Chương mười một ❖ I ❖
Phải xin lỗi các độc giả của cuốn sách này vì tôi sẽ nói ra ngoài đề một chút, nhưng tôi không thể không kể về những sự kiện kỳ lạ đã xảy ra ở Ashworth trong thời gian này. Tôi được biết rõ các sự kiện ấy qua lời kể lại của các nhân vật, rất nhiều người được chứng kiến đã khẳng định chúng, và người ta không có cơ sở nào để nghi ngờ tính chất đúng đắn của các sự kiện.
Có lẽ chuyện kể về các bệnh tật ở bệnh viện là một kiểu văn học chán ngán nhất. Tuy nhiên, như bác sĩ Fleet đã khẳng định, thì những quyển sổ ghi kín đặc các nét chữ khác nhau của các bác sĩ điều trị và có đính kèm theo đủ các loại biểu đồ nhiệt độ, ảnh chụp X quang và các bản phân tích, là những tài liệu quý giá nhất của con người, bởi vì những bi hài kịch trong cuộc sống hàng ngày tìm thấy ở đây sự phản ảnh khách quan nhất. Thật vậy, ông trưởng phòng cảnh sát ở Ashworth là Fredson cũng giữ một quan điểm như vậy đối với những biên bản điều tra tội phạm, còn quan đại tụng Seyton thì lại có quan điểm như thế về các chúc thư của những người chết. Nhưng, hình như ông bác sĩ nói đúng hơn cả. Người ta thường gặp thấy, ông khẳng định, những trường hợp rắc rối trong y học mà tính kỳ lạ của chúng lại không hề gạt bỏ tính đúng đắn đầy đủ nhất của chúng.
Vào một buổi sáng tháng năm đẹp trời, bác sĩ Fleet ngồi ở trong hiệu thuốc của ông Orfi. Bác sĩ ghé vào đây để lấy tiền mà người ta trả cho những viên thuốc chữa chứng khó thở của ông. Ed vừa mở nút chai nước suối để ăn mừng cái chiến dịch thương mại nhỏ bé ấy thì người hầu gái của ông thẩm phán chạy lao vào trong hiệu như một trận cuồng phong và báo tin rằng người phụng sự đáng kính của nền tư pháp đang cần đến sự giúp đỡ khẩn cấp của y học. Người hầu gái vội giục bác sĩ đi ngay và cô ta không thể kể cặn kẽ một chút nào về căn bệnh của ông chủ được.
Đúng hai phút sau bác sĩ Fleet đã thong thả bước đi trên đường tới nhà ông thẩm phán. Ông mang theo một va-li nhỏ trong đựng các dụng cụ và nghĩ, không hiểu cái thiên nhiên quỷ quyệt sẽ tặng ông một món bất ngờ gì đây và rồi ông sẽ phải giải quyết nhiệm vụ chẩn đoán ấy ra sao. Cái con hầu gái ngu xuẩn vừa đi bên cạnh vừa nói liến láu với tốc độ ba trăm từ trong một giây, và bác sĩ chỉ có thể hiểu rằng buổi sáng ông thẩm phán đi ra nhà thị chính, nhưng rồi ông lại trở về ngay. Bước vào trong nhà, ông nói với: “Ồ cô Cilli tốt bụng, chớ có nhìn tôi”, - và thế là ông lấy khăn mùi xoa che mặt rồi chạy ngay lên phòng ngủ ở trên gác. Cilli, theo lời cô ta kể, không bao giờ tò mò. Nhưng lần này thì cô đến bên cửa phòng ngủ để đợi xem ông chủ có cần gì đến cô ta không. Và cô đã không lầm. Cô nghe thấy tiếng kính vỡ ở phía sau cửa và nghe ông thẩm phán thét lên:
- Cilli đâu, đồ quỷ! Chạy đến chỗ ông Fleet và sống chết thế nào cũng phải dẫn ông ta đến đây ngay! Nói với ông ấy rằng tôi bị ốm.
Tính vội vàng không nằm trong số những nhược điểm của bác sĩ Fleet. Ngược lại ông bác sĩ có tính là người ta càng rối rít đề nghị ông tới ngay chỗ bệnh nhân bao nhiêu thì ông lại càng bình tâm đủng đỉnh bấy nhiêu.
Và bây giờ, khi đi đến gần nhà ông thẩm phán, bác sĩ ghìm bước trên những bậc ở lối vào, và đọc hàng chữ quen thuộc trên tấm biển:
“WEASLEY, PHÁP QUAN TỐI CAO ASHWORTH”
Cilli mở rộng cửa, và bác sĩ bước qua ngưỡng cửa với cái vẻ long trọng u sầu vốn có của những con người có trọng trách khi thực hiện những nhiệm vụ mà không phải lúc nào cũng đem lại sự vui thích cho người trong cuộc. Bác sĩ lặng lẽ bỏ mũ lễ đen của mình ra, dùng mùi xoa lau mồ hôi trên chỗ đầu hói và nhìn Cilli như muốn hỏi. Cilli bước lên trước dẫn đường và thận trọng đi trên đầu ngón chân chứ không đập gót xuống sàn như thường ngày.
Đi qua phòng khách, bác sĩ lên tầng hai. Giữa các tủ cao đựng đầy những luận văn pháp lý và các bộ luật thấy hiện lên cái cửa bằng gỗ sồi. Cilli gõ cửa. Rồi đến bác sĩ cũng gõ. Và bấy giờ thấy vọng ra giọng nói của ông thẩm phán Weasley:
- Còn gõ gì nữa ông Fleet, một khi đã biết người ta đang sốt ruột chờ đợi ông. Ông vào đi, và xin ông đuổi cái con Cilli ấy xuống nhà cho, kẻo nó lại nghe trộm. Nó thường vẫn có cái thói xấu ấy.
Bước vào phòng, bác sĩ đóng chặt ngay cửa lại ở phía sau. Phòng ngủ sáng ánh đèn và nến, mặc dù những tia nắng mặt trời đang vui vẻ ùa vào các cửa sổ. Ông thẩm phán Weasley ngồi trên ghế quay lưng về phía cửa mà bác sĩ vừa bước vào, và ông không hề quay lại. Ông đang mải mê xem xét một vật gì đó cầm ở trong tay.
- Chào ông Weasley! - bác sĩ nói to bằng một giọng hiền hòa mà ông vẫn quen dùng để làm cho bệnh nhân yên tâm và hy vọng.
- Chào ông Fleet, - vẫn không ngoảnh lại, ông thẩm phán nói lẩm bẩm. - Mà xin ông chớ đến gần tôi. Trước hết hãy để cái va-li của ông xuống đã, rồi thì ngồi xuống đây. Ông hãy chuẩn bị tinh thần mà xem một cảnh tượng khó chịu. Tôi sợ rằng ông sẽ ngất đi và đánh vỡ những chai lọ đựng thuốc của ông.
- Nhưng có chuyện gì chứ? - bác sĩ la lên, mặc dù ông vẫn đặt va-li xuống chiếc ghế bành đầu tiên ông nhìn thấy, bởi vì ông đã quen thực hiện những yêu cầu của người phụng sự luật pháp, vả lại ông cũng rất quý chiếc bơm tiêm hai ounce do cha ông để lại. Ngày trước cha ông cũng đã dùng nó để chữa bệnh ở Ashworth.
- Đứng lại, Fleet! - không chịu đựng được nữa, ông thẩm phán gào lên. - Đừng có nhìn tôi và hãy nghe đây. Hãy quên những lời lẽ mà con Cilli nó ba hoa với ông đi. Ông đừng cãi, tôi thừa biết miệng lưỡi nó rồi...
Fleet hiểu rất rõ cái lối chuyện trò của ông thẩm phán và ông im lặng ngắm nghía cái gáy có tóc bạc béo lẳn của Weasley. Ông thẩm phán bực tức nói:
- Hôm nay tôi đã kết án một tên vô lại không chịu hối cải. Tôi vừa bắt đầu viết bản án. Bỗng nghe thấy viên thư ký nói: “Thưa ông Weasley, ông làm sao thế ạ?” Tôi ngửng đầu lên và thấy mọi người xung quanh đang trố mắt nhìn. Họ nhìn tôi như nhìn một kẻ từ bên kia thế giới tới. Tôi cho tạm nghỉ rồi vào phòng riêng, viên thư ký đem lại cho tôi chiếc gương...
- Rồi sao nữa? - bác sĩ thản nhiên hỏi, bằng linh tính của một thầy thuốc có kinh nghiệm ông cảm thấy chính lúc này mới là lúc không được mất tinh thần.
