ Kingsbridge tới giáo hoàng. Kiến nghị với nhà vua. Giảng trong nhà thờ chính tòa nổi tiếng của ông, nói với dân chúng rằng vị linh mục cao cấp nhất của họ đã bị vua hất đi.”
Philip gật đầu, mặc dù ông không dự định làm những chuyện như thế. Thomas bảo ông đối lập với nhà vua. Nó có thể làm tăng tinh thần của Thomas, nhưng không mang lại gì cho Kingsbridge.
Philip có ý tưởng tốt hơn. Nếu Henry và Thomas đã gần xích lại với nhau, nó không khó để đẩy họ sát nhau. Có lẽ, Philip nghĩ một cách hy vọng, ông có thể làm một cái gì đó. Ý tưởng kích thích sự lạc quan của ông. Nó là một cú đá từ xa, nhưng ông chẳng mất gì.
Cuối cùng, họ chỉ tranh luận về một cái hôn.
Philip kinh ngạc khi ông thấy em ông đã già.
Tóc Francis đã hoa râm, có quầng thâm dưới mắt, và da mặt ông khô. Tuy nhiên ông ấy đã sáu mươi tuổi, nên có lẽ không có gì là ngạc nhiên. Và ông ấy có đôi mắt sáng và linh hoạt.
Philip nhận ra những gì đã làm phiền ông chính là tuổi tác của ông. Như mọi khi, mỗi lần nhìn thấy em ông, ông cũng nhận ra mình đã già. Từ nhiều năm nay ông không nhìn mình trong gương. Ông tự hỏi không biết ông có quầng thâm dưới mắt không. Ông sờ lên mặt. Nó rất khó để nói.
“Làm việc cho Henry có gì vui không?” Philip hỏi, tò mò, như mọi người đều muốn biết các vua chúa như thế nào trong đời sống riêng tư.
“Tốt hơn Maud,” Francis nói. “Bà ta khôn ngoan, nhưng quá quanh co. Henry rất cởi mở. Chúng ta luôn biết ông nghĩ gì.”
Họ đang ngồi trong hành lang của một tu viện ở Bayeux, nơi Philip đang ở. Hoàng gia ở gần đó. Francis vẫn còn làm việc cho Henry, như từ hai mươi năm qua. Bây giờ ông đứng đầu văn phòng thư ký, nơi soạn thảo tất cả thư từ của hoàng gia và các điều lệ. Nó là một nhiệm vụ quan trọng và đầy uy quyền.
Philip nói: “Henry mà cởi mở? Tổng giám mục Thomas không nghĩ như vậy.”
“Lại một đánh giá sai lầm nữa của Thomas,” Francis nói khinh bỉ.
Philip nghĩ Francis không nên khinh bỉ tổng giám mục. “Thomas là một nhân vật vĩ đại,” ông nói.
“Thomas muốn làm vua,” Francis phản ứng lại.
“Và Henry dường như muốn trở thành tổng giám mục,” Philip đáp lại.
Họ nhìn nhau. Nếu chúng ta cãi nhau, Philip nghĩ, nó không có gì là ngạc nhiên khi Henry và Thomas cãi nhau kịch liệt. Ông mỉm cười và nói: “Được, em và anh không cãi nhau về chuyện ấy nữa.”
Mặt Francis dịu lại. “Không, dĩ nhiên không. Nhưng anh đừng quên rằng cuộc tranh luận này đã làm em khó chịu trong sáu năm qua em. Em không thể khách quan về nó như anh.”
Philip gật đầu. “Nhưng tại sao Henry không chấp nhận kế hoạch hòa bình của giáo hoàng?”
“Ông ấy muốn,” Francis nói. “Chúng ta đứng trước sự hòa giải. Nhưng Thomas muốn hơn. Ông ấy nhấn mạnh về cái hôn hòa bình.”
“Nhưng nếu nhà vua chân thành, ông ấy chắc chắn nên cho một cái hôn hòa bình như một bảo đảm, phải không?”
Francis cất cao giọng. “Nó không có trong chương trình!” ông nói bằng giọng bực tức.
“Nhưng tại sao không cho nó bằng hình thức nào đó?” Philip lập luận.
Francis thở dài. “Ông ấy rất vui lòng. Nhưng đã có lần ông thề công khai là chẳng bao giờ cho Thomas một cái hôn hòa bình.”
“Nhiều vị vua đã không giữ lời thề của mình,” Philip nói.
“Những vị vua yếu đuối. Henry sẽ không đi ngược lại lời thề công khai. Điều đó làm ông khác với vua Stephen tồi tệ.”
“Vậy giáo hội có lẽ sẽ phải thuyết phục ông bằng cách khác,” Philip miễn cưỡng thừa nhận.
“Vậy tại sao Thomas cứ nhất định đòi nụ hôn?” Francis tức bực nói.
“Bởi vì ông ấy không tin tưởng Henry. Cái gì ngăn cản ông ấy khỏi việc phản bội thỏa thuận này? Thomas có thể làm được gì khi vua không giữ lời? Lại đi lưu vong một lần nữa sao? Những người theo ông luôn trung thành với ông, nhưng họ đã mỏi mệt. Thomas không thể làm lại như vậy một lần nữa. Vì thế, trước khi ông ấy chịu khuất phục, ông ấy muốn có sự bảo đảm chắc chắn.”
