← Quay lại trang sách

Chương bốn ❖ I ❖

Hình như tôi đã nằm rất lâu trên chiếc chiếu cứng bằng sậy. Lưng tôi đau ghê gớm, khi cựa quậy tôi thấy đau đến nỗi không đám mở mắt ra. Mồm tôi đắng chát. Tôi thấy khuôn mặt giảo hoạt thô bỉ của Clips chấp chới trong bóng đêm màu tím, chiếc đèn chiếu phía sau một cánh gà vô hình, chiếu sáng khuôn mặt ấy và nó đang mỉm cười.

- Nhảy đi, Pingle, và chú mày sẽ lại vô địch...

- Tao không thèm! - tôi thét lên.

Vào đúng lúc ấy hai bàn tay mạnh mẽ nâng đầu tôi lên:

- Uống đi một hớp, Pingle. Này, tôi bảo, uống đi. Nước này ngon lắm...

Hai hàm răng tôi lập cập đánh vào đầu chiếc thìa sắt, tôi nuốt một thìa nước nóng có mùi hạnh nhân và nghệ. Khuôn mặt của Clips biến mất...

- Mở mắt ra nào, Pingle! - cái giọng nói hách dịch ấy lại ra lệnh.

Qua cánh cửa mở toang thấy hiện ra những ngọn núi màu ngọc lục bảo ở phía xa.

Chiếc giường tôi đang nằm được đưa ra cạnh tường, Milrois và một thiếu nữ cao mặc áo choàng trắng đang đứng bên cạnh.

- Pingle, anh thấy người thế nào? - Milrois hỏi, chạm tay vào tay tôi ở phía ngoài chăn.

- Đỡ rồi, - tôi khẽ trả lời mà vẫn không hiểu mình mê hay tỉnh. - Tôi làm sao thế? Dịch hạch ư?

- Không, chẳng qua là do cơ thể anh phản ứng với những mũi tiêm chủng chống “waba” và “mari” thôi. Pingle ạ, anh thoát rồi. Hai ngày nữa anh sẽ khỏe và có thể du ngoạn đến bất cứ một làng Nabukhatra nào nếu anh muốn.- Milrois mỉm cười và hướng về phía người thiếu nữ; - Có lẽ để Pingle ở lại chỗ chúng ta chứ? Cô nghĩ sao, cô Liz?

- Thưa giáo sư, chỗ chúng ta cũng không đền nỗi tồi, - Liz trả lời dịu dàng.

Milrois nói:

- Pingle, anh sẽ sống ở đây. Ông Hồ sẽ chăm sóc anh chừng nào anh còn chưa khỏe...

- Xin cám ơn giáo sư, - tôi chỉ nói được có thế.

Tôi đã tỉnh dậy như thế ở trạm nghiên cứu khoa học của giáo sư Milrois, nơi ông đưa tôi từ Nabukhatra đến.

Ông Hồ, người Trung-quốc, hiền lành và hết sức lễ phép, đã dọn cho tôi một bữa sáng rất ngon lành và rất đỗi ngạc nhiên khi thấy tôi nói với ông một vài câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ của ông. Từ đấy trở đi tôi đã chiếm được lòng tin của ông.

Hai ngày liền ông không rời tôi và chăm sóc tôi như chăm sóc một đứa trẻ. Qua ông tôi đã biết được một vài điều chi tiết về trạm.

Trạm nằm trên bờ sông về phía bắc Rangoon, ngay trên con đường dẫn tới cảng nằm trên bờ vịnh Bengal về phía tây biên giới Thái-lan. Ở đây người ta gọi Milrois là “giáo sư rắn”, bởi vì ông suốt ngày bận rộn trong phòng thí nghiệm với các loài rắn độc, và người ta còn cho ông là một người rất giàu.

Đến ngày thứ ba, tôi thấy mình hoàn toàn khỏe mạnh và đã có thể tìm hiểu sâu hơn chút nữa về trạm nghiên cứu khoa học.

Trạm gồm một ngôi nhà làm bằng đá, trong đó có phòng thí nghiệm và các phòng của giáo sư, ngoài ra là một số nhà lá, cô Liz, phụ tá của giáo sư, anh lái xe người bản xứ và một vài người hầu Trung-quốc sống ở đấy. Sau những bức tường cao là một vườn cây nhiệt đới phong phú, ở đây giáo sư nuôi đủ các loài rắn độc.

- Anh Pingle ạ, tôi đang nghiên cứu các nọc rắn, - Milrois nói với tôi khi ông đưa tôi vào trong vườn. Tôi nghĩ rằng có thể sử dụng nó để chữa một sổ bệnh lây truyền, nhưng cái chính là những nọc rắn chúng ta đang khai thác ở đây dùng vào việc chế tạo những thuốc chống rắn cắn, chống những loại rắn độc mà anh đang thấy ở trước mắt...

Chúng tôi đi theo những con đường nhỏ mà hai bên đặt những dẫy lồng nuôi rắn có những chấn song sắt nhỏ.

- Bởi vì hàng năm ở Ấn-độ hơn một nghìn người chết vì rắn cắn, còn như ở Brazil thì số người bị rắn cắn có tới gần hai mươi bốn nghìn người. Thực ra, cách đề phòng tốt nhất là phát động phong trào diệt rắn, nhưng khi con người đã bị rắn cắn rồi thì phải cứu họ bằng cách tiêm chủng...

Vườn của “giáo sư rắn” làm cho tôi ngạc nhiên. Một phần vườn trồng các loại cây cối, có đường lối đi lại, có các bồn hoa và các hồ chứa nước. Nước ở những hồ chứa ấy tràn ra chảy ào ào thành những dòng thác. Ở đây cô Liz đã chỉ cho tôi xem nhiều loại hoa và cây cỏ mà tôi mới chỉ được nghe nói đến trong những giờ thực vật học. Trước đây tôi đã được thấy chuối và dứa, nhưng chỉ đến bây giờ mới biết rằng lá dứa cho những sợi tơ rất tốt để dệt vải, và chính chiếc áo cánh của ông bếp Hồ là may bằng loại “vải dứa”.

Tôi rất thích giống “cây của những người du lịch” Ở công viên có một con đường hai bên trồng toàn loại cây này, đỉnh của loại cây cao ấy trông như một cái quạt lớn gồm những lá dài xếp thành hai hàng giống như lá cọ. Nhưng đây không phải cọ, nó là cây thuộc họ chuối. Không khí trong công viên thơm ngát như trong một cửa hiệu bán hương phẩm. Các loại cây nhiệt đới như gừng, đậu khấu, vani mọc rậm rịt. Những cây lan to lớn kỳ dị với những bông hoa có hình dáng lạ lùng tỏa hương thơm ngào ngạt như cả ngàn lọ nước hoa hảo hạng đã mở nút khiến ai cũng phải say mê ngây ngất. Hóa ra cây vani cũng thuộc họ lan. Trước đây tôi chưa biết điều này. Tôi lấy làm thú vị khi thấy những quả ca-cao mọc trực tiếp từ thân cây ra chứ không phải là ở cành. Đó là một loại cây nhỏ có lá màu xanh thẫm. Những quả chín có màu đỏ hay màu da cam, to hơn quả dưa chuột một chút. Trong ruột nó có nhiều hạt. Chính nó là cây ca-cao, mà người ta dùng để chế ra dầu ca-cao, bột ca-cao và chocolate. Trước thời Columbus, nhân dân vùng trung Mỹ đã dùng hạt này để chế biến đồ uống và gọi nó là “chocolatl”. Từ đây mới có tên gọi “chocolate”.

Một phần của công viên là mảnh rừng nhiệt đới vẫn giữ nguyên ở dạng hoang dã nguyên thủy. Ở đấy có rất nhiều cây họ dừa và không có một cây lá nhọn nào. Những cây họ dừa là nguồn phúc lợi của dân địa phương. Những loại như chà là, dừa vừa dùng làm món ăn, vừa dùng làm vật liệu xây dựng và làm sợi dệt vải. Trong bài trường ca Ấn-độ “Braharaj” có nói tới hơn ba trăm năm mươi cách sử dụng những loại cây này. Tôi đã được thấy những cây họ dừa có rễ trên không, những cây nhục đậu khấu, mộc lan, nhiều loại nguyệt quế, dứa sợi và yuccas, Những cành dây leo dài ngoặc từ cây nọ sang cây kia đã tạo ra những khoảng rậm rạp không thể đi qua được. Ở đây lúc vào cũng vang lên tiếng kêu của bầy khỉ đang nhảy qua nhảy lại trên các cành cây và tiếng hót líu lô của đủ mọi giống chim.

