← Quay lại trang sách

Chương mười ❖ I ❖

Mối băn khoăn cứ đeo đẳng tôi mãi. Những sự việc bất ngờ huyền bí xảy ra trong cái đêm có người nào đấy ngó nhìn vào tôi ở trong phòng là nghĩa thế nào? Tại sao Dobby lại có vẻ như thất vọng khi thấy tôi bị bắt dưới gốc cây dẻ? Và Dobby lại quen biết tiến sĩ Rolls đã quá cố mới kỳ lạ chứ. Có lẽ không phải ông ta đã khám phá ra loại virus ở những “cây gai của người Bushmen”, mà là Rolls tội nghiệp, chính con người sau đó đã bị thiệt mạng... Mà nếu quả như thế thì...

Tuy nhiên làm việc trong phòng thí nghiệm rất thú vị.

Trong một vài ngày chúng tôi đã tách cồn ra khỏi chất chiết xuất, và, cuối cùng, Dobby đã thu được ở đáy bình cầu gần một ounce* chất keo dầu thẫm.

- Nhưng vẫn chưa xong đâu, - ông vừa nói vừa ngắm nhìn sản phẩm đã thu lượm được. - Ở đây virus vẫn còn nằm lẫn lộn với một lượng các chất đạm khác nữa. Cần phải tách nó ra.

Và lại một lần nữa sản phẩm được đem hòa tan vào các thuốc thử, rồi dung dịch được đem lọc và đưa vào máy ly tâm.

Máy ly tâm của Dobby quay với tốc độ sáu mươi nghìn vòng phút, và chỉ sau khi để máy làm việc ba tiếng liền Dobby mới ngắt cầu dao và lấy ống nghiệm ra khỏi máy.

- Đó là virus ở dạng thuần khiết! - Dobby nói vẻ mừng rỡ và cầm ống nghiệm lên. - Anh nhìn này.

Một chất bột kết tinh màu hơi vàng lắng dưới ống nghiệm.

Kim của cái cân điện tử có độ nhạy cao chỉ vào số: 14,55701.

- Chúng ta sẽ trừ trọng lượng của ống nghiệm đi, - Dobby nói. - Nó bằng 14,55 gam. Chúng ta sẽ làm hiệu chỉnh cả về độ ẩm và áp lực không khí nữa. - Ông hơi nheo mắt lại rồi nói: - Gần mười lăm miligam virus. Anh đưa sáu con thỏ ở lồng số chín lại đây.

Nửa giờ sau tôi đã lần lượt xách tai thỏ đem lại cho Dobby. Ông đã kịp hòa một phần virus vào dung dịch sinh lý và dùng bơm tiêm tiêm cho thỏ. Phần dung dịch còn lại trong bình cầu được đưa vào bộ điều nhiệt. Tôi đốt đèn Bunsen. Dobby thận trọng gắn đầu ống tiêm đựng virus lại và đưa vào bộ sưu tập của mình.

Tay ông hơi run run khi dùng bút chì bằng sáp viết lên nhãn ống tiêm: “Cây gai của người Bushmen. V. 12”.

- Samuel ạ, bây giờ tôi mới yên tâm, - Dobby nói với vẻ thỏa mãn ra mặt. - Toàn bộ số lượng virus tôi lấy được trước đây đã dùng vào thí nghiệm hết. Vậy mà tôi thì lại cần có một bộ sưu tập đầy đủ các virus. Và lại còn phải giúp anh nữa chứ. Mới rồi, rốt cuộc tôi đã nhận được các quả gai gửi từ Ugogo tới qua văn phòng thương mại ở Trung Phi.

- Để làm việc này ông phải trả nhiều tiền lắm không? - tôi hỏi.

Dobby vẫn nhìn tôi với cái vẻ như trước mà tôi vẫn thích.

- Hừm... Một khi đã làm việc vì khoa học thì đừng tính toán tới việc chi tiêu... - Ông nói thêm: - Với khoa học không được tiếc cả công sức lẫn tiền của. Sau một tuần lễ tiêm liên tục thì huyết thanh thỏ sẽ tích lũy được thể đối kháng virus và sẽ chế tạo được thuốc mới chữa bệnh cho anh.

- Thưa ông thế thì tuyệt quá, - tôi trả lời. - Vậy thì công trình của ông sẽ được kiểm nghiệm lại qua bản thân tôi. Phải nói rằng trước đây đã có lúc tôi muốn được tham gia vào một thí nghiệm kiểu như thế.

- Hừm... Thế à?

- Vâng, thưa ông. Lord Pucklington ở lâu đài Oldmount...

- À, cái ông làm công tác khoa học không chuyên nghiệp bất hạnh bị đuổi ra khỏi vương quốc chứ gì? - Dobby hỏi. - Cả anh cũng biết ông ta à?

- Không, thưa ông. Chưa bao giờ tôi được thấy ông ấy. Nhưng câu chuyện...

- Câu chuyện về những tội lỗi của ông ấy truyền đi khắp thiên hạ, - Dobby nói vẻ giễu cợt. - Và ông ta đã chết một cách còn thảm hại hơn cả Rolls bất hạnh nữa kia.