Francis lắc đầu buồn bã. “Nó là vấn đề của niềm tự hào,” ông nói. “Em biết Henry không có ý định lừa Thomas. Nhưng ông không muốn bị ép buộc. Ông ghét bị ép buộc.”
“Đối với Thomas cũng như vậy, anh nghĩ,” Philip nói. “Ông ấy đã đòi dấu hiệu này và ông ấy không thể lùi lại.” Ông lắc đầu một cách mệt mỏi. Ông đã nghĩ Francis có thể đề nghị một phương cách để đưa hai người gần lại với nhau, nhưng nhiệm vụ này dường như không thể được.
“Sự trớ trêu của việc này là Henry sẽ vui vẻ cho Thomas một nụ hôn sau khi họ đã hòa giải,” Francis nói. “Ông ấy không chấp nhận nó như một điều kiện tiên quyết.”
“Ông ấy đã nói như thế?” Philip hỏi.
“Vâng.”
“Như vậy mọi chuyện lại khác,” Philip hào hứng nói. “Chính xác ông ấy đã nói gì?”
“Ông ấy nói: ‘Tôi sẽ hôn miệng ông ấy. Tôi sẽ hôn chân ông ấy, và tôi sẽ tham dự thánh lễ của ông ấy – sau khi ông ấy trở về.’ Em nghe chính ông ấy nói như vậy.”
“Anh sẽ nói cho Thomas biết điều này.”
“Anh có nghĩ rằng ông ấy có thể chấp nhận nó?” Francis hồ hởi nói.
“Anh không biết.” Philip không dám hy vọng. “Nó dường như chỉ là một bước lui nhỏ. Ông ấy sẽ nhận được nụ hôn – chỉ trễ hơn một chút như ông ấy muốn.”
“Và đối với Henry nó cũng là một bước lui nhỏ tương tự như thế,” Francis nói với sự hứng khởi dâng cao. “Ông cho nụ hôn, nhưng hoàn toàn tự ý chứ không bị ép buộc. Trời ơi! Nó có thể thành công.”
“Họ có thể hòa giải ở Canterbury. Toàn bộ sự thỏa thuận sẽ được công bố trước đó, vì thế không ai trong họ có thể thay đổi vào giờ phút cuối. Thomas có thể dâng thánh lễ và Henry có thể cho ông nụ hôn ở đó, trong nhà thờ chính tòa.” Và sau đó, ông nghĩ, Thomas có thể ngăn chặn kế hoạch xấu xa của Waleran.
“Em sẽ đề nghị điều này với nhà vua,” Francis nói.
“Và anh với Thomas.”
Tiếng chuông tu viện vang lên. Hai anh em đứng lên.
“Cố gắng thuyết phục,” Philip nói. “Nếu nó thành công, Thomas có thể trở về Canterbury – và nếu Thomas trở về, Waleran Bigod sẽ kết thúc.
Họ găp nhau trong một đồng cỏ xinh đẹp bên bờ dòng sông ở biên giới giữa Normandy và vương quốc Pháp, gần các thị trấn Fréteval và Vievy-le-Raye. Henry đã có mặt ở đó với đoàn tùy tùng, khi Thomas đến với Tổng giám mục William ở Sens. Philip ở trong đoàn của Thomas, phát hiện em trai Francis bên nhà vua ở phía xa cánh đồng.
Henry và Thomas đã đạt được sự đồng ý – về lý thuyết.
Cả hai đã chấp nhận sự thỏa hiệp, theo đó nụ hôn sẽ được trao ở thánh lễ hòa giải, sau khi Becket trở về Anh. Tuy nhiên thỏa thuận này chưa được thực hiện cho đến khi hai người gặp nhau.
Thomas cưỡi ngựa đến giữa cánh đồng, để đoàn tùy tùng lại, và Henry cũng làm như vậy, trong khi mọi người nín thở quan sát.
Họ nói chuyện hàng giờ với nhau.
Không ai nghe được họ nói gì với nhau, nhưng có thể đoán. Họ nói về sự tấn công giáo hội của Henry, cách các giám mục đã không vâng lời Thomas, hiến pháp Clarendon gây tranh cãi, sự lưu đày của Thomas, vai trò của giáo hoàng… Lúc đầu Philip sợ họ sẽ cãi nhau và gây thù oán với nhau hơn trước. Trước đây có lần họ đã đi gần đến một thỏa thuận, và đã gặp nhau như thế này, và rồi có điểm nào đó không đồng ý, họ cảm thấy niềm tự hào của họ bị tổn thương, vì thế họ đã nói với nhau những lời nặng nề rồi giận dữ bỏ đi, mỗi người đổ lỗi cho sự không khoan nhượng của người kia. Nhưng họ càng nói chuyện lâu, Philip càng lạc quan. Nếu một trong hai người nổ ra thì nó đã xẩy ra sớm hơn, ông cảm thấy như thế.
Sức nóng của buổi chiều mùa hè dịu đi, và bóng râm của cây du đổ xuống dòng sông. Sự căng thẳng không thể chịu đựng được.
Rồi sau cùng một cái gì đó đã xẩy ra. Thomas chuyển động.
Ông bỏ đi? Không. Ông xuống ngựa. Điều đó có nghĩa gì? Philip nín thở theo dõi. Thomas bỏ ngựa, tiến về phía Henry và quỳ xuống dưới chân ông.
Nhà vua xuống ngựa và ôm Thomas.
Đoàn tùy tùng ở cả hai phía reo hò và tung mũ lên trời.