Cây thắt cổ Bengal thuộc họ fikuso đã gây cho tôi một ấn tượng đặc biệt sâu sắc. Loài chim tha hạt của chúng đi rồi để lại trên các cành cây. Và thế là thoạt đầu nó mọc trên một cây khác, không động chạm gì tới đất, giống như thỉnh thoảng vẫn thấy những cây bạch dương mọc trên những đống hoang tàn đổ nát. Sau đó từ thân của nó xuất hiện những rễ dài trên không. Chúng uốn cong lại rồi khuýu từ trên xuống dưới như những con rắn to. Khi chạm tới đất, chúng bám chặt vào đấy và trở thành những trụ vững chắc chống đỡ cho cả một vòm cây khổng lồ. Cây mà lúc đầu cho hạt của nó sống nhờ bị mục nát đi, và chỉ còn lại một sản phẩm thực vật to lớn tới mức người ta có thể dựng dưới vòm của nó đến mấy cái nhà tranh cũng được.

Thoạt đầu chẳng có dấu hiệu gì chứng tỏ ở đây đang ẩn náu nhiều mà nguy hiểm chết người. Thật là thú vị biết bao khi được chiêm ngưỡng cái đẹp trang nghiêm của cây cối và sự lộng lẫy của hoa cỏ trong cái lặng lẽ tuyệt diệu này.

Nhưng trong đám cây cỏ ấy đầy rẫy những ổ rắn, đủ mọi loại rắn trên đời.Có loại bò trên cây, có loại bị nhốt trong lồng. Những loại còn lại thì bị quây sau những hàng rào và người ta có thể tha hồ quan sát chúng.

Milrois đề nghị tôi làm người canh gác trong công viên. Tôi nhận lời. Chính ông đã một vài lần chỉ báo cho tôi cách trông coi những con vật thuộc loại bò sát này.

Milrois, cô Liz và tôi đi ủng cao-su cao cổ và mỗi người cầm một cái gậy đặc biệt có chạc ở đầu. Giáo sư luồn vào những chỗ cỏ cây mọc rậm rạp như một người đi săn hăng hái. Cần phải sục sạo dưới những tảng đá, tìm cho ra ổ của rắn rồi nhử chúng ra ngoài. Người ta dùng gậy có chạc chịt đầu rắn xuống đất và khi nó đã cuộn khúc lại thì tóm chặt lấy cổ nó rồi ném vào túi vải bạt. Giáo sư làm tất cả những việc ấy rất khéo léo. Cô Liz làm không kém gì ông. Tôi cũng không muốn tỏ ra mình là một thằng hèn. Giáo sư lấy làm thích thú khi thấy ngay từ buổi đầu tiên bắt những loại rắn sinh sôi nảy nở tự do ngoài công viên tôi không tỏ ra sợ hãi.

Tôi đã bắt được hai con rắn màu đỏ nhạt nhưng rồi vẫn cố lôi bằng được con thứ ba từ dưới một phiến đá ra.

- Pingle, anh đã đụng vào ổ rắn deliophis đấy, - cô Liz tiến gần lại phía tôi nói.

- Thưa cô, tôi vẫn chưa hiểu hết ý cô, - tôi trả lời lễ phép và nhìn thẳng vào cặp mắt đen lóng lánh của cô.

- Loại rắn deliophis chính cống đấy, - cô Liz mỉm cười dịu dàng. - Thế anh không sợ ư?

- Sợ à? Theo tôi, sự sợ hãi là một tàn dư cản trở con người đấu tranh chống thiên nhiên - tôi khiêm tốn trả lời cô Liz, nhắc lại những lời lẽ mà “Người sai khiến linh cẩu” đã nói trước đây.

❖ II ❖

Cô Liz đã giúp đỡ tôi làm quen với nhiệm vụ đặc biệt của tôi. Sáng nào ông Lý một người Trung-quốc nhỏ bé và tháo vát, quét dọn những đường đi trong công viên, sau đó chúng tôi tìm bắt những loại rắn mà giáo sư đã chỉ định rồi đem những của quý đang kêu rít rít trong các giỏ kín ấy vào phòng thí nghiệm. Ở đây, theo tôi hiểu, giáo sư Milrois và cô Liz lấy nọc rắn và chế biến chúng bằng một cách nào đấy. Hàng tuần có một chiếc xe vận tải từ Rangoon đến và chở đi những hòm đựng những ống thuốc bằng thủy tinh đã được bọc lại cẩn thận. Trên các hòm đều có ghi địa chỉ của nơi nhận, đó là những công ty sản xuất chất pha chế thuốc của Mỹ.

Có lần tôi mang vào phòng thí nghiệm cả một giỏ đầy những rắn lachesis. Giáo sư thân mật gật đầu chào tôi.

- Anh Pingle ạ, chúng tôi vừa nói với nhau về anh xong. Tôi nói với cô Liz rằng anh là một người sáng dạ và dũng cảm.

Người thiếu nữ đang dùng cặp để xem xét mồm một con rắn con mà cô đang tóm chặt ở bên tay trái.

- Anh Pingle, anh có thấy rằng anh cần phải tìm hiểu sâu hơn chút nữa về những cư dân đang trú ngụ trong công viên không? - cô hỏi.

- Tôi mong muốn hết sức! - tôi sôi nổi trả lời.

- Anh Pingle, cô ấy sẽ giảng cho anh một số bài, - giáo sư nói - Có lẽ trong những giờ sinh vật ở trường trung học của vương quốc người ta chỉ nói đến bọ cánh cứng và bươm bướm thôi nhỉ? - ông nhếch miệng cười.

- Tôi đã tốt nghiệp đệ nhất cấp ở Dijan, - tôi nói với vẻ hãnh diện.

- Càng hay - giáo sư tán thưởng, - cho dù ở đấy đi nữa thì tôi vẫn nghĩ rằng anh ít được nghe nói tới các loại rắn.

Sáng hôm sau cô Liz đến công viên và hỏi:

- Anh Pingle, các lồng đã sẵn sàng chưa?

- Ồ, sẵn rồi chứ, thưa cô! Xin chào cô.

- Hôm nay chúng ta học bài đầu tiên, - người thiếu nữ nói giọng nghiêm khắc.

- Chúng ta hãy đi về phần phía nam công viên.

Chúng tôi đi trên những con đường rộng trải cát và chan hòa ánh nắng mặt trời. Những chiếc lá cứng cong của loại cây xương rồng nằm phơi mình trên những tảng đá nóng phủ đầy địa y màu hồng và màu xanh da trời. Cô Liz dừng lại cạnh một tảng đá.

- Chúng ta phải loại ra khỏi công viên tất cả những con rắn mussuran đã lớn. Chúng sinh sôi nảy nở nhiều quá, tới mức chẳng bao lâu nữa chúng sẽ ăn hết sạch những con rắn lachesis của chúng ta. Tôi sẽ bảo anh cách bắt những con rắn này. Chúng không độc nhưng có thể cắn người. Những chất do các tuyến nhỏ của chúng bài tiết ra có thể có thể làm dung môi để cô đặc các loại nọc độc khác.

Liz đi đôi găng chống rắn vào với vẻ thành thạo và nhanh chóng vần tảng đá sang bên. Những con rắn ẩn náu ở phía dưới kêu rin rít.

Một tiếng rưỡi đồng hồ săn bắt rắn trong công viên, chúng tôi tóm những con mussuran bụng trắng hếu, thân màu nâu nhạt và bỏ chúng vào những chiếc lồng làm bằng sậy. Sau đó chúng tôi trao lại cho ông Lý đem đi giết.

- Anh Pingle ạ, hãy nhớ lấy tên các loại rắn, - cô Liz nói. - Hãy quan sát những thói quen của chúng. Rất đáng tiếc là ở trường học người ta không dạy khoa học về các loài rắn...

Phải, giáo sư đã nhận xét rất đúng là trong các giờ học người ta chỉ nói với chúng tôi về các loại bướm và bọ cánh cứng. Tôi vẫn còn nhớ một vài điều về các loại bọ ký chuyên tìm diệt sâu đo, và về những con bọ thuộc họ niềng niễng kim sống bằng những ấu trùng muỗi. Tôi biết rằng bọ thuộc họ cánh cứng chuyên tiêu diệt các ấu trùng ruồi, còn bọ thuộc họ elaterido có đặc điểm là nếu lật ngửa chúng lên thì chúng khôn khéo lật sấp trở lại để rồi lại đứng vững trên sáu chân của chúng. Tôi cũng được nghe nói đến những loại bọ anobido làm hại gỗ và loại bọ khi gặp nguy hiểm thì cuộn tròn lại như một viên đất nào đấy.