- Thảm hại hơn cả một người bị giết hay sao? - tôi thì thầm.

- Hừm... Về việc này người ta đã đăng trên các báo. Ông ta không chịu nổi nỗi bất hạnh. Vỡ tim.

- Tội nghiệp! - tôi chân thành đáp.

❖ II ❖

Một tuần lễ sau, huyết thanh đã sẵn sàng, và tôi, sau khi đã tiêm loại thuốc chống virus mới làm ra, đang nóng lòng chờ đợi kết quả chữa bệnh.

Phần lớn thì giờ Dobby ngồi sau bàn trong phòng làm việc để sắp xếp lại bản thảo quan trọng của mình. Ông ít đến làm việc ở phòng thí nghiệm, chỉ thỉnh thoảng mới tới và quan sát những công việc tôi làm.

Ông dạy tôi làm các phản ứng hóa học với các chất đạm, và tôi đã làm được những phản ứng này rất tốt.

- Samuel ạ, mẩu bánh mì của anh sẽ luôn luôn được bảo đảm. Khoa học không phải chỉ cần những người phục vụ trong phòng thí nghiệm, mà còn cần đến cả những người thích làm những thí nghiệm sinh động. Lĩnh vực nghiên cứu virus là rộng lớn vô cùng. Bất cứ người nào làm công tác nghiên cứu virus đều sẽ lấy làm vui sướng có được một người như anh giúp việc.

Tôi bắt đầu thấy thích nghiên cứu virus. Dobby uyên bác hơn nhiều so với cái ông “giáo sư rắn” mà bây giờ tôi thấy ông ta chỉ quan tâm tới thu nhập của cái trại ghê gớm của ông là nhiều hơn. Qua các bài giảng của Dobby tôi đã khai thác được nhiều kiến thức đầy đủ và thú vị.

Nếu mới chỉ tách được virus ra ở dạng thuần khiết thôi thì còn ít quá. Dobby đã tìm ra cách làm thay đổi những đặc tính của chúng.

- Samuel ạ, virus là những thể chất đạm, - có lần Dobby nói. - Phân tử của chất đạm, theo tôi hiểu, gồm một nhân trung tâm và những chuỗi bên. Cả Erlich cũng nghĩ như vậy. Chúng là những chuỗi hoạt động. Chúng là chất cơ bản muôn hình muôn vẻ của các thể chất đạm với những đặc tính kỳ lạ của chúng là thường xuyên trao đổi với môi trường xung quanh. Tôi thường tự hỏi: “Ta biết cấu tạo hóa học của các chuỗi. Ta biết cấu tạo phân tử của virus bệnh khảm thuốc lá. Vậy thì đặc tính lây bệnh của virus phụ thuộc vào sự có mặt của chuỗi nào?” Tôi vứt đi một chuỗi. Nhưng virus vẫn hoàn là virus. Có nghĩa là mầm lây không phụ thuộc vào chuỗi này. Tôi đã thử đi thử lại nhiều khả năng, và, rốt cuộc, sự việc không đến nỗi quá phức tạp như tôi tưởng. Trong mỗi virus có một chuỗi mà tôi gọi là chuỗi ký sinh. Qua chuỗi này phân tử virus có thể thực hiện việc trao đổi với môi trường ngoài dễ dàng hơn cả, nó chọn lấy ở môi trường ngoài không phải chỉ những chất đơn giản riêng lẻ, mà là cả những tập hợp nguyên vẹn của các phân tử chất đạm khác. Nhưng để làm được việc đó phân tử virus phải phá hủy được phân tử chất đạm khác không phải là virus như chúng ta vẫn thấy trong tự nhiên. Phòng nuôi thú thí nghiệm của tôi là gồm những động vật mà tôi đang dùng để thử những dạng virus biến đổi khác nhau. Tất cả là như vậy đấy...

- Xin lỗi ông, - tôi nói trong khi đang nghĩ tới những điều Dobby đã nói, - ông vừa nói tới những phân tử, tới những chuỗi bên. Và ông cứ nói như thể ông đã nhìn thấy chúng vậy. Lẽ nào có thể nhìn thấy ư?..

- Có thể chứ, - Dobby trả lời nghiêm trang, - không phải qua kính hiển vi bình thường, mà bằng một máy đặc biệt. Nó đây.

Dobby đi ngay đến bên tủ kê phía trên máy ly tâm và mở cánh tủ đó đề chữ “E.M.”.

Trong tủ thấy có một máy lớn có vỏ bọc.

- Samuel ạ, trước mắt anh là một kính hiển vi điện tử. Những sóng ánh sáng thô quá khiến mắt chúng ta không thể thấy các phân tử chất đạm được. Nhưng nếu chúng ta dùng dòng điện tử thay cho các tia sáng thì chúng sẽ làm hiện lên kính ảnh hình phóng đại tương ứng của các phân tử ở tiêu bản. Cũng bằng cách đó người ta dùng dòng các tia Röntgen để có được hình ảnh sự sắp xếp nguyên tử trong các tinh