Người chuyên nghiên cứu về các bệnh dịch khác thường có thể tự mình tìm đọc những bản ghi chép của bác sĩ Fleet con. Chỉ cần người ấy đến phòng lưu trữ tài liệu ở Ashworth đề nghị cho xem cặp giấy số CXXI/14. Trong ấy, ở trang một trăm hai mươi chín, chính tay bác sĩ Fleet đã viết nháp bản báo cáo gửi Hội y học:
“Trường hợp bệnh của ông thẩm phán Weasley là trường hợp khó hiểu. Dưới ảnh hưởng của quá trình bệnh mà thực chất của nó là gì tôi không rõ, các xương mặt, da và những mô lỏng lẻo dưới da đã bị biến dạng đi...”
Sau khi đã nhìn rõ mặt ông thẩm phán lúc ông ta quay lại, bác sĩ kinh ngạc la lên:
- Ông Weasley, ông đâu còn là ông nữa!
Thật vậy, chỉ còn dựa vào giọng nói và chiếc áo trào người ta mới có thể nhận ra người ngồi phía trước bác sĩ Fleet với chiếc gương trong tay là ngài thẩm phán Weasley.
- Chính tôi cũng không nhận ra tôi, - ngài thẩm phán nói càu nhàu. - Khi về đến nhà tôi ngắm nhìn mũi mình, và sợ quá tôi làm vỡ mất cái gương ở phòng rửa mặt. Tôi thấy mặt tôi giống như cái tổ kiến. Chà! Con Cilli kêu rít lên ở sau cửa. Nó nghe lỏm, quân vô dụng...
Bác sĩ Fleet đã tự chủ được. Sau khi dùng chân hất các mảnh gương vỡ đi, ông cầm tay ngài thẩm phán.
- Xin cứ yên tâm. Tôi sẽ xem mạch. Ông cho xem lưỡi nào.
Công việc chẩn đoán nghiêm túc của y học bắt đầu. Nửa giờ sau thì kết thúc. Bác sĩ Fleet viết đơn thuốc:
- Chế độ ăn uống... Thuốc rửa mũi...
- Tôi hy vọng, - ngài thẩm phán cằn nhằn. - Ông giam tôi ở nhà ba hôm chứ? Tôi không phản đối. Tôi không thể vác cái mặt như thế này tới nhà thị chính được. Dù sao thì cũng là một lần trong đời chính tôi bị bắt giam.
Đúng lúc ấy tiếng chuông điện thoại réo lên. Ông bác sĩ già cầm ống nghe. Quan đại tụng Seyton hỏi bác sĩ Fleet có ở đây không.
- Vâng, chính tôi đang ở đây, - bác sĩ trả lời. - À, ông muốn tôi đến chỗ ông à? Xin vui lòng. Chẳng có gì phiền hà hết. Ngược lại, đó là nghĩa vụ của tôi. Sức khỏe của ông Weasley ư? Tốt... Chà, ông đã biết tin rồi à? Ồ, chuyện vặt ấy mà... Hơi bị sưng thôi. Sao ạ? Ông cũng mới bị sưng à? Tốt lắm. Nghĩa là tôi muốn nói rằng cái bệnh sưng vù lên ấy chỉ là chuyện vặt...
Bác sĩ Fleet bước tới nhà quan đại tụng Seyton trong tâm trạng không còn thanh thản như trước nữa. Những ý nghĩ lo lắng bắt đầu giày vò tâm trí ông, cái tâm trí đã quen với dòng đời lặng lẽ ở Ashworth. Có lẽ người ta đã bắt đầu phát hiện ra những tảng đá ngầm ở những chỗ an toàn nhất.
❖ II ❖Căn cứ vào những lời bác sĩ Fleet ghi lại thì trường hợp xảy ra với ông Seyton, quan đại tụng Ashworth, được mô tả ở dạng có hơi khác. Sau này Ed Orfi, một kẻ có tài đóng kịch xuất chúng đã tường thuật lại cho tôi nghe một cách hết sức sinh động về Fleet và các bệnh nhân của ông, bởi vì những tin đồn về người mắc bệnh và khỏi bệnh luôn luôn được những người có liên quan truyền đến hiệu thuốc.
Vào buổi sáng, khi ông thẩm phán Weasley đang viết bản án của một tên ăn cắp nào đó, thì quan đại tụng đang ngồi trong phòng làm việc ở văn phòng của mình và vùi đầu đọc bản dự thảo chúc thư mà trong đó bà quả phụ đáng kính Alisa Bolivar, một con chiên mộ đạo đã cao tuổi của cha Jeremiah, trao lại cho Hội từ thiện toàn bộ tiền của và tài sản của mình trị giá một nghìn một trăm ba mươi đồng vàng.
Người giúp việc mới của quan đại tụng bước vào phòng với một bản báo cáo khẩn trong tay. Anh ta là cháu của một trong những bà ủy thác giàu có của ngài Seyton, và vì vậy anh được phép vào nơi sảnh đường tôn nghiêm của quan đại tụng, vả lại bà cô đã ra điều kiện, dọa tước quyền thừa kế tài sản nếu người cháu không từ bỏ việc luyện tập đua thuyền. Đó là Bob Birdworth, và ở đây tôi muốn nói thêm rằng Bob có cặp mắt lợn luộc và đôi tai xấu kinh khủng.
Vậy là Bob bước vào, chuẩn bị báo tin rằng có điện gọi từ văn phòng của lâu đài Oldmount. Ngài Seyton ngừng đọc, nghiêm nghị nhướn lông mày lên. Nhưng Bob không tài nào cất lên lời được. Anh ta quá ngạc nhiên. Bob có cảm giác rằng quan đại tụng đã bôi mặt bằng thuốc màu hoặc đã đeo chiếc mặt nạ Ấn-độ khủng khiếp.
- Bob, sao anh cứ giương mắt lên thế? - quan đại tụng cáu tiết hỏi.
Khó khăn lắm Bob mới nói nổi nên lời.
- Lạy chúa tôi, - anh ta lắp bắp, - thưa ông Seyton, ông làm sao thế?
Bob sợ khiếp vía. Chiếc mặt nạ trên mặt quan đại tụng lúc này trông càng có vẻ khủng khiếp hơn nữa.
- Làm sao, hả! - quan đại tụng thét lên và đứng dậy khỏi chiếc ghế bành kiểu cổ.
- Mặt ông kìa!.. - Bob thét lên man rợ rồi chạy biến khỏi phòng.
Quan đại tụng ngạc nhiên vì hành vi của Bob. Hành vi ấy rõ ràng là khác thường. Cái thằng điên ấy nói lắp bắp những gì về mặt với mũi nhỉ? Và quan đại tụng kiên trì gọi điện tới ba lần.
Nghe gọi, Tim, một người hầu già, bước vào, nhiệm vụ của bác ta là cứ cách một giờ lại đem tới cho quan đại tụng một tách chè đặc và nóng. Tim mang chiếc khay đựng chén chè vào, nhưng cái cảnh tượng mà lão bắt gặp thật là kỳ quặc.
Ngài Seyton đứng đối diện với cửa sổ, đang ra sức so vai lại, và hình như đang cố gắng nhìn mãi vào trong cửa kính. Hóa ra là trong phòng làm việc không có gương nên quan đã soi mình qua kính cửa sổ. Và quan không hề ngạc nhiên khi thấy rằng một bên má của quan đã sưng vù lên một cách quái gở. Những công việc dân sự mà quan đang tiến hành đã tước bỏ mất ở quan một trong những đặc điểm hấp dẫn của con người sống là khả năng biết ngạc nhiên.
- Gương! - Seyton ra lệnh cho Tim một cách ngắn gọn.
Việc ngắm nghía rất lâu bên má sưng không dẫn quan Seyton tới một kết luận nào ngoài một điều: cần phải gọi cho bác sĩ Fleet đến. Đối với quan điểm ấy có thể chấp nhận được nếu Fleet không tăng giá quy định và có thể hạn chế việc đến thăm bệnh bằng một lần duy nhất. Quan đại tụng không muốn trả tiền vô ích vì một câu mà người ta sẽ nói với ông: “Sưng ơi là sưng”. Nhưng cái chỗ sưng khốn kiếp ấy ý chừng còn muốn lan ra cả tai.
- Tim, không được cho ai vào, - quan ra lệnh. - Không một ai, ngoài bác sĩ Fleet. Đi đi. Tuy nhiên, khoan đã. Có lẽ ông Birdworth cũng không được khỏe?
Người hầu già đã được rèn giũa hiểu rõ từng sắc thái nhỏ trong giọng nói của ông chủ và cúi đầu:
- Thưa ông, con sợ phải nói, nhưng...