Nhưng về rắn thì... Càng nghe cô Liz giảng giải tôi càng khâm phục những công trình nghiên cứu về các loài rắn. Liz là một cô giáo kiên trì, nhẫn nại; và lại một lần nữa tôi cảm thấy mình như cậu học sinh ở Ashworth hồi nào.

- Kìa, một con rắn nhỏ màu vàng đang nằm cuộn tròn trên cát. Cô Liz nhẹ nhàng dùng cái que bằng thủy tinh chịt lấy nó, con vật há miệng ra, ở giữa hai hàm răng nhỏ là cái lưỡi bổ đôi đang thè ra run rẩy như cái mạng nhện đung đưa trước gió. Cặp mắt giảo hoạt của nó chứa đựng một sự độc ác bí ẩn. Liz nói:

- Anh Pingle ạ, chúng ta hãy nhắc lại những kiến thức chủ yếu. Tên gọi khoa học chung của rắn là gì?

- Ophidia.

- Đúng rồi. Chúng là...

- Một bộ thuộc lớp reptilia hoặc còn gọi là lớp bò sát.

- Đúng đấy. Thuộc ngành dây sống. Một đặc điểm của rắn là không có chân. Người ta chia chúng ra thành một vài họ: họ trăn, họ rắn nước, họ rắn viper. Con rắn trước mặt chúng ta là rắn gì đây? Thế nào, anh Pingle...

Vừa xấu hổ vừa ấp úng như cậu bé học sinh lớp một, tôi trả lời:

- Đây là con rắn non thuộc họ rắn nước. Hàm dưới của chúng cố định và đưa về phía trước. Về mặt hình thức và vị trí răng thì loại rắn này thuộc nhóm có rãnh sau...

- Tốt lắm, - cô Liz cổ vũ. Cô tóm lấy con rắn con rồi dùng que mở miệng nó ra. - Hãy xem đây này, anh Pingle. Người ta cũng còn có thể gọi những con rắn thuộc nhóm này là rắn độc. Anh có thấy cái ống tuyến bài tiết ở môi trên không? Chất do tuyến ấy bài tiết ra rất độc, nhưng răng của con rắn này cũng như của cả nhóm phân bố rất xa và trên thực tế chúng không thể cắn được thậm chí và chỉ khi nào ta đút ngón tay út vào miệng chúng thì chúng mới cắn được.

Tôi cho phép mình trả lời cô một cách thẳng thắn:

- Mà cũng chẳng ai dại gì làm như vậy...

Sau gần một tháng rưỡi học tập cô Liz thân ái nói với tôi.

- Anh đã tiến bộ rất nhiều. Tôi sẽ rất sung sướng được báo tin này cho giáo sư biết.

Ở công viên của “giáo sư rắn”, tôi đã hiểu được rằng việc trực tiếp quan sát động vật quan trọng biết bao nhiêu. Rắn... Theo lời cô Liz, có đến một nghìn rưỡi loại. Chúng là một nhánh của bộ thằn lằn, trải qua thời gian hàng triệu năm chúng đã quen bò bằng bụng và nuốt những con mồi rất lớn. Vì vậy những chi không cần thiết của chúng đã teo đi. Còn khả năng nuốt những con mồi lớn của chúng thì đã được xác lập cố định. Không những hàm dưới của rắn mà cả những xương khác ở phần dưới của sọ đều rất linh động. Do đó chúng có thể há miệng rộng tới mức làm ta tưởng như miệng quá lớn so với đầu.

Có điều rất thú vị là những mí mắt của rắn không di động. Chúng trong suốt, nối liền với nhau và che cặp mắt của rắn đi giống như mặt kính trên chiếc đồng hồ. Có lẽ điều đó đã làm cho cái nhìn của rắn có sắc thái đặc biệt ghê tởm chăng?

Tôi đã quen với các loài rắn tới mức nếu như có nằm mơ thấy một đàn trăn thì tôi cũng chẳng ngần ngại gì mà không lao vào chiến đấu với chúng. Tôi đã hiểu biết tường tận những thói quen quỷ quyệt của loại trăn lùa thường rình bắt người trên những bãi cát ở sa mạc. Tôi cũng biết rõ cả những thói quen của loại rắn bay, chúng thường leo lên các cành cây rồi từ đấy lao thẳng vào con mồi như một mũi tên bắn. Tôi đã học quan sát những loại rắn lục, rắn hổ mang màu sặc sỡ và nhím Úc màu đen, nghĩa là tôi đã học quan sát những kẻ thù nguy hiểm nhất của con người. Không một Ancistrodon halys nào có thể trốn thoát tôi vào trong cỏ, còn rắn hổ mang thì tôi có thể phân biệt được chúng từ ở xa bốn mươi fut.

Có một lần ông bếp Hồ phàn nàn rằng lũ chuột ngô vào làm tổ trong kho và phá hại thực phẩm của ông. Giáo sư ra lệnh bắt mười con rắn yigshu ở công viên về. Ông Lý rũ chúng ra khỏi giỏ ở trước cửa bếp, con nào cũng gầy còm như một chiếc dây lưng và dài một mét rưỡi. Chúng nghiêng ngó xung quanh rồi từ từ bò vào trong kho để thực phẩm dự trữ của chúng tôi. Chúng khéo léo leo lên theo những bậc thang và chỉ một lát sau đã năm yên trên gác lửng như từ xưa tới nay chúng vẫn từng sống ở đấy.

Ban đêm tôi đi tuần một lượt quanh công viên, nhưng ông bếp người Trung-quốc gọi tôi vào trong bếp. Ở đấy tôi nghe thấy những tiếng rít khàn khàn. Đó là tiếng rít của những con rắn yigshu, loại rắn bắt chuột giỏi có một không hai, đang ăn no nê.

Buổi sáng, khi cùng tôi leo lên gác lửng, giáo sư nói:

- Không một con mèo nào có thể bì được với rắn yigshu. Anh Pingle, hãy quan sát cho kỹ...

Những con yigshu đang nằm dài người trên gác lửng. Nhưng đó không còn là những con rắn con gầy còm da bọc xương như trước đây nữa mà là những con rắn to mập, bụng ních đầy chuột, đang nằm ngủ với vẻ thỏa mãn. Sau khi yigshu đã ăn no nê thì không còn sức mạnh nào trên đời này có thể đánh thức chúng dậy được. Chừng nào yigshu còn chưa tiêu hóa hết thức ăn thì chúng còn ngủ. Phải đợi cho đến khi chúng tỉnh dậy, và lúc ấy có thể đem chúng đến một nơi khác có nhiều chuột. Nơi nào yigshu đã từng ở thì ít nhất phải nửa năm sau chuột mới dám bén mảng đến.

Bác Lý bắt những con rắn đang ngủ cho vào giỏ, còn ông bếp Hồ thì kể với giáo sư về chuyện trước đây ông đã giúp việc một nhà truyền đạo người Pháp ở Cambodia và lũ chuột ngô đã tổ chức tấn công vào căn nhà ở của cha cố như thế nào. Lũ chuột đã ăn sạch mọi thứ dự trữ trong nhà, toàn bộ tủ sách, giầy dép và gặm nát bốn chân giường, còn nhà truyền đạo thì nằm treo mình trên võng một tuần, chịu nhịn đói nhịn khát và cố quan sát xem lũ chuột ngô quỷ quái ấy đang đục khoét gì trong nhà mình.

Giáo sư nói:

- Thế đấy, nếu trong tay không có những con yigshu hoặc ít ra là một con mèo tốt.

Những nhận xét của cô Liz về sự tiến bộ của tôi đã khiến giáo sư nói với tôi:

- Cần phải tìm một người khác canh gác thay anh, còn đối với anh thì tôi sẽ chỉ bảo để làm quen dần với công việc ở phòng thí nghiệm.

Tôi mặc vào người chiếc áo choàng trắng của phòng thí nghiệm mà trong lòng thấy phấp phỏng lo âu.