Philip cảm thấy nước mắt rơi xuống. Cuộc xung đột đã được giải quyết – bằng lý trí và thiện chí. Đây là cách để giải quyết mọi việc.
Có lẽ nó là một điềm báo cho tương lai.
II
Đó là ngày lễ Giáng Sinh, và nhà vua nổi giận.
William Hamleigh sợ hãi. Cậu chỉ biết một người duy nhất có tính khí giống vua Henry, và đó là mẹ cậu. Henry cũng đáng sợ gần như bà. Một cách nào đó tự bản chất ông đã là người đáng sợ, với đôi vai rộng, lồng ngực mạnh khỏe và đầu to; nhưng khi ông giận đôi mắt xanh của ông trở nên đỏ ngầu, khuôn mặt tàn nhang của ông đỏ lên và tính bồn chồn quen thuộc của ông biến thành tốc độ giận dữ của một con gấu lâu ngày đã bị nhốt.
Họ ở Bur-le-Roi, một lều săn của Henry, trong một công viên gần bờ biển Normandy. Chính ra Henry đang hạnh phúc. Ông thích săn bắn hơn mọi thứ khác trên đời, và đây là một trong những nơi ông ưa thích nhất. Nhưng ông tức giận, và lý do là vì Tổng Giám mục Thomas thành Canterbury.
“Thomas, Thomas, Thomas! Đó là tất cả những gì tôi nghe từ các ông. Thomas làm cái này, Thomas làm cái kia. Thomas xúc phạm đến các ông. Thomas đối xử bất công với các ông. Tôi bệnh vì Thomas.”
William lén lút quan sát nét mặt của các bá tước, giám mục và các quan chức khác xung quanh bàn tiệc lễ Giáng Sinh trong đại sảnh đường. Hầu hết họ có vẻ lo lắng. Chỉ có một người tỏ vẻ mãn nguyện: Waleran Bigod.
Waleran đã dự đoán rằng chẳng bao lâu nữa Henry sẽ cãi nhau với Thomas lần nữa. Thomas đã chiến thắng quá rõ ràng, ông nói; chương trình hòa bình của giáo hoàng đòi hỏi nhà vua nhường quá nhiều và đòi hỏi của Thomas về những lời hứa của hoàng gia sẽ dẫn đến một cuộc tranh cãi mới. Nhưng Waleran đã không đơn thuần ngồi chờ những gì sẽ xẩy ra; ông đã cật lực để làm cho dự đoán của ông thành sự thật. Với sự giúp đỡ của William, Waleran thường xuyên phàn nàn về những gì Thomas làm từ khi ông trở về nước Anh: đi quanh các vùng với một đội quân hiệp sĩ, thăm bạn nối khố của ông và gây nên những âm mưu xảo trá, trả thù những giáo sĩ, những người ủng hộ vua trong thời gian ông lưu đày. Waleran thêu dệt các báo cáo này trước khi nó đến tay nhà vua, nhưng trong những gì ông nói luôn có vài điều thật. Tuy nhiên ông thổi phùng ngọn lửa, một ngọn lửa đã âm ỉ cháy. Tất cả những người đã bỏ rơi Thomas trong sáu năm tranh cãi, bây giờ sống trong sợ hãi bị trả thù, hăng hái nói xấu ông với nhà vua.
Vì thế Waleran trông rất vui khi Henry giận dữ. Và ông có lý do để vui vì từ khi Thomas trở về, ông là người chịu nhiều đau khổ hơn những người khác. Tổng Giám mục đã từ chối sự đề cử ông trở thành giám mục ở Lincoln. Ngoài ra Thomas còn đề cử Tu viện trưởng Philip làm giám mục Kingsbridge. Nếu Thomas theo con đường của ông, Waleran sẽ mất Kingsbridge và cũng chẳng được Lincoln. Ông sẽ bị tiêu tan.
Vị trí của William cũng gặp khó khăn nữa. Với Aliena là nữ bá tước, Waleran đi khỏi, Philip là giám mục, và không nghi ngờ gì Jonathan là tu viện trưởng ở Kingsbridge, William sẽ bị cô lập, không còn đồng minh nào trong vùng. Đó là lý do tại sao ông tham gia cùng Waleran ở triều đình, để cộng tác làm suy yếu hiệp ước hòa bình vốn đã lung lay giữa vua Henry và Tổng Giám mục Thomas.
Không ai ăn nhiều thịt thiên nga, ngỗng, chim công và vịt trên bàn. William, vốn dĩ hay ăn và uống nhiều, chỉ gặm bánh mì và nhấm nháp đồ uống nóng, một thứ đồ uống được làm với bia, trứng và hạt nhục đậu khấu, để làm dịu bao tử bẳn gắt của cậu.
Henry đã tức giận khi nghe tin Thomas đã gửi một phái đoàn đến Tours – nơi Giáo hoàng Alexander đang ở - để phàn nàn về việc Henry không tuân hành hiệp ước hòa bình. Một trong những người cố vấn lớn tuổi của nhà vua, Enjuger de Bohun, nói: “Sẽ không có hòa bình cho đến khi ông treo cổ Thomas.”
William bị sốc.
Henry gầm lên: “Đúng thế!”
William biết rõ Henry coi lời nhận xét đó như một diễn tả về sự bi quan hơn là một đề nghị nghiêm túc. Tuy nhiên, William có một cảm giác rằng Enjuger không nói bóng gió.
