← Quay lại trang sách

Chương một ❖ I ❖

Để thỏa mãn những lời yêu cầu khẩn khoản của người vợ thân yêu và của Jim, đứa con trai chúng tôi, một tiến sĩ sinh vật học trẻ tuổi, tôi sẽ trình bày lại trong cuốn sách này sao cho đầy đủ hơn những sự kiện ly kỳ xảy ra ở Ashworth khoảng ba mươi nhăm năm trước, cùng những cuộc phiêu lưu mà số phận đã đẩy tôi vào. Những sự việc ấy xảy ra vào lúc mà loài người vừa hồi tỉnh lại sau những nỗi kinh hoàng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và đã tưởng được yên hưởng một nền hòa bình lâu dài, chẳng hề nghi ngờ rằng lại sắp bị xô đẩy xuống vực thẳm của những tai họa chiến tranh khủng khiếp nhất.

Có thể là đối với một số người thì phần nào những biến cố và những cuộc phiêu lưu của tôi có vẻ như hoàn toàn không đúng sự thật. Tuy nhiên tôi cho rằng sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật là vô tận, và hy vọng trong tương lai sắp tới tôi với các bạn cùng thời của tôi sẽ được thấy những phát minh sáng chế và những đều kỳ diệu hơn nhiều so với những việc tôi mô tả hoặc những điều con trai tôi mới viết trong chuyên khảo “sự giải đáp về bản chất của những virus qua lọc” (năm 1966).

Những hồi ức về thời niên thiếu hiện nay vẫn làm cho lòng tôi xao xuyến khôn xiết, nhưng tôi sẽ cố viết lại những hồi ức đó bằng cái giọng bình tĩnh của những nhà văn cổ điển mà ngày xưa, khi còn bé, cha tôi đã dạy tôi đọc những tác phẩm của họ, những tác phẩm ấy đã giáo dục chúng ta biết yêu tha thiết tổ quốc tươi đẹp của chúng ta.

Tôi sẽ thực sự vui mừng nếu các bạn tìm thấy ở cuốn sách của tôi những kiến thức hữu ích và có thể học hỏi được, bởi vì ánh sáng của kiến thức thì soi đường cho nhân loại còn việc quan sát tỉ mỉ những hành vi của mọi người xung quanh sẽ làm giàu cho kinh nghiệm cá nhân của mỗi người.

Bởi vậy, trong khi tự cổ vũ mình bằng mềm hy vọng rằng tất cả những ai có dịp đọc cuốn sách này đều sẽ lượng thứ cho những mặt yếu và nhược điểm của tôi, tôi, Samuel Pingle, quê ở Ashworth, hôm nay, một buổi sớm đẹp trời ngày 17 tháng Năm, năm 1968, vừa lúc tôi tròn năm mươi tuổi, bắt đầu trình bày những sự kiện đúng với sự thật và còn có thể là chi tiết nữa.

Tôi sinh vào lúc sôi sục nhất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở Ashworth một thành phố nhỏ bé và tiện nghi, nằm trên bờ Đại tây dương, trong gia đình ông Isidor Pingle, một thư lại trong văn phòng của lâu đài Oldmount thuộc quyền sở hữu của lord* Pucklington.

Tôi là đứa con cuối cùng và duy nhất còn sống sót của cha mẹ tôi. Các anh, các chị sinh trước tôi đều đã chết khi còn ít tuổi. Tất nhiên là cha mẹ tôi hết sức yêu quý “thằng nhóc” của mình. Mẹ tôi yếu, và bệnh sưng phổi đã cướp mất bà khi tôi mới lên bảy. Cha cha tôi và tôi khóc lóc mãi không nguôi trước cái tang đau đớn này.

Cha tôi đã sống những ngày góa bụa trong một ngôi nhà nhỏ ở gần bãi chợ cùng với bác Reggie, anh mẹ tôi, một ông già độc thân. Bác tôi, trung sĩ Reginald Brand về hưu, bị lựu đạn làm cụt cánh tay trái ở Gallipoli năm 1917 lúc nào cũng tự hào mang tấm huân chương “Vì dũng cảm” trên ngực và đã kể cho tôi nghe rất nhiều câu chuyện kỳ lạ.

Có lẽ chính những câu chuyện ấy đã làm nảy ra trong óc tôi ý muốn tha thiết được tới những nước nhiệt đới để thấy tận mắt những điều kỳ diệu. Lúc còn bé tôi hoàn toàn không ngờ rằng thực tế còn kỳ lạ hơn nhiều so với những cuộc phiêu lưu mà bác tôi thường hay thuật lại vào những đêm đông dài, khi ông ngồi hút thuốc trước ngọn lửa ấm cúng của bếp lò.

Tôi nhớ rằng bác tôi đã từng kể về một con tàu, con tàu ấy lớn đến nỗi khi nó đi ngang qua eo biển Dover thì mũi tàu chạm vào đỉnh tháp Calais trên bờ biển Pháp, còn lá cờ đang tung bay phía lái đã hất cả một đàn cừu đang đứng trên những tảng đá Dover xuống biển. Những cột buồm của con tàu này cao tới mức một thủy thủ thiếu niên leo lên đến đỉnh, lúc tụt xuống tới boong tàu thì cậu ta đã trở thành một ông già râu dài tới rốn. Bác tôi còn kể là có lần ông đi sang Tân Ấn-độ trên một tàu thủy nhỏ, con tàu của ông đã phải len lỏi giữa những hòn đảo trên một eo biển hẹp đến nỗi ông có thể với tay sờ tới được những tảng đá trên bờ, với cơ man là vàng bạc, châu báu. Ông còn kể về eo biển Ballambang Jang, khiến sau đó tôi cứ lần mò tìm mãi trên các bản đồ địa lý nhưng vẫn không thấy đâu. Trên những cây mọc hai bên bờ eo biển này có rất nhiều khỉ nhiều đến nỗi, người ta không thể nào điều khiển được những cánh buồm nữa; đuôi của chúng thõng xuống thành từng chùm và rối cả vào với những dây căng buồm.

Nghe những câu chuyện ấy, tôi đã thề với mình rằng thế nào cũng phải trở thành một nhà du lịch.

Dần dần về sau tính hài hước hồn hậu ở bác tôi bắt đầu đượm vẻ u sầu bí ẩn. Hồi ấy ở Ashworth người ta coi bác tôi là một ông già bẳn tính và hay lý sự đến phát ngấy lên. Được tiền trợ cấp chiến tranh, bác tôi đã dùng phần lớn thì giờ của mình ở hiệu ăn “Hổ Vương”, ở đây ông giao du thoải mái với cái xã hội của những khách hàng quen.

Ông chủ hiệu ăn “Hổ Vương”, ông Tom Bridge mắt lác, nổi tiếng là một quán quân cờ bạc kiệt xuất ở vùng Ashworth. Ông ta còn nổi tiếng về nhiều điều khác nữa, sắp tới đây tôi sẽ nói đến.

Bác tôi thường ngồi ở hiệu ăn “Hổ Vương” từ sáng sớm, ông rít cái tẩu thuốc Brazil lớn nhồi đầy thứ thuốc “Sư tử phương tây”, loại thuốc bốn xu một gói, và chậm rãi uống từng ngụm rượu ale dựng trong cốc vại bằng thiếc với cái vẻ của một người đã làm việc khá nhiều trong cuộc đời của mình và giờ đây có quyền tiêu xài tiền trợ cấp nhỏ mọn một cách vô tư lự.

Nhiều lần ông trở về nhà khi đã ngà ngà say và trêu chọc gọi tôi là đồ “gấu con chưa liếm”, điều ấy làm tôi rất giận. “Gấu con chưa liếm” nghĩa là “thằng hậu đậu”. Thành ngữ này bắt nguồn từ sự mê tín ngu xuẩn là nếu gấu con mới đẻ mà chưa được mẹ liếm thì chưa có hình dáng một con gấu. Nhưng nào tôi có hậu đậu, những bắp thịt ở đôi cánh tay tôi vẫn phát triển khá mạnh.

Tôi đã tranh cãi với bác tôi về việc này một cách nghiêm túc, ông xin lỗi và thôi không nói nữa. Sau khi mẹ tôi mất, việc nuôi dạy tôi chuyển vào tay u già Olivia, bởi vì cả cha và bác tôi đều không có thì giờ làm việc ấy. Tuy nhiên những cố gắng của u già trong việc nuôi dạy tôi chưa hẳn có thể gọi là đầy đủ và toàn diện. Olivia theo dõi cho tôi ăn uống theo giờ, quần áo tôi lúc nào cũng tươm tất. Những việc ấy đã dạy cho tôi tính cẩn thận.