Chữ “nhưng” ấy hàm ý rằng lão ta lấy làm khó chịu vì Bob cứ hay quên cái lệ phải đãi lão ta rượu trắng vào ngày thứ bảy hàng tuần. Lúc lão Tim bước ra khỏi phòng thì Bob đang sôi nổi đọc điều gì đó cho một cô ghi tốc ký. Cậy mình là người đã làm việc lâu năm ở văn phòng, lão Tim nói thì thầm vào tai Bob:
- Nếu anh muốn làm việc ở cạnh ông Seyton thì đừng có kêu thét lên khi nom thấy cái mặt không ổn của ông chủ...
Seyton gọi điện thoại để tìm Fleet. Bác sĩ xuất hiện, thăm bệnh cho quan đại tụng rồi viết đơn thuốc.
Khi bác sĩ Fleet ra khỏi văn phòng của quan đại tụng thì mặt trời gần như đã ngả về tây. Ông đi theo phố King chưa được đến vài trăm bước thì một viên cảnh sát có râu mép đeo lon cai chạy đuổi theo ông.
- Bác sĩ Fleet phải không? - viên cai hỏi đồng thời giơ tay đeo găng trắng lên chào.
- Lẽ nào anh không nhận ra tôi sao, Phil? - bác sĩ dừng lại, rùng mình và đưa tay lên sờ gò má.
- Đương nhiên là tôi nhận được, - viên cai báo cáo. - Nhưng quan cảnh sát trưởng...
- Ông Fredson bị ốm à? - bác sĩ dò hỏi.
- Xin phép ông cho tôi được báo cáo. Từ sáng nay quan cảnh sát trưởng còn rất khỏe. Nhưng sau khi ăn điểm tâm lần thứ hai, lúc bà Fredson bước vào phòng ăn, nơi mà bà đã để phu quân ở lại trong mấy phút, thì phát hiện ra mặt của quan Fred...
Viên cai Philip Dreg vẫn chưa báo cáo xong. Bác sĩ Fleet vội lao ngay đến nhà vợ chồng Fredson nhanh đến nỗi viên cảnh sát không tài nào theo kịp ông được. Ed lúc ấy đang đổ vào lọ mười ounce hai porcio hợp dịch dựa theo những đơn thuốc kê giống nhau của Fleet cho ông thẩm phán và quan đại tụng. Qua cửa sổ hiệu thuốc anh ta nhìn thấy bác sĩ Fleet chạy và viên cai đuổi theo. Cilli và lão Tim đang ngồi chờ thuốc cũng nhìn thấy như vậy, và cả ba người đều đồ chừng rằng Phil đang định bắt giam bác sĩ. Bà Fredson đón chào bác sĩ Fleet với cặp mắt còn đẫm lệ.
- Ôi, khủng khiếp quá!..
- Bệnh nhân đâu, - bác sĩ hỏi ngay, quên cả chào bà chủ và bỏ mũ lễ.
- Trong phòng ăn ạ, - bà Fredson trả lời và khóc nức nở.
Bác sĩ phải bước qua những mảnh đồ vỡ nằm ngổn ngang. Sau chiếc bàn tròn trên bày các thứ còn lại của bữa điểm tâm như chai lọ và rõ ràng là còn có đủ các loại gương có trong nhà, quan cảnh sát trưởng Fredson đang ngồi, khuy áo choàng để hở, và đang lúc lắc đầu tạo nên những tiếng kêu chẳng ra một thứ âm thanh nào cả.
- Ông ấy bị sưng bắt đầu từ lỗ mũi bên trái, - nước mắt chan hòa, bà Fredson nói thì thầm, bước theo sau bác sĩ.
Tấm khăn ăn vẫn còn nhét trên áo gi-lê của ngài Fredson. Nghĩa là tai họa đã đến với ngài một cách bất ngờ trong lúc ăn tráng miệng, khi mà không ai có thể ngờ rằng xương mặt của ngài, vì tuân theo một sức mạnh lạ lùng nào đấy, bỗng nhiên bị biến dạng về cơ bản. Chứng phù lan tới cả hàm và cằm làm cho mặt ngài có cái vẻ rất kinh tởm.
- Lại trường hợp thứ ba, - bác sĩ nói với giọng sôi nổi đồng thời đặt tay lên vai Fredson. - Rồi sẽ tìm ra ngay thôi... Ông đại tá, tỉnh lại đi! Trước mắt ông là tôi, Fleet đây...
Fredson ngước mắt nhìn bác sĩ.
- A, ông đấy ư? Tôi rất mừng... Nhưng cái mặt mới gớm chưa! Xin lỗi ông, tôi nói về tôi đấy thôi.
- George, tỉnh lại đi anh! - bà Fredson nói với giọng van vỉ và đưa chiếc khăn mùi xoa thêu ren lên cặp mắt ướt.
- Tôi không việc gì phải tỉnh dậy, - Fredson phản đối lại bằng giọng tương đối tỉnh táo. - Bác sĩ ạ, bà nhà tôi được cái cứ hơi tí là hoảng sợ, nhưng tôi muốn biết ý kiến ông. Tôi soi vào gương và tự hỏi: “Tôi hay là ai?” Đấy, vấn đề là như vậy!
- Rồi chúng ta sẽ lý giải được, - bác sĩ Fleet trả lời. - Ông hãy kể lại xem sự thể bắt đầu ra sao...
Vợ chồng Fredson đã kể lại. Còn bác sĩ Fleet thì vừa thoạt nhìn đã biết ngay rằng trước mắt ông là trường hợp thứ ba của cùng một bệnh. Bệnh gì? Fleet không biết. Ví thử như ngay bây giờ đây ông có kịp lật xem tất cả các bộ “dao trích” và mười sáu cuốn của “Từ điển bách khoa toàn thư” thì ông cũng sẽ không thể tìm thấy ở đây một lời nào đả động đến bệnh thay đổi diện mạo như ở ông thẩm phán, quan đại tụng và ông cảnh sát trưởng. Vậy thì đã xảy ra chuyện gì?
“Nếu lấy hình một người anh biết rõ in lên giấy rồi vò nhầu đi thì những đường nét sẽ chuyển chỗ đến nỗi không còn thấy giống nữa”. Chính tay bác sĩ Fleet đã ghi như vậy ở trang hai trăm bốn mươi chín trong cặp hồ sơ lưu trữ nói trên.
Tuy nhiên Fredson rất lo lắng.
- Không ai có thể bắt buộc tôi phải nằm nhà. Công việc, bác sĩ ơi, ông hiểu chứ? Tôi phải làm việc chứ không phải là ốm.
- Mọi việc rồi sẽ ổn, - bác sĩ Fleet nói lúng búng.
Rồi ông lại nói chậm rãi. Những suy nghĩ đưa ông đến kết luận: “Rõ ràng là còn nhiều điều chưa rõ, cho nên phương pháp chữa bệnh cầm chừng ở đây là tốt nhất”.
- Chà, ông đã làm tôi yên lòng, - Fredson nói với vẻ tin tưởng và đi tới bên tủ đựng đồ ăn. - Tôi cảm thấy mình mạnh khỏe, đối với công vụ diện mạo chẳng có gì là quan trọng cả. Bác sĩ ạ, luôn tiện cho ông biết, với cái bệnh của tôi hiện tại thì dùng thứ rượu nào có lợi hơn - rum hay cognac?
Một kết luận mới bật ra khỏi miệng bác sĩ Fleet:
- Đây không phải là bệnh, mà là một thể trạng.
Fredson cứ loay hoay mãi bên tủ ăn với chai rượu.
- Không phải bệnh à? Càng hay. Nhưng thể trạng có trở lại bình thường...
Ngài Fredson rót hai cốc rum, uống cạn một cốc, mặt đỏ tía lên, nhưng giọng ngài nói nghe nhẹ nhàng hơn:
- Uống đi, bác sĩ, và đừng an ủi tôi nữa. Tôi là một chiến binh và thích nhìn thẳng vào mọi nguy hiểm. Hôm qua tại một đoàn xiếc trên quảng trường, con hươu cao cổ đã được luyện tập cũng bị cái bệnh như thế. Tôi đã áp dụng những phương sách của mình là cử viên thú y tới. Tôi biết về bệnh tật của ông thẩm phán, của quan đại tụng và cảm thấy trước rằng bác sĩ Fleet đang phải làm việc nhiều. Ông không muốn uống ư? Vậy thì tạm biệt. Đừng bắt tay tôi. Như thế tốt hơn...
Bác sĩ Fleet đành cầm lấy mũ và nghiêng mình chào. Ông hỏi bà Fredson bấy giờ đang đón ông ở ngoài hành lang xem chỗ rửa tay ở đâu, và ông loay hoay bên vòi nước nóng rất lâu, ông rửa tay cẩn thận bằng xà phòng và bàn chải.