William Malvoisin nói vu vơ: “Khi tôi ở Roma, trên đường trở về từ Jerusalem, tôi đã nghe kể về một giáo hoàng bị treo cổ vì tính xấc láo không thể chịu đựng được. Chết tiệt, tôi không thể nhớ ra tên ông.”
Tổng giám mục thành York nói: “Dường như không còn giải pháp nào khác với Thomas. Bao lâu ông còn sống, ông sẽ xúi giục nổi loạn, ở nhà cũng như ở ngoại quốc.”
Ba lời nhận xét này đối với William như có cùng một ý. Cậu nhìn Waleran. Lúc đó Waleran nói. “Việc kêu gọi Thomas giữ tinh thần đúng đắn chắc chắn không mang lại gì –“
“Hãy yên lặng!” nhà vua gầm lên. “Tôi đã nghe đủ rồi! Các ông chỉ biết than phiền. Khi nào các ông mới xắn tay áo lên để làm một cái gì đó?” Ông uống một ngụm bia. “Bia này uống như nước tiểu!” ông hét lên giận dữ. Ông đẩy ghế ra, và khi mọi người vội vàng đứng lên, ông đứng dậy và lao nhanh ra khỏi phòng.
Trong bầu khí yên lặng sợ hãi sau đó, Waleran nói: “Sứ điệp không thể rõ ràng hơn thế nữa, thưa các ngài. Chúng ta phải đứng lên và làm cái gì đó chống lại Thomas.”
William Mandeville, lãnh chúa thành Essex, nói: “Tôi nghĩ chúng ta phải gửi một phái đoàn của chúng ta đến Thomas để gặp ông và cho ông biết sự đúng đắn.”
“Và ông sẽ làm gì khi ông ấy từ chối nghe những lời hợp lý?” Waleran nói.
“Tôi nghĩ khi đó chúng ta sẽ bắt giữ ông nhân danh nhà vua.”
Nhiều người bắt đầu nói cùng một lúc. Đám đông chia thành từng nhóm nhỏ. Những người xung quanh lãnh chúa thành Essex lên chương trình gửi đại biểu đến Canterbury. William thấy Walern nói chuyện với hai hay ba hiệp sĩ trẻ. Waleran bắt gặp ánh mắt cậu và ra hiệu cho cậu đến gần.
Waleran nói: “Đoàn đại biểu của William Mandeville không mang lại kết quả gì. Thomas có thể xử lý họ bằng một tay.”
Reginald Fitzurse nhìn William cứng rắn và nói: “Một số người trong chúng tôi nghĩ đã đến lúc phải có biện pháp mạnh.”
“Ý ông làm sao?” William hỏi.
“Cậu đã nghe những gì Enjuger nói chứ?”
Richard le Bret, một cậu bé chừng mười tám, buột miệng nói: “Tử hình.”
William lạnh đến tim. Nó sẽ nghiêm trọng. Cậu nhìn Waleran. “Ông đã xin phép nhà vua chưa?”
Reginald trả lời. “Không thể. Ông ấy không thể đồng ý một việc như thế.” Ông cười nguy hiểm. “Nhưng ông ấy có thể thưởng những người phục vụ trung thành sau đó.”
Richard trẻ nói: “Được, William. Cậu có hành động chung với chúng tôi không?”
“Tôi chưa chắc chắn,” William nói. Cậu cảm thấy vừa háo hức, vừa sợ hãi. “Tôi phải suy nghĩ về nó.”
Reginald nói: “Không còn thời gian để suy nghĩ. Chúng ta phải đi bây giờ. Chúng ta phải đến Canterbury trước William Mandeville, nếu không họ sẽ cản đường chúng ta.”
Waleran nói với Wiilliam: “Họ cần một người lớn tuổi với họ, để hướng dẫn và lên kế hoạch hành động.”
William muốn đồng ý. Không những việc này sẽ giải quyết mọi vấn đề của cậu, mà có thể nhà vua còn cho cậu một lãnh địa vì chuyện này. “Nhưng giết một tổng giám mục là một tội kinh khủng!” cậu nói.
“Đừng lo lắng về nó,” Waleran nói. “Tôi sẽ tha tội cho cậu.”
Sự kinh khủng của những gì họ dự định làm đè nặng trên William như một cơn mây giông khi nhóm sát thủ trên đường đến nước Anh. Cậu không thể nghĩ gì khác; cậu không thể ăn hay ngủ; cậu hành động vô ý thức và nói lộn xộn. Khi con tàu cặp bến Dover, cậu muốn bỏ kế hoạch.
Họ đến lâu đài Saltwood ở Kent ba ngày sau lễ Giáng Sinh, vào một buổi tối thứ hai. Lâu đài thuộc tổng giám mục thành Canterbury, nhưng trong thời gian lưu đày, Ranulf de Broc đã chiếm giữ và từ chối trả lại. Thật vậy, một trong những khiếu nại của Thomas với giáo hoàng là vua Henry đã thất bại trong việc trao trả lâu đài lại cho ông.
Ranulf cho William sự can đảm mới.
Ranulf đã tàn phá Kent trong khi tổng giám mục vắng mặt giống như William ở Shiring và không muốn trả lại lãnh địa mà ông đã chiếm được. Ông nhiệt tình về kế hoạch ám sát, vui mừng muốn tham gia và thích thú bắt đầu thảo luận ngay về kế hoạch. Cách tiếp cận vấn đề của ông xua tan đám mây mù của sợ hãi mê tín đang che khuất tầm nhìn của William. William bắt đầu lại tưởng tượng về viễn cảnh nếu cậu lại trở thành bá tước, được tự do làm những gì cậu thích.