Sau đó tôi bắt đầu vào học ở trường trung học của tỉnh và được quyền giải quyết lấy mọi việc cho chính bản thân mình.

Trước đây, ở vùng ngoại ô Ashworth người ta khai thác than, nhưng vào thời tôi, những mỏ than bị bỏ hoang vì nguồn than đã cạn. Tụi trẻ con ở Ashworth, trong đó có tôi và bạn tôi là Ed, con trai ông chủ hiệu thuốc Orfi, thường nghịch ngợm leo trèo và tìm bắt dơi trong các mỏ than cũ ấy. Việc này còn thú vị hơn nhiều so với việc cùng u già Olivia đến nhà thờ vào những ngày chủ nhật để nghe cha trưởng đạo Jeremiah đọc những lời truyền đạo mà tôi chẳng hiểu một chút nào. Trong việc này bác Reggie đứng hẳn về phía tôi, ông chứng minh cho bà Olivia thấy rằng đối với trẻ con ở lứa tuổi tôi thì những chuyến đi chơi ngoài trời có ích hơn là những lời truyền đạo của cha Jeremiah. Tất nhiên tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của bác tôi.

Từ phía sân nhà thờ mở ra cảnh đẹp tuyệt diệu của những ngọn núi bao quanh Ashworth và cảnh biển cả mênh mông. Những ngọn tháp màu xám của lâu đài Oldmount nổi bật lên đẹp đẽ trên nền rừng Patrick bao phủ những ngọn núi. Thẳng ngay phía dưới Ashworth, phía bên kia con đường nhựa đi về thành phố nhỏ Wesley, là mỏm đá Hai Bông Hồng, phía trên mỏm đá có một bãi phẳng, từ đấy có thể nhìn thấy bờ biển ở cả hai phía. Còn sau bãi phẳng là những mỏ than bỏ hoang thú vị nhất, trong đó có mỏ Vòi Dài là mỏ nổi tiếng bí ẩn và ghê sợ, chỉ những người đặc biệt dũng cảm mới dám chui xuống đó. Ed đã khoác lác về kỳ công này của nó. Tôi thì chưa đến đấy bao giờ. Đường đi đến Vòi Dài không phải là gần. Nhưng tôi luôn luôn ước mơ được chui xuống đó để xác minh xem nó có đáy hay không.

Trong khi leo núi tôi thường nghĩ tới lúc tôi đã lớn và sẽ lên đường đi du lịch sang phía bên kia đại dương xa xôi. Ngoài những câu chuyện bác tôi kể thì việc đọc những cuốn sách mô tả những đất nước xa lạ đã khiến tôi có ý nghĩ ấy. Tôi cảm thấy rất ghen tức với cái ông chủ lâu đài Oldmount, chẳng mùa thu nào là ông ta không lên đường đi du lịch khắp thế giới. Thường cứ vào mùa xuân lord Pucklington lại trở về sống đơn độc trong lâu đài Oldmount của ông. Tôi chưa được thấy ông lần nào, còn cha tôi thì hầu như không muốn kể về ông chủ của mình, mặc dù vẫn gặp ông luôn, và đương nhiên biết rõ mọi việc ở lâu đài Oldmount. Người ta chỉ có thể hiểu rằng lord Pucklington nghiên cứu khoa học và đối xử rất tốt với những người giúp việc ông, rằng một số người ở Ashworth coi đó là những việc kỳ quặc.

Khi tôi tốt nghiệp tiểu học, cha tôi đã đưa tôi vào học ở trường học Dijan trước sự kinh ngạc của mọi người, vì ai cũng biết rằng chỉ có con cái những nhà rất giàu mới được học ở đấy. Tôi được như vậy là nhờ ơn của lord Pucklington. Ông đã cho cha tôi một số tiền cần thiết và giấy giới thiệu. Giấy đó hoàn toàn đủ để chấm dứt mọi câu chuyện xì xào trong đám các học sinh về cái tên họ hoàn toàn không thượng lưu của tôi. Hơn nữa, tôi có nhiều bạn trong lớp thấy thích thú trước những thành tích của tôi trong môn bơi lội quyền anh và bóng đá. Vào những kỳ nghỉ hè tôi trở về Ashworth không lâu, bởi vì một trong những người bạn của tôi là Robert Smalls thường hay mời tôi về chỗ dinh cơ của bố cậu ta, ở đấy chúng tôi đã dùng thì giờ một cách đầy thú vị. Gần ngày Tết tôi thường gửi thiếp chúc mừng đến người đỡ đầu tôi là lord Pucklington, đồng thời báo cho ông biết các điểm số của tôi. Và việc này bao giờ cha tôi cũng trả lời: “Ông lớn cảm ơn những lời chúc mừng của con và mong con tiến bộ hơn nữa”.

Từ năm thứ ba trở đi tôi bắt đầu thấy thích thú sinh vật học và thực vật học. Tôi cho rằng những môn khoa học ấy sẽ có ích trong những chuyến đi du lịch sau này và thật là thú vị, nếu có được một phát hiện nào đấy về loại thảo mộc hiếm có mọc trong những khu rừng rậm nhiệt đới, mà tôi đã thề là thế nào cũng phải tìm đến.

Tôi đã cùng với Robert lập ra những kế hoạch phi thường nhất, và cha Robert, một thương gia nổi tiếng, đã hứa cho chúng tôi đi du lịch trên Địa trung hải ngay sau khi chúng tôi bắt đầu lớn

❖ II ❖

Khi đã là một thanh niên mười sáu tuổi, tôi tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp với lời nhận xét khen ngợi và được nhận bằng, trong đó chữ ký của ông giám đốc và của các giáo sư ở phía dưới huy hiệu vương quốc đẹp đẽ chứng nhận rằng tôi có những hiểu biết đầy đủ về lịch sử vương quốc, về địa lý, hóa học sơ cấp, sinh vật học, thực vật học và những ngành khoa học khác. Cái dấu to có hình con sư tử vàng đã làm cho tấm bằng của tôi thêm phần trang trọng, và tôi đã ngắm nghía không biết đến bao nhiêu lần tờ chứng chỉ có tính chất lịch sử đối với tôi, vừa ngắm, tôi vừa đọc hàng chữ Latin xung quanh đầu sư tử trong con dấu: “Neptune* quyết bảo vệ người thủy thủ” - đó là một câu thần chú cổ từ thời Caesar vẫn còn được giữ lại trong huy hiệu của Dijan theo truyền thống.

Trên đường về Ashworth tôi đã ghé vào nhà Robert vài ngày, chúng tôi đã hẹn với nhau một tháng nữa sẽ lên đường đi du lịch theo như lời cha Robert đã hứa với chúng tôi từ lâu. Chúng tôi dự định sẽ thăm Rivier và sống ở Thụy-sĩ ít lâu. Tôi hy vọng cha tôi sẽ cho tôi một số tiền cần thiết cho chuyến đi ấy.

Tôi trở về Ashworth với niềm hạnh phúc đang bừng cháy trong lòng. Tốt nghiệp cấp đệ nhất của của trường trung học Dijan có phải là chuyện đùa đâu! Ở bến tàu tôi gửi đồ đạc của tôi về nhà, còn tôi thì bắt đầu đi bộ dọc theo phố King. Tôi muốn ngắm nhìn thành phố quê hương. Bởi vì đã tròn một năm tôi chưa về.

U già Olivia đón tôi ở nhà.

- Chào cậu Samuel, - u nói đơn giản bằng cái giọng của một người nuôi dạy.

- Ông Pingle đã nhận được điện của cậu, ông đã chuẩn bị đi đón, nhưng sớm nay lord đã gọi ông ấy đến lâu đài.

- Có chuyện gì vậy ư?

-Tôi không biết, bác Reggie cũng đi để săn tin của ông Bridge.

- Nghĩa là đã xảy ra chuyện gì rồi, - tôi nói và bước vào căn phòng đã dọn dẹp cho tôi. Chắc có chuyện gì liên can đến lord Pucklington phải không u? - tôi hỏi u.

Olivia lúc ấy đang giúp tôi cởi áo mưa.

- Hình như thế, - u Olivia trả lời. - Rồi cậu sẽ rõ hết mọi chuyện. Ông Pingle bảo cậu gọi cho ông. Điện thoại tự động ở góc trước mặt kia kìa. Ông Pingle sẽ hết sức vui mừng được nghe giọng cậu nói. Còn bây giờ thì tôi đi sửa soạn ăn sáng và cà-phê đây.

