PHẦN SÁU - Chương 17 1170 -1174
Kingsbridge vẫn còn phát triển. Từ lâu nó đã nới rộng ra ngoài bức tường nguyên thủy, và bây giờ hơn một nửa số nhà nằm bên ngoài tường thành. Khoảng năm năm trước hội đồng thị trấn đã xây một bức tường thành mới bao quanh khu dân cư mọc lên ngoài thành phố cổ; và bây giờ lại có thêm những khu dân cư ở ngoài bức tường thành mới. Cánh đồng cỏ bên kia sông, nơi thường tổ chức ngày lễ Mùa gặt truyền thống và lễ Đêm mùa hè, bây giờ đã là một làng mới có tên gọi là Newport.
Vào một ngày chủ nhật lạnh mùa Phục sinh, Cảnh sát trưởng William cưỡi ngựa qua Newport và băng ngang cây cầu đá dẫn vào khu bây giờ gọi là thị trấn cổ của Kingsbridge. Hôm nay nhà thờ chính tòa mới của Kingsbridge được thánh hiến. William đi qua cổng thành vĩ đại và đi lên con đường chính mà gần đây đã được trải nhựa. Những ngôi nhà hai bên đều bằng đá với cửa hàng ở bên dưới và khu sinh sống ở tầng trên. Kingsbridge lớn hơn, bận rộn hơn và sung túc hơn cả Shiring, William nghĩ một cách cay đắng.
Cậu lên đến đầu đường và rẽ vào khu tu viện; và đó, trước mắt cậu, là nguyên do sự phát triển của Kingsbridge và sự suy giảm của Shiring: ngôi nhà thờ chính tòa.
Nó thật hấp dẫn.
Gian giữa cao tới tận trời được nâng đỡ bởi một hàng trụ tường duyên dáng. Phía tây có ba cửa vòm lớn, giống như các cửa khổng lồ, và một hàng cửa sổ cao, mảnh khảnh, đầu nhọn, hai bên là những tháp thon. Khái niệm đã được báo trước trong gian ngang được xây cách đây tám năm, nhưng sự hoàn thành ý tưởng vượt quá sự chờ đợi của mọi người. Chưa có một kiến trúc nào như thế ở mọi nơi trên nước Anh.
Chợ vẫn họp ở đây vào mỗi chủ nhật, và khu sân trước cửa nhà thờ đã đầy các quầy hàng. William xuống ngựa và để Walter chăm sóc ngựa. Cậu đi qua sân đến nhà thờ: cậu năm mươi bốn tuổi, nặng nề và bị đau thường xuyên vì bệnh gút ở chân và bàn chân. Vì đau nên cậu thường hay tức giận.
Bên trong nhà thờ còn ấn tượng hơn. Gian giữa theo mẫu của gian ngang, nhưng thợ xây dựng tổng thể đã kiện toàn thiết kế của cậu, làm cho hàng cột ngay cả thanh hơn và cửa sổ rộng hơn. Nhưng còn có sự đổi mới nữa. William đã nghe nói về những kính màu được làm bởi các thợ thủ công mà Jack Jackson đã mang về từ Paris. Cậu tự hỏi tại sao người ta lại om sòm về nó, vì cậu tưởng tượng rằng một cửa sổ màu cũng giống như một tấm thảm hay một bức tranh. Bây giờ cậu nhìn thấy những gì họ muốn nói. Ánh sáng từ bên ngoài chiếu xuyên qua kính màu làm cho nó rực rỡ và hiệu quả của nó hoàn toàn huyền diệu.
Nhà thờ đầy người đang ngửa cổ nhìn lên các cửa sổ. Các hình ảnh lấy từ Kinh Thánh, thiên đàng và hỏa ngục, các thánh và các tiên tri, các môn đệ, và một số cư dân Kingsbridge đã trả tiền cho các cửa sổ, trong đó hình họ được vẽ - một thợ làm bánh bê một khay bánh, một thợ thuộc da với da trên tay, một thợ xây với la bàn và thước đo. Tôi cá Philip đã thu được một lợi nhuận kếch xù từ những cửa sổ này, William chua chát nghĩ.
Nhà thờ đã chật cứng vì thánh lễ Phục Sinh. Chợ đã lan rộng vào nhà thờ, như thường xẩy ra. Khi đi theo gian giữa lên trên William đã được mời mua bia lạnh, bánh gừng nóng, và một gái điếm đề nghị ba xu cho một sự thỏa mãn nhanh. Hàng giáo sĩ luôn cố gắng đưa việc buôn bán ra khỏi nhà thờ, nhưng đó là công việc không thể làm được. William chào hỏi những cư dân quan trọng của thị trấn. Nhưng dù bị chi phối bởi chuyện xã giao hoặc thương mại, tâm trí và mắt William luôn bị thu hút bởi đường lượn của mái vòm. Mái vòm và cửa sổ, cột trụ và những đường xương của trần mái vòm, tất cả vươn lên trời để nhắc nhở đến mục đích của tòa nhà.
Nền nhà được lát đá, trụ cột được sơn và mỗi cửa sổ có kính. Kingsbridge, tu viện, và nhà thờ chính tòa nói lên sự giầu có của họ. Trong nhà nguyện nhỏ ở gian ngang có chân nến vàng và thánh giá nạm đá quý. Các cư dân hiển thị sự giầu có của họ qua áo quần sặc sỡ, trâm cài tóc, khóa thắt lưng bằng bạc, và nhẫn vàng.
Mắt cậu thấy Aliena.
Như thường lệ, tim cậu ngừng một nhịp. Cô đẹp như mọi khi, mặc dù cô đã ngoài năm mươi. Cô vẫn còn mái tóc xoăn, tuy nó ngắn hơn và màu nâu dường như sáng hơn như thể nó đã nhạt màu đi một chút. Bên cạnh mắt cô có những nét nhăn hấp dẫn. Cô mập hơn mọi khi nhưng vẫn là người phụ nữ hấp dẫn. Cô mặc áo khoác màu xanh dương với viền lụa đỏ, và giày da đỏ. Có một đám đông ngưỡng mộ quanh cô. Mặc dù cô không phải là nữ bá tước, thực ra chỉ là chị của một bá tước và em cô đang phục vụ tại Đất Thánh, nhưng mọi người đối xử với cô như cô là bá tước. Cô xuất hiện như một nữ hoàng.
Nhìn thấy cô, sự hận thù cháy bỏng trong lòng William. Cậu đã tiêu diệt bố cô, cưỡng hiếp cô, lấy lâu đài của cô, đốt cháy len của cô và đuổi em cô sống lưu vong, nhưng mỗi lần cậu nghĩ cậu đã đè chết được cô, cô lại trở lại, trèo từ thất bại lên bậc cao mới của quyền lực và giầu có. Bây giờ William đã già, bị bệnh gút, mập và cậu nhận ra rằng cậu đã phí phạm đời cậu trong quyền lực của một đam mê khủng khiếp.
Bên cạnh cô là một chàng trai cao, tóc đỏ mà mới nhìn William tưởng là Jack. Tuy nhiên khi nhìn kỹ hơn, chàng trai còn quá trẻ, và William nhận ra đó là con trai của Jack. Đứa bé ăn mặc như một hiệp sĩ và mang gươm. Jack đứng bên cạnh con và thấp hơn con một vài inch, mái tóc đỏ chải về phía thái dương. Cậu trẻ hơn Aliena, dĩ nhiên, khoảng năm tuổi, nếu William nhớ không lầm, nhưng cả cậu nữa cũng có những nét xung quanh mắt. Cậu đang nói chuyện sôi nổi với một cô gái trẻ, chắc là con gái cậu. Cô giống Aliena và đẹp như cô, tuy nhiên tóc cô chải gọn và búi lại phía sau và cô ăn mặc giản dị. Nếu có một thân hình gợi cảm dưới lớp áo màu nâu đất đó, cô không muốn cho ai biết đến.
Sự phẫn uất bừng lên trong lòng William khi cậu nhìn thấy sự thịnh vượng, phẩm cách và hạnh phúc của gia đình Aliena. Mọi sự họ có là của cậu. Nhưng cậu không ngừng nuôi hy vọng trả thù.