- Anh Pingle ạ, anh nhất định sẽ trở thành một nhân viên thí nghiệm thạo việc - giáo sư nói, - chỉ cần anh tuân theo một nguyên tắc hết sức quý giá sau đây: “sạch sẽ và thận trọng trước hết”. Tự tôi sẽ dạy anh. Có thể là anh sẽ thấy chẳng thua kém gì so với chương trình đệ nhị cấp ở trường Dijan...

Milrois cũng như mọi người ở trạm đối xử với tôi rất tốt. Giáo sư đã ít nhiều dạy cho tôi làm quen với kỹ thuật thí nghiệm. Tôi đã hiểu rõ rằng tất cả những nọc độc của rắn, căn cứ vào tác dụng của nó lên cơ thể người, chia ra làm hai loại: một loại làm tê liệt hệ thống thần kinh, loại thứ hai gây hoại thư đối với các mô.

Trong phòng thí nghiệm chúng tôi kiểm tra độ mạnh của nọc độc trên cơ thể chuột lang, ngoài công việc này ra, giáo sư nghiên cứu riêng trong phòng làm việc của mình, và tôi được giao trách nhiệm chuẩn bị cho ông những ống nghiệm và những bình cầu sạch.

Tôi đã biết cách chuẩn bị những dung dịch không phức tạp lắm và mong đợi đến ngày người ta tìm được người gác vườn mới thay tôi, giáo sư sẽ chuyển hẳn tôi lên làm ở phòng thí nghiệm.

❖ III ❖

Mọi việc đều tốt đẹp. Trong khi trên đầu tôi đang mở ra bầu trời rộng lớn không gợn mây thì bỗng nhiên một tai họa giáng xuống tôi.

Những con rắn hiếm nhất - những con jirr dài hai fut cứ biến mất dần khỏi công viên. Milrois đã mua những con rắn ấy của dân địa phương, mỗi con phải trả mấy paise, rồi đem thả vào công viên. Như mọi người đều biết, loài rắn này sống trong những bụi cây trên sườn phía đông của dãy Himalaya. Giáo sư không thể nào tự mình đi xa như thế được, còn những người dân địa phương thì không hiểu đã dùng mánh khóe gì mà tuần nào cũng đến được đấy để bắt rắn này rồi lại quay trở về, đến nỗi nếu cứ suy nghĩ kỹ thì thấy việc ấy thật là kỳ quặc. Vì vậy giáo sư Milrois rất quý những con jirr. Nọc đã cô đặc của rắn này cũng như của rắn lachesis có thể giữ được hơn hai mươi năm mà không mất đặc tính làm chết người của nó - có thể giết chết người trong vòng từ năm đến bảy giờ. Những thuốc giải độc mà giáo sư chế tạo ra từ những nọc độc của loại rắn này có thể cứu con người thoát khỏi cái chết trông thấy. Do đó “giáo sư rắn” hết sức chăm lo tới loại rắn độc này. Thế mà rắn jirr bắt đầu bí mật biến mất cứ như chúng đã chui tụt xuống đất vậy. Tôi đã đi xem xét tất cả những hang ổ và kẽ nứt trong công viên mà tôi biết. Có lẽ những con jirr đã đào đang ở ngầm dưới đất chăng? Nhưng điều ấy, như cô Liz khẳng định, không phải là thói quen của chúng. Tôi đã xem lại kỹ lưỡng toàn bộ hàng rào. Tôi đã trải cát mới trên những con đường, nghĩ rằng sáng ra sẽ thấy được vết bò của những chú tù binh của chúng tôi. Không thấy gì vết. Tôi đã báo cáo tất cả những việc này cho giáo sư biết.

Tôi hết sẽ ngạc nhiên khi thấy giáo sư giận điên lên. Ông mắng mỏ tôi như thể chính tôi đã bắt trộm rắn của ông để ăn lên ăn bữa cơm chiều hoặc đem muối dự trữ như những bà nội trợ ở Ashworth vẫn thường muối cá lamprey vậy.

Buồn rầu và chán nản tôi đến hỏi ý kiến cô Liz. Cô khuyên tôi nên theo dõi những người Trung-quốc, nhưng đối với tôi họ chẳng có gì đáng nghi ngờ cả.

Kẻ trộm! Đối với tôi việc này đã là hiển nhiên khi mười hai con jirr lớn nhất biến khỏi công viên trong một đêm ấm áp không có trăng sao. Buổi sáng, lúc mặt trời vừa chiếu những tia sáng đầu tiên thì tôi nhận thấy những dấu chân người đi đất in trên lớp cát mới trải trên một trong những con đường ở phía cuối công viên.

“Chà, - tôi nghĩ - Được, ta sẽ không báo cáo việc này với ông giáo sư đang bực tức và người phụ việc của ông vội, ta sẽ rình bắt và tóm lấy cổ áo thằng ăn cắp mà lôi đi. Hãy để cho “giáo sư rắn” biết rõ ai là kẻ đã sống bằng rắn độc của ông”.

Ra khỏi công viên, tôi đã đi điều tra tỉ mỉ, xem xét từng li từng tí chỗ tường mà theo tôi, tên kẻ cắp nào đó đã leo qua. Cách chỗ đó không xa là con đường đi Rangoon chạy qua. Từ con đường lớn ấy có một con đường mòn duy nhất chạy lượn về một phía và dẫn thẳng tới chân tường của công viên. Việc này quả là đã trở nên hết súc thú vị.

Buổi tối, khi cả trạm đang chìm đắm vào giấc ngủ thì tôi đã chuẩn bị một cái gậy tre lớn, đi đôi ủng cao-su mỏng mà thường tôi vẫn phải đi để lội vào các bể nước bắt những con rắn đang bơi, kiểm tra lại đèn pin, bỏ vào túi quả đấm sắt mượn của ông Hồ và sau khi đã đóng cả cửa lớn lẫn cửa vườn, tôi quyết định phải làm sáng tỏ điều bí ẩn.

Tôi căng mắt ra và rình mò suốt đêm. Tôi đi đi lại lại men theo những chân tường quanh công viên nhẹ nhàng và thận trọng tới mức ngay cả những con rắn boomslang ở châu Phi, loại rắn tinh khôn nhất trên đời, cũng phải ghen tức. Nhưng chẳng xảy ra chuyện gì hết. Đến sáng tôi đếm lại những con jirr. Tất cả vẫn nguyên vẹn. Thế là đã bốn đêm liền tôi canh gác trong công viên, tôi đã tưởng tượng thấy cảnh tôi đập gậy vào lưng tên ăn cắp như thế nào, nhưng hắn vẫn chưa xuất hiện.

Đến đêm thứ năm tôi nghe thấy những tiếng lào xào nhè nhẹ, hoàn toàn không giống tiếng bò sột sột của rắn amcstrodon halys hoặc tiếng phun của rắn hổ mang. Rắn đều đã ngủ cả, giờ này chúng chẳng lần mò vào trong bụi làm gì.

Chân đi ủng cao-su, lẹ làng như một con mèo con, tôi lẻn về đằng chân tường phía đông thật đúng lúc. Bóng một người mang túi sau vai leo lên tường, nhưng tôi đã tóm lấy bàn chân không đi giầy của tên kẻ cắp và giật ngược trở lại phía công viên.

- Nằm im, đồ quỷ, không được nhúc nhích! - tôi nói thì thào. - Trước khi nện cho mày một trận tao muốn xem mặt mũi mày ra sao đã.

- Vì chúa, xin anh tha tội cho tôi, - một giọng rên rỉ cất lên trong bóng tối. - Tôi xin thề với anh rằng đã bốn ngày nay tôi chưa ăn uống gì...

Qua ánh sáng đèn pin tôi trông thấy rõ bộ mặt trắng bệch đầy vẻ luống cuống.

Thoạt đầu chính tôi cũng lúng túng, nhưng khi đã nhìn kỹ bộ mặt tên ăn cắp thì tôi lại càng cảm thay mình giận điên lên.

- Đừng có bịa chuyện, - tôi nói rít lên qua hai hàm răng nghiến chặt. - Có đến một tuần nay mày ăn cái gì thì cũng không can gì đến tao. Mày lẻn vào đây bằng cách nào và để làm gì?

Tên ăn cắp im lặng, hắn thở dài nặng nề hình như hắn đang lấy làm hối hận.

- Mày làm cách gì để bắt được rắn jirr? Mày là ai?

- Là ai mà chẳng được, - tên ăn cắp trả lời. - hãy thả tôi ra. Tôi sẽ nhớ ơn anh.

Tôi cười khẩy.