Tôi đã cố gắng nói chuyện bằng điện thoại với Oldmount mấy lần nhưng đều vô ích, không ai trả lời. Cuối cùng một nữ nhân viên điện thoại nói:

- Máy hỏng, không nói được.

Tôi quyết định đến lâu đài để gặp cha. Tôi bắt đầu thấy lo lắng vì một nỗi băn khoăn không rõ rệt nào đó. Bến xe taxi ở phố King. Nhưng tôi đi theo con đường ngắn nhất, và giờ đây những con đường phố bụi bặm của Ashworth đã làm cho lòng tôi buồn nản vô cùng. Đã xảy ra chuyện gì ở Oldmount nhỉ? Không hiểu sao tôi là tin rằng tai họa đã đến với cha tôi. Đi qua mặt ngõ hẹp quanh co tôi đến phố Ginger, ở dây hiệu ăn “Hải vương tinh” và hiệu ăn “Hổ Vương” nằm đối diện nhau, cả hai đều nổi tiếng như nhau trong biên niên sử của Ashworth. Tôi dừng lại một lát ở phía dưới cửa sổ của hiệu ăn “Hổ Vương”. Từ trong ấy vọng ra những tiếng tranh cãi. Những luồng khói thuốc luồn qua cửa sổ thông hơi như ở một đám cháy. Điều ấy có nghĩa là bác Reggie ở đây và đang hút tẩu thuốc của bác. Tôi bước vào. Trong hiệu ăn chẳng ai để ý đến tôi. Mọi người đang chăm chú vào bác tôi lúc ấy đang nhả khói ra như một miệng núi lửa và say mê hùng biện.

- Đối với chúng ta việc ấy xảy ra không phải là vô ích. Rồi có lúc các ông sẽ nhớ tới lão già Reggie và khẳng định rằng lão ta đúng. Rất nhiều nơi đang xảy ra chiến sự, người ta đánh nhau ở châu Phi, ở Trung-quốc.

Qua lời bác tôi, có thể hiều rằng người ta đang tranh cãi về những nơi có chiến sự.

- Nếu chúng ta không muốn cho cuộc ẩu đả xảy ra trên vịnh Ashworth này thì ông thủ tướng của chúng ta phải thay đổi cái dù... Cái dù hiện nay ông ta mang theo lên đường đi ngoại giao sẽ không gây được những ấn tượng tốt ở nước ngoài.

Ông Tom Bridge mắt lác đang rót whiskey vào các cốc nhỏ ở sau quầy bán hàng ngắt lời tôi:

- Đúng lắm. Nhưng hôm qua hai người thợ mỏ ở Wesley, họ cũng ngồi ở chính chỗ ông đang ngồi ấy, ông bạn ạ, - khuyên phải thay ông thủ tướng chớ không phải là thay cái dù.

Những khách hàng quen của ông cười rộ lên. Tôi cũng cười đúng lúc ấy ông Tom Bridge nhìn thấy tôi.

- Xin mời vào đây, chàng trai lịch lãm. Nhìn kìa, ông Reggie. Cháu ông muốn gặp ông đấy.

Bác tôi ngoảnh lại.

- Samuel!..

Chúng tôi bắt chặt tay nhau. Những khách hàng quen của hiệu ăn chăm chú nhìn tôi. Tôi thấy một người trong bọn họ bất nhã hất hàm về phía tôi và lẩm bẩm:

- Sẽ xảy ra một chuyện kỳ lạ nếu mọi việc đều đúng sự thật... Một thằng bé đáng thương...

Ông Bridge rời khỏi quầy bán hàng và tới sát bên tôi.

- Samuel, thế là cháu đã trở thành một chàng trai đẹp đẽ đến nỗi bác không còn tin vào mắt mình nữa. Một chàng công tử chính cống...

- Nhưng điều ấy không hề ngăn trở cháu thân tình hói thăm bác, bác Bridge thân mến ạ, - tôi nói và chìa tay ra cho ông chủ hiệu ăn.

- Hô-hô! - Ông Bridge cười bằng cái giọng thấp khàn khàn và đập mạnh vào lòng bàn tay tôi. Ông Reggie, ông có đứa cháu thật giỏi giang. Nó vẫn không quên có lần tôi đã kéo nó lên khỏi cái hố mà nó với thằng con trai ông chủ hiệu thuốc đã tụt xuống. Úi da, những thằng tinh nghịch... Nào, ngồi xuống và kể đi. Về khi nào thế? Hử, đi tàu thủy chở bưu kiện ư? Mới đến trước đây một giờ thôi à? Peggy, đưa lại cho cậu ấy một cốc rượu chanh!

Bác Reggie cầm tay tôi và quay về phía ông Bridge:

- Bác Tom, chớ vội. Để cho nó hồi sức lại đã. Hình như nó vẫn chưa biết gì…

Mọi người im bặt nhìn tôi khiến cho tôi thấy lúng túng.

- Có chuyện gì ạ? - Tôi thì thầm hỏi, ngồi xuống ghế và sẵn sàng nghe câu chuyện kinh khủng đã xảy đến với cha tôi.

Bác tôi ngồi xuống bên cái bàn nhỏ và xua tay bảo mọi người để chúng tôi yên. Cô cô hầu bàn Peggy cười niềm nở để lộ cả những chiếc răng vàng ra và đem lại cho tôi một cốc rượu chanh để trên khay.

- Chào anh Samuel!

- Vâng, xin chào chị!

- Uống đi một hớp, cháu, - bác tôi nói, mắt nheo lại. - Sẽ tỉnh người ra đấy.

Khi bác tôi nheo một mắt lại thì có nghĩa là ông muốn nói điều gì đó quan trọng - Có chuyện gì thế, bác nói đi! - tôi lẩm bẩm.

Chúng tôi ngồi sau chiếc bàn nhỏ. Cốc rượu chanh có màu da cam thẫm để cạnh cốc rượu đã uống một một nửa. Đó là phần rượu của bác tôi, ông chỉ gọi rượu chanh vào những ngày long trọng trong cuộc sống của gia đình họ Pingle. Và giờ đây tay bác trịnh trọng nâng cốc rượu lên, nhưng cái nhìn của ông lại đượm màu tang tóc.

- Samuel ạ, tất cả mọi người đều yêu mến cháu, - bác tôi nói, - Toàn thể Ashworth biết cháu. Bác với ông Tom vẫn thường nhắc đến cháu và nói: “Chà, thật là quý hóa, thằng bé Samuel của chúng ta đang được học trong trường trung học của những người thượng lưu”. Ừ cứ cho là lord Pucklington kỳ quặc cũng được. Nhưng nếu ông có giúp đứa con trai của một viên thư lại thì có lẽ cũng chẳng vì thế mà nghèo đi.

Bác tôi có đặc điểm là trước khi nói vào những việc quan trọng bao giờ ông cũng nói lạc sang những chuyện trữ tình khác. Tôi chạm cốc với ông già rồi trong một tợp rượu

- Bác ơi, bác nói vào đề đi. Có việc gì xảy đến với cha cháu? Tại sao bác với cha cháu không đón cháu ngoài bến?

Ông uống hết cốc rượu rồi trả lời:

- Có lý do đấy cháu ạ. Cha cháu vẫn sống và khỏe mạnh. Ông ấy đến Oldmount...

- Cháu biết... Nhưng điện thoại ở lâu đài không trả lời...

- Hử... Không trả lời à? Nghĩa là công chuyện có bề nghiêm trọng. Hiện giờ bác chưa thể nói gì cho rõ ràng được, nhưng...

Tôi bật dậy khỏi ghế. Người ta đã giấu giếm tôi điều gì đấy. Tôi phải tự mình đến Oldmount. Ông già nắm chặt lấy tay tôi.

- Khoan... Sao cháu nóng vội thế... Cháu đến đấy phỏng sẽ có ích gì...

- Vậy có chuyện gì, bác có nói không?

- Quả là bác không biết gì. Hãy đợi cha cháu về...

Nhưng không nghe lời bác, tôi chạy ra phố. Sau góc phố là bến xe taxi. Hai mươi phút nữa tôi sẽ gặp cha và hiểu hết mọi chuyện.