Giọng của hàng trăm tu sĩ cất lên trong bài thánh ca át đi tiếng nói chuyện và tiếng kêu của người bán hàng rong, và Tu viện trưởng Philip dẫn đầu đoàn rước tiến vào nhà thờ. Tu viện trước đây không có nhiều tu sĩ, William nghĩ. Tu viện đã lớn lên theo thị trấn. Philip, bây giờ đã ngoài sáu mươi, hầu như đã hói đầu hoàn toàn và mập ra nên khuôn mặt gầy còm của ông bây giờ đã tròn trịa. Không ngạc nhiên gì khi trông ông có vẻ mãn nguyện: sự thánh hiến nhà thờ chính tòa này là mục đích ông đã cưu mang khi ông mới đến Kingsbridge ba mươi bốn năm về trước.
Có tiếng bình luận thầm thì khi giám mục Waleran bước vào trong bộ áo đẹp nhất. Khuôn mặt xanh xao, góc cạnh của ông đanh lại, không tỏ lộ cảm xúc, nhưng William biết lòng ông đang sôi sục. Nhà thờ này là biểu tượng chiến thắng của Philip trên Waleran. Mặc dù William cũng ghét Philip nữa, nhưng cậu thích thú một cách thầm kín khi nhìn thấy Giám mục Waleran kiêu căng bị hạ nhục.
Waleran ít khi đến đây. Sau cùng một nhà thờ mới cũng đã được xây ở Shiring – với một nhà nguyện đặc biệt tưởng nhớ đến mẹ của William – và mặc dù nó không lớn và ấn tượng như nhà thờ chính tòa này, nhưng Waleran đã biến nó thành nhà thờ chính của ông.
Bất chấp những nỗ lực của Waleran, Kingsbridge vẫn là nhà thờ chính tòa. Trong cuộc chiến kéo dài ba thập kỷ, Waleran đã làm mọi chuyện có thể để phá hoại Philip, nhưng sau cùng Philip đã chiến thắng. Chúng cũng có một chút giống William và Aliena. Trong cả hai trường hợp, sự yếu đuối và thận trọng đã chiến thắng sức mạnh và sự tàn nhẫn. William cảm thấy thế giới chẳng bao giờ hiểu nó.
Giám mục đã bị buộc phải đến đây hôm nay vì lễ thánh hiến: nó sẽ kỳ cục nếu ông không có mặt ở đây để chào đón các khách nổi tiếng. Một số các giám mục ở vùng lân cận, cũng như nhiều viện phụ và tu viện trưởng có mặt hôm nay.
Tổng giám mục thành Canterbury, Thomas Becket, sẽ không đến. Ông có một cuộc tranh cãi với người bạn cũ của ông, vua Henry; một cuộc tranh cãi quá cay đắng và sôi nổi đến nỗi tổng giám mục bị ép buộc phải rời khỏi nước, và đã tị nạn tại Pháp. Cuộc tranh luận xoay quanh một số vấn đề về pháp lý, nhưng nội dung chính của tranh luận rất đơn giản: nhà vua có được phép làm như ông muốn, hay quyền lực của ông có giới hạn? Đó là những tranh luận chính William đã có với Tu viện trưởng Philip. William quan niệm rằng bá tước có thể làm bất cứ chuyện gì trong lãnh địa của cậu – đó chính là quyền lực của một bá tước. Henry cảm thấy như vậy về vương quốc của ông. Tu viện trưởng Philip và Thomas Becket, cả hai theo quan điểm hạn chế quyền lực của người lãnh đạo.
Giám mục Waleran là một giáo sĩ đứng về phía người lãnh đạo. Đối với ông quyền lực là để sử dụng. Những thất bại trong ba thập kỷ qua đã không lay chuyển niềm tin của ông rằng ông là dụng cụ của ý muốn Thiên Chúa. Ông quyết tâm một cách tàn nhẫn để làm những việc mà ông cho là trách nhiệm thánh thiện của ông. William cảm thấy chắc chắn rằng ngay cả khi Waleran đang thi hành nghi lễ thánh hiến nhà thờ chính tòa Kingsbridge này, ông cũng đang tính toán cách nào để làm hỏng giây phút vinh quang của Philip.
Trong buổi lễ William luôn chuyển động. Đứng thì tồi tệ cho cậu hơn là đi. Khi cậu đến nhà thờ Shiring, Walter mang theo cho cậu một chiếc ghế. Sau đó cậu có thể lơ mơ một chút. Ở đây có nhiều người để nói chuyện và nhiều tổ chức dùng cơ hội để tiến hành công việc. William đi quanh, lấy lòng những người quyền thế, đe dọa những người yếu, thu thập tin tức về người này người kia. Cậu không còn gây kinh hoàng trong tim của dân chúng như trong thời vàng son cũ của cậu, nhưng trong vị trí là một cảnh sát trưởng, người ta vẫn sợ và không dám đến gần cậu.
Giờ lễ kéo dài vô tận. Có một gián đoạn dài khi các tu sĩ đi quanh bên ngoài nhà thờ và vẩy nước phép lên các bức tường. Gần cuối buổi lễ, tu viện trưởng loan báo việc bổ nhiệm tu viện phó mới: đó là thầy Jonathan, đứa trẻ mồ côi trong tu viện. Jonathan, bây giờ ở giữa tuổi ba mươi và cao một cách bất thường, nhắc nhở William về thợ xây Tom ngày trước: ông cũng có nét như một người khổng lồ.
Khi thánh lễ kết thúc, những vị khách quý nấn ná ở gian ngang phía nam, và giới tiểu quý tộc tập trung xung quanh để gặp họ. William khập khễnh đến để tham gia với họ. Đã có thời ông đối xử bình đẳng với các giám mục, nhưng bây giờ ông phải cùng với các hiệp sĩ và chủ đất nhỏ cúi chào và lê một chân ra phía sau trước các giám mục. Giám mục Waleran kéo William ra một phía và hỏi: “Tu viện phó mới là ai?”
“Đứa trẻ mồ côi trong tu viện,” William trả lời. “Cậu ấy luôn là người được Philip yêu mến.”
“Cậu ấy còn quá trẻ để thành tu viện phó.”
“Cậu ấy già hơn Philip, khi Philip trở thành tu viện trưởng.”
Waleran có vẻ trầm ngâm. “Đứa bé mồ côi trong tu viện. Ngày đó ra sao?”
“Khi Philip đến đây, ông ấy mang theo đứa bé.”
Nét mặt Waleran sáng lên khi ông nhớ ra. “Trời ơi! Đúng rồi. Tôi đã quên đứa bé của Philip. Làm sao tôi có thể để chuyện đó lọt ra khỏi tâm trí của tôi?”
“Nó đã ba mươi năm rồi. Ai còn quan tâm đến nữa?”
Waleran cho William một cái nhìn khinh bỉ mà William rất ghét, cái nhìn như nói rằng cậu ngu như bò, cậu không nhìn ra điều gì sao? Chân cậu đau và cậu cố gắng chuyển trọng lượng từ chân này qua chân khác. Waleran nói: “Đứa trẻ từ đâu đến?”
William nuốt nỗi oán giận. “Nó được tìm thấy bị bỏ rơi gần tu viện chi nhánh trong rừng cũ của ông ấy, nếu tôi nhớ không lầm.”
“Càng tốt hơn,” Waleran hào hứng nói.
William vẫn chưa hiểu giám mục muốn gì. “Thì sao?” cậu ủ rũ nói.
“Có thể nói rằng Philip đã nuôi nấng đứa trẻ như nó là con riêng của ông không?”
“Vâng.”
“Và bây giờ ông ấy bổ nhiệm cậu ấy làm tu viện phó.”
“Có lẽ cậu ấy được các tu sĩ bầu lên. Tôi tin rằng cậu ấy được lòng nhiều người.”
“Bất cứ ai trở thành tu viện phó vào lứa tuổi ba mươi lăm, sau này sẽ là tu viện trưởng.”
William không muốn nói Thì sao? một lần nữa, vì thế cậu chờ đợi, cảm thấy mình như một đứa học sinh ngu xuẩn chờ Waleran giải thích.
Sau cùng Waleran nói: “Jonathan rõ ràng là con riêng của Philip.”
Willian phá lên cười. Cậu đã chờ đợi một suy nghĩ sâu sắc, và Waleran đã đưa ra một nhận xét hoàn toàn lố bịch. “Không một người nào quen biết Philip sẽ tin vào việc như thế,” cậu nói và lại cười. Waleran nghĩ cậu ngay cả rất thông minh, nhưng lần này cậu đã mất cảm giác về thực tại.