- Không đời nào! Đồ quỷ tha ma bắt, lại một lần nữa tao gặp mày trên đường đời! Tao đã nhận rõ cái bộ mặt gớm ghiếc của mày.

- Chẳng lẽ nào?

- Phải. Ở Bell Harbor mày đã thua cuộc tao rồi bỏ chạy nhục nhã để ăn quịt một dollar nhưng tao đã tìm dược mày ở cái nơi cùng trời cuối đất này, và bây giờ thì chúng ta phải thanh toán với nhau cho xong.

Đúng, đó chính là cái anh chàng đã nỡm tôi bằng những câu chuyện bịa đặt về nhà quán quân Black Snake. Bây giở thì hắn lại đang cầu khẩn van xin tôi:

- Xin anh đừng đè đầu gối lên ngực tôi nữa. Tôi khó mà chịu đựng nổi thân hình nặng một trăm pound* của anh...

- Mày đã bắt trộm rắn jirr bằng cách nào? - tôi vừa đè hắn tra hỏi. - Đưa đôi găng tao xem.

- Tôi bắt rắn bằng tay không, thề có trời có đất...

- Mày nói thế mà nghe được à, - tôi trả lời, vì còn lạ gì những thói quen của loại rắn độc này.

- Tôi thề sẽ kể lại hết mọi chuyện. Chỉ xin anh đừng đè tôi. - hắn nói lắp bắp.

- Đưa vũ khí đây, - tôi ra lệnh.

- Đây, vũ khí của tôi đây.

Qua ánh sáng đèn pin tôi nhìn thấy mười ngón tay trần của tên ăn trộm. Bây giờ tôi mới khoan dung cho phép:

- Cho anh đứng dậy và kể đi. Nhưng chở có động đậy gì, nếu không tôi bắn đấy.

Kẻ ăn cắp lầm bầm xin lỗi.

Câu chuyện thật là thú vị, vì thế tôi không muốn báo động ngay cho mọi người biết. Tôi tò mò muốn tìm hiểu một con người gan dạ dám tính tới chuyện ăn trộm rắn độc và lại còn liều lĩnh, đi chân đất trong công viên của chúng tôi vào lúc đêm khuya.

Vừa thở phì phò hắn vừa ngồi xuống một tảng đá. Túi đựng rắn jirr nằm yên lành dưới chân chúng tôi. Dù sao tôi cũng vẫn không rời gậy khỏi tay.

- Tôi không biết kể, - hắn rầu rĩ nói thì thầm và thận trọng, hình như sợ người ta nghe trộm lời hắn. - Tên tôi là Vandock. Hiện đang không có việc làm, và tôi ăn cắp vì đói.

- Thế trước đây? - Tôi hỏi.

- Trước đây à? Suốt đời tôi sống phiêu dạt lang thang khắp thiên hạ. Với tôi, những ngày vui là khi tôi lần mò trên những con đường rừng từ Panama đến Zanzibar và miền Trung Phi. Tôi đã từng săn sư tử ở Ugogo và săn vượn gorilla ở đảo Celebes. Số phận đã ném tôi từ New York đến Macau và ngược lại. Sau khi rời Bell Harbor tôi cắm neo ở Rangoon. Xin anh cho phép tôi không phải nói tới những nguyên nhân đã khiến tôi đi lang thang đây đó. Nhưng, như một ngạn ngữ của những người Ấn-độ đã nói, “với người thông thái một lời nói bóng cũng là đủ”. Nhân thể, tôi muốn hỏi xem trong túi anh còn sót mẩu bánh mì nào không. Tôi đã quên mất mùi vị của nó trong bốn ngày nay rồi... Không ư? Thôi được. Thế đấy, nếu trên thế giới này có một con người khỏe mạnh mà không việc làm thì nó rất có thể phải nghiên cứu những thói quen của rắn, miễn là việc ấy cho nó cái khả năng kiếm được miếng ăn nóng hổi hàng ngày. Sự thể là như vậy đấy. Năm ngoái tôi mang vali thuê cho những nhà địa chất trong đoàn thám hiểm của vương quốc ở Himalaya và ở đấy tôi nhận thấy rằng đêm đêm những con jirr khốn kiếp này rúc vào các bụi cây ngủ lặng lẽ như tất cả mọi con vật hiền lành khác. Thì ra trong bóng đêm chúng cũng ngoan ngoan như lũ cừu, và hoàn toàn không cắn người. Những nhà địa chất đi qua Bombay trở về vương quốc, họ để tôi ở lại đi lang thang trên các phố phường. Đối với một người thất nghiệp thì phố phường của bất cứ thành phố nào cũng thế thôi. Tôi đã phải trải qua biết bao nhiêu thử thách. Tôi đã học nghề cắt tóc và thực tập cắt trên đầu ông chủ mãi cho tôi lúc vô tình xén đứt một một phần tư tai ông ta mới thôi. Cũng thật dễ hiểu là sau đó tôi đã phải nằm dài suốt ngày bên những hố rác ngoài thành phố và khạc nhổ vì bị gẫy răng. Tôi đã làm thuê cho một người buôn dầu và học nói tiếng Ba-tư. Số phận đã giễu cợt tôi quá độc ác. Nhưng tôi kể với anh tất cả những điều ấy để làm gì nhỉ? Người no hiểu sao được kẻ đói. Tên buôn dầu làm sao thưởng thức được mùi xạ hương? Dù sao tôi cũng xin cám ơn anh vì đã không đập bể đầu tôi ở bên chân tường. Còn bây giờ thì anh hãy gọi mọi người dậy và nhốt tôi vào một chỗ cho tới sáng. Chỉ có điều là trước tiên hãy cho tôi ăn đã, rồi mai sẽ giải tôi lên tòa. Làm thế nào được, rủi quá! Thằng ngu đi săn, và rồi thì chính hắn lại bị bắn chết. Tôi mệt mỏi vì cuộc đời chó má này lắm rồi. Cứ treo cổ lên là tốt nhất.

Lòng tôi bỗng dưng thấy cảm thông với hắn, tôi nói với nhà thông thái ấy:

- Tôi chỉ tin vào điều tôi thấy, chứ không tin vào điều tôi nghe. Hay diễn lại những trò quỷ thuật của anh cho tôi xem.

Vandock đã không nói dối. Quả thực hắn biết rất rõ những thói quen của rắn jirr. Ban ngày chúng dữ tợn, nhưng cứ tối đến là trở nên hiền lành và ngủ im thin thít.

Trước mắt tôi, Vandock xục hai bàn tay trần trụi vào các bụi cây bắt rắn độc jirr đơn giản như hái nấm, rồi hắn lặng lẽ nhét chúng vào túi như nhét những con chó con mới đẻ. Đúng, bất kỳ ai cũng phải kiếm lấy cho mình mẩu bánh mì như số phận đã định.

Cái túi vải bạt của Vandock ních toàn rắn như áo gối nhét đầy rơm rạ vậy.

- Thôi anh bạn thân mến ơi, bây giờ thì xin anh thả rắn ra cho, tôi lạnh lùng nói với Vandock. - Tôi tha cho anh một dollar và còn thêm cho nửa rupee nữa. - Tôi móc túi lấy ra một đồng tiền - Hãy cuốn xéo khỏi đây với điều kiện là không bao giờ được bén mảng đến công viên nữa.

- Ô không, - Vandock cười. - “Giáo sư rắn” cũng sẽ chẳng phá sản vì mấy paise mà ông trả cho tôi để mua rắn. Ngoài ra tôi không đụng đến một xu nhỏ trong số tiền lương ít ỏi của anh. Chừng nào vận may còn chưa đến với tôi thì tôi sẽ còn trèo vào đây...

Hắn nói những lời ấy với vẻ thật thà và nhũn nhặn khiến tôi đâm thương hại hắn.

Nếu tôi không động đến túi rắn của hắn thì ngày mai hắn sẽ bán rắn cho giáo sư thông qua lũ trẻ con hắn mướn rồi hắn sẽ ra hiệu ăn và ăn bữa đầu tiên sau bốn ngày nhịn đói. Nếu tôi kêu ầm lên, hắn sẽ không thoát khỏi cảnh tù tội.

Tôi là kẻ quyết định số phận của Vandock. Tôi cần một đáp số cho bài toán. Thả hắn ư? Nhưng ngộ thằng quỷ ấy vẫn cứ tiếp tục những chuyện thăm hỏi kiểu này thì ông chủ sẽ phạt tôi vì để mất mát tài sản mà ông trao cho canh giữ.