Cái hiệu thuốc mà tôi quen thuộc đây rồi, những cái bình to, hình cầu chứa đầy các chất lỏng nhiều màu sắc để trên các cửa sổ rộng đang ánh lên như những tia cầu vồng dưới ánh sáng mặt trời Ashworth. Ở đây người ta còn thấy hàng đống cao dán, mù-tạc, thuốc chữa chai sẹo và thuốc đau răng, những ống nhổ và hàng lô những đồ vật mà có lẽ ngay cả những người sáng chế ra chúng cũng hoàn toàn không biết là để làm gì. Vẫn như trước đây như hồi tôi còn nhỏ, trên cửa sổ cuối cùng dưới cái chụp đèn bằng thủy tinh phủ đầy bụi để một con thằn lằn khô, đó là vật đã gây ra biết bao tò mò cho lũ trẻ con ở Ashworth.

Vừa rảo bước tôi vừa ngoảnh nhìn con thằn lằn. Nó có bộ da khô cũ kỹ với với những vạch màu vàng, và vẫn như trước đây, một mắt nhỏ bé của nó mở rộng ngắm nhìn thế giới với vẻ sợ sệt. Những hồi ức lờ mờ về thời thơ ấu vụt qua trong óc tôi. Cha tôi từng sai tôi tới đây mua thuốc khi mẹ tôi ốm...

Bất ngờ tôi vấp và ngã xuống vỉa hè. Có lẽ là mũi giầy của tôi vấp phải một hòn đá nhô lên. Dù sao thì khi tôi đứng dậy, lấy khăn mùi xoa phủi bụi ở quần áo, đầu óc tôi cứ quay tròn, tai bên phải bị ù đi. Một ông già nhỏ nhắn qua đường nói với tôi.

- Này anh thanh niên, tới chỗ ông Orfi đi thôi! Người anh bị xây xát khá nhiều.

Ông già thật tốt bụng, ông ân cần mở cửa hiệu thuốc ở ngay trước mặt tôi. Tôi bước vào, tai điếc đặc. Ông Orfi, chủ hiệu thuốc, người cùng tuổi với cha tôi, đứng sau quầy bán hàng, cặp mắt lim dim, ông đang thận trọng gãi lưng vào thành cái tủ đựng đầy những thuốc. Trông vẻ mặt của ông Orfi thì đúng là việc ấy đang làm ông khoái trá.

Bác sỹ Fleet, một người béo tốt, đang ngồi sau cái bàn con cạnh cửa sổ. Ông ngồi duỗi thẳng người ra đến nỗi không còn thấy ghế đâu nữa, dường như ông thầy thuốc ở Ashworth của chúng tôi đang an tọa giữa trời như một quả khí cầu lớn, vừa xua tay ông vừa say sưa chứng minh một điều gì đó với ông chủ hiệu thuốc.

- Đứng trên quan điểm khoa học thì điều đó là hoàn toàn không thể được...

Nhưng vừa lúc ấy tôi bước qua ngưỡng của hiệu thuốc. Bác sĩ Fleet im bặt, còn Orfi thì hé mở một mắt.

- Samuel đấy ư?

Tôi chỉ vào bên tai đau. Không để tôi kịp mở miệng nói lời nào, hai ông đã lập tức chẩn bệnh.

- Cậu Samuel ạ, người ta nện cậu khéo lắm, - ông chủ hiệu thuốc nói, thôi không gãi lưng nữa và đã mở nốt mắt bên kia. - ông bác sĩ, ông chẩn đoán thế nào?

Bác sĩ Fleet cười vẻ khoan dung.

- Bị xây xát và bầm máu. Không có gì nguy hiểm nhưng không đẹp mắt.

Rõ ràng là ông chủ hiệu thuốc cứ muốn tò mò, ông hỏi dò:

- Nện nhau khi nào thì cậu Samuel?

- Đừng hỏi nữa, ông Orfi. Mọi việc đều đã rõ ràng, - vừa nói ông Fleet vừa thở hổn hển và dùng chiếc khăn mùi xoa lụa màu tím lau khuôn mặt đỏ dừ, tròn vành vạnh và đầy những râu quai nón mầu đỏ hung.

Ông đứng xa tôi ba bước đi ngắm nghía, dường như đang soi tôi qua kính lúp, rồi ông nói tướng lên:

- Rõ ràng như soi qua kính hiển vi vậy, khoảng mười hai tiếng đồng hồ trước đây, một vật có tính đàn hồi trong khi rơi xuống theo một góc ba mươi độ đã đập vào đầu chàng thanh niên này, nếu rơi theo góc thẳng đứng thì vật ấy đã làm gẫy cổ anh ta rồi ít ra thì cũng bị chấn thương não.

- Xin lỗi hai ông, - tôi nói. - Tôi bị ngã ngoài phố và không phải mười hai tiếng trước đây mà là vừa rồi. Có lẽ tai tôi...

Tôi định đưa tay sờ vào bên tai đau đã bắt đầu sưng phồng lên.

- Chớ đụng tay vào! - bác sĩ Fleet nói với giọng cằn nhằn, ông chau mày giận dữ và ra lệnh cho ông chủ hiệu thuốc: - Làm tất cả việc cần thiết cho anh ta, ông Orfi. Mọi việc đều rõ ràng như soi qua kính hiển vi vậy.

- Lại đây, cậu Samuel, - ông chủ hiệu thuốc dịu dàng gọi tôi.

Ông ta ngại luồn qua quầy bán hàng. Tôi tiến về phía những cái tủ, ông già Orfi bắt đầu đặt băng dính cho tôi. Còn bác sĩ Fleet thì lại tiếp tục câu chuyện bị ngắt quãng do việc tôi đến bất thình lình:

- Này nhé, ông bạn Orfi ạ, sự thể là như sau. Người ta ốm hoặc là do không tuân theo những nguyên tắc vệ sinh, hoặc là do bị chấn thương trong những trường hợp bất hạnh, hoặc là do những vi trùng gây bệnh. Ăn quá nhiều, uống quá nhiều, phơi nắng quá nhiều, để lạnh chân tay - ốm. Đánh nhau hoặc ngã ngoài phố như cậu Samuel của chúng ta đây - ốm. Vi trùng vào cơ thể, sinh sôi nảy nở ở trong đấy - ốm. Ông Orfi ạ, không có bệnh nào là không do những vi trùng tương ứng gây ra, những nhà bác học vĩ đại là Pasteur và Koch đã chứng minh như vậy. Nếu ai cho phép mình nghi ngờ điều ấy và lại còn làm những thí nghiệm tội lỗi nữa thì, ông biết không, ông bạn Orfi?

Đến đây tay ông Fleet vung lên cao như để đánh ai:

- Luật pháp sẽ trừng trị kẻ tội phạm. Và hình như đã trừng trị rồi. Quả thật đôi khi những người vô tội cũng đau khổ vì việc ấy nhưng rõ ràng quy luật tự nhiên là như vậy đó. Ông Orfi đã băng xong và chỉ cho tôi một tấm gương treo giữa những tờ quảng cáo hấp dẫn của các hãng dược phẩm.

- Nhìn vào gương mà xem, - ông ta nói. - Chẳng còn thấy gì nữa... - Ông cười và nói thêm:

- Cậu phải thừa nhận rằng cậu uống rượu khá nhiều. Cậu thơm như một cây cam chanh đang nở hoa. Tôi khuyên cậu về nhà ngủ đi cho sướng mắt. Tôi định nói với con khỉ già ấy rằng tôi chẳng việc gì mà phải đi ngủ, nhưng rồi thấy là vô ích.

Tôi lẩm bẩm:

- Tôi nhức đầu.

- Vậy cậu hãy cầm lấy những viên thuốc này, - ông Orfi đề nghị.

- Quỷ tha những viên thuốc của ông đi. - vừa nói bác sĩ Fleet vừa bực dọc lau mồ hôi trán, ông đã phá vở cái hợp đồng thương mại giữa hai người. - Người ta dập những viên thuốc như những đĩa gạt tàn thuốc lá ấy. Tôi đã nuốt hàng tấn những viên ấy để chống phát phì, thì lại phì ra thêm, ông thấy đấy... Do đó hãy giữ lấy tiền, anh bạn trẻ ạ. Tiện thể cậu cho biết cậu có khó thở không?

Câu hỏi này của bác sĩ Fleet không phải chỉ nổi tiếng ở Ashworth. Trước đây ông đã cho đăng trên tạp chí “Dao trích” một bài báo dưới đầu đề “Khó thở là một tai họa của loài người”. Từ đấy ý nghĩ về sự khó thở đã đưa bác sĩ ra khỏi con đường suy nghĩ bình thường một cách từ từ và vững chắc. Ông nêu ra câu hỏi ấy cho bất kỳ bệnh nhân nào và cho cả những người tình cờ nói chuyện với ông. Với những người đến hỏi ông cách chữa những chai chân đã lâu ngày, ông cũng hỏi họ có khó thở hay không.