Giám mục phản ứng với sự khinh thường lạnh lùng. “Tôi nói Philip đã từng có một tình nhân khi ông điều hành tu viện nhỏ ở xa trong rừng. Rồi ông trở thành tu viện trưởng ở Kingsbridge và phải bỏ người phụ nữ đó ở lại. Cô ấy không muốn giữ đứa bé nếu nó không có bố, vì thế cô giao đứa bé cho ông. Philip là một người tình cảm, cảm thấy có trách nhiệm lo cho đứa bé nên đã dựng ra câu chuyện là tìm được nó.”
William lắc đầu. “Không thể tin được. Đối với bất cứ người nào khác, vâng. Nhưng đối với Philip thì không.”
Waleran kiên trì: “Nếu đứa bé bị bỏ rơi, làm sao ông ấy có thể chứng minh được nó từ đâu tới?”
“Ông ấy không thể,” William thừa nhận. Cậu nhìn sang gian ngang phía nam, tới chỗ Philip và Jonathan đứng với nhau và nói chuyện với giám mục thành Hereford. “Nhưng ngay cả họ không giống nhau.”
“Cậu không giống mẹ cậu,” Waleran nói. “Tạ ơn Chúa!”
“Tất cả những điều đó có nghĩa gì?” William nói. “Ông định làm gì với chuyện đó?”
“Tố cáo ông ấy trước tòa án giáo hội,” Waleran trả lời.
Như vậy thì khác. Không một người nào quen biết Philip sẽ tin lời buộc tội của Waleran, nhưng một thẩm phán xa lạ với Kingsbridge có thể thấy nó hợp lý. William miễn cưỡng chấp nhận ý tưởng của Waleran là không có gì ngu ngốc. Như thường, Waleran sắc sảo hơn William. Waleran có vẻ tự phụ, dĩ nhiên. Nhưng William háo hức về viễn tượng dìm Philip xuống. “Trời ơi!” cậu háo hức nói. “Ông có nghĩ rằng nó sẽ thành công không?”
“Nó tùy thuộc vào ai là người thẩm phán. Nhưng tôi nghĩ tôi có thể sắp xếp được. Tôi phân vân…”
William nhìn vào Philip ở gian ngang, người đang đắc thắng và mỉm cười, với người ông bảo trợ cao lớn bên cạnh. Cửa sổ kính màu lớn chiếu một ánh sáng mê hoặc lên họ, và họ trông như những nhân vật trong mơ. “Gian dâm và gia đình trị,” William hân hoan nói. “Trời ơi!”
“Khi chúng ta có thể ghép cho ông tội danh đó,” Waleran nói với sự thích thú, “nó sẽ là kết thúc của tu viện trưởng đáng nguyền rủa đó.”
Không một thẩm phán có lương tâm nào có thể cho rằng Philip có tội.
Sự thật là ông không bị cám dỗ nặng nề về thân xác. Ông biết, qua việc giải tội, rằng nhiều tu sĩ chiến đấu một cách vô vọng với sự ham muốn xác thịt, nhưng ông may mắn không bị như vậy. Đã có một thời gian, vào lứa tuổi mười tám, ông đã chịu đựng những giấc mơ không thanh tịnh, nhưng giai đoạn đó không kéo dài lâu. Trong cả cuộc đời, sự thanh tịnh dễ dàng đối với ông. Ông không bao giờ thực hiện những hành vi tình dục và có lẽ bây giờ ông đã quá già cho việc đó.
Tuy nhiên giáo hội coi lời buộc tội là nghiêm trọng và Philip đã được mời đến tòa án giáo hội. Một tổng đại diện của Canterbury sẽ hiện diện. Waleran đã muốn phiên tòa diễn ra tại Shiring, nhưng Philip đã chống lại thành công, và bây giờ nó sẽ tổ chức ở Kingsbridge, dù sao đó cũng là thành phố nhà thờ chính tòa. Bây giờ Philip dọn đồ cá nhân ra khỏi nhà tu viện trưởng để nhường chỗ cho tổng đại diện, người sẽ lưu lại đó.
Philip biết ông vô tội về việc gian dâm, và nó dẫn theo một cách hợp lý rằng ông không có tội gia đình trị, bởi vì một người không thể thiên vị con ông nếu ông không có con. Tuy nhiên ông xem xét lại trái tim ông xem ông có sai lầm trong việc tích cực ủng hộ Jonathan không. Như những tư tưởng không trong sạch là một loại bóng tối của một tội nặng, có lẽ khuynh hướng thiên vị một đứa bé mồ côi mà mình yêu mến là bóng tối của gia đình trị. Các tu sĩ được yêu cầu từ bỏ sự an ủi của đời sống gia đình, tuy nhiên Jonathan giống như một người con đối với Philip. Philip đã chỉ định cậu làm quản lý ở lứa tuổi còn quá trẻ, và bây giờ đã đề cử cậu làm tu viện phó. Có phải tôi làm chuyện đó vì niềm tự hào và niềm vui của riêng tôi? Ông tự hỏi lòng.
Vâng, đúng vậy, ông nghĩ.
Ông đã có sự hài lòng lớn lao để dạy Jonathan, quan sát cậu lớn lên, và nhìn cách cậu điều hành công việc của tu viện. Nhưng ngay cả nếu Philip không có những niềm vui mãnh liệt như vậy trong việc này thì Jonathan vẫn là người quản lý trẻ có nhiều khả năng nhất trong tu viện. Cậu thông minh, đạo đức, sáng tạo và tận tâm. Được lớn lên trong tu viện, cậu không biết cuộc sống nào khác và chẳng bao giờ ao ước về tự do. Chính Philip cũng đã lớn lên trong tu viện. Chúng ta, những đứa trẻ mồ côi trong tu viện, là những tu sĩ tốt nhất, ông nghĩ.
Ông lấy ra từ trong túi một cuốn sách: Tin Mừng theo thánh Luca, một cuốn sách thông thái. Ông đã đối xử với Jonatha như một người con, nhưng ông không làm gì nên tội để bị đem ra trước tòa án giáo hội. Sự kết án là phi lý.
Thật không may, chỉ riêng lời kết án đã gây nên thiệt hại. Nó làm giảm uy quyền luân lý của ông. Sẽ có những người chỉ nhớ về lời kết tội và quên đi sự phán quyết. Lần sau khi Philip nói: “Giới răn cấm người ta khao khát vợ chồng người,” một vài người trong cộng đoàn sẽ nghĩ: nhưng ông đã có sự vui thú đó khi còn trẻ.
Jonathan lao vào, thở dốc. Philip cau mày. Tu viện phó không được xông vào phòng và nói hổn hển. Philip đang chuẩn bị giảng cho một bài về phẩm chất của người lãnh đạo trong tu viện, khi Jonathan nói: “Tổng đại diện Peter đã đến rồi!”
“Được rồi, được rồi,” Philip xoa dịu. “Anh đã xong.” Ông trao cho Jonathan chiếc cặp.
“Hãy đem xuống nhà ngủ, và đừng vội vàng ở bất cứ chỗ nào: Tu viện là nơi của an bình và thinh lặng.
Jonathan nhận chiếc cặp và lời khiển trách, nhưng cậu nói: “Em không thích cái nhìn của tổng đại diện.”
“Anh chắc ông ấy sẽ là một thẩm phán công bằng, và đó là những gì chúng ta muốn,” Philip nói.
Cánh cửa mở ra lần nữa và tổng đại diện bước vào. Ông ấy cao, gầy, bằng tuổi Philip, với mái tóc hoa râm mỏng và nét trịch thượng trên mặt. Ông trông có vẻ quen thuộc.
Philip đưa tay bắt và nói: “Tôi là Tu viện trưởng Philip.”
“Tôi biết ông,” tổng đại diện nói chua chát. “Ông không nhớ tôi sao?”
Giọng nói giận dữ như một cú đấm. Philip mất hết tinh thần. Đây là kẻ thù lâu đời của ông. “Tổng đại diện Peter,” ông nói mạnh. “Peter thành Warenham.”