- Anh sẽ không tiếc, anh bạn tốt bụng ạ, nếu sẽ có lúc anh còn trò chuyện với tôi, - vốn với cái giọng buồn phiền như trước Vandock cắt ngang những suy nghĩ của tôi. - Nói thật với anh, những con rắn ấy là nguồn sinh sống của tôi. Xin anh cho phép tôi không phải xa rời chúng. Thực ra, đối với giáo sư tổn thất này chẳng đáng là bao... Thu xếp được công ăn việc làm xong là tôi sẽ chấm dứt ngay cái việc trộm cắp đốn mạt ấy.

Trong giây phút đó tôi đã hồi tưởng lại rất nhiều điều. Tôi nhớ lại rõ ràng nỗi khổ sở vì đói khát của chính bản thân mình, nó càng giống y hệt cánh khổ sở của tên Vandock ngày nay. Và vì mủi lòng thương hại tôi đã đồng ý với lời đề nghị của tên bịp bợm giảo hoạt ấy.

- Cho phép anh để lại trong túi mười con jirr, - tôi tắt đèn pin đi, nói với Vandock. - Đem về mà bán. Và mai có tiền mua xúp thì chúc anh ăn cho ngon miệng. Nhưng phải hứa: một tuần chỉ được bắt rắn một lần.

- Cám ơn anh, - Vandock mừng rỡ nói và mở túi ra.

Hắn thả rắn ra rất nhanh. Những con jirr bị ném về phía những ô cỏ ở đằng xa tôi nghe rõ tiếng rắn rơi xuống đất lộp bộp.

- Tôi rất sung sướng được nối lại mối quen biết cũ với anh từ xưa, - Vandock đã ăn nói với vẻ thoải mái hơn, hắn hất cái túi đã lép ra sau lưng. - Tôi chỉ giữ lại tám con thôi. Hiện nay đối với tôi như thế là đủ. Xin anh cho tôi tới công viên vào ngày thứ tư tới vì, ngày thứ năm đã bắt đầu tuần trăng rồi.

- Xéo đi, - tôi nói rít lên, - có thể tới cả vào những ngày có trăng. Cứ vào đêm thứ tư, tôi sẽ ngủ từ một giờ đến hai giờ. Nhưng nói chung hãy cố gắng vĩnh viễn rời khỏi địa phận của chúng tôi càng nhanh càng tốt.

- Anh tốt bụng quá chừng! - Vandock nói dài giọng rồi biến mất.

Tôi nghe rõ tiếng chân đi gấp, tiếng nhảy qua tường nhẹ nhàng, rồi tất cả đều im bặt.

Đêm nhiệt đới lặng lẽ bao quanh tôi. Nhưng trong lòng thì buồn bực. Tôi thương Vandock và không hài lòng với mình.

❖ IV ❖

- Cô Liz, cô không nghĩ rằng rắn jirr bị những con vật nào đó ăn mất chứ? - Milrois hỏi người giúp việc của ông khi tôi báo cáo với ông về việc thiếu hụt rắn jirr. - Dù sao chúng ta cũng còn biết quá ít về những tính nết của loài bò sát. Anh nghĩ sao, Pingle?

- Cần phải cho ông Lý hỗ trợ tôi, - tôi trả lời - Có hai người sẽ dễ theo dõi hơn xem rắn jirr mất đi đâu.

- Anh Pingle ạ, anh vẫn chưa đánh giá hết được khả năng của anh. Tôi tin rằng anh sẽ tóm được những con chạy trốn. Nhưng thôi, chẳng nên quá lo lắng về những chuyện vặt ấy. Sắp tới cháu tôi là tiến sĩ Rolls sẽ đến đây, và anh ta sẽ thu xếp mọi việc. Còn anh, anh Pingle ạ, xin anh làm ơn chuẩn bị dung dịch theo công thức này cho...

Mẩu giấy để trên bàn phòng thí nghiệm. Tôi ngạc nhiên không hiểu sao giáo sư lại phải ghi công thức: thông thường tôi vẫn chuẩn bị các dung dịch theo lời chỉ dẫn của ông.

- Làm cho gấp lên, - Milrois nói với vẻ nghiêm khắc. Ông quay về phía cô Liz đang làm việc ở ngay đấy để tiếp tục câu chuyện bị ngắt quãng do tôi đến: - Liz ạ, nhất định là cháu tôi sẽ làm cho cô phải hết sức khâm phục. Một con người có tài năng phi thường. Anh ta đã sống vài năm ở đảo Java, đã viết một quyển sách về thực vật ăn côn trùng. Hiện nay anh ta đang đi một chuyến dài ngày sang châu Úc đã nghiên cứu thảo mộc ở bờ biển phía nam của nó. Rolls muốn hỏi tôi một vài ý kiến. Có lẽ vì tôi là một nhà tổ chức không đến nỗi tồi...

- Đúng thế đấy ạ! - vô tình tôi thốt lên...

Milrois chậm rãi quay đầu về phía tôi:

- A, Pingle, anh vẫn còn ở đây ư? Vậy mà tôi cứ tưởng dung dịch đã chuẩn bị xong rồi. Thế này nhé, cô Liz, chúng ta sẽ lợi dụng chuyến đi thăm ngắn ngủi của Rolls để kiểm tra lại cái thí nghiệm mà tôi đã nói với cô. Và nhân thể ta sẽ tìm hiểu cho ra lẽ chuyện rắn jirr. Nhất định anh ta biết rõ. Bởi vì...

Đúng lúc ấy dung dịch đã chuẩn bị xong.

- Thưa giáo sư xong rồi ạ, - tôi nói.

Cô Liz nhìn tôi với vẻ không hài lòng.

- Anh làm tôi sợ quá, anh Pingle ạ!

- Cám ơn anh, - giáo sư nói. - Tôi sẽ tự lọc lấy dung dịch.

Tôi chỉ còn mỗi một việc là cúi chào rồi rời khỏi phòng thí nghiệm.

Một vài ngày sau, vào buổi sáng ông Lý nói với tôi:

- Đêm qua cháu ông chủ đã đến.

Tôi rất muốn nhìn mặt vị khách, nhưng đúng lúc ấy trong công viên còn lắm việc nên tôi không sao rời đi được.

Khoảng hai ngày sau cô Liz truyền lệnh đưa một vài cái lồng ra phía trời nắng, tôi với những người Trung-quốc làm việc đến toát mồ hôi ra. Trong lúc chuyển lồng tôi nhìn thấy qua cửa vườn một người lạ đang trò chuyện với cô Liz trên gác sân.

Người ấy ngồi trên tay vịn cửa lan can quay lưng về phía tôi, khoa tay làm điệu bộ và hình như đang kể một chuyện gì rất buồn cười, bởi vì cô Liz cười rộn lên đến nỗi ở chỗ tôi cũng nghe rõ tiếng cười của cô.

- Lạy chúa tôi... thôi đi, anh Rolls! Anh làm tôi chết cười mất.

Rõ ràng chính đấy là cháu trẻ tuổi của giáo sư. Và chắc hắn ông chủ tôi rất yêu Rolls bởi vì ông Hồ đã nấu những món rất thịnh soạn ở dưới bếp, và khi ông mang ba bộ đồ ăn qua nhà tôi vào phòng ăn của giáo sư ông nháy mắt nói:

- Sau bữa ăn trưa tôi sẽ còn đem lại cho anh một món ngon tuyệt.

Cô Liz làm việc ở phòng thí nghiệm một mình.Giáo sư và người cháu khóa cửa lại ngồi làm việc trong phòng riêng của Milrois. Họ làm việc cho đến tận đêm khuya.

Tôi nhìn rõ cửa sổ còn sáng đèn ở phòng làm việc của giáo sư khi đi làm nhiệm vụ trực đêm ở công viên. Công việc nghiên cứu của giáo sư đòi hỏi rất nhiều tư liệu, khi thì lấy từ các phòng nuôi súc vật thí nghiệm lên, khi thì mang ở kho tới, và quả là tôi đã bận tíu tít lên vì tất cả những việc ấy. Cô Liz tội nghiệp cũng đã làm kiệt sức. Cuối cùng cô Liz thở phào nhẹ nhõm nói với tôi:

- Rolls đã đi sớm nay rồi. Một con người có sức hấp dẫn đấy chứ, đúng thế không anh Pingle?

- Rất tiếc là tôi không được giới thiệu với ông Rolls. Tôi đã trông thấy ông ấy ở trên gác sân...