- Không, thưa ngài bác sĩ, - tôi trả lời một cách lễ độ.

- Lạ thật, - bác sĩ Fleet lẩm bẩm và nheo mắt lại. - Tuy nhiên chẳng có giá trị nào mà không được đánh giá lại. - Bác sĩ đưa mắt nhìn về phía ông chủ hiệu thuốc:

- Có đúng thế không, ông Orfi?

Ông này chỉ nhún vai. Đúng lúc ấy cánh cửa ở giữa những cái tủ mở ra và Ed, con trai ông chủ hiệu thuốc xuất hiện, nó mặc áo choàng trắng không sạch lắm, khăn mặt vắt vai. Mặc dù đầu tôi buộc băng nó cũng nhận ra ngay.

- Ôi! Samuel thân yêu! Mình đang điều chế các hợp dịch trong phòng thí nghiệm thì bỗng nhiên nghe thấy một giọng quen thuộc... Chào cậu. Cậu làm sao thế? Ngã à? Về khi nào vậy? Đã biết tin chưa?

- Chẳng biết gì hết, - tôi bắt bàn tay ướt của Ed và trả lời. Một việc không may nho nhỏ đã khiến mình không đến Oldmount bây giờ được.

- Cậu vẫn chưa gặp cha ư? - Ed kêu lên. - Tuy nhiên bác sĩ Fleet biết...

- Hiện giờ vẫn chưa có tin gì chắc chính - bác sĩ nói làu bàu. - Nhưng có tin đồn rằng ở Oldmount người ta tiến hành thí nghiệm mổ sống các động vật, - bác sĩ Fleet vung tay phải lên như để cảnh cáo và nói thêm: - không được phép của chính quyền...

- Việc ấy bị pháp luật nghiêm cấm - Orfi bổ sung, ông đang thu dọn ống thuốc trên quầy hàng.

- Thế thì sao? - tôi nói và cảm thấy đầu càng đau dữ dội hơn.

- Trời ơi, cậu ta vẫn không hiểu! - bác sĩ Fleet bắt đầu cựa quậy trên chiếc ghế đẩu, ông đang định nhổ neo. - Chà, tôi phải đi thăm bệnh nhân. - ông trườn khỏi ghế và cầm lấy cái va li có vằn dùng để đựng dụng cụ của ông. - Cậu Pingle ạ, câu chuyện sẽ có quan hệ đến cả cậu đấy. Cậu nên biết rằng chính lord Pucklington chứ không ai khác đã tiến hành các thí nghiệm ở lâu đài.

- Nghe, nghe đây! - Ông Orfi nói nhanh, dường như bác sĩ Fleet đang phát biểu trong nghị viện.

Tôi thét lên:

- Như thế thì đã sao nào?

Bác sĩ và ông chủ hiệu thuốc nhìn tôi với vẻ thương hại.

- Những thí nghiệm của lord được tổ chức bí mật đến nỗi không ai đoán ra được. Còn bây giờ thì tấm màn đã bị vén lên rồi.

Bác sĩ Fleet lắc đầu.

- Và tôi cũng chẳng ngạc nhiên nếu lord Pucklington làm thí nghiệm cả trên cơ thể những người sống... Luật pháp sẽ trừng trị ông ta... nếu như chưa trừng trị.

Tôi không thích cái giọng bực tức của bác sĩ. Tuy rằng mọi người ở Ashworth đều biết bác sĩ Fleet bao giờ cũng ở trong tình trạng cáu bẳn kinh niên. Bởi vì ông có hai cô con gái xấu xí là Annie và Jenny mà ông không làm thế nào gả chồng cho được. Do đó tranh cãi với bác sĩ là vô tích sự. Dù sao tôi cũng vẫn phản đối:

- Người làm khoa học phải có quyền tự do làm thí nghiệm.

Những lời lẽ của tôi đã có tác dụng. Bác sĩ Fleet vung tay lên.

- À, ra ngày nay ở các trường học người ta dạy dỗ như thế đấy!

Ông già Orfi nhăn nhó đến nỗi nhìn vào mặt ông ta thật là khó chịu, ông thét Ed:

- Đi làm việc đi! Mày lại vẫn chưa chuẩn bị được những hợp dịch cho ông Seyton và thuốc viên cho cha trưởng đạo phải không? Xéo.

Ed từ từ lẩn vào sau những tủ thiếc. Rõ ràng là ông Orfi giữ thái độ rất nghiêm khắc với nó.

Và thế là tôi muốn trả thù cho Ed. Tôi nói:

- Hai ông biết không, thưa hai ông? Nếu như khoa học cần đến những thí nghiệm mạo hiểm thì thân thể tôi sẽ thuộc về...

Bác sĩ Fleet cười ran:

- Thuộc về nhà bác học Pucklington? Ha-ha-ha! Ôi, cậu Pingle ơi, cậu sẽ làm tôi với ông Orfi chết trước khi lord làm cậu chết. Cậu về nhà đi và hãy đặt một cục nước đá lên đầu. Quả thật là cậu có những triệu chứng bị chấn động não...

Tôi lạnh lùng cầm mũ lên:

- Chào hai ông.

- Xin cậu một shilling, - ông Orfi nhắc tôi trả tiền miếng băng dính của ông.

Ông chủ hiệu thuốc muốn thu được tiền bán hàng về, nên giọng nói của ông có phần xúc động.

Đồng tiền mà tôi xỉa lên quầy kêu leng keng. Bác sĩ nhìn nó với vẻ trìu mến.

- Cậu Pingle ạ, tôi sẽ gửi giấy thanh toán tiền công chẩn đoán và chỉ dẫn dùng thuốc đến nhà cậu, - bác sĩ nói với vẻ thành thạo. Điều ấy cũng rất tự nhiên thôi: bác sĩ Fleet muốn có phần của mình vì đã cấp cứu một người thân thiết.

❖ III ❖

Đầu tôi đau không thể chịu được. Tôi quyết định không đến Oldmount nữa mà sẽ đợi cha tôi ở nhà.

Cô bé gái Mary, con gia đình Winters bên cạnh, ngồi trên chiếc ghế dài cạnh cửa vườn nhà tôi. Cô bé đang ru con búp-bê làm bằng giẻ rách với cái giọng thanh thanh rầu rĩ:

Trẻ con khóc, à ơi chúng khóc

Khóc vì đau, chúng khóc vì đau.

Các cô khóc à ơi than khóc

Khóc vì buồn, họ khóc vì buồn.

Các chú khóc, à ơi họ khóc

Khóc vì vui họ khóc vì vui.

Cô bé tóc vàng chào tôi.

- Chú Samuel!.. Ôi, chú đánh nhau à? Mặt chú tím bầm cả lên! - Mary cười ranh mãnh: - Cháu biết mà... Những người say bao giờ cũng đánh nhau.

Tim tôi thót lại, tôi nói với giọng tự hào và dứt khoát ngoài ý muốn của mình:

- Cháu đoán đúng đấy. Chú đa thách đấu và bị đánh. Tuy nhiên những ông chú không khóc vì đau khổ chứ?

Cửa vườn mở, Edith, chị của Mary, tiến nhanh về phía tôi.

- Trời ơi, anh Samuel bị thương à?

Mớ tóc quăn màu tro xám của Edith hơi ngả sang màu đồng đỏ dưới ánh nắng mặt trời. Cặp mắt sâu thẳm của cô nhìn tôi đầy vẻ lo lắng.

- Nguy hiểm quá nhỉ?

Tôi gượng cười, nhìn vào khuôn mặt trẻ trung của cô, một khuôn mặt mà chẳng bao giờ tôi quên được.

- Xin lỗi Edith nhé. Tôi nói đùa về chuyện thách đấu đấy. Chỉ hơi bị xây xát một chút. Tôi vội đến bến xe taxi và bị ngã gần hiệu thuốc. Tôi muốn đến Oldmount gặp cha tôi...

- Ô, em hiểu, anh Samuel ạ, - Edith nói, cô càng trở nên buồn rầu và nghiêm trang hơn. - Anh cần phải bình tĩnh.

- Đúng, tôi đã quyết định trở về nhà chờ cha tôi...