❖ III ❖Ngày hôm ấy bác sĩ Fleet không thể ăn cơm trưa đúng giờ giấc quy định truyền thống được. Ông vừa ra khỏi nhà Fredson thì tên gác cổng nhà thờ là Michael vội đuổi theo gọi ông tới chỗ bệnh nhân thứ tư.
Cha Jeremiah nằm trong phòng ngủ, chung quanh mình đặt những túi nước nóng. Trong bóng tối lờ mờ huyền ảo bác sĩ Fleet chỉ thấy rõ được chiếc bàn đêm ở đầu giường. Ba bà quý phái đáng kính đang ngồi nghiêm chỉnh trên những chiếc ghế cạnh giường cha trưởng đạo. Một trong ba bà đang đọc to quyển kinh cầu nguyện, chỉ cần nghe giọng đọc bác sĩ cũng đủ nhận ra người bệnh ngày xưa của ông, đó là bà Birdworth, cô của vận động viên Bob. Không ai trong những người ấy để ý đến bác sĩ khi ông bước vào, bởi vì cả ba đều đang mải thành kính đọc kinh.
- “Và cầu xin Chúa rủ lòng thương kẻ nô lệ trung thành của Chúa, - bà già đọc và cứ sau ba chữ lại thở dài não nuột. - Và chúng con ca tụng Chúa, sáng danh Chúa đời đời...”
- A men, - giọng yếu ớt của cha Jeremiah cất lên. - Ai vào thế nhỉ? A, ông đấy ư, bác sĩ kính yêu?
- Xin chào cha, thưa cha trưởng đạo, - bác sĩ nói vẻ trịnh trọng, kính cẩn nghiêng mình về phía đầu giường và phía ba bà quý phái.
- Chào ông, - cha Jeremiah lại cất giọng rên rỉ. - Ông tới với kẻ đau khổ này thật là phúc đức, bởi vì đã có câu viết: “Tôi ốm, và người ta đã đến thăm tôi”.
- Nhưng có chuyện gì xảy đến với cha vậy? - bác sĩ Fleet hỏi, đoạn tiến đến bên giường. - Ở đây tối quá. Cần phải bật đèn lên...
Cha xua tay yếu ớt.
- Ồ không, ông đừng bật đèn vội. Tôi vừa nghe những lời cầu nguyện của thánh Boniface, và những lời lẽ khích lệ của Người vẫn còn vang vọng mãi trong lòng tôi...
- Bà Birdworth vẫn còn chưa đọc hết bài kinh cầu nguyện, - giọng nói nghiêm khắc của bà thứ hai vang lên.
- Ồ, ta biết, bà Bolivar, người con tinh thần quý mến của ta ạ, - cha Jeremiah nói lúng búng bằng giọng còn dịu dàng hơn nữa. - Trong quyển kinh vẫn còn lại bốn đoạn tụng chưa đọc, nhưng Chúa nhân từ sẽ rộng lòng thương xót kẻ đau khổ này.
Bác sĩ Fleet không còn chịu đựng và kiềm chế nổi mình nữa. Ông đang đói và mệt vì những công việc bận rộn đổ lên đầu ông ngày hôm nay. Ông nghiêng mình xuống sát môi của cha trưởng đạo chạm vào tai mình và nghe được những lời thì thầm quyết liệt: Fleet thân mến, xin ông tống khứ ngay những mụ ấy đi cho.
Đối với bác sĩ việc đứng thẳng người dậy cho có tư thế nghiêm trang chỉ là một việc làm trong giây lát.
- Thưa các bà, tôi đề nghị các bà để cho tôi được nói chuyện riêng với bệnh nhân, - bác sĩ nói với giọng oai nghiêm đoạn rung chiếc va-li làm cho những bơm tiêm và những ống dùng vào việc chuyên môn gì đó kêu leng keng như báo trước điều chẳng lành.
Hoảng hốt vì tiếng kêu leng keng của những đầu ampul thủy tinh chạm vào nhau, các bà vội đứng dậy.
- Các con của ta, ngồi đợi ở phòng khách nhé, - Jeremiah nói rên rỉ. - Lát nữa cha sẽ cần đến sự giúp đỡ quý báu của các con, có lẽ thế. Các con là những người hết sức hạnh phúc vì có tấm lòng trong sạch. Các con sẽ không bị trừng phạt.
Với vẻ trang trọng, ba bà bước ra khỏi phòng ngủ. Bác sĩ Fleet đóng cửa lại.
- Ông hãy quay hai vòng khóa và bỏ những mành cửa xuống.
Bác sĩ Fleet đã thực hiện đúng theo lời yêu cầu.
- Còn bây giờ... - bác sĩ vừa mới bắt đầu định nói, trong tay vẫn còn cầm sợi dây màu vàng dùng để buộc tấm rèm cửa bằng nhung mịn.
- Còn bây giờ, - Jeremiah nói tiếp bằng cái giọng của con người hoàn toàn khỏe mạnh, tung chăn ra rồi ngồi dậy ở mép giường, - xin phép cho tôi được cảm ơn ông vì ông đã cứu tôi thoát khỏi các bà ấy. Những con người mộ đạo đáng kính, biết làm thế nào được... Tự tôi yêu cầu họ ra thì không nên...
- Thế cha vẫn khỏe mạnh đấy chứ? - bác sĩ Fleet nói lẩm bẩm.
- Tôi không cảm thấy mình ốm tới mức phải nhận ra sự quấy rầy của các bà ấy, - giọng Jeremiah vang lên. - Thực vậy, từ sáng tới giờ tôi phải trốn mọi người sau cái bình phong... Ông hãy bật đèn lên rồi xem hộ...
Bác sĩ mò tìm được công tắc rồi bật cây đèn chùm bừng sáng lên soi rõ cha trưởng đạo đang ngồi. Lại một trường hợp thứ tư của cái bệnh dịch kỳ quái! Đối với bác sĩ Fleet bấy nhiêu trường hợp trong một ngày thì quả là nhiều.
- Khiếp quá phải không? - Jeremiah hỏi dò bác sĩ. - Tôi sợ phải nhìn vào gương, cứ y như là người ta đã đánh tráo tôi ấy. Tôi không thích cái kiểu biến dạng này chút nào. Trong quyển kinh thánh có nói: “Bộ mặt là kẻ làm chứng của anh”. Thế nhưng bộ mặt sưng vù này của tôi có thể làm chứng được cái gì? Trong một bài thơ của Browning có viết rằng: “Ô anh thân yêu, tâm hồn anh tỏa hương thơm ngát trên nét mặt anh”. Nhưng tôi làm sao có thể vác cái mặt như thế này ra trước những con người mộ đạo của tôi được. Họ sẽ có những ý nghĩ xấu về tâm hồn tôi. Fleet, tôi nói cởi mở với ông tới mức mà một bác sĩ về tâm hồn của con người có thể cởi mở được trước một bác sĩ về thể xác.
- Có chuyện gì vậy? - bác sĩ hỏi lạnh lùng. Ông chẳng quan tâm gì tới thơ trữ tình của Browning cũng như những đoạn văn trích trong kinh thánh. Ông thèm khát những sự kiện.
- Rồi ông sẽ biết, - Jeremiah nói, đoạn đứng dậy đi tới bên chiếc bàn cạnh cửa sổ. Cha nhấc bỏ chiếc khăn đậy trên những đĩa, bát đựng đồ ăn. - A a, - cha vui vẻ lau tay. - Các bà già ấy đã chăm lo đến tôi. Từ sáng tới giờ tôi vẫn chưa ăn, nhịn chay và chờ đợi ông. Nhưng khó khăn lắm Michael mới tìm thấy ông. Ông bận và tất nhiên, vẫn chưa ăn gì. Nào, ông ngồi xuống đây và ăn đi... Pâté thịt chim săn đấy. Bà Bolivar nấu thì tuyệt. Những bệnh nhân cũng giống hệt như các bà mộ đạo, họ làm ông không được ăn trưa đúng giờ.
- Cha nói đúng, - bác sĩ Fleet thở dài nói đồng thời ngồi xuống cạnh bàn. - Trong bát này, hình như là, món cá bơn băm?
- Phải, món biếu của bà Birdworth đấy. Thôi nào, chúng ta bắt đầu từ món cá bơn.
Jeremiah cầm cái ve lên, mở nút rồi ngửi:
- A ha, rượu ribes nigrum... Do bà Lotis chế. Mỗi bữa chỉ cần bốn ounce là đủ. - Cha rót vào cái ly nhỏ.
Hai hàm của cha đạo nhai như thể những chiếc cối xay lắp khít và đã được tra dầu nhờn đang nghiền những cùi bánh mì nướng kẹp bơ và pho-mát.