Họ thức hầu như cả đêm để bàn về kế hoạch hành động. Ranulf vẽ một sơ đồ sân nhà thờ chính tòa và dinh thự tổng giám mục, rạch nó lên bàn với một con dao. Khu tu viện ở phía bắc của nhà thờ, đó là điều bất thường vì nó thường ở phía nam, giống như ở Kingsbridge. Dinh thự tổng giám mục gắn liền với góc tây bắc của nhà thờ. Cửa vào từ hướng sân nhà bếp. Trong khi họ lên kế hoạch, Ranulf sai người đến đơn vị đồn trú của ông ở Dover, Rochester và Bletchingley, ra lệnh cho các hiệp sĩ của ông đến gặp ông trên con đường đến Canterbury vào buổi sáng. Gần sáng các kẻ âm mưu lên giường để có thể ngủ một hay hai tiếng.
Chân William đau như lửa sau cuộc du hành dài. Cậu hy vọng đây là hoạt động quân sự cuối cùng của cậu. Chẳng bao lâu nữa cậu sẽ năm mươi lăm, nếu sự tính toán của cậu chính xác, và cậu sẽ quá già để chiến đấu.
Mặc dù mỏi mệt và được ảnh hưởng sự phấn khởi của Ranulf, cậu vẫn không thể ngủ được. Ý tưởng giết một tổng giám mục đối với cậu quá kinh khủng, ngay cả mặc dù cậu đã được tha tội. Cậu sợ rằng khi ngủ cậu sẽ có cơn ác mộng.
Họ đã vẽ lên một kế hoạch tấn công tốt. Nó có thể thất bại, dĩ nhiên: luôn luôn có một cái gì đó xẩy ra ngoài ý muốn. Quan trọng là linh hoạt để đối phó với những điều không ngờ trước. Nhưng bất cứ chuyện gì xẩy ra, nó sẽ không quá khó cho một nhóm người chiến đấu chuyên nghiệp để chế ngự một nhóm nhỏ các tu sĩ ẻo lả.
Ánh sáng lờ mờ của buổi sáng mùa đông âm u xuyên vào phòng qua cánh cửa sổ xếp. Một lúc sau William đứng dậy. Cậu cố cầu nguyện, nhưng cậu không thể. Những người khác cũng đã dậy sớm. Họ ăn sáng chung với nhau trong sảnh đường. Ngoài William và Ranulf, còn có Reginald Fitzurse, người William chỉ định làm trưởng nhóm tấn công; Richard le Bret, người trẻ nhất trong nhóm; William Tracy, người già nhất; và Hugh Morville, người cao cấp nhất.
Họ mặc áo giáp và lên ngựa của Ranulf. Nó là một ngày lạnh cóng, và bầu trời tối với những áng mây xám, như thể trời sắp đổ tuyết. Họ theo con đường cổ được gọi là Stone Street. Sau khi đi được hơn hai tiếng, họ có thêm một số hiệp sĩ nữa.
Điểm hẹn chính là tu viện Thánh Augustin nằm bên ngoài thành phố. Mặc dù Ranulf đã bảo đảm viện phụ của tu viện là kẻ thù cũ của Thomas, nhưng William vẫn quyết định nói với ông là họ đến để bắt Thomas, không phải để giết ông. Họ quyết định giữ bí mật này cho đến giờ phút cuối cùng: không ai biết mục đích thực sự của kế hoạch này, ngoại trừ William, Ranulf và bốn hiệp sĩ từ Pháp sang.
Họ đến tu viện vào buổi trưa. Những người Ranulf triệu tập đang chờ đợi. Viện phụ cho họ ăn trưa. Rượu của ông ngon và tất cả họ uống nhiều. Ranulf ra lệnh cho những người lính bao vây khu vực nhà thờ chính tòa và ngăn chặn không cho ai trốn thoát.
William run rẩy, ngay cả khi cậu đứng bên cạnh lò sưởi trong nhà khách. Nó chỉ là một cuộc hành quân đơn giản, nhưng hình phạt cho sự thất bại có thể là cái chết. Nhà vua sẽ tìm cách biện minh cho việc giết Thomas, nhưng ông không bao giờ hỗ trợ cho âm mưu giết người: ông sẽ phải chối không biết gì về chuyện đó và treo cổ các thủ phạm. William, với tư cách cảnh sát trưởng ở shiring, đã treo cổ nhiều người; nhưng khi nghĩ về thân xác ông treo lủng lẳng ở đầu sợ dây thừng làm ông rùng mình.
Cậu nghĩ về chuyện khác, nghĩ về lãnh địa mà có thể cậu sẽ nhận được như phần thưởng khi thành công. Thật là tuyệt vời nếu cậu có thể trở thành bá tước một lần nữa vào lúc xế bóng, được tôn trọng, kính sợ và vâng lời vô điều kiện. Có thể em Aliena, Richard, sẽ chết ở Đất Thánh và vua Henry sẽ trao lại cho William lãnh địa cũ của cậu. Ý tưởng này sưởi ấm cậu hơn ngọn lửa.