U Olivia xuất hiện trên bậc cửa. Thấy tai tôi buộc băng bà cuống quít lên và suýt nữa bật khóc. Mấy phút sau tôi đã ngồi trong chiếc ghế bành cũ kỹ của cha tôi.

Bà Olivia chạy ngược chạy xuôi chuẩn bị bữa sáng. Hình như là Edith đã giúp bà ở dưới bếp. Cô ngó vào phòng trong chốc lát.

- A, anh Samuel ạ, lúc anh ở bến tàu về tới đây, em có trông thấy anh. Rồi sau đấy anh lại vội ra đi. Và thế là em hiểu...

- Nhưng hiểu gì. Nói đi, Edith.

- Không, không. Anh cần phải nghỉ. Ngủ đi anh ạ.

Tôi làm ra bộ sốt ruột:

- Tôi không cần nghỉ. Có chuyện gì xảy ra thế, nói đi cô!

Edith thở dài:

- Người ta kể những chuyện khủng khiếp về lord Pucklington...

Bà Olivia bước vào ngắt lời Edith:

- Chẳng ai hiểu rõ điều gì cho ra lẽ. Ở Ashworth này lúc nào cũng lắm tin bịa đặt.

- Cô Edith thân mến, hình như bà Winters đang gọi cô đấy.

U Olivia đã đuổi Edith rất khéo léo và dọn bữa sáng nóng sốt lên bàn.

- Ăn đi cậu Samuel, rồi nằm mà nghỉ. Xảy ra chuyện gì thế, cậu kể đi.

Nghe tôi kể, u Olivia phúc hậu chỉ lắc đầu, và u ngồi xem tôi ăn như hồi tôi còn bé để bắt tôi ăn thật nhiều.

- Ngủ đi, cậu ấm ạ - U Olivia nói dịu dàng. - Tôi đã sửa soạn giường và túi cao su để chườm rồi đấy.

Mệt mỏi và hồi hộp, tôi đã thiếp đi trong ngôi nhà thân thuộc vắng vẻ.

***

Tỉnh dậy, tôi thấy cha tôi ngồi trong ghế bành cạnh giường tôi. Cái chụp đèn đã được đẩy xuống thấp để che bớt ánh sáng. Ngọn đèn chiếu xuống đôi bàn tay xanh xao của cha tôi đang đặt lên hai đầu gối vụng về.

- Cha vẫn chờ cho con thức dậy, - cha tôi nói nhỏ nhẻ - Con thấy người thế nào, con?

- Con khỏe rồi, cha yêu quý ạ, - tôi nói và định đứng dậy.

- Cứ nằm xuống con ạ - cha tôi bảo, rồi chìa bàn tay ra cho tôi tôi nắm chặt lấy nó, - muộn rồi. Con cứ ngủ cho đến sáng đã. Cha chỉ muốn nói để con khỏi lo...

Những lời nói ấy khiến tôi nhớ lại rất rõ ràng tất cả mọi sự kiện trong ngày.

- Vậy mà con lại đang bắt đầu lo lắng, - tôi nói to. - Cha hãy nâng chụp đèn lên để con được nhìn thấy cha.

Ánh sáng hắt vào khuôn mặt hiền hậu của cha tôi. Khuôn mặt ấy như đã gầy và già đi. Cha nhìn tôi trìu mến.

- Cha đây. Con thấy chưa?

- Con thấy rồi và muốn biết chuyện gì đã xảy đến với cha.

- Samuel, con muốn biết sự thật ư?

- Vâng.

- Nguyện vọng của con hoàn toàn hợp lý. Bác Reggie cũng đòi cha phải kể cho con biết mọi việc mà cha hay.

Và cha tôi bắt đầu câu chuyện.

- Lord Pucklington có, hoặc nói cho đúng hơn đã có đủ tiền để làm tất cả những gì ông muốn...

Tôi ngắt lời cha tôi:

- Cha tha lỗi cho con, cha nói: “Đã có đủ tiền”. Thế là thế nào, lord đã bần cùng rồi sao?

- Đó mới chỉ là một nửa tai họa thôi con ạ, lord của chúng ta là người cuối cùng trong họ Pucklington, là người chủ lâu đài Oldmount. Ông không có người thừa kế trực tiếp vì ông sống độc thân. Ông chỉ mới cùng với cô Evelyn Harriet làm nghi lễ kết hôn ở nhà thờ. Nhưng đám cưới đã phải hoãn lại đến ba năm rồi. Việc này do nhiều nguyên nhân, và con ạ, con không thể nào hiểu hết được mọi chuyện đâu. Mọi người còn biết rất ít về con người ấy, và có lẽ những người thuộc giới thượng lưu lại biết ít hơn cả. Nếu con muốn thì cha có thể nói cho con hay rằng lord thường sống biệt lập hẳn với giai tầng của mình...

Theo lời cha tôi kể, lord Pucklington là một nhà bác học lớn và thực tế, ông đã tiến hành làm nhiều thí nghiệm ở lâu đài, có lẽ là những thí nghiệm về sinh lý học động vật và thực vật. Có lẽ sự ham mê nghiên cứu khoa học của ông đã khiến ông hoãn vệc cưới xin lại. Ông thường hay du lịch và hình như những chuyến du lịch ấy đều có liên quan tới việc tìm tòi khoa học của ông.

Merling, em họ Pucklington, không thích đám cưới sắp tới của ông. Nếu lord không lấy vợ và khi chết đi không để lại đứa con nào thì Merling, một kẻ thèm khát danh vọng, sẽ là người kế thừa lord Pucklington, là người chủ lâu đài Oldmount và là người độc hưởng mọi đất đai tài sản. Việc lập gia đình của lord sẽ làm hỏng mọi kế hoạch của Merling, vì thế hắn đã dùng mọi biện pháp phá đám cưới của ông.

Trong khi đó lord Pucklington đã có được một phát minh xuất sắc. Phát minh gì, cha tôi không biết. Nhưng để kiểm tra lại, lord Pucklington cần phải làm những thí nghiệm trên cơ thể người. Ông đã đề nghị với chính phủ hoặc là trao cho ông những phạm nhân bị kết án tử hình để ông làm thí nghiệm hoặc cho phép ông thuê người. Mặc dù đã đề nghị, đã nêu ra như vậy và được gửi đi một cách bí mật, nhưng không hiểu vì sao những người xung quanh lâu đài Oldmount lại biết chuyện. Hàng chục người ở Wesley và Ashworth đã bâu quanh văn phòng của lâu đài và đề nghị xin hiến thân cho các thí nghiệm.

- Họ sẵn sàng chịu tất cả, - cha tôi nói. - Những tin đồn nhảm nhí nhất lan rộng trong đám dân địa phương. Người ta nói rằng lord cần tay và chân người và hình như bác Reggie mất cánh tay không phải ở Gallipoli mà chẳng qua đã bán nó cho lord, và hơn nữa cha là người làm trung gian trong việc này. Đó là những chuyện đơm đặt ngu xuẩn! Nhưng Samuel ạ, cần phải hiểu mọi người. Những người đến lâu đài chẳng qua chỉ vì muốn kiếm tiền! Phải, con ạ, cha đã chịu đựng biết bao giờ phút căng thẳng khi tiếp chuyện những con người nghèo khổ ấy. Việc này xảy ra đúng vào lúc người ta dãn thợ ở Wesley. Nhưng cha thề rằng không một ai bị lấy vào làm thí nghiệm trong lâu đài, không ai hết. Bây giờ con thử tưởng tượng xem khi nội các biết rõ tất cả những chuyện ấy thì sẽ ra sao. Merling vội vàng lợi dụng cơ hội. Có người tung tin là lord Pucklington đã tiến hành những thí nghiệm mổ sống trên cơ thể người. Cha sẵn lòng thề trước tòa án rằng những điều đó là giả dối...

- Nhưng chính lord phải vạch mặt những kẻ vu khống chứ! - tôi kêu lên.

- Chà, Samuel ạ, con hoàn toàn không biết lord. Ông coi việc trò chuyện với những kẻ như Merling là không xứng đáng với mình. - Cha tôi làm điệu đưa hai tay về phía trước, - Và thế là hôm qua tiếng sấm đã nổ vang. Trong nghị viện, Merling đã dẫn ra một sắc luật, căn cứ vào sắc luật đó lord Pucklington của chúng ta đã bị tước danh vị cao quý, bị mất quyền thừa kế và bị đuổi khỏi địa phận vương quốc.