Liz sôi nổi hẳn lên.

- Anh thấy rối à? Ồ, đó là một người nói chuyện ấy tuyệt. Thật là xuất sắc!

Cô đăm chiêu suy nghĩ và nét mặt trở nên rầu rĩ.

- Rất tiếc là ông Rolls vội đi quá, - tôi chân thành nói.

Đến trưa, khi tôi trở về phòng thí nghiệm, cô Liz đón tôi với vẻ bồn chồn.

- Trời ơi, đừng làm ồn lên thế, anh Pingle. Nói khẽ thôi. Đi rón rén một chút...

- Có chuyện gì thế? - tôi thì thầm hỏi.

- Giáo sư Milrois ốm...

- Ốm làm sao? Rắn cắn ư?

- Không, bệnh sốt vàng... Cơn sốt rất ác hệt... Ông đang nằm bất tỉnh...

Nước mắt tôi trào ra trên hai khóe mắt.

- Khổ quá! Cần phải mời bác sĩ... Cho gọi từ Rangoon đến?

- Đến tối xe hơi mới trở về, - Liz buồn bã nói.

- Vậy tôi chạy vào làng thuê ngựa nhé, - tôi nhiệt tình đề nghị.

Liz so vai lại với vẻ lo âu.

- Chà anh Pingle ạ, giáo sư biết phương thuốc thần tình chống bệnh sốt vàng. Tôi vừa tiêm cho ông mũi đầu tiên. Một giờ nữa tôi sẽ tiêm mũi thứ hai. Có lẽ ông cũng chỉ lên hai ba cơn sốt nữa là cùng. Bởi vì trước lúc anh tới đây tôi đã bị sốt đủ các kiểu, thế mà giáo sư cũng chữa khỏi. Ông có những quan điểm riêng đối với các loại bệnh tật, và ông chữa bệnh rất cừ.

Milrois ốm rất lâu và mọi vật trong trạm nghiên cứu đều như chìm ngập trong cảnh tang tóc. Cô Liz rất buồn phiền và tôi thường thấy những giọt nước mắt chảy dài trên khuôn mặt đã gầy đi của cô. Bây giờ có mình cô làm việc trong phòng thí nghiệm.

Buổi chiều người ta chuyển thư từ đến, cô Liz xếp thành từng loại rồi đưa vào phòng làm việc cho giáo sư. Cô trực tiếp chăm lo việc ăn uống của ông, ngay từ tối cô đã dặn dò tỉ mỉ ông Hồ phải chuẩn bị những gì.

Để trả lời những câu hỏi của tôi về tình trạng sức khỏe của giáo sư cô Liz chỉ lắc đầu và tôi thấy đau lòng vì chắc là giáo sư đang đứng giữa cái sống và cái chết!

Một hôm, vào buổi sáng cô Liz chạy đến công viên và reo lên mừng rỡ:

- Giáo sư dần dần khỏi bệnh! Đây, ông nhờ tôi chuyển cho anh mẩu giấy này.

Tôi vui mừng đọc những nét chữ quen thuộc trong thư:

“Pingle thân mến! Bệnh sốt đã hành hạ tôi ghê gớm, nhưng hiện giờ tôi đang bình phục. Hy vọng rằng chóng được gặp anh. Tôi rất quan tâm tới công việc anh làm. Hãy đọc quyển sách mà cô Liz sẽ đưa cho anh. Anh cần học tập, nếu không muốn suốt đời làm người gác vườn” .

- Tôi để quyển sách trên gác sân nhà anh. Hãy nghiên cứu nó. Bắt đầu chuẩn bị làm công tác khoa học đi, anh Pingle ạ, - cô Liz nói thêm rồi vội trở lại phòng thí nghiệm.

Tôi nóng lòng muốn biết giáo sư đã khuyên tôi đọc quyển sách gì, vì thế tôi chạy như bay về nhà. Ở trên bàn tôi nhìn thấy quyển sách “Những bí mật về sinh vật học”.

Quyển sách đã hấp dẫn tôi ngay từ trang đầu. Ở trường Dijan người ta đã dạy chúng tôi cách viết tóm tắt nội dung một quyển sách đã đọc, trích lục những đoạn hay nhất.

Bởi vì nhiều điều bị quên đi, nhưng những dòng ghi ngắn gọn thường giúp ta khôi phục lại trong trí nhớ nội dung của toàn bộ cuốn sách.

Và thế là tôi bắt đầu ghi vào sổ một số đoạn trong cuốn “Những bí mật về sinh vật học”. Quyển sách đề cập đến những nguyên nhân gây bệnh ở thực vật, động vật và con người. Bây giờ tôi hồi tưởng lại những điều tôi đã ghi chép lúc ấy.

“Ta thấy được qua kính hiển vi những vi trùng, những tác nhân gây bệnh truyền nhiễm, - đó là điều bí mật mà hiện nay mới phát hiện được một nửa”.

“Cũng có những bệnh truyền nhiễm không phải do vi trùng mà do virus gây nên”.

“Virus là gì? Bất kể nguồn lây bệnh nào nói chung đều được gọi là virus. Điều bí mật của sinh vật học là cái mà người ta gọi là những virus qua lọc tức là virus thực sự. Chúng có khả năng đi qua những bộ lọc mà ngay cả dưới một áp suất lớn vi trùng cũng không qua được”.

“Năm 1892 nhà bác học Nga Ivanovsky đã lấy chất nước ép từ lá cây thuốc lá bị bệnh khảm. Chỉ cần một lượng nhỏ nhất nước này cũng đủ làm lây bệnh sang những cây khỏe. Ivanovsky muốn biết rõ cái gì là tác nhân gây bệnh khảm thuốc lá, có thể là vi trùng chăng? Nếu vậy thì sẽ có thể nhìn thấy chúng qua kính hiển vi và nghiên cứu những đặc tính của chúng trong phòng thí nghiệm, tách chúng ra ở dạng thuần khiết”.

“Kính hiển vi không phát hiện được vi trùng bệnh khảm. Ivanovsky lấy nước ép lá cây bị bệnh rồi đem lọc qua một màng lọc với những lỗ xuyên nhỏ tới mức không một loại vi trùng nào, dù kích thước nhỏ bé đến mấy đi nữa, có thể đi qua được. Nhưng nước ép đã được lọc sạch các vi trùng như thế vẫn hoàn toàn có khả năng làm lây bệnh khảm sang những cây thuốc lá khỏe”.

“Mãi bảy năm sau, vào năm 1899, các nhà bác học mới hiểu rằng virus là một hiện tượng hoàn toàn mới. Và từ đó trở đi đã bắt đầu có những khám phá ngày càng làm cho ta phải kinh ngạc”.

“Ngay từ năm 1555 trong các vườn cây ở Thổ-nhĩ-kỳ người ta đã trồng những cây tulip rất đẹp có những đốm và những vệt kỳ dị trên các cánh hoa. Người ta cho rằng đó chỉ là những dấu hiệu loại. Trải qua hàng trăm năm người ta đã gây được hàng nghìn loại tulip như thế. Nhưng đốm của các cây tulip chẳng qua là một biểu hiện của bệnh do virus gây ra. Điều này đã được chứng minh chắc chắn vào năm 1928”.

“Virus là tác nhân gây nhiều bệnh, thường là những bệnh rất nặng. Ví dụ như bệnh sởi, đậu mùa là do virus gây ra. Bệnh đậu cừu, dịch hạch lợn, lở mồm long móng súc vật có sừng, bệnh thiếu máu của ngựa, viêm não của cáo và của các loài thú cho da lông khác cũng đều do virus gây nên. Bệnh đậu cá chép, bệnh hôi của ong non và các bệnh của sâu tằm cũng vậy. Chính virus đang tàn hại một số lớn cây cỏ. Tất cả các loại ngũ cốc, rau, cây công nghiệp, cây ăn quả đều bị các loại bệnh virus đe dọa”.

Chính tôi cũng đã từng thấy bệnh khảm thuốc lá và hiểu rõ nó sẽ phá hại và gây ra những tổn thế như thế nào. Các loại virus là những kẻ thù ghê gớm. Vậy bản chất virus là gì?”

“Virus không nhìn thấy được. Những tác động của chúng còn nằm trong vòng bí mật. Bản chất của chúng vẫn chưa rõ...” - trong sách nói như thế.