Khi rời tu viện, họ là một đoàn quân nhỏ. Tuy nhiên họ không gặp khó khăn gì khi vào Canterbury. Ranulf đã kiểm soát phần đất này trong sáu năm nay và ông chưa từ bỏ quyền lực của ông. Ông vẫn còn ảnh hưởng hơn Thomas, đó là lý do tại sao Thomas phàn nàn một cách cay đắng với giáo hoàng.
Chẳng bao lâu khi họ ở bên trong, các binh lính phân tán xung quanh khu nhà thờ chính tòa và ngăn chặn các đường ra. Kế hoạch đã bắt đầu. Cho đến giờ phút này, một cách lý thuyết mọi chuyện có thể dừng lại được mà không có nguy hiểm; nhưng bây giờ, William nghĩ với một cái rùng mình sợ hãi, số phận đã được định đoạt.
Cậu để cho Ranulf giữ việc canh gác và thu thập một nhóm nhỏ gồm các hiệp sĩ và binh lính theo cậu. Cậu đặt hầu hết các hiệp sĩ đóng quân trong nhà đối diện với cổng chính vào khu nhà thờ. Rồi cậu đi qua cổng với nhóm còn lại. Reginald Fitzurse và ba người âm mưu khác tiến vào sân nhà bếp như thể họ là khách chính thức, chứ không phải là kẻ xâm nhập có vũ trang. Nhưng William lao vào nhà gác cổng và đe dọa người gác cổng với mũi gươm nhọn.
Cuộc tấn công được tiến hành.
Hồi hộp, William ra lệnh cho một người lính trói người gác cổng, cho người của ông vào nhà gác và đóng cổng lại. Bây giờ không còn ai có thể ra vào. Cậu đã kiểm soát được tu viện bằng vũ lực.
Cậu theo bốn người âm mưu vào trong sân nhà bếp. Có một chuồng ngựa ở phía bắc của sân, nhưng bốn người này đã cột ngựa vào một cây dâu tằm ở giữa sân. Họ tháo dây đeo kiếm và mũ sắt: họ muốn giữ vẻ bên ngoài của cuộc thăm viếng hòa bình lâu hơn nữa.
William bắt kịp họ và để vũ khí của cậu dưới gốc cây. Reginald nhìn cậu dò hỏi. “Mọi chuyện ổn cả,” William nói. “Nơi đây đã bị cô lập.”
Họ đi qua sân tới dinh thự và đi qua mái hiên. William chỉ định một hiệp sĩ địa phương tên là Richard đứng gác ở hiên. Những người khác bước vào đại sảnh đường.
Các nhân viên dinh thự đang ngồi ăn trưa. Điều đó có nghĩa là họ đã phục vụ Thomas và các linh mục cũng như các tu sĩ, những người ở cùng Thomas. Một nhân viên đứng lên. Reginald nói: “Chúng tôi là người của nhà vua.”
Cả phòng yên lặng, nhưng người nhân viên đang đứng nói: “Rất hân hạnh, thưa các ngài. Tôi là quản lý của sảnh đường, William Fitzneal. Làm ơn vào đây. Các ông muốn dùng cơm không?”
Ông ấy quá thân thiện, William nghĩ, mặc dù chủ ông đang bất hòa với nhà vua.
“Không cần ăn trưa, cám ơn,” Reginald nói.
“Một ly rượu, sau chuyến đi dài?”
“Chúng tôi có một thông điệp của vua cho chủ của ông,” Reginald sốt ruột nói. “Xin vui lòng thông báo ngay sự có mặt của chúng tôi.”
“Rất tốt.” Người quản lý cúi đầu. Họ không có vũ khí, vì thế ông ấy không có lý do gì để khước từ họ. Ông rời bàn và đi về đầu kia của sảnh đường.
William và bốn hiệp sĩ theo sau. Ánh mắt của những nhân viên im lặng dõi theo họ. William run rẩy như vẫn thường xẩy ra trước mỗi cuộc chiến, và cậu mong cuộc chiến bắt đầu ngay, vì cậu biết khi đó cậu sẽ bình thường.
Tất cả họ đi lên cầu thang đến tầng trên.
Họ vào phòng chờ rộng rãi có ghế băng quanh tường. Có một ngai lớn ở giữa một bức tường. Nhiều linh mục trong tu phục đen và các tu sĩ ngồi trên ghế băng, nhưng ngai ở giữa vẫn trống.
Người quản lý đi ngang phòng tới một cánh cửa mở. “Sứ giả của nhà vua, thưa ngài tổng giám mục,” ông nói lớn.
Không có tiếng trả lời, nhưng tổng giám mục có lẽ gật đầu, vì người quản lý vẫy tay cho họ vào.
Các linh mục và tu sĩ mở to mắt nhìn các hiệp sĩ đi qua phòng vào bên trong.
Thomas ngồi trên mép giường, mặc áo tổng giám mục. Chỉ có một người trong phòng: một tu sĩ, ngồi dưới chân Thomas, đang lắng nghe. William bắt gặp ánh mắt của người tu sĩ, và sững sờ nhận ra Tu viện trưởng Philip của Kingsbridge. Ông ấy làm gì ở đây? Nịnh hót ân huệ, không còn nghi ngờ gì. Philip là giám mục được bầu của Kingsbridge, nhưng chưa được xác nhận. Bây giờ William nghĩ với niềm vui dã man, ông ấy sẽ chẳng bao giờ làm giám mục.