- Nhưng thế thì kỳ quái thật! Hoàn toàn bất chính! - tôi nói nghẹn ngào, cảm thấy như có vật gì cưng cứng và sần sùi đang đưa lên chẹn lấy họng tôi.

Cha tôi đưa cho tôi một cốc nước.

- Cha biết rằng việc này sẽ làm con buồn phiền, con ạ... Hãy gác chuyện lại đến mai.

- Không! không... - tôi nói lắp bắp và lo sẽ khóc òa lên trước mặt cha tôi như một đứa bé gái. Việc ấy chẳng hợp với một chàng trai tốt nghiệp đệ nhất cấp của trường trung học Dijan chút nào. - Cha nói tất cả đi. Nói đi cha!.. Nào!

Cha tôi mỉm cười.

- Nếu con mà ngúng nguẩy thì cha sẽ tắt đèn và bỏ đi đấy.

Điều ấy đã từng là sự trừng phạt trong thời thơ ấu, khi tôi ngúng nguẩy không chịu đi ngủ. Bây giờ chúng tôi đều nhớ lại chuyện này và tôi cũng mỉm cười.

- Cha tha lỗi cho con. Nhưng cha đã báo cho con biết một tin ghê sợ. Không thể như thế được!..

- Nghị viện có thể làm mọi việc, - cha tôi đáp, ông cố gắng lên giọng nghiêm trang, nhưng tôi chợt thấy có phần mỉa mai mà trước đây tôi chưa hề thấy, - Họ đã ra cái sắc luật chỉ có hiệu lực một lần và đó chính là trường hợp của lord. Hôm nay Oldmount đã biết rõ chuyện này. Ngày mai thì Ashworth và cả thế giới sẽ biết...

- Thế bây giờ lord Pucklington ra sao rồi, thưa cha? - tôi hỏi.

Cha tôi không trả lời ngay, sau đó ông nói thì thầm một cách buồn bã:

- Trước đây vài giờ lord cũ đã rời Oldmount. Ông Seyton, quan đại tụng của vương quốc đã niêm phong tất cả các phòng riêng của Pucklington. Còn ngày mai thì lord mới sẽ đến lâu đài, đó là Merling, người thừa kế hợp pháp hiện nay. Mọi chuyện là như vậy đấy, con ạ. Giá mà con biết được cha đã mệt mỏi vì tất cả những việc ấy ra sao...

❖ IV ❖

Vài ngày sau ông chủ mới của lâu đài đã bắt đầu cai quản gia tài, và ngay sau đó cha tôi cho tôi biết một tin không hay: tôi không được tiếp tục theo học ở trường trung học Dijan nữa, Merling đã từ chối cha tôi trong việc cấp tiền trợ cấp ăn học cho tôi. Quả là một đòn sấm sét. Tôi không dám ra phố. Người ta đã chê cười tôi. Bọn cùng lứa tuổi giễu cợt khiến tôi phải đỏ mặt vì xấu hổ và phẫn uất.

Một lần bác tôi nói với tôi khi tôi ngồi bên cửa sổ với một tâm trạng đen tối nhất:

- Cháu ạ, phải tự thu xếp lấy cuộc sống.

Trong khi đánh diêm liên tục để hút tẩu thuốc cứ tắt luôn, bác tôi bực dọc nói hết lời về lord cũ:

- Cháu ơi, ông ta chẳng đau khổ chút nào khi ông ta làm cho cháu mắc cạn đâu. Còn với cha cháu thì không đủ sức kéo rơ-moóc mà đưa cháu đến bến bờ êm ả được. Con người có lòng từ thiện đáng kính đã biến khỏi chân trời rồi. Hôm nay ở hiệu ăn “Hổ Vương” người ta kể rằng ông ta đã vĩnh viễn thanh toán với đời. Bác không hề phản đối...

- Bác đừng nói như vậy về một con người đã giúp đỡ chúng ta, - tôi phản đối.

Bác tôi khoát cánh tay duy nhất còn lại của mình lúc ấy đang cầm tẩu thuốc.

- Samuel, cháu phải nhìn thẳng vào cuộc sống, không khi nào được sợ sự thật. Hiện nay cháu phải dùng hai khuỷu tay mình mà len vào cuộc đời, đó là sự thật. Cháu hãy buộc những ông béo phệ đáng kính đang ngồi chễm chệ trong các văn phòng ở Ashworth nhích sát lại một chút. Chúng hãy bảo họ cho cháu một chỗ dưới ánh mặt trời. Một mảnh bằng trung học Dijan! Nó có giá trị chứ!

Đúng thế cần phải lập thân. Nhưng tôi thấy ngay rằng bằng cấp cũng như những lời phê nhận tốt của trường Dijan tự chúng không có khả năng đem lại cho tôi tách cà phê buổi sáng với bữa điểm tâm, bữa cơm trưa ngon lành và bữa cơm chiều no nê, cũng như bao thuốc lá thơm, đế giầy và những thứ lặt vặt khó chịu khác đại loại như thế nhưng lại cần thiết mà tôi đã quen có sẵn ở trường nội trú Dijan và ở nhà cậu bạn Robert.

Tôi đã đến khắp lượt các cơ quan ở Ashworth và Wesley để tìm việc một cách vô ích. Hình như trong vương quốc đã có thừa những nhân viên phòng thí nghiệm, thư ký và thư lại. Tôi không tìm được cho mình một góc nhỏ dưới ánh mặt trời quê hương.

Mệt mỏi và lo âu, tôi ngồi hàng giờ ở nhà, chìm đắm vào những suy nghĩ cay đắng.

Cần phải quyết định dứt khoát thôi. Không thể nào sống bám vào cha rồi chờ đợi bổng lộc từ trên trời rơi xuống. Cha thật tội nghiệp! Ông đã khẩn khoản cầu xin ông Seyton lấy tôi vào làm nhân viên văn phòng. Nhưng quan đại tụng chỉ chẩu cặp môi ra. Sao? Lại đi quan hệ với một thanh niên mà lord cũ, người bị đuổi khỏi Oldmount một cách nhục nhã, đã đỡ đầu ư? Không, ông không đồng ý nhận tôi vào làm việc dù chỉ trả một nửa số lương thôi.

Còn tôi thì không biết sẽ thoát ra khỏi tình cảnh ấy bằng cách nào. Tôi không thể trông đợi vào sự giúp đỡ của lord được nữa, huống chi là trông đợi vào cha tôi. Cha đã chi phí cho tôi tất cả những gì ông có. Bây giờ tôi phải giúp đỡ cha.

Tôi vẫn mong manh hy vọng rằng ông giám đốc trường Dijan và nghiệp đoàn các giáo sư ở đấy sẽ tìm cách cho tôi tiếp tục theo học lên các lớp trên. Tôi đã viết cho ông giám đốc một bức thư cầu may. Nhưng không nhận được thư trả lời.

Thời bấy giờ thanh niên nam nữ chúng tôi khó mà tìm được nơi cần sử dụng khả năng và lòng sốt sắng của mình một cách xứng đáng. Việc làm duy nhất của những kẻ thất nghiệp là lang thang trên các vỉa hè với hy vọng vô ích là tìm kiếm lấy một vài xu, nhưng tiền nào có rơi vãi trên các đường phố. Dù sao bay giờ việc này vẫn có khả năng đạt được nhiều hơn là tìm việc làm thông qua các văn phòng thuê mướn người.

Tôi đã nghĩ mọi cách để có thể thu xếp lấy cuộc sống. Đã có lần tôi nẩy ra ý nghĩ là Ed có thể đề nghị ông già Orfi nhận tôi vào rửa chai lọ cho hiệu thuốc. Nhưng một học sinh trường Dijan đã có bằng lại đi làm người rửa chai lọ cho hiệu thuốc thì thật mỉa mai. Điều trở ngại chủ yếu nhất trong việc này lại chính là Ed. Nó là người rửa chai lọ trong hiệu thuốc của cha nó. Nó cần mẫn làm việc sau các tủ thuốc đến như thế, chắc gì đã chịu đựng nổi một đối thủ trong bếp nấu thuốc của nó.

Những ý nghĩ ấy làm tôi không yên tâm.

“Tôi có thể tìm thấy gì trong cái thành phố nhỏ bé này? Sống ở đây suốt đời với ông Orfi, ông Bridge, bác sĩ Fleet và với ông bác mũi đỏ sao?”