“Ông ấy là một người quấy rầy,” Philip cắt nghĩa cho Jonathan một vài phút sau đó, khi họ đã rời tổng đại diện để ông nghỉ ngơi trong nhà của tu viện trưởng. “Ông đã than phiền rằng chúng ta không làm việc chăm chỉ đủ, hay chúng ta ăn quá nhiều, hay cầu nguyện quá ngắn. Ông ấy nói anh hay nuông chiều. Anh chắc rằng ông ấy muốn làm tu viện trưởng. Dĩ nhiên ông ấy sẽ là một thảm họa. Anh cắt cử ông lo việc từ thiện để ông dành nửa thời gian ở bên ngoài. Anh làm vậy để thoát khỏi ông ấy, như thế tốt nhất cho tu viện và cho ông ấy. Nhưng anh chắc rằng ông ấy vẫn ghét anh về chuyện đó, mặc dù ba mươi lăm năm đã qua.” Ông thở dài. “Anh đã nghe, khi anh và em thăm tu viện thánh Gioan trong rừng sau nạn đói rằng Peter đã đến Canterbury. Và bây giờ ông ấy ngồi tòa xét xử anh.”
Họ đang ở trong khu tu viện. Thời tiết dịu dàng và mặt trời ấm áp. Năm mươi bé trai trong ba lớp khác nhau đang học đọc và viết trên đường đi phía bắc. Gió mang tiếng rì rầm học bài của chúng qua khu nhà bốn góc. Philip nhớ lại có lúc nhà trường chỉ có năm học trò và một thầy giáo tập già nua. Ông nghĩ về tất cả những gì ông đã làm ở đây: xây dựng nhà thờ chính tòa; biến đổi tu viện thiếu thốn thành một tổ chức thịnh vượng, bận rộn và ảnh hưởng; mở rộng thị trấn Kingsbridge. Trong nhà thờ, hơn một trăm tu sĩ đang hát lễ. Từ chỗ ngồi, ông có thể thấy những cửa sổ với kính màu đẹp một cách đáng kinh ngạc. Đàng sau ông, ở đường đi phía đông, một thư viện xây bằng đá chứa hàng trăm cuốn sách về thần học, thiên văn học, luân lý học, toán học, và trong mọi lãnh vực của kiến thức. Bên ngoài tu viện, đất đai của tu viện được quản lý bởi nhân viên có khả năng, đã nuôi sống không những các tu sĩ mà còn hàng trăm nhân công nông trại. Và tất cả những thứ đó ông bị mất chỉ vì một lời nói dối sao? Tu viện Kingsbridge thịnh vượng và đạo đức này sẽ được trao cho người khác, trao cho một con tốt của Giám mục Waleran như tổng đại diện nịnh nọt Baldwin hay kẻ ngu xuẩn tự cho mình là đúng như Peter thành Warenham, để họ đưa tu viện xuống tình trạng nghèo nàn và đồi bại nhanh chóng như Philip đã xây dựng nó lên ư? Những đàn cừu to lớn sẽ co lại thành vài con gầy gò, những nông trại lại trở thành đất cho cỏ mọc, thư viện đóng bụi vì không ai sử dụng, nhà thờ chính tòa đẹp đẽ lại chìm vào ẩm thấp và hư hỏng sao? Thiên Chúa đã giúp tôi đạt được nhiều như thế, ông nghĩ; tôi không tin Ngài muốn nó lại trở về hư không.
Jonathan nói: “Tổng đại diện Peter cũng không thể tìm thấy anh có tội.”
“Anh nghĩ ông ấy sẽ tìm ra,” Philip nói nặng nề.
“Với lương tâm, làm sao ông ấy có thể?”
“Anh nghĩ ông ấy cả đời đã nuôi dưỡng mối bất bình chống lại anh, và đây là cơ hội để chứng minh rằng anh là người có tội và ông ấy là người chính trực. Một cách nào đó Waleran đã tìm ra điều đó và đã thu xếp để Peter được bổ nhiệm xét xử vụ kiện này.”
“Nhưng không có bằng chứng!”
“Ông ấy không cần băng chứng. Ông sẽ nghe lời buộc tội, và lời biện hộ; sau đó ông cầu nguyện xin sự soi sáng, rồi ông ấy loan báo phán quyết.”
“Thiên Chúa sẽ hướng dẫn ông ấy theo sự thật.”
“Peter sẽ không nghe Chúa. Ông ấy chẳng bao giờ là người biết lắng nghe.”
“Điều gì sẽ xẩy ra?”
“Anh sẽ bị xuống chức,” Philip nói dứt khoát. “Họ sẽ để anh tiếp tục sống ở đây như một tu sĩ bình thường để làm việc đền tội. Nhưng có lẽ chắc hơn họ sẽ sa thải anh khỏi tu viện để tránh ảnh hưởng của anh ở đây.”
“Như vậy chuyện gì sẽ xẩy ra sau đó?”
“Sẽ có một cuộc bầu cử, tất nhiên. Một điều không may là bây giờ các nhà chính trị của hoàng gia sẽ tham dự vào. Vua Henry tranh chấp với tổng giám mục thành Canterbury, Thomas Becket, và bây giờ Tổng giám mục Thomas tị nạn ở Pháp. Một nửa số tổng đại diện theo ông. Một nửa khác ở lại và theo vua, chống lại tổng giám mục của họ. Peter rõ ràng thuộc về đám đông đó. Giám mục Waleran cũng đứng về phía nhà vua. Waleran sẽ đưa ra ứng cử viên cho chức vụ tu viện trưởng và người này được hậu thuẫn của các tổng đại diện ở Canterbury và nhà vua. Nó sẽ rất khó khăn cho các tu sĩ ở đây để chống lại ông ấy.”
“Anh nghĩ ai sẽ được?”
“Waleran chắc chắn đã nghĩ đến ai đó. Nó có thể là tổng đại diện Baldwin. Ngay cả nó có thể là Peter thành Warenham.”
“Chúng ta phải làm gì đó để chống lại nó!” Jonathan nói.
Philip gật đầu. “Nhưng hoàn cảnh dường như chống lại chúng ta. Chúng ta không thể làm gì để thay đổi tình hình chính trị được. Khả năng duy nhất…”
“Khả năng nào?” Jonathan không còn kiên nhẫn.
Tình hình quá vô vọng đến nỗi Philip cảm thấy không nên đùa với những tư tưởng chán nản: nó khơi dậy sự lạc quan của Jonathan để rồi cậu lại bị thất vọng. “Không có gì cả,” Philip nói.
“Anh định nói gì?”
Philip cân nhắc từng lời và nói: “Nếu có cách chứng minh anh vô tội, Peter sẽ không có thể kết án anh có tội.”
“Nhưng những gì được coi là bằng chứng?”
“Chính xác. Em không thể chứng minh được sự phủ nhận. Chúng ta phải tìm ra được bố thật của em.”
Jonathan đáp lại nhiệt tình ngay. “Vâng, đúng vậy. Chúng ta sẽ làm điều đó.”
“Bình tĩnh lại,” Philip nói. “Lúc đó anh đã cố gắng. Bây giờ, sau nhiều năm, nó sẽ không dễ hơn.”
Jonathan không để thoái chí. “Vậy không có manh mối nào để tìm ra nguồn gốc của em sao?”
“Không có manh mối nào cả, anh sợ như vậy.” Philip lo rằng ông đã khơi dậy trong Jonathan niềm hy vọng mà sẽ không thành tựu được. Mặc dù cậu bé không nhớ gì về bố mẹ, nhưng sự kiện rằng họ đã bỏ rơi cậu làm cậu phiền muộn. Bây giờ cậu nghĩ cậu có thể giải bí ẩn và tìm ra lời giải thích rằng bố mẹ cậu đã yêu thương cậu thực sự. Philip cảm thấy chắc chắn điều này chỉ dẫn đến thất vọng.
“Anh có hỏi những người sống gần đó không?” Jonathan hỏi.
“Không có ai sống ở gần đó. Tu viện nằm xa trong rừng. Bố mẹ em có thể đến từ xa, Winchester chẳng hạn. Anh đã suy nghĩ tất cả về chuyện đó.”
Jonathan cố chấp. “Anh có thấy bất cứ người nào du hành trong rừng vào thời điểm đó không?”
“Không.” Philip cau mày. Điều đó có thật không? Một tư tưởng tản mác trôi về tâm trí ông. Vào ngày đứa bé được tìm thấy, Philip đã rời tu viện để đến dinh thự giám mục, và trên đường ông đã nói chuyện với vài người. Bất ngờ ông nhớ lại. “Có, đúng rồi, thợ xây Tom và gia đình có đi ngang qua đó.”
Jonathan ngạc nhiên. “Anh chẳng bao giờ nói với em về chuyện đó.”