Philip cũng giật mình khi nhìn thấy William. Tuy nhiên Thomas tiếp tục nói, như thể ông không để ý đến các hiệp sĩ. Đây là một chút bất lịch sự có chủ đích, William nghĩ. Các hiệp sĩ ngồi xuống trên chiếc ghế thấp và ghế băng xung quanh giường. William cho rằng như vậy không tốt: nó làm cho cuộc thăm viếng có tính cách xã hội, và cậu cảm thấy một cách nào đó họ mất đi sức đẩy. Có lẽ đó là chủ đích của Thomas.
Sau đó Thomas nhìn họ. Ông không đứng lên để chào hỏi. Ông biết tất cả họ, chỉ trừ William, và mắt ông dừng lại ở Hugh Morville, người cao cấp nhất. “À, Hugh,” ông nói.
William đã đặt Reginald phụ trách phần này của kế hoạch, vì thế Reginald, chứ không phải Hugh nói với tổng giám mục. “Chúng tôi đến từ nhà vua ở Normandy. Ông muốn nghe thông điệp của nhà vua công khai hay riêng tư?”
Thomas cáu kỉnh nhìn từ Reginald tới Hugh, rồi quay ngược lại, như thể ông tức giận phải đối phó với một người lớn tuổi nhất của đoàn đại biểu. Ông thở dài, rồi nói: “Hãy để tôi một mình, Philip.”
Philip đứng lên và đi qua các hiệp sĩ, nhìn lo âu.
“Nhưng đừng đóng cửa,” Thomas nói sau lưng ông.
Khi Philip đã ra ngoài, Reginald nói: “Tôi nhân danh nhà vua yêu cầu ông đến Winchester để trả lời những cáo buộc chống lại ông.”
William hài lòng khi thấy Thomas tái mặt đi. “Thì ra thế,” tổng giám mục bình tĩnh nói. Ông đứng lên. Người quản lý đứng lơ vơ ở cửa. “Gọi mọi người vào đây,” Thomas nói với ông. “Tôi muốn mọi người nghe điều này.”
Các tu sĩ và linh mục bước vào, Tu viện trưởng Philip ở trong số họ. Một vài người ngồi và những người khác đứng quanh tường. William không phản đối, trái lại, càng nhiều người càng tốt, vì mục đích của cuộc gặp gỡ không vũ khí này là để chứng minh trước các nhân chứng rằng Thomas đã từ khước theo lệnh của hoàng gia.
Khi họ đã ổn định, Thomas nhìn Reginald. “Nói lại!” ông nói.
“Tôi nhân danh nhà vua đòi ông đến Winchester để trả lời những cáo buộc chống lại ông,” Reginald lập lại.
“Những cáo buộc gì?” Thomas lặng lẽ nói.
“Tội phản quốc!”
Thomas lắc đầu. “Tôi sẽ không ra tòa án của Henry,” ông nói bình tĩnh. “Chúa biết tôi không có tội gì.”
“Ông đã rút phép thông công của những người phục vụ trung thành.”
“Không phải tôi, nhưng là giáo hoàng, người làm chuyện đó.”
“Ông đã rút quyền các giám mục khác.”
“Tôi đã đề nghị cho họ trở lại chức vụ theo điều kiện của lòng thương xót. Họ đã từ chối. Lời đề nghị của tôi vẫn mở.”
“Ông đã gây thiệt hại cho người kế vị vua bằng cách chê bai lễ đăng quang của con trai vua.”
“Tôi không làm những chuyện như thế. Tổng giám mục thành York không có quyền trao vương quyền cho bất cứ ai, và giáo hoàng đã khiển trách ông về tội vô liêm sỉ này. Nhưng không ai cho rằng lễ đăng quang này không có giá trị.”
Reginald nói giận dữ: “Điểm này dẫn theo điểm khác, đồ chết tiệt này.”
“Đủ rồi!” Thomas nói.
“Và chúng tôi cũng đã đủ với ông, Thomas Becket, Reginald hét to. Chúng tôi đã đủ với ông, với tính kiêu căng, phá rối và phản bội của ông.”
Thomas đứng lên. “Lâu đài tổng giám mục đã bị người nhà vua bao vây,” ông hét lên. “Tiền cho thuê của tổng giám mục được nhà vua thu. Tổng giám mục được lệnh không được rời thành phố Canterbury. Và các ông nói với tôi rằng các ông đã đủ rồi?”
Một linh mục cố can thiệp, nói với Thomas: “Thưa ngài, xin thảo luận vấn đề một cách riêng tư –“
“Để làm gì?” Thomas cắt ngang. “Họ đòi hỏi những điều tôi sẽ không làm và không muốn làm.”
Tiếng la hét đã thu hút mọi người trong dinh thự, và cửa vào phòng ngủ đầy những người đang mở to mắt lắng nghe. Lập luận đã đủ dài: không ai có thể phủ nhận việc Thomas đã từ chối lệnh của hoàng gia. William ra một hiệu lệnh cho Reginald. Nó là một cử chỉ kín đáo, nhưng Tu viện trưởng Philip đã chú ý đến nó và ông nhướng mày ngạc nhiên khi nhận ra rằng người lãnh đạo của nhóm không phải là Reginald mà là William.
Reginald nói một cách trịnh trọng: “Tổng Giám mục Thomas, ông không còn ở dưới sự hòa bình và bảo vệ của nhà vua nữa.” Ông nhìn quanh và ra lệnh cho những người đang theo dõi: “Hãy ra khỏi đây!”
Không ai di chuyển.
Reginald nói: “Các tu sĩ, nhân danh nhà vua tôi ra lệnh cho các ông canh giữ tổng giám mục và ngăn chặn ông ấy trốn thoát.”