“Chức năng của bộ máy nhai của cha trưởng đạo, - về sau bác sĩ Fleet ghi lại, - vẫn hoàn toàn được bảo toàn, mặc dù hình dáng của hai hàm đã bị biến đổi đi rất nhiều, đặc biệt là hàm dưới, nó trở nên có dáng tròn”.
Ăn no rồi, bác sĩ Fleet nhận thấy mình chẳng muốn ngồi lại đây chút nào, vả lại giả thuyết của Fredson về tính chất lây của bệnh đã buộc ông phải đề phòng. Hôm qua bác sĩ đã nghe nói điều gì đấy về sự việc xảy ra ở đoàn xiếc lang thang, nhưng ông chẳng coi vào đâu những lời nói huyên thuyên ấy của dân thành thị. Nếu như con hươu cao cổ của đoàn xiếc có bị bệnh lở mồm long móng đi nữa thì cũng chẳng liên can gì tới bệnh tật của Jeremiah cũng như ba bệnh nhân khác còn lại. Khả năng thụ cảm của con người với bệnh lở mồm long móng nói chung không lớn. Nhưng hôm nay bác sĩ đã có thể khẳng định rằng, dù những hình thức bề ngoài của bốn trường hợp có nhiều vẻ khác nhau đi nữa thì chúng cũng giống nhau trên cơ bản: sự biến dạng của mặt dẫn tới việc con người trở nên không nhận ra được.
- Này, bác sĩ Fleet ạ, - đưa chiếc tăm xỉa răng vào miệng, Jeremiah nói, - ông nghe đây. Chuyện xảy ra ngay sáng nay. Tôi đang cạo râu trước gương, và mọi việc đều tốt lành. Tôi đã lau mặt bằng nước hoa và cất bộ đồ cạo vào trong hộp; vô tình tôi nhìn vào gương. Thoạt đầu tôi tưởng rằng do vô ý tôi đụng vào nó và làm nó nứt ra, nhưng thực tế lại chính là mặt tôi bị nứt. Như thể có một bàn tay kinh tởm nào đấy đã vặn hàm tôi về một phía. Tôi bấm chuông gọi Michael rồi nằm xuống giường. Nhưng sau khi biết tin tôi ốm, các bà mộ đạo đã đến bất ngờ với những quyển kinh cầu nguyện và những quà biếu. Bác sĩ ạ, giúp tôi với! Tôi đã quen với bộ mặt của tôi, và cả các bà mộ đạo cũng đã quen với nó. Họ khó mà quen được với việc nghe truyền đạo từ một người không quen biết. Tôi hiểu tâm lý họ, và ông hãy hiểu tâm lý tôi.
- Tôi muốn đi sâu vào thực chất vấn đề, - bác sĩ Fleet nói. - Theo ông thì việc phát sinh ra cái bệnh... biến dạng này có thể bắt nguồn từ đâu?
Jeremiah suy nghĩ.
- Tôi không thể hiểu được... Hôm qua... Hôm qua làm sao nhỉ? Một ngày bình thường. Tuy nhiên, gượm đã, bác sĩ... Không, đó chẳng qua chỉ là một giấc mơ...
- Cha hãy kể giấc mơ ấy xem! - bác sĩ Fleet ra lệnh.
- Hôm qua người quản gia của tôi là bà Hughes về thăm bà con thân thích ở Guul - Jeremiah bắt đầu kể. - Tôi ngồi đọc những bài giảng đạo đến tận bữa cơm chiều. Ăn xong, tôi mang sách tới đây và mở cửa sổ. - Nói đến đấy Jeremiah đưa tay ra kéo cái rèm cửa bằng nhung. - Ông thấy đấy, cửa sổ nhìn ra vườn. Thẳng phía trước mặt là sân chơi croquet, còn bên phải là vườn hoa hồng. Tôi đã đọc hết bài “Về sự khoái lạc của tồn tại”, tôi cởi quần áo và tắt đèn. Chỉ còn có ánh sáng phản chiếu của chiếc đèn cạnh nhà thờ là hắt được vào đây. Đó, như thế này này... - Jeremiah tắt đèn chùm. Bây giờ phòng ngủ chỉ còn được chiếu sáng bởi một vệt sáng từ ngoài hắt vào. - Tôi thấy hình như là tôi chỉ ngủ được hơn một tiếng, đây trên chiếc giường này, mặt quay về phía cửa sổ. Bỗng nhiên tôi tỉnh dậy vì những tiếng kêu ngoao ngoao, như thể một con vật nhỏ đã tợp cái gì đó. Mở mắt ra, tôi nhìn thấy bóng dáng lờ mờ của một con chó nhỏ chạy qua trên bệ cửa sổ. Hình như nó chạm vào chiếc cốc và làm cho cái thìa ở trong cốc kêu lên đánh keng một cái. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ tiếng kêu ấy. Trong khi tôi còn đang suy xét xem bằng cách nào mà con chó con lại có thể trèo lên cành cây sồi chìa về phía cửa sổ thì con vật lại ngoái đầu về phía tôi mà kêu meo meo rền rĩ...
- Cha muốn nói là: sủa chứ gì? - bác sĩ chữa lại.
- Không, ông Fleet ạ, không! Cái điều kỳ quái nhất trong giấc mơ này là ở chỗ chính con chó lại kêu meo meo như con mèo rồi biến mất.
- Rồi sao nữa? - Fleet hỏi.
- Tim tôi đập thình thịch. Không hiểu sao giấc mơ ấy làm tôi lo lắng hồi hộp. Tôi đến bên cửa sổ - mọi vật vẫn im lặng. Nói đúng ra, cành cây sồi có hơi đu đưa.
- Sau đó thì cha đã làm gì?
- Sau đó à? Như đã nói rồi đấy, tôi có phần hồi hộp và uống ừng ực hết cốc nước.
- Cái cốc nước để trên bệ cửa ấy à?
- Phải. Thế thì sao?
- Chẳng sao cả. Xin lỗi vì đã ngắt lời cha, - bác sĩ Fleet nói nhanh. - Nước trong cốc có ngon không?
- Chẳng có vị gì đặc biệt hết. Tôi không uống nước lã. Bà Hughes đã pha bằng nước đun sôi. Rồi thì tôi đóng cửa sổ, buông rèm và ngủ thiếp đi.
- Thế thôi à? - bác sĩ Fleet hỏi với giọng khàn khàn.
Phía sau cửa lớn vọng vào những tiếng nói của phụ nữ, Jeremiah sợ hãi nói thì thào:
- Đúng như vậy, bà ta đấy!
Mắt bác sĩ tỏ vẻ băn khoăn.
- Ai?
Jeremiah phẩy tay với vẻ chán ngán, gần như là tuyệt vọng.
- Bà Hughes. Có lẽ Michael đã đánh điện cho bà ấy về bệnh tật của tôi, và thế là bà ta lồng về. Tắt đèn đi, ông Fleet thân mến ạ.
Trong bóng tối lờ mờ Jeremiah vội trèo ngay lên giường. Ngoài cửa có tiếng đập tay thình thịch. Bác sĩ Fleet mò mẫm lục lọi mãi trong phòng để tìm cái va-li, bởi vì ông không còn nhớ mình đã để đâu.
- Chà, tôi đã trùm kín chăn rồi, - Jeremiah vừa rên rỉ vừa cựa mình trên đệm. - Ông mở hộ cửa ra cho bà ấy vào. Tôi có thể hy vọng cái chứng biến dạng này rồi sẽ chấm dứt chứ?
Bác sĩ đã tìm được va-li.
- Chế độ ăn uống, chế độ nghỉ ngơi và uống hợp dịch, - ông trả lời có vẻ sảng khoái. - Thưa cha trưởng đạo, kể từ hồi Hippocrates tới nay, ba môn thuốc thần thánh này chưa hề biết thất bại là gì. - Bác sĩ vặn khóa cửa. - Thưa bà Hughes, mời bà vào.
Bà quản gia của cha Jeremiah đáng kính xộc vào, bà vẫn chưa bỏ khăn voan đi đường khỏi mũ.
- Có gì nghiêm trọng không bác sĩ? Tại sao ông lại khóa cửa?
- Cha Jeremiah đáng kính bị mệt vì những công việc phục vụ nhân loại, - bác sĩ Fleet trả lời chắc nịch. - Những tư tưởng đạo đức và triết lý quan trọng mà cha đang bận tâm suy nghĩ đòi hỏi cấm không một ai được quấy rầy cha. Phải, ngay cả bà nữa, bà Hughes ạ. Ta cùng ra phòng làm việc đi. Tôi sẽ viết đơn thuốc. Bà hãy thực hiện những mệnh lệnh của tôi. Và phải nín lặng. Cha đáng kính đã thuộc lòng những câu kinh cầu nguyện và cha sẽ thầm đọc nó trong lòng mình. Việc cho những người ngoài vào thăm là không cần thiết.