“Nó dường như không quan trọng. Anh đã gặp họ một hay hai ngày sau đó. Anh đã hỏi họ và họ nói họ không gặp bất cứ ai có thể là bố hoặc mẹ của đứa nhỏ bị bỏ rơi.”
Jonathan thất vọng. Philip sợ hướng điều tra này sẽ gây cho cậu hai thất vọng: cậu không tìm ra được gì về bố mẹ cậu và cậu sẽ thất bại trong việc chứng minh Philip vô tội. Nhưng bây giờ không gì có thể ngăn cản cậu được. “Họ làm gì trong rừng?” cậu kiên trì.
“Tom trên đường đến dinh thự giám mục. Ông ấy đi tìm việc làm. Đó là lý do họ đến đây.”
“Em muốn hỏi họ lần nữa.”
“Được, Tom và Alfred đã chết. Ellen sống ở trong rừng, và chỉ có Chúa biết khi nào bà ấy xuất hiện. Nhưng em có thể nói chuyện với Jack hay Martha.”
“Em sẽ thử.”
Có lẽ Jonatha có lý. Cậu có nghị lực của tuổi trẻ. Philip đã chán nản và bi quan. “Hãy tiếp tục,” ông nói với Jonathan. “Anh đã già và mệt mỏi; nếu không anh đã nghĩ đến chuyện đó. Hãy nói chuyện với Jack. Đó là sợi chỉ mong manh để bám vào. Nhưng nó là hy vọng duy nhất của chúng ta.”
Thiết kế của cửa sổ được thảo ra đúng kích thước và màu sắc trên một chiếc bàn gỗ lớn đã được rửa với bia trước đó để tránh màu bị lan ra. Bản thảo cho thấy cây Jesse, gia phả của Chúa Ki tô bằng hình ảnh. Sally nhặt một mảnh nhỏ thủy tinh dầy và đặt lên bản thảo trên hình một vua của Israel – Jack không biết chắc vua nào: cậu chẳng bao giờ có thể nhớ các biểu tượng phức tạp của hình ảnh tôn giáo. Sally nhúng cây cọ vào trong một chén nước vôi, và vẽ hình dạng người lên kính: vai, cánh tay và quần áo.
Trong đống lửa bên cạnh bàn là một cây sắt với thanh cầm bằng gỗ. Cô lấy thanh sắt ra khỏi lửa và rồi, nhanh nhẹn nhưng cẩn thận, cô chạy đầu đỏ nóng của thanh sắt quanh đường cô vừa vẽ. Kính gẫy ra chính xác dọc theo đường vẽ. Người học việc của cô nhặt tấm kính và bắt đầu làm nhẵn góc cạnh của nó bằng một viên đá mài.
Jack thích nhìn cô con gái làm việc. Cô làm nhanh và chính xác, dùng đến ít động tác. Khi còn nhỏ cô đã bị thu hút bởi các thợ kính mà Jack đem về từ Paris, và cô luôn nói rằng đó là công việc cô thích làm khi cô lớn lên. Và cô đã gắn bó với sự chọn lựa đó. Khi dân chúng lần đầu đến nhà thờ chính tòa Kingsbridge, họ sẽ bị ấn tượng nhiều hơn bởi kính của Sally hơn là kiến trúc của bố cô, Jack buồn bã nghĩ.
Người học việc đưa lại cho cô miếng kính đã được mài, và cô bắt đầu vẽ nếp gấp của chiếc áo lên trên bề mặt, dùng sơn làm bằng sắt quặng, urin và gôm arabic để cho dính. Dưới bàn tay của cô, tấm kính phẳng giống như tấm vải mềm. Cô rất khéo léo và chấm dứt nó nhanh chóng. Rồi cô đặt tấm kính đã sơn cùng với những tấm khác trong một chảo sắt, phía dưới lòng chảo bao phủ với vôi. Khi chảo đầy, nó sẽ được đưa vào lò nướng. Sức nóng sẽ hòa sơn vào kính.
Cô nhìn lên Jack, cho cậu một nụ cười ngắn và rạng rỡ, rồi nhặt miếng kính khác lên.
Cậu đi chỗ khác. Cậu có thể nhìn cô cả ngày, nhưng cậu có việc khác phải làm. Như Aliena nói, cậu mất trí vì con gái của cậu. Khi cậu nhìn cô, cậu thường kinh ngạc vì cậu chịu trách nhiệm cho sự hiện diện của người phụ nữ trẻ, thông minh, độc lập và trưởng thành này. Cậu hãnh diện vì cô là một thợ thủ công tốt như vậy.
Trớ trêu thay, cậu luôn luôn ép Tommy trở thành một thợ xây dựng. Thực sự cậu đã bắt đứa bé làm việc vài năm trong công trường xây dựng. Nhưng Tommy lại quan tâm đến nông nghiệp, cưỡi ngựa, săn bắn và kiếm thuật, những việc mà Jack không thích. Sau cùng Jack đã thừa nhận bị thất bại. Tommy đã phục vụ như cận vệ cho một trong những hiệp sĩ địa phương và đã được phong hiệp sĩ. Aliena đã cho cậu năm làng làm tài sản. Khả năng của bố được truyền lại cho Sally. Còn Tommy đã lập gia đình với cô con gái trẻ của Bá tước Bedford, và họ có ba con. Jack trở thành ông nội. Nhưng Sally vẫn còn độc thân ở lứa tuổi hai mươi lăm. Sally có nhiều nét của bà nội Ellen. Cô đã tự lực cánh sinh.
Jack đi quanh đầu phía tây của nhà thờ và nhìn lên hai ngọn tháp sinh đôi. Chúng đã hầu như hoàn thành, và một chuông đồng to lớn đang trên đường từ xưởng đúc ở London đến đây. Hiện nay Jack không có gì nhiều để làm. Có lần cậu đã có một đội quân thợ cắt đá khỏe mạnh và thợ mộc, bây giờ cậu chỉ còn một nhóm nhỏ thợ điêu khắc và thợ sơn làm những công việc chính xác và tỉ mỉ trên một quy mô nhỏ: tạc tượng, xây tháp nhọn trang hoàng, mạ vàng đôi cánh thiên thần bằng đá. Không còn gì nhiều để thiết kế, ngoại trừ trường hợp bất thường cho những tòa nhà mới của tu viện như thư viện, nhà họp, nhiều phòng cho khách hành hương, nhà giặt và xưởng sữa. Lần đầu tiên trong nhiều năm, giữa các công việc lặt vặt, cậu tự khắc những tượng đá. Cậu sốt ruột muốn kéo gian cung thánh cũ của thợ xây Tom xuống và xây lên đầu cuối phía đông theo thiết kế của riêng cậu, nhưng Tu viện trưởng Philip muốn thưởng thức nhà thờ đã hoàn thành một năm trước khi bắt đầu một kế hoạch xây dựng khác. Philip cảm thấy tuổi già của mình và Jack sợ rằng ông không còn sống để nhìn thấy gian cung thánh được xây lại.
Tuy nhiên, công việc sẽ tiếp tục sau khi Philip chết, Jack nghĩ khi thấy hình dáng cao lớn của Thầy Jonathan từ sân nhà bếp sải bước về phía cậu. Jonathan sẽ là một tu viện trưởng tốt, có lẽ ngay cả tốt hơn Philip. Jack vui vì người kế nghiệp đã được chuẩn bị: nó cho phép cậu hoạch định kế hoạch tương lai.
“Tôi đang lo lắng về tòa án giáo hội này, Jack,” Jonathan nói không mào đầu.
Jack nói: “Tôi nghĩ nó chỉ gây nên tiếng động, còn ngoài ra không có gì xẩy ra.”
“Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng tổng đại diện hóa ra lại là một kẻ thù lâu năm của Tu viện trưởng Philip.”
“Thật quỷ quái. Nhưng ngay cả như vậy, chắc chắn ông ấy cũng không tìm ra Philip có tội.”
“Ông ấy có thể làm mọi chuyện ông ấy muốn.”
Jack lắc đầu ghê tởm. Một đôi khi cậu tự hỏi tại sao những người như Jonathan vẫn còn có thể tin vào giáo hội khi nó đồi bại đáng xấu hổ như thế. “Anh muốn làm gì?”
“Cách duy nhất để chứng minh Philip vô tội là tìm ra ai là bố mẹ của tôi.”
“Nó đã hơi trễ cho chuyện đó.”