Tôi đang say mê nghiên cứu cuốn sách nhưng vào lúc ấy những con mussuran, những con rắn có sọc dài lại tăng lên rất nhiều, cần phải bắt chúng ra khỏi công viên.

Có lần lúc đang bắt rắn, tôi nghe thấy giọng nói to của cô Liz:

- Hãy gởi ngay bức điện khẩn cho tiến sĩ Rolls!

Cô ra lệnh cho một người hầu đang sửa soạn đi Rangoon vào lúc không đúng với thường lệ.

- Hãy nói với phòng điện báo để họ khỏi lẫn địa chỉ. Nhớ nhé: Rolls - Mazatlán.

Không hiểu sao chữ “Mazatlán” lại khắc sâu vào trí óc tôi, và tôi nhớ mãi. Giá đừng nhớ thì tốt hơn, vì chính nó đã đưa tôi những cuộc phiêu lưu phi thường.

Ngay đêm ấy tôi canh gác ở công viên. Tôi thấy rõ cái cửa sổ sáng ánh đèn ở phòng làm việc của giáo sư Milrois, những con dơi kêu sin sít bay qua bay lại phía ngoài cửa sổ. Nhưng rõ ràng giáo sư chẳng quan tâm gì tới lũ dơi ấy. Qua rèm cửa sổ thấy rõ bóng ông ngồi đọc sách với vẻ hết sức say mê.

Đêm hôm ấy trôi qua yên lành như những đêm trước. Những con jirr vẫn còn nguyên vẹn và thậm chí đã bắt đầu đẻ trứng trên cát. Chỉ cần những trứng ấy nở ra rắn con thì Vandock muốn bắt trộm bao nhiêu cũng được. Trạm nghiên cứu sẽ thôi không mua jirr nữa. Chỉ từng nấy cũng là đủ lắm rồi.

Nhưng Vandock không xuất hiện. Có lẽ hắn ngại gặp tôi.

❖ V ❖

Cô Liz đã nhận xét về những bước tiến của tôi.

- Hôm nay tôi đã nói chuyện với giáo sư về anh, - cô nói khi đến thăm tôi ngoài công viên - Anh đã có được ít nhiều hiểu biết về các loại rắn, và sắp tới đây chúng tôi nhất định chuyển anh lên phòng thí nghiệm.

- Sức khỏe của giáo sư ra sao rồi, thưa cô, - tôi hỏi.

- Ông sắp khỏi hẳn. Sau khi ốm thị lực của ông bị kém đi. Ông không chịu nổi ánh sáng mặt trời và buộc phải làm việc dưới ánh đèn. Đã bao lần tôi đề nghị ông phải giữ gìn đôi mắt! Dẫu sao tôi vẫn có thể đọc to để ông nghe, nhưng ông không chịu nghe lời tôi. Và tối nào cũng cứ ngồi đọc sách ở trong phòng.

- Ông làm việc khuya lắm. Và ngồi trong phòng cho tới sáng, - tôi nói. - Cửa sổ phòng ông lúc nào cũng sáng ánh đèn. Trông như ông đang ngồi đọc.

- A, anh thấy thế à? - cô Liz hỏi với vẻ sinh động hẳn lên.

- Vâng, - tôi khẳng định.

Tôi rất buồn vì giáo sư không ra khỏi phòng. Chỉ có những mẩu giấy ông nhờ cô Liz trao lại là nguồn an ủi đối với tôi. Chắc chắn ông dần dần bình phục. Vì lần nào trực đêm ở công viên tôi cũng nhìn thấy qua màn cửa sổ bóng ông ngồi cúi xuống bàn say mê đọc sách.

Ông ngồi bất động. Tôi nghĩ: “Thế mới là con người biết làm việc. Quên hết mọi chuyện trên đời vì khoa học”.

Tôi thường suy nghĩ nhiều về Milrois. Ông đối xử với tôi đặc biệt tốt, ông đã cho tôi một chỗ đứng xứng đáng... Trong lúc ốm ông vẫn để thì giờ theo dõi công việc của tôi, nhưng rất ít khi trò chuyện với tôi, và tôi tìm thấy như ông thường xuyên quan sát tôi từ đằng xa, mặc dù ông trực tiếp đến với tôi vẫn là tốt hơn cả. Nhưng có lẽ bản tính của ông là đối tốt với mọi người theo kiểu như vậy. Vả lại ông quá bận, không thể ngày nào cũng nói chuyện với người gác công viên của mình được.

Một đêm Vandock trèo vào công viên bắt rắn.

- Chúc anh vào ăn trộm cho bình yên, - tôi chào hắn bằng giọng bực tức khi hắn leo qua tường vào công viên lúc một giờ đêm.

- Pingle, xin cám ơn anh, - Vandock trả lời lịch sự.

- Anh biết tên tôi à? - tôi ngạc nhiên.

- Việc tôi biết tên “Người nhẹ hơn không khí” thì có gì là lạ? Khi ấy tôi đã lấy đồng dollar cuối cùng để mua một chỗ trong “Colosseum” và nhận ra anh ngay lập tức. Nói đúng ra, lúc anh nằm trong nôi, tôi thấy anh có vẻ bối rối.

Hắn nhanh nhẹn và lẹ làng mò vào trong các bụi cây.

- Này Pingle, rắn jirr lỉnh đâu cả rồi? - hắn nói với tôi bằng giọng khá suồng sã. - Và nói chung... hình như anh cố tình thả rắn độc Úc châu vào đây thì phải.

- Vandock, tôi cũng vừa định báo trước cho anh là hiện nay rắn jirr nằm ở tường phía nam.

- Lời anh nói sẽ giúp tôi thực hiện nhanh chóng cái việc tìm kiếm khốn kiếp này, - Vandock cám ơn tử tế rồi nhẩy phắt qua cái rãnh. Hắn đã nhanh chóng bắt đầy một túi rắn.

- Không được quá năm con, - tôi bấm đèn pin cảnh cáo hắn. - Xem nào, anh định bắt đi bao nhiêu?

Vandock mở túi ra.

- Đúng năm chú. Xin trình diện. Nhưng tôi đến phải bỏ cái nghề này. Giáo sư của anh ốm, còn cái cô gái già Liz ấy lại không cần mua rắn. Anh bạn ạ, giá mà anh hùn vào để giúp cho kẻ thất nghiệp này thì tốt quá. Mà này, Milrois của anh ốm bệnh gì?

- Ông bị sốt, hiện đang bình phục, tuy nhiên ông không ra khỏi phòng.

- Khốn nạn - Vandock nói và xin phép hút thuốc: - Rít vài hơi thôi. Tôi quen hút tẩu, hút cho đỡ đói. - Hắn thận trọng bật lửa và khói thuốc tỏa ra - Làm sao giáo sư để đến nỗi bị bệnh sốt vàng? Đã lâu chưa?

- Vào đúng ngày cháu ông ấy ra đi. Nhưng sao, anh hỏi cung tôi đấy à? - tôi bực mình. - Trở về đi thôi.

- Pingle ạ, anh thật tốt bụng, và cũng thật hay cáu bẳn, - Vandock trả lời chân thật và dịu dàng. - Tôi không khi nào quên được công ơn của anh đối với tôi lần trước.

- Nhưng xin anh hãy kể nốt... Tôi biết người cháu của Milrois, nhưng đã lâu mất hút ông ta. Đó là một con người tuyệt diệu.

- Đúng, - tôi khẳng định. Ông là nhà bác học nổi tiếng, đã viết một cuốn sách, từng sống ở đảo Java...

- Đúng rồi, chính ông ta đấy. Ông là người tốt và có lòng bao dung. Chà, anh Pingle ạ, nếu như... Dẫu sao lâu nay tôi vẫn muốn bắt đầu sống một cuộc đời trong sạch. Nếu tôi biết cháu giáo sư Milrois ở đây thì tôi đã thẳng thắn tới trước mặt ông ta, kể với ông hết mọi chuyện, và thể nào ông cũng nhận cho đi theo làm việc.

- Hiện giờ tiến sĩ Rolls đang ở Mazatlán, - tôi trả lời. - hình như thành phố ấy ở Úc châu...

- Đúng thế, ở Úc châu, gần Nam cực, - Vandock nói bằng một giọng lạ lùng. - Thôi chào anh nhé, cảm ơn sự thông cảm của anh. Có lẽ sắp tới đây tôi cũng sẽ đi Mazatlán.

Hắn nhảy phắt ngay lên tường rồi biến mất.

Lúc rời khỏi chân tường tôi đụng ph?