Tôi hình dung lại trong óc những công dân đáng kính của địa phương. Vicar tức cha trưởng đạo Jeremiah, một nhà truyền đạo khéo léo, một người người thích ăn ngon. Ông trưởng phòng bưu điện Collie chột mắt, một người vất vả vì gia đình đông con. Ngài chánh án Weasley, bạn của Seyton. Đại tá Fredson, người được mệnh danh là “quan đại tụng sâu rượu”. Đủ các hạng người ở Ashworth hiện về trước mắt tôi. Cả một đám toàn những trưởng phòng bưu điện và chủ các hiệu thuốc từ trong lò sưởi chui ra, đứng chật cả phòng. Họ vây quanh tôi, nhắy mắt ra hiệu cho tôi và lẩm bẩm điều gì đấy như giễu cợt.

Tôi thấy ghê sợ. Tôi tỉnh lại.

Tôi nhớ rằng tôi đã chạy đến bên cửa sổ và mở cửa ra. Trời đã tối. Đèn đã bật sáng trong những ngôi nhà nhỏ ở Ashworth. Ở nhà bên cạnh bà Winters đứng trong vườn gọi ầm lên:

- Mary ơi! mày biến đi đâu thế hở, con khốn nạn? Con Edith đâu rồi?

Cái giọng hay khóc của Mary vọng lại:

- Con không bi...ết...

Phải thừa nhận rằng điều duy nhất đã giữ chân tôi ở lại Ashworth lúc bây giờ là cô Edith Winters.

Ngôi nhà nhỏ của họ ở cạnh nhà tôi. Cha Edith làm việc ở phòng bưu điện dưới quyền ông Collie. Ông bị bệnh đau tim dầy vò và hầu như chẳng mấy khi đi ra ngoài. Đôi khi tôi nhìn thấy ông trong mảnh vườn nhỏ cạnh nhà. Ông ngồi trong chiếc ghế bành bằng mây, buông thõng hai bàn tay gầy guộc trên đầu gối và rầu rĩ nhìn vạch chân trời hiện rõ từ phía biển xa. Ed kể rằng ông già Winters đang cóp tiền để đi về một nơi nào đấy ở mãi tận phương nam.

Tôi nhớ có lần vào chủ nhật u già Olivia dẫn tôi đến nhà thờ. Sau buổi hầu lễ, u già của tôi đứng nói chuyện với các bà ở ngoài sân. Mọi người đều kính cẩn im lặng khi cha trưởng đạo Jeremiah từ trong nhà thờ bước ra. Cha đi cùng với bà Winters và một cô gái gầy gò đội mũ rơm tròn vành có đính hai giải băng nhỏ.

- Chớ mất tinh thần, bà Winters thân mến ạ, - cha nói dịu dàng. - Cần phải tin rằng chồng bà sẽ bình phục. Tôi đã nói để bác sĩ Fleet chú ý đặc biệt tới bệnh nhân này. Bà đừng lo về khoản phí tổn. Công xã sẽ nhận trả mọi chi phí.

- Cám ơn cha, thưa cha trưởng đạo, - bà Winters cảm động thì thầm. - Con rất đau khổ... Vì còn hai con nhỏ...

- Tôi biết, nghĩa vụ của chúng ta là phải chăm sóc cho chúng. Hãy dũng cảm lên.

Sau đó, u Olivia nói với tôi:

- Samuel, cậu nên hỏi han Edith. Lẽ nào cậu không nhận ra cô ấy ư?

Cả bốn người chúng tôi cùng trở về nhà. U Olivia an ủi bà Winters, còn tôi với Edith thì đi ở phía trước. Tôi biết rằng cha cô đang ốm và tôi cảm thấy thương cô gái vô cùng.

Tôi nhận thấy Edith rất yêu quý cha, và cô đang trải qua những giây phút nặng nề trước cơn đau ốm của ông.

Ngay hôm ấy u Olivia làm một bữa cơm trưa thịnh soạn và bảo tôi đem biếu gia đình Winters một món rất ngon.

- Samuel ạ, nếu cậu đến thăm người ốm thì có nghĩa là cậu đã làm một việc tốt, - u Olivia nói với vẻ căn dặn, vừa lấy chiếc khăn nhỏ bọc đĩa thức ăn lại.

Tôi đã đến nhà ông bà Winters, và kể từ ngày ấy tôi bắt đầu thân với họ, tình thân ấy gắn bó chặt chẽ hơn là sự quen biết thông thường của những người làng xóm. Ngày hôm ấy Edith đưa tôi ra đến cửa vườn và nói:

- Anh Samuel, anh tốt quá! Em sẽ không bao giờ, không bao giờ quên việc này.

Tôi không nói được điều gì. Tôi hết sức xúc động vì người ta bảo tôi là người tốt.

Chúng tôi thường chơi khăng với nhau trên một bãi nhỏ. Tôi thích bị thua Edith và vui sướng khi thấy cô vỗ tay mừng thắng lợi. Tôi thích tính tình thoải mái của cô gái tóc quăn này. Năm ngoái, khi trở về Ashworth, tôi không nhận ra Edith ngay Cô đã lớn phổng lên và đã bắt đầu chải mớ tóc dày của mình theo một kiểu đặc biệt. Ánh mắt cô biểu hiện một cái gì đấy mới mẻ, nhưng hơi bí ẩn và điều này làm cho lòng tôi thấy bồi hồi. Một lần, khi đi chơi cùng Edith, tôi đã đề nghị cô cho phép tôi viết thư. Cô đồng ý. Từ Dijan tôi đã gửi thư về. Cô trả lời rất tình cảm, đến nỗi tôi đã học thuộc lòng bức thư đó và gìn giữ nó rất lâu.

Bây giờ Edith đã trở thành một cô gái đẹp thực sự. Nụ cười của cô đã chinh phục tôi, và tôi thường chợt thấy mình đứng ngẩn ra trước cô gái thon thả duyên dáng ấy.

Đó là nguyên do đã giữ tôi ở lại Ashworth. Cũng cần phải nói thêm rằng mới đây tôi đã nghe lỏm được những lời của bác tôi nói với u già Olivia ở trong bếp.

- Về phần tôi, - ông nói hùng hồn, - thì tôi sẽ không cản trở chàng trai của chúng ta tạm thời rời bỏ Ashworth. Cần phải thảo luận một cách thực tế, giống như ông Tom Bridge vẫn thích nói. Nếu trong tay không có những con tẩy* thì phải đi con thấp hơn. Cứ để cho thằng Samuel đi chu du thiên hạ. Có lẽ nó sẽ tìm kiếm lấy mạch vàng và trở về không phải là với hai bàn tay trắng. Rồi khi ấy, bà Olivia ạ chúng ta sẽ dự tiệc cưới...

- Ông Brand ông cũng nói thế ư? u già Olivia phản đối.

- Đúng như vậy, bác tôi trả lời, và tôi còn nghe thấy tiếng ông gõ mạnh cái tẩu thuốc Brazil vào thành lò bằng ngói. - Con Edith tóc quăn chả là vợ chưa cưới của thằng bé chúng ta đứt đi rồi còn gì? Ba năm nữa con bé vừa tròn mười tám tuổi. Lúc ấy thằng bé đã kiếm ra tiền và chúng nó mới có thể tính tới chuyện xây dựng tổ ấm được. Ồ bà Olivia ạ, chúng ta chưa kịp ngoái lại thì đã phải bế cháu rồi!..

Bác tôi cười ran hiền hậu.

Tôi không nghe tiếp được câu chuyện, nhưng những lời của bác đã ăn sâu vào lòng tôi, làm cho tôi thấy dễ chịu biết bao!

Bây giờ nhớ lại những lời lẽ ấy, lòng tôi thấy nhẹ nhõm và thanh thản.

U Olivia bước vào.

- Samuel, cậu có thư đây này.

Tôi bóc phong bì. Đứng bên cửa sổ, trong ánh sáng chập choạng của buổi hoàng hôn, tôi đọc những dòng chữ với nét cứng nhắc của cậu bạn Robert, rồi bất giác để rớt tờ giấy mép vàng dầy cộp ấy xuống sàn nhà Robert viết:

“Ông Pingle kính mến! Sau khi đã biết rõ mọi chuyện về người đỡ đầu ông, tôi cho rằng tự ông sẽ hiểu là cần phải xem lại một vài mối quan hệ cá nhân. Các bạncủa tôi cũng cho rằng chưa chắc từ nay về sau ông nên gặp lại chúng tôi trong bốn bức tường của trường trung học. Cũng cần phải hiểu rằng chuyến đi chung mà chúng ta đã dự kiến là dứt khoát không thành. Ông hãy nhận ở tôi sự đoán chắc và v. v. .

R. Smal