- Ông tốt quá, thưa bác sĩ! - bà Hughes nói lắp bắp.
Bác sĩ Fleet thong thả trở về nhà, trầm tư và mệt mỏi. Lần đầu tiên trong cuộc đời chữa bệnh ông gặp những trường hợp như thế. Ta thường thấy những người mũi hếch và mũi dài, trán thấp và trán cao, và điều ấy chẳng làm ai lo sợ. Nhưng nếu người mũi hếch bỗng dưng trở thành mũi dài hoặc cằm của một người bất thình lình thay đổi hẳn hình dáng thì sao? Chỉ khi nào người ta vẫn quen thấy hàng ngày bỗng nhiên thay đổi đi mới làm ta lo lắng. Lẽ nào nét mặt của mọi người lại không đang biến đổi theo thời gian đó sao? Lẽ nào hiện nay nhìn ông già Orfi người ta vẫn nhận ra cái anh chàng trẻ tuổi ba mươi năm trước đã đến làm quen với Fleet? Và lẽ nào ngày nay nhìn bác sĩ Fleet béo mỡ và phì nộn, mũi đỏ, hai tay nổi đầy gân xanh, một người nào đó đã nhận ra chàng sinh viên trẻ tuổi ngày xưa? Vậy mà đó vẫn chỉ là một người - Horace Fleet.
“Có nghĩa là, - bác sĩ Fleet kết luận, - tính bất ngờ chẳng qua chỉ là một chức năng của thời gian”.
❖ IV ❖Những sự kiện ấy xảy ra ở Ashworth vào đúng cái ngày tôi đang dò dẫm tìm đường dưới mỏ Vòi Dài. Còn bây giờ thì tôi đang đứng trước tên bẫy chim.
- Vandock à? - tôi hỏi và buông hai nắm đấm ra.
Đây là một việc bất thường. Khó có thể tin được. Nhưng tên bẫy chim đã nhắc lại với tôi về các buổi gặp nhau trong công viên của “giáo sư rắn” và trong phiên tòa ở Rangoon, khiến tôi không còn gì để ngờ vực nữa. Phải, đó chính là Vandock! Tầm vóc hắn đã nhỏ đi hơn, nhưng chú ý nhìn và lắng nghe thì, có lẽ, vẫn tìm thấy những nét nào đấy hơi giống cái anh chàng ngày xưa đã thua cuộc tôi một dollar ở Bell Harbor lúc mới biết nhau.
- Vandock, anh thay đổi ghê gớm quá, - tôi thốt lên sau khi nghe tên bẫy chim nói xong, - nhưng anh vẫn không ngừng là một thằng đểu. Ngoài việc âm mưu ăn cắp ra, anh còn giết tiến sĩ Rolls...
- Thôi đi, Pingle, - Vandock nghiêm trang đáp lại.
- Câm đi! Vì anh mà suýt nữa tôi phải ngồi ghế điện. Mà bây giờ thì anh lại ở đây, tên ăn cắp rắn, tên cướp Carnero?..
- Pingle ạ, hãy bình tĩnh lại, - Vandock ngắt lời tôi. - Tôi không phải là Carnero và cũng không giết Rolls. Những câu hỏi và sự nghi ngờ của anh là hoàn toàn hợp lý. Chính tôi muốn làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan tới việc làm tôi và anh biến đổi đi như thế này. Do đó chúng ta đừng nói những chuyện chán ngán ấy nữa, mà cần phải lấy lại tinh thần. Ngồi xuống nào, anh bạn cũ của tôi, chúng ta sẽ bàn bạc tình hình xem sao.
Chúng tôi cùng ngồi xuống một tảng đá ở cạnh ngôi mộ của một người nào đấy, và Vandock bắt đầu câu chuyện.
- Pingle ạ, tôi hy vọng rằng, để đáp lại sự cởi mở của tôi, anh sẽ thành thật thừa nhận những điều gì tôi nói là đúng. Điều này có lợi cho quyền lợi chung của cả hai ta. Anh nghe nhé. Có một hãng buôn chuyên sản xuất và bán chất pha chế thuốc đã giao cho tôi nhiệm vụ tìm kiếm một giáo sư Milrois nào đấy và phải theo dõi ông ta. Tôi nghi rằng hãng ấy sợ Milrois lừa dối sau khi đã nhận thầu cung cấp nguyên liệu gốc dưới dạng nọc độc rắn mới khai thác. Họ trả công cho nhiệm vụ này rất hậu. Hàng tuần tôi phải thận trọng gửi các báo cáo về qua bưu điện. Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ một cách trung thực. Tôi đã tìm thấy Milrois ở New York, bấy giờ ông đang tiến hành hội đàm với các công ty nhập khẩu lớn nhất. Bởi vì nhiệm vụ của tôi là phải không ngừng theo dõi ông, nên tôi đã theo vết ông ngay cả ở Bell Harbor. Milrois bày ra cái kế đi tắm biển. Tôi thấy ông ta đang lẩn vào những làn sóng, thế mà đúng lúc ấy lại xuất hiện một thanh niên cân đối và ngồi xuống cạnh tôi, phá rối tôi quan sát Milrois tắm.
- Đó là tôi ư? - vô tình tôi bật lên câu hỏi.
- Pingle ạ, anh đoán giỏi thế là cùng, - Vandock trả lời. - Nhưng tính bướng bỉnh cũng là một trong toàn bộ những đặc điểm tính tình của anh. Phải đẩy anh lên cầu để lột trần những lời bốc phét, làm như anh có thể nhảy tạo hình được.
- Chính tôi đã nhảy được. Còn anh thì thua cuộc, Vandock...
- Hãy cầm lấy đồng dollar của anh, - hắn nhếch mép cười. - Tôi mang theo cái đồng tiền thắng cuộc của anh trong túi áo gi-lê đã ba năm rồi. Nhưng Pingle ạ, bằng cú nhảy của mình, anh đã làm hỏng hết mọi việc của tôi. Ở bãi tắm người ta chạy nhốn nháo lên. Clips bám chặt lấy anh, và rồi thì tôi đã nhìn thấy ở cửa rạp xiếc “Colosseum” những tấm áp phích có vẽ hình anh. Bấy giờ tôi nghĩ rằng anh là con người khác hẳn với cái anh chàng vờ vĩnh ở bãi tắm. Nhưng cái chính là Milrois đã chìm nghỉm dưới nước...
- Tôi đã cứu ông ta, - tôi nói vẻ quan trọng và đồng thời cất đồng dollar bằng giấy đã nhàu nát vào trong túi.
- Sao? - Vandock ngạc nhiên.
- Đúng thế, - tôi nói. - Tôi không định nhảy từ trên chiếc cầu quỷ quái ấy xuống để cho anh vui lòng! Nhưng phía dưới một người đang chìm xuống đáy, và tôi phải cứu người ấy lên.
- Rồi sao nữa?
- Tôi túm lấy tóc ông ta lôi lên. Một chiếc xuồng nhỏ chạy đến rồi đem ông ta đi.
- Thế là về phía anh, lại một việc làm nữa không đúng lúc, - Vandock nhăn mặt. - Quần áo của Milrois cứ để mãi trong ca-bin cho đến khi một người cảnh sát đến mang đi. Anh hiểu chứ? Tôi không tìm thấy tử thi của Milrois trong các nhà xác. Bởi vì nếu ông ta chết đuối thì thế nào cũng có xác ở trong đó. Nhưng những nhân viên trong văn phòng của các hãng thương mại hay bép xép vô cùng, và vì thế tôi đã tìm lại được Milrois ở trong ổ rắn của lão. Đối với chúng ta mà nói, cái chỗ mới khủng khiếp chứ. Milrois sống ở đó, như anh biết đấy, khá kín đáo. Có một lần ông ta đi chơi xa, hai vai đeo ba-lô. Việc này làm tôi chú ý, và tôi theo dõi ông ta từ một khoảng cách khá xa. Nhưng Pingle ạ, anh thử tưởng tượng xem, ông ta mò vào rừng mà lại còn vào cái làng đang có bệnh dịch hạch. Thật hú vía, may mà bọn lính canh ngăn tôi lại và đuổi đi. Tôi vẫn còn nhớ, bấy giờ tôi có những cảm giác thật ghê tởm. Tôi đặc biệt thấy khó chịu khi phải thừa nhận rằng Milrois đã chết ở trong làng. Trung sĩ Boro trong đồn đã báo tin chắc chắn là người đeo ba-lô định thoát ra khỏi làng dịch hạch, nhưng một vài phát súng bắn chỉ thiên đã buộc ông ta phải quay lại, còn mảnh giấy cài theo mũi tên thì cảnh cáo ông phải sẵn sàng mà đón nhận lấy cái giờ phút cuối cùng.