Họ sẽ không làm những chuyện như thế, dĩ nhiên. William cũng không muốn họ làm như vậy, ngược lại, cậu muốn Thomas trốn thoát để có lý do giết ông dễ dàng hơn.
Reginald quay sang quản lý William Fitzneal, người cũng là tùy viên của tổng giám mục. “Tôi bắt ông,” ông nói. Ông nắm cánh tay người quản lý và đem ông ấy ra khỏi phòng. Ông ấy không cưỡng lại. William và những hiệp sĩ khác theo họ ra.
Họ chạy xuống cầu thang và đi qua sảnh đường. Người hiệp sĩ địa phương, Richard, vẫn còn gác bên mái hiên. William băn khoăn không biết làm gì với người quản lý. Cậu hỏi ông: “Ông thuộc về chúng tôi?”
Người đàn ông kinh hoàng. Ông nói: “Vâng, nếu ông thuộc về nhà vua.”
Ông quá sợ hãi để có thể gây nguy hiểm, mặc cho ông theo phe nào, William quyết định. Ông nói với Richard. “Để mắt tới ông ấy. Không để cho bất cứ ai rời tòa nhà. Giữ cho cổng vào luôn đóng.”
Cùng với những người khác cậu chạy qua sân tới gốc cây dâu tằm. Một cách vội vàng họ đội mũ sắt và đeo gươm. Họ sẽ làm bây giờ, William nghĩ một cách sợ hãi; chúng tôi sẽ trở lại đó và giết tổng giám mục thành Canterbury, ôi trời ơi! Đã từ lâu William không đội mũ sắt, và chiếc áo giáp nhằm bảo vệ cổ và vai cậu luôn trệch ra ngoài. Cậu nguyền rủa ngón tay vụng về của cậu. Cậu không còn thời gian để mò mẫm nữa. Cậu phát hiện ra một cậu bé đang há miệng quan sát cậu và cậu quát lên: “Hê! Tên mày là gì?”
Cậu bé nhìn lại về phía nhà bếp, không chắc chắn nên trả lời William hay chạy trốn: “Robert, thưa ngài,” một lúc sau cậu nói. “Họ gọi tôi Robert Pipe.”
“Đến đây, Robert Pipe, giúp tôi cái này.”
Cậu bé lại do dự.
William không còn kiên nhẫn. “Đến đây hay tôi thề rằng tôi sẽ cắt tay mày với lưỡi gươm này.”
Bất đắc dĩ cậu bé đi về phía trước. William chỉ cậu cách nâng cao chiếc áo giáp, trong khi cậu đội mũ sắt vào. Sau cùng cậu đội được mũ lên và cậu bé chạy trốn. Cậu bé sẽ kể cho con cháu cậu về việc này, William nghĩ thoáng qua.
Chiếc mũ sắt có một chỗ thông hơi, một vạt che miệng có thể kéo xuống và cột lại bằng dây. Những người khác đã cột xong vì thế mà mặt họ được che dấu và họ không còn được nhận ra. William để nó mở một lúc nữa. Mỗi người họ có một lưỡi kiếm ở một tay và một cái rìu ở tay kia.
“Sẵn sàng chưa?” William nói.
Tất cả gật đầu.
Từ bây giờ không còn nói chuyện. Không cần mệnh lệnh, không còn những quyết định phải làm nữa. Họ chỉ cần đơn giản trở lại chỗ đó và giết Thomas.
William cho hai ngón tay vào miệng và huýt một tiếng sáo chói tai.
Rồi cậu cột miếng che miệng lại.
Một người lính chạy ra khỏi nhà gác và mở cửa chính.
Các hiệp sĩ của William, những người đóng quân trong nhà bên kia con đường, chạy ra và ùa vào trong sân, la to như họ đã được chỉ thị: “Lính của vua! Lính của vua!”
William chạy vào lại dinh thự.
Hiệp sĩ Richard và người quản lý William Fitzneal mở toang cửa cho cậu.
Khi cậu vào, hai nhân viên của tổng giám mục tận dụng cơ hội Richard và William Fitzneal phân tâm, đã đóng sầm cửa giữa mái hiên và hội trường lại.
William dùng sức nặng của mình chống lại cánh cửa nhưng cậu đã quá trễ: họ đã gài thanh cửa. Cậu nguyền rủa. Một thất bại quá sớm! Các hiệp sĩ dùng búa bổ vào cánh cửa, nhưng không mấy khả quan: nó được làm để chống lại các cuộc tấn công. William cảm thấy cậu không còn làm chủ được tình hình. Chống lại sự hoảng loạn vừa chớm nở, cậu chạy ra khỏi mái hiên và nhìn quanh tìm kiếm cửa khác. Reginald đi với ông.
Không có gì phía bên này của tòa nhà. Họ chạy xung quanh đầu cuối phía tây của dinh thự, đi ngang nhà bếp vào trong vườn cây trái phía nam. William hài lòng: trên bức tường phía nam của dinh thự có một cầu thang dẫn lên trên lầu. Nó dường như là một lối đi riêng vào phòng ngủ của tổng giám mục. Cảm giác của hoảng sợ biến đi.
William và Reginald chạy đến chân cầu thang. Nó bị hư hại ở lưng chừng, và có một vài công cụ của người thợ và một cái thang gỗ gần đó, như thể cầu thang đang được sửa chữ