“Đó là hy vọng duy nhất của chúng ta.”
Một phần nào Jack đã lung lay. Họ hoàn toàn tuyệt vọng. “Anh sẽ bắt đầu từ đâu?”
“Với anh. Anh ở trong rừng gần tu viện Thánh Gioan trong rừng vào thời điểm khi tôi được sinh ra.”
“Tôi?” Jack không hiểu Jonathan muốn gì. “Tôi đã sống ở đó cho đến khi tôi mười một tuổi. Và tôi phải lớn hơn anh mười một tuổi…”
“Cha Philip nói, ông ấy đã gặp anh, với gia đình anh và thợ xây Tom cùng với các con của Tom một ngày sau khi tôi được tìm thấy.”
“Tôi nhớ việc đó. Chúng tôi ăn hết đồ ăn của Philip. Chúng tôi gần chết đói.”
“Hãy suy nghĩ kỹ! Anh có nhìn thấy ai có một em bé, hay một phụ nữ trẻ, người có thể đã có thai, ở bất cứ chỗ nào gần khu vực đó không?”
“Đợi một chút!” Jack bối rối. “Anh nói với tôi là anh được tìm thấy gần tu viện Thánh Gioan trong rừng?”
“Đúng. Anh không biết chuyện đó sao?”
Jack không thể tin vào tai mình. “Không, tôi không biết chuyện đó,” cậu nói chậm rãi. Tâm trí cậu quay cuồng với lời tỏ lộ đó. “Khi chúng tôi đến Kingsbridge, anh đã ở đây và tôi đương nhiên nghĩ rằng anh đã được tìm thấy trong rừng gần đây.” Cậu bất ngờ muốn ngồi xuống. Có một đống gạch đổ nát ở gần đó, và cậu ngồi xuống trên đó.
Jonathan sốt ruột: “Vậy, anh có thấy bất kỳ người nào ở trong rừng không?”
“Ồ, có,” Jack nói. “Tôi không biết phải kể với anh điều này như thế nào, Jonathan.”
Jonathan tái mặt. “Anh biết một số chuyện về việc này, phải không? Anh đã thấy gì?”
“Tôi đã thấy anh, Jonathan; đó là cái mà tôi đã thấy.”
Miệng Jonathan há to. “Cái gì… Như thế nào?”
“Vào buổi sáng sớm trên đường đi săn vịt, tôi nghe một tiếng khóc. Tôi tìm thấy một đứa bé mới sinh, cuốn trong một mảnh áo khoác cũ, nằm bên cạnh đống than hồng của một đống lửa đã tắt.”
Jonathan nhìn cậu chằm chằm. “Còn gì nữa?”
Jack gật đầu chậm rãi. “Đứa bé nằm trên một ngôi mộ mới.”
Jonathan nức nở. “Mẹ tôi?”
Jack gật đầu.
Jonathan bắt đầu khóc, nhưng cậu tiếp tục hỏi. “Anh đã làm gì?”
“Tôi đi tìm mẹ tôi. Nhưng trong khi chúng tôi trở lại chỗ đó, chúng tôi thấy một linh mục, cưỡi một con ngựa nhỏ, mang theo một đứa bé.”
“Francis,” Jonathan nói với giọng nghẹn ngào.
“Cái gì?”
Cậu nức nở mạnh hơn. “Tôi được tìm thấy bởi em của cha Philip, Francis, một linh mục.”
“Ông ấy làm gì ở đó?”
“Ông ấy trên đường đến gặp Philip ở tu viện Thánh Gioan trong rừng. Ông ấy đem tôi đến tu viện đó.”
“Trời ơi!” Jack nhìn chằm chằm vào người tu sĩ cao với dòng nước mắt rơi xuống trên má. Anh chưa nghe hết mọi chuyện, Jonathan, cậu nghĩ.
Jonathan nói: “Anh có thấy bất cứ ai có thể là bố của tôi không?”
“Có,” Jack nói nghiêm trang. “Tôi biết ông ấy là ai.”
“Hãy cho tôi biết!” Jonathan thì thầm.
“Thợ xây Tom.”
“Thợ xây Tom?” Jonathan nặng nề ngồi xuống trên mặt đất. “Thợ xây Tom là bố tôi?”
“Đúng.” Jack lắc đầu kinh ngạc. “Bây giờ tôi biết anh nhắc tôi nhớ tới ai. Anh và ông ấy là người cao lớn mà tôi chưa bao giờ gặp.”
“Ông ấy luôn luôn tốt với tôi khi tôi còn là một đứa bé,” Jonathan nói với giọng bàng hoàng. “Ông ấy thường chơi với tôi. Ông ấy thích tôi. Tôi thường gặp ông như gặp Tu viện trưởng Philip.” Nước mắt cậu rơi xuống. “Đó là bố tôi. Bố tôi.” Cậu nhìn lên Jack. “Tại sao ông ấy bỏ rơi tôi?”
“Họ nghĩ cách nào anh cũng sẽ chết. Họ không có sữa cho anh. Chính họ cũng sắp chết đói, tôi biết. Họ ở xa mọi làng xã. Họ không biết tu viện ở gần đó. Họ không có đồ ăn ngoại trừ củ cải, và củ cải cũng sẽ giết chết anh.”
“Vậy là một cách nào đó họ yêu tôi.”
Jack thấy cảnh tượng như mới xẩy ra hôm qua: ngọn lửa tắt, đất mới trên ngôi mộ, đứa bé đỏ hồng nhỏ xíu cựa quậy cánh tay và đôi chân trong mảnh áo khoác cũ màu xám. Đồ phế liệu nhỏ đó của nhân loại đã trở thành người đàn ông cao lớn đang ngồi khóc trên mặt đất trước mặt cậu bây giờ. “Ồ, vâng, họ yêu anh.”
“Làm sao mà không ai nói về nó?”
“Tom xấu hổ, dĩ nhiên,” Jack nói. “Mẹ tôi phải biết điều đó, và chúng tôi những đứa trẻ cảm nhận nó, tôi nghĩ như thế. Dù sao nó cũng là một đề tài mà người ta không thể tự nhiên nói về. Và chúng tôi chẳng bao giờ nghĩ đứa bé đó là anh.”
“Tom chắc chắn biết chuyện này,” Jonathan nói.
“Vâng.”
“Tôi tự hỏi tại sao ông ấy không lấy tôi lại?”
“Mẹ tôi rời ông ấy chẳng bao lâu sau khi chúng tôi đến đây,” Jack nói. Cậu mỉm cười buồn bã. “Rất khó làm hài lòng bà, giống như Sally. Điều đó có nghĩa là ông phải thuê một người chăm sóc anh. Vì thế tôi giả sử ông ấy nghĩ: Tại sao không để đứa bé ở tu viện? Anh sẽ được chăm sóc tốt ở đó.”
Jonathan gật đầu. “Bởi Johny Eightpence già yêu quý. Xin Chúa cứu linh hồn ông.”
“Qua cách đó Tom có lẽ có nhiều thời gian với Anh. Anh chạy xung quanh sân tu viện mỗi ngày, và ông ấy làm việc ở đó. Nếu ông ấy đem anh về và để anh ở nhà với người giữ trẻ, ông ấy ít được thấy anh hơn. Và tôi tưởng tượng khi năm tháng trôi qua, khi anh lớn lên như đứa bé mồ côi trong tu viện, và dường như hạnh phúc trong cách đó, thì điều dễ hiểu là nên để anh lại đó. Một cách nào đó, người ta thường dâng con cho Chúa.”
“Lúc nào tôi cũng tự hỏi về bố mẹ tôi,” Jonathan nói. Tim Jack đau cho cậu. ”Tôi đã cố gắng tưởng tượng họ ra sao, xin Chúa cho tôi gặp họ, băn khoăn không biết họ có yêu tôi không, thắc mắc tại sao họ bỏ rơi tôi. Bây giờ tôi biết mẹ tôi chết khi sinh tôi và bố tôi ở gần bên tôi suốt thời gian cuối đời ông.” Cậu mỉm cười qua dòng nước mắt. “Tôi không thể nói cho anh hiểu tôi hạnh phúc thế nào.”
Jack cũng sắp khóc. Để che đậy sự xấu hổ cậu nói: “Anh giống Tom.”
“Thật vậy sao?” Jonathan hài lòng.
“Anh có nhớ ông ấy cao thế nào không?”