Câu chuyện của Vandock hoàn toàn đúng sự thật, và tôi quyết định không ngắt lời hắn.
- Bây giờ, Pingle ạ, anh thử tưởng tượng xem tôi kinh ngạc đến như thế nào khi tạt vào trại rắn với tính cách một người bán rắn, tôi vẫn gặp Milrois hoàn toàn khỏe mạnh. Ông ra lệnh cho người giúp việc mình là cô Liz trả tôi ba paise một con và nói để tôi cuốn xéo đi. “Chúng tôi đã có đủ rắn jirr cho đến mùa thu, thôi anh không phải bắt nữa”, cái cô Liz ấy tuyên bố với tôi như vậy, Pingle, anh nhớ chứ, trước mặt cô ta bao giờ anh cũng chỉ có việc là cụp đuôi xuống. Nhưng dù sao thì tôi vẫn cứ phải theo dõi hành vi của Milrois... Chà, Pingle ạ, chưa bao giờ anh ở vào tình cảnh khó xử của một kẻ trung gian trong việc buôn bán và chắc gì có thể thấy được, đôi khi loại người này phải hiểu biết toàn diện về mọi việc đến như thế nào. Ngày xưa, lúc còn bé tôi đã sống ở Java rất lâu. Ở đấy cha tôi làm việc trong vườn thực vật. Pingle ạ, đấy mới thật là thiên đường của tự nhiên! Tôi mơ ước được về đấy một lần nữa. Trước đây tôi với các bạn cùng lứa tuổi bắt rắn rất giỏi, và điều này đã có lợi cho tôi khi ở Rangoon. Tôi đã nghĩ cách bắt rắn jirr của Milrois rồi lại đem bán cho ông. Tôi cho rằng trong cái trò chơi ấy sẽ không có thua. Nhưng tôi đã lại chạm trán anh ở công viên, và điều đó đã làm rối tung những ý định của tôi. Tuy nhiên, anh là kẻ rất thích những câu chuyện nghe bùi tai và dễ dàng chịu ảnh hưởng của người khác. Do đó, nhờ sự giúp đỡ của anh tôi đã biết rõ rằng Milrois đã ra đi cùng người cháu là Rolls. Cho tới bây giờ tôi vẫn phải cám ơn anh vì việc này...
- Có gì đâu... - Bấy giờ câu chuyện này đã làm tôi rất đau khổ, còn bây giờ thì có nghĩa gì nữa. - Anh cũng đã giúp đỡ tôi bằng Mắt Bò Đực của anh, - tôi nói.
- Pingle ạ, làm gì những chuyện vặt ấy. Ơn trả ơn thôi. Cái người đưa anh ra khỏi Rangoon chẳng qua là ông chủ căn phòng tôi thuê. Một con người rất sẵn lòng giúp đỡ kẻ khác. Chính ông ta đã che giấu tôi khi tôi đang vội vã chạy thoát ông thẩm phán. Nhưng mà chúng ta đã lạc đề rồi đấy. Qua anh tôi biết được Mazatlán, và rồi tôi đã tới đó để tìm Rolls. Tôi cũng chắc mẩm rằng qua ông ta tôi sẽ biết rõ Milrois chuồn đi đâu. Kẻ trung gian thương mại như tôi sống nhờ vào những nhiệm vụ đã được giao phó. Và Pingle ạ, thật là khó chịu khi một công việc có lợi mà anh đang sống dựa vào đấy bỗng nhiên tuột khỏi tay. Rồi sau đó, phải thừa nhận, chuyện này đụng chạm đến lòng tự ái của tôi nữa. Đường sá xa xôi tôi còn chẳng quản nữa là cái đất Mexico nóng nực. Ở Mazatlán người ta đã chỉ cho tôi ngôi nhà của Rolls, và cái ông tiến sĩ ấy đã sẵn lòng nhận tôi vào làm kẻ hầu hạ trong nhà, chỉ vì tôi đã tới chỗ ông trong vai một kẻ cầu xin khốn nạn. Trước đây tôi chưa gặp ông ta bao giờ; ông ta trông khác xa với vẻ mặt của ông chú Milrois. Có điều là cổ họng của ông ta không được ổn, và ông ta cứ hay ho như thế này: hừm... hừm... Ông ta hút thuốc lá Thổ trộn lẫn với thuốc Madurese. Tôi rất quen cái mùi thuốc lá này. Rolls ra cho tôi hai điều kiện: không được rời nhà đi đâu và không được cạo râu. Điều này làm anh ngạc nhiên phải không? Tôi cũng ngạc nhiên vì cái tính kỳ quặc ấy. Nhưng nếu một người có tiền và cho anh việc làm thì người ta có quyền làm những việc kỳ quặc. Rolls yêu cầu tôi không được cạo râu! Tự ông ta sẽ cạo khi nào ông muốn.
- Hừm, hừm... - tôi ho và nhớ tới Dobby, tôi hỏi: - Ngoài ra, trong nhà ông Rolls không có lấy một mảnh gương nào phải không?
- Sao anh biết? - Vandock nheo mắt lại nhìn tôi với vẻ ngờ vực. - Ấy thế mà, sự thực là đúng như vậy. Chà, tôi đồng ý với mọi điều kiện, và những ngày tháng của tôi cứ lặng lẽ trôi qua. Người ta đem thức ăn từ nhà ăn lên cho chúng tôi, mặc dù tôi chẳng thích thú gì những món ăn Mexico. Ở đấy thì cái gì cũng đem rán với dầu olive. Pingle ạ, tôi xin thề là lúc nào cũng sẵn sàng cám ơn cái số phận đang dẫn dắt tôi tới một bến bờ êm ả. Sau khi thu dọn các phòng và hâm lại bữa cơm trưa, tôi đã no nê, nằm dài ra trong phòng mình ở phía dưới, anh đã biết cái phòng ấy...
- Phải, biết quá đi chứ, - tôi trả lời với giọng mỉa mai độc ác. - Thôi đi Vandock, đừng nói ngoắt ngoéo nữa...
- Lạy Chúa, tôi nói ngoắt ngoéo để làm gì một khi tôi đang kể tóm tắt các sự kiện một cách chính xác nhất! Suốt ngày Rolls ngồi viết trong phòng mình ở trên gác, còn tôi, anh hiểu không, phải làm cách nào đó biết được tin tức về người chú ông ta để rồi lại lên đường nối lại mối quen biết cũ. Rolls đặc biệt không ưa chuyện trò. Tôi đã thử hỏi dò ông ta về người chú Milrois, theo dõi những thư từ gửi đến, nhưng... Pingle ạ, quả là không may! Thực vậy, người ta có thể tiến hành trao đổi liên lạc với nhau bằng những bức mật mã công bố trên các báo, và Rolls chỉ nhận báo. Nhưng tôi có thể làm gì được trong cái cảnh bị giam cầm bất đắc chí này, nếu như muốn bỏ một bưu thiếp vào hòm thư cũng không thể nào làm được! Rolls đã cạo râu cho tôi sau một tháng làm việc, lúc râu cằm của tôi đã mọc cứng ra. Lúc đầu tôi cứ thấp thỏm lo cho cái tai của mình. Nhưng tiến sĩ Rolls tỏ ra là một thợ cắt tóc hết sức tài ba, một thợ cạo sành nghề chính cống. Thế là gần bốn tháng đã trôi qua. Có một lần vào buổi sáng, sau khi tỉnh dậy, tôi hết sức kinh ngạc vì sự lặng lẽ kỳ lạ ở trong nhà. Không còn thấy vang lên tiếng chân bước của Rolls ở trên gác nữa. Thường thường ông ta thích đi bách bộ trong phòng làm việc vào những lúc tạm nghỉ. Cũng không thấy có tiếng chuông gọi như mọi ngày của ông. Bấy giờ tôi mới lên gác... Chúng ta hút cái đã, Pingle ạ. Tôi có ít thuốc Madurese, đã trộn thêm sợi khô cho nặng. Cuộn thuốc đi, Pingle...
Vandock ngừng kể để đãi tôi thuốc lá.
Sau khi đã rít mấy hơi thật dài, hắn lại tiếp:
- Ồ Pingle ạ, trong phòng làm việc của Rolls tôi bắt gặp một cảnh tượng khủng khiếp! Mọi vật đều bị đổ vỡ ngổn ngang. Trên sàn và trên tường thấy những vệt máu tươi. Ý nghĩ đầu tiên của tôi - Rolls bị giết! Và tôi bổ đi tìm tử thi của con người bất hạnh. Lần theo dấu vết thì rõ ràng là tên giết người hoặc những tên giết người đã kéo ông xuống vực qua khu vườn...