“Tất cả người trưởng thành đều lớn.”
“Ông ấy có những đặc điểm tốt, giống anh. Một khuôn mặt trạm khắc đẹp. Nếu anh để râu, mọi người sẽ đoán ra.”
“Tôi nhớ ngày ông qua đời,” Jonathan nói. “Ông ấy mang tôi đi quanh hội chợ. Chúng tôi xem gấu đánh nhau. Rồi tôi trèo lên tường của gian cung thánh. Tôi quá sợ để đi xuống, vì thế ông đã trèo lên và bế tôi xuống. Rồi ông thấy quân của William đến. Ông đem tôi đến tu viện. Đó là lần cuối cùng tôi thấy ông.”
“Tôi nhớ việc đó,” Jack nói. “Tôi quan sát ông trèo xuống với anh trong cánh tay.”
“Ông ấy muốn tôi an toàn”
“Rồi ông lo lắng cho người khác,” Jack nói.
“Ông ấy thực sự yêu tôi.”
Jack đổi đề tài. “Điều này sẽ làm thay đổi việc kiện Philip, phải không?”
“Tôi quên mất chuyện đó,” Jonathan nói. “Đúng, nó sẽ thay đổi. Trời ơi!”
“Chúng ta có bằng chứng không thể chối cãi không?” Jack băn khoăn. “Tôi nhìn thấy đứa bé, và vị linh mục, nhưng tôi thực sự không nhìn thấy đứa bé được giao cho tu viện nhỏ.”
“Francis biết. Nhưng Francis là em của Philip, vì thế chứng cớ của ông không được công nhận.”
“Mẹ tôi và Tom đi ra ngoài chung với nhau buổi sáng hôm đó,” Jack nói, cố nhớ lại. “Họ nói họ đi tìm vị linh mục. Tôi cá là họ đã tới tu viện và xem đứa bé có được an toàn không.”
“Nếu bà ấy khai như thế trong tòa án thì mọi chuyện sẽ chấm dứt,” Jonathan nói.
Philip nghĩ bà là một phù thủy,” Jack nêu ra khó khăn. “Ông ấy có sẵn sàng để bà làm chứng không?”
“Nhưng bà ta cũng ghét ông ấy nữa. Bà ấy có sẵn sàng làm chứng không?”
“Tôi không biết,” Jack nói. “Chúng ta sẽ hỏi bà ấy.”
“Gian dâm và gia đình trị?” Mẹ Jack kêu lên. “Philip?” Bà bật cười. “Nó quá vô lý!”
“Mẹ, đây là chuyện nghiêm trọng,” Jack nói.
“Philip sẽ không gian dâm ngay cả khi bỏ ông vào thùng với ba cô gái điếm,” bà nói. “Ông ấy không biết phải làm gì.”
Jonathan xấu hổ. “Tu viện trưởng thật sự gặp khó khăn, ngay cả việc lời buộc tội là vô lý,” cậu nói.
“Tại sao tôi phải giúp Philip?” bà nói. “Ông ấy chỉ làm tôi đau lòng.”
Jack đã sợ về việc này. Mẹ cậu đã chẳng bao giờ tha thứ cho Philip vì đã tách bà và Tom. “Ông cũng làm như vậy đối với con. Nếu con có thể tha thứ cho ông ấy, mẹ cũng có thể.”
“Tôi không phải là mẫu người dễ tha thứ,” bà nói.
“Vậy không phải làm chuyện đó vì Philip, mà vì con. Con muốn tiếp tục xây dựng ở Kingsbridge.”
“Tại sao? Nhà thờ đã hoàn thành.”
“Con muốn phá đổ gian cung thánh cũ của Tom và xây lại trong phong cách mới.”
“Ồ, lại xây nữa.”
“Mẹ. Philip là một tu viện trưởng tốt, và khi ông chấm dứt, Jonathan sẽ tiếp tục nhiệm vụ - nếu mẹ đến Kingsbridge và nói ra sự thật trước tòa.”
“Tôi ghét tòa án,” bà nói. “Chẳng có gì tốt từ tòa án cả.”
Thật điên rồ. Bà ấy cầm chìa khóa cho phiên tòa của Philip. Nhưng bà là một người già cứng đầu. Jack đã thực sự sợ cậu sẽ không thể thuyết phục được bà. Cậu quyết định thử đi cửa sau. “Con biết nó là một đoạn đường xa cho một người bằng tuổi của mẹ,” cậu nói ranh mãnh. “Mẹ bao nhiêu tuổi rồi – sáu mươi tám?”
“Sáu mươi hai, và đừng khiêu khích mẹ,” bà mắng. “Mẹ còn khỏe hơn con.” Nó có thể là sự thật, Jack nghĩ. Tóc bà trắng như tuyết, và mặt bà có những nét nhăn, nhưng đôi mắt vàng ròng vẫn nhìn xuyên thấu như xưa: vừa khi bà thấy Jonathan bà đã biết cậu là ai, và bà đã nói: “Vâng, tôi không cần hỏi tại sao cậu đến đây. Cậu đã biết cậu từ đâu đến, phải không? Trời ơi! Cậu cao như bố cậu và cũng gần to ngang như ông.” Bà vẫn độc lập và độc đáo như xưa.
“Sally cũng giống mẹ,” Jack nói.
Bà hài lòng. “Thật thế không?” Bà mỉm cười. “Giống chỗ nào?”
“Trong sự bướng bỉnh của cô ấy.”
“Hừ!” bà tức giận. “Cô ấy sẽ được thôi.”
Jack quyết định phải nài xin bà. “Mẹ, làm ơn đến Kingsbridge với chúng con và nói lên sự thật.”
“Mẹ không biết,” bà nói.
Jonathan nói: “Tôi có chuyện khác muốn hỏi bà.”
Jack băn khoăn không biết chuyện gì nữa đây. Cậu sợ Jonathan nói điều gì đó không hài lòng mẹ cậu: nó dễ xẩy ra, đặc biệt đối với các giáo sĩ. Cậu nín thở.
Jonathan nói: “Bà có thể chỉ cho tôi nơi mẹ tôi được chôn cất không?”
Jack thở ra nhẹ nhàng. Chuyện đó không có gì sai. Thật vậy, Jonathan khó có thể nghĩ ra cái gì khác để làm dịu bà.
Bà bỏ ngay thái độ khinh bỉ. “Dĩ nhiên tôi sẽ chỉ cậu,” bà nói. “Chắc chắn tôi có thể tìm ra nó.”
Jack không muốn mất nhiều thời gian. Phiên xử sẽ bắt đầu vào buổi sáng và họ còn đoạn đường dài để đi. Nhưng cậu cảm nhận cậu nên để cho số mệnh định đoạt.
Bà nói với Jonathan: “Cậu có muốn đến đó bây giờ không?”
“Vâng, làm ơn, nếu có thể.”
“Được.” Bà đứng lên. Bà nhặt chiếc áo choàng lông thỏ trắng và khoác nó trên vai. Jack định nói với bà rằng nó sẽ nóng quá, nhưng cậu dừng lại: người già luôn cảm thấy lạnh hơn.
Họ rời hang động đầy mùi táo dự trữ và khói, rồi len qua đám cây rậm trước cửa hang và bước vào ánh mặt trời mùa xuân. Ellen đi không lưỡng lự. Jack và Jonathan tháo ngựa và theo sau. Họ phải dắt ngựa theo vì cây mọc um tùm, không thể cưỡi ngựa được. Jack nhận ra mẹ cậu đi chậm hơn mọi khi. Bà không còn khỏe như bà nói.
Jack tự mình không thể tìm ra chỗ đó. Đã có một thời gian cậu đi trong rừng dễ dàng như bây giờ cậu đi xung quanh Kingsbridge. Bây giờ đối với cậu khoảng rừng này cũng giống khoảng rừng kia; như các ngôi nhà của Kingsbridge tất cả đều trông giống nhau đối với một người lạ. Ellen theo vết đường của thú vật xuyên qua khu rừng rậm. Lâu lâu Jack nhận ra dấu hiệu liên quan đến tuổi thơ của cậu: một cây sồi to lớn nơi cậu đã trốn con lợn rừng; một khu thỏ ở, nơi đã cung cấp những bữa cơm ngon lành; một con suối, nơi cậu có thể bắt cá khi nào cậu muốn. Có lúc cậu biết mình ở đâu, rồi cậu lại mất hướng. Thật kỳ cục, cậu nghĩ, đã có lần cậu cảm thấy đây là nhà cậu, bây giờ nó thành một nơi xa lạ, những con rạch và những bụi cây trở thành vô nghĩa đối với cậu, giống như những viên đá vôi và những khuôn mẫu của cậu xa lạ đối với người nông dân. Nếu trước đây có lần cậu tự hỏi đời sống của cậu sẽ ra sao, cậu đoán rằng nó không giống như thực tế bây giờ.
Họ đã đi nhiều dặm. Nó là một ngày mùa xuân ấm áp, và Jack đổ mồ hôi. Nhưng Ellen vẫn mặc áo lông thỏ. Khoảng giữa trưa bà đến một chỗ nghỉ trong bóng râm. Jack nhận ra bà thở mạnh và mặt bà tái đi. Đã đến lúc bà phải rời rừng về ở với Jack và Aliena. Cậu quyết định sẽ cố thuyết phục bà.
“Mẹ có sao không?” cậu hỏi.
“Dĩ nhiên mẹ bình thường,” bà cắt ngang. “Chúng ta đã đến nơi.”
Jack nhìn quanh. Cậu không nhận ra nó.
Jonathan hỏi: “Có phải nó ở đây không?”
“Đúng,” bà trả lời.
Jack nói: “Con đường đâu?”
“Bên kia.”
Khi Jack định hướng được con đường, khoảng rừng thưa trở thành quen thuộc với cậu, và một dòng kỷ niệm quay về. Đây là cây hạt dẻ lớn: lúc đó cây không còn lá và hạt của nó rụng khắp nơi, nhưng bây giờ cây đang trổ hoa, những nụ hoa trắng to giống như những cây nến cắm trên khắp cây. Những nụ hoa bắt đầu rơi, và cứ vài phút một đám mây của cánh hoa trôi dạt xuống.
“Martha đã kể những gì đã xẩy ra,” Jack nói. “Họ dừng lại ở đây vì mẹ anh không còn có thể tiếp tục đi. Tom nhóm lửa và nấu súp với vài củ cải: không có thịt. Mẹ anh sinh anh ở đúng chỗ này, trên nền đất. Anh hoàn toàn khỏe mạnh, nhưng một cái gì đó xẩy đến cho bà và bà chết.” Cách gốc cây vài bộ, một đống đất nhỏ nhô lên. “Hãy nhìn,” Jack nói. “Anh có thấy gò đất nhỏ kia không?”
Jonathan gật đầu, mặt cậu căng thẳng như muốn đè nén cảm xúc.
“Đó là ngôi mộ.“ Khi Jack nói, một đám mây nhỏ của những cánh hoa rơi từ cây và rớt xuống mộ như một tấm thảm hoa.
Jonathan quỳ xuống bên ngôi mộ và cầu nguyện. Jack đứng im lặng. Cậu nhớ lại khi cậu tìm được người thân ở Cherbourg: đó là một trải nghiệm khủng khiếp. Những gì Jonathan đang trải qua còn dữ dội hơn.
Sau cùng Jonathan đứng lên. “Nếu tôi là tu viện trưởng,” Cậu nói nghiêm trang, “tôi sẽ xây một tu viện nhỏ ở đây, với một nhà nguyện và một nhà trọ, để trong tương lai không một lữ hành nào trên đoạn đường này phải trải qua những đêm mùa đông lạnh lẽo ngoài trời. Tôi sẽ dành nhà trọ này để tưởng nhớ mẹ tôi.” Cậu nhìn Jack. “Tôi đoán là anh cũng không biết tên bà, phải không?”
“Đó là Agnes,” Ellen nói dịu dàng. “Mẹ cậu tên là Agnes.”
Giám mục Waleran làm cho sự việc thêm đáng tin.
Ông bắt đầu bằng cách kể cho tòa án nghe về sự tiến triển nhanh chóng của Philip: làm quản lý tu viện khi ông hai mươi mốt tuổi; tu viện trưởng chi nhánh trong rừng năm hai mươi ba tuổi; tu viện trưởng ở Kingsbridge lúc hai mươi tám tuổi. Ông luôn luôn đề cao tuổi trẻ của Philip và gây ấn tượng rằng bất cứ ai lãnh chức vụ sớm như thế thường có khuynh hướng kiêu ngạo. Rồi ông miêu tả tu viện Thánh Gioan trong rừng, ở một nơi xa xôi và cô lập, rồi ông chuyển qua sự tự do và độc lập của tu viện trưởng ở đó. “Ai mà ngạc nhiên,” ông nói, “sau năm năm, một mình một cõi, chỉ có sự giám sát nghẹ nhàng từ xa, khi người đàn ông trẻ, thiếu kinh nghiệm và tràn đầy sức sống này có một người con?” Nghe như nó là chuyện đương nhiên, không thể tránh khỏi. Philip muốn siết cổ ông.
Waleran tiếp tục kể về việc Philip đã mang Jonathan và Johny Eightpence với ông khi ông đến Kingsbridge. Các tu sĩ đã giật mình, Waleran nói, khi tu viện trưởng mới đến với một em bé và một người giữ trẻ. Nó đúng như vậy. Có lúc Philip quên đi sự căng thẳng và cố đè nén một nụ cười thảm thương.
Philip đã chơi với Jonathan, dạy cậu học và sau này chỉ định cậu thành trợ tá của ông, Waleran tiếp tục, như thể bất cứ người đàn ông nào cũng làm như thế với con mình, ngoại trừ các tu sĩ, những người không được phép có con. “Jonathan đã phát triển nhanh, giống như Philip” Waleran nói. “Khi Cuthbert Whitehead chết, Philip đã chỉ định cậu làm quản lý, ngay cả khi đó cậu mới hai mươi mốt tuổi. Thật sự không có ai khác trong tu viện có thể làm quản lý trong một tu viện hơn một trăm tu sĩ, mà phải để cho một cậu bé hai mươi mốt tuổi làm chuyện đó sao? Hay Philip muốn ưu tiên cho người máu mủ của mình? Khi Milius được cử đi làm tu viện trưởng ở Glastonbury, Philip đặt Jonathan làm thủ quỹ. Cậu ấy ba mươi bốn tuổi. Có phải cậu là người khôn ngoan nhất và đạo đức nhất trong số các tu sĩ ở đây? Hay đơn giản cậu là người được Philip yêu thích?”
Philip nhìn quanh tòa án. Nó được tổ chức ở gian ngang phía nam nhà thờ chính tòa Kingsbridge. Tổng đại diện Peter ngồi trên một chiếc ghế rộng, chạm khắc giống như ngai vua. Tất cả ban lãnh đạo của Waleran có mặt, cũng như hầu hết tu sĩ của Kingsbridge. Không có nhiều việc để làm trong tu viện khi tu viện trưởng bị xét xử. Các giáo sĩ quan trọng trong vùng đều đến, ngay cả một số các cha xứ khiêm nhường. Cũng có cả đại diện từ các địa phận lân cận. Toàn thể cộng đồng tôn giáo miền Nam nước Anh chờ đợi lời phán quyết của phiên tòa này. Họ không quan tâm đến vấn đề Philip có đạo đức hay thiếu đạo đức; họ theo dõi phiên tòa để xem cuộc đọ sức giữa Tu viện trưởng Philip và Giám mục Waleran.
Khi Waleran ngồi xuống, Philip tuyên thệ và bắt đầu kể câu truyện về buổi sáng mùa đông đó cách đây đã lâu. Ông bắt đầu với sự khó chịu gây ra bởi Peter thành Wareham: ông muốn mọi người biết rằng Peter có thành kiến chống lại ông. Rồi ông gọi Francis để kể về đứa bé đã được tìm thấy như thế nào.
Jonathan đã đi ra ngoài, để lại một tin nhắn nói rằng cậu trên đường thu thập thông tin mới về nguồn gốc của cậu. Jack cũng biến mất nữa, qua đó Philip đi đến kết luận rằng chuyến đi đó có liên quan đến mẹ của Jack, bà phù thủy Ellen và Jonathan sợ ông sẽ cấm chuyến đi đó của cậu. Họ sẽ phải trở về sáng nay, nhưng họ vẫn chưa về tới. Philip không nghĩ Ellen có thể thêm gì về câu truyện Francis đang kể.
Khi Francis chấm dứt, Philip nói: “Đứa bé không phải của tôi,” ông nói đơn giản. &