- Rồi quẳng xuống biển, - tôi nói nhanh, rùng mình khi nghĩ lại những giờ phút khủng khiếp của tôi ở Mazatlán.
- Tôi cũng đã nghĩ thế, - Vandock đồng ý. - Nhưng khi những cảm giác đầu tiên đã dịu xuống, tôi quyết định phải lý giải mọi việc chung quanh một cách tỉnh táo. Nếu tôi đâm bổ đến đồn cảnh sát ngay... Chắc hẳn anh cũng thừa biết, điều đó có nghĩa là thế nào - cảnh sát Mazatlán ư? Hay là đến lãnh sự quán... Và sẽ không ai tin tôi hết.
Tôi nắm hai tay lại:
- A, và thế là anh chạy chứ gì?
- Không, Pingle. Tôi cởi quần áo và nhảy xuống nước. Nhảy xuống đúng cái chỗ ở phía dưới vực, nơi mà người ta quẳng...
- Rolls?
- Không. Cái túi đựng đá. Tôi tìm thấy nó ở dưới đáy, một cái túi đẹp màu xanh thẫm, hợp với màu rong biển một cách kỳ lạ, tôi nhớ tới một ông thẩm phán sáng suốt, ông ta tuân theo một nguyên tắc là, nếu không phát hiện được tử thi thì giả thuyết về một vụ án mạng là không nhất thiết. Và bấy giờ tôi đã trở về nhà với một tâm trạng hoàn toàn bình tĩnh. Lạ thật, các phòng đều vấy máu. Có ba người bị giết thì cũng chỉ ngần ấy máu là cùng. Những tia máu vọt lên sáu bức tường. Hễ cứ tưởng tượng đến khung cảnh của vụ giết người ấy thì đều phải giả thiết rằng xương sọ của Rolls đã bị đập vỡ ba lần liền ở trong ba phòng. Vậy thử hỏi, sau khi đã bị tử thương trong thư viện, thì làm sao sau đó ông lại vẫn tiếp tục chống đỡ ở trong phòng làm việc được? Ở đây ông lại bị đập vỡ đầu, và ông đã bỏ chạy vào phòng khách cạnh cầu thang, và ở đây ông lại bị giết một lần thứ ba nữa ư? Vậy mà tôi chẳng nghe thấy gì, mặc dầu tôi ngủ ngay phía dưới phòng làm việc?
- Anh cũng hiểu biết về khoa hình pháp ư? - vô tình tôi nêu lên một câu hỏi.
Vandock nhún vai.
- Không... Ý nghĩ lành mạnh đã đưa tôi tới cái logic của sự vật. Tôi cho rằng máu đã được phun lên một cách cố tình. Bởi vì Rolls có thể có máu lưu trữ trong các bình cầu. Có thể lấy một ít máu trên tường rồi đem phân tích hóa học và soi qua kính hiển vi thì sẽ biết chính xác máu đó thuộc loại sinh vật nào. Thậm chí có thể biết hơn nữa: sẽ xác định được nhóm máu. Nhưng tôi không có thời gian cạo máu khô trên tường. Tôi cân nhắc nhanh chóng và bắt đầu hiểu rằng chính Rolls... Đúng, đúng, Pingle ạ! Rolls có lý do để hành động như vậy. Nhưng kể cả tên phạm tội cũng như kẻ giả vờ đều để lại những vết tích và dấu hiệu nghề nghiệp. Rolls phun máu như vậy là quá mức. Nhưng khi tôi phát hiện được hai gói ở cạnh phòng tôi, trong đó có những thứ không có giá trị, thì đối với tôi giả thiết về một vụ giả vờ giết người và cướp bóc đã trở thành hiển nhiên. Vậy thì ai sẽ có lợi trong việc giả vờ giết Rolls và hướng việc ngờ vực vào tôi? Bởi vì nếu đã giết Rolls thì tại sao lại tha tôi? Nếu họ đã thực hiện được việc bịt đầu mối bằng cách quẳng xác xuống dưới nước một cách thuận lợi thì tại sao họ lại không mang đi những của đã bị cướp đoạt? Chỉ có một kết luận: Rolls muốn thoát khỏi tôi nên đã lập mưu nộp tôi cho cảnh sát, còn chính ông ta thì chuồn đi, cũng giống như “giáo sư rắn” - chú ông ta vậy. Nhưng bấy giờ tôi không những phải thoát khỏi tay cảnh sát, mà còn phải đuổi kịp Rolls nữa. Tôi vào phòng tắm và thay quần áo thì lại vớ được ngay cái gương bỏ túi của Rolls để quên. Tôi soi vào và... không nhận ra mình nữa. Bây giờ đây anh có thể thấy rõ tôi có giống Vandock ngày trước nữa hay không.
- Một chút thôi, - tôi khẳng định.
- Hoàn toàn không giống, - Vandock đau khổ lắc đầu. - Và qua cửa sổ tôi thấy ở phía xa bọn cảnh sát đang tụ tập trên phố. Bởi vì nếu Rolls quyết chí định giết tôi thì chính ông có thể gọi điện báo trước cho viên giám đốc sở cảnh sát biết, đúng thế không? Chà, trong trường hợp như vậy thì thường là chẳng đắn đo gì nữa, mà chỉ có chạy thôi. Pingle, vừa đúng lúc ấy thì anh đến bên cửa vườn...
- Anh đã khôn khéo lừa tôi vào, đồ quỷ! - tôi rùng mình vì những hồi ức khó chịu.
- Nhưng anh bảo tôi biết làm thế nào? Những biện pháp khôn khéo bao giờ cũng đơn giản. Tôi không thể xuất đầu lộ diện được. Anh sẽ không nhận ra tôi. Việc gặp gỡ anh sẽ làm tôi chậm mất, và dám chắc rằng cả hai chúng ta đều không thoát. Tôi cho rằng nếu cảnh sát bắt gặp anh một mình ở trong nhà thì anh cũng dễ dàng chứng minh mình vô tội. Tôi thừa nhận rằng đây là một kế táo tợn, và tôi không có tội nếu như anh đã gặp khó khăn. Trên các báo người ta đã đăng những tin tức về vụ án Carnero với tất cả mọi chi tiết... À mà này, Pingle, anh có biết cái gì đã cứu thoát anh không?
- Không.
- Cái việc ở trong tù anh đã không trả lời mẩu giấy của Bigden - bạn của Carnero chính cống - và đã quyết định tự bào chữa trước tòa. Thế giới tội phạm rất thích thú việc này. Người ta nói rằng bọn kẻ cướp ở đó đã đến xem xét xử và hình như chúng đã xì tiền ra thuê luật sư cho anh.
- Do đâu anh biết được những chi tiết ấy, Vandock? - tôi la lên và nhìn vào mặt tên bẫy chim với vẻ ngờ vực.
- Tất cả những chuyện ấy đều đăng trên các báo, Pingle thân mến ạ. Nhưng bây giờ điều đó không quan trọng. Còn lúc ấy, khi đã bảo anh vào ngồi trong phòng của mình rồi, trong ý nghĩ, tôi thầm xin lỗi anh, và trườn từ trên vực xuống nước. Tôi gấp lắm. Rolls ra đi trước tôi ít nhất cũng ba tiếng rồi. Dân đánh cá ở Mazatlán là những người phúc hậu, và chiếc thuyền buồm của người đánh cá Quartaro xuất hiện rất đúng lúc, nó đã kéo tôi lên. Khi tôi đã sang được tới bờ vịnh bên kia, gần mũi Luke, thì tôi được biết tin về vụ đắm tàu “Buksus” và biết rằng buổi sáng một chiếc xuồng đánh cá đã chở một người Mỹ mang va-li rời khỏi Mazatlán. Và thế là tôi thấy yên tâm. Tôi lao theo vết Rolls như một con chó săn. Tôi đã đi cùng ông ta trên một chuyến xe lửa, nhưng đến một đoạn đường cong ở Gurlwood trước một cái cầu ông đã nhảy xuống. Tôi đành phải nhảy xuống ở phía bờ sông bên kia. Tôi đã đuổi kịp ông ta ở Rawlins, khi ông lên chiếc máy bay gấp trên tuyến đường Frisco-Renault-Elco Chicago. Tiền ư? Pingle, lẽ nào anh không biết rằng một hãng buôn không hề ngần ngại trước bất cứ khoản chi phí nào một khi nó cần phải theo dõi đối thủ? Tôi đến Wellefong trước Rolls, sau khi máy bay tôi vượt máy bay ông trên các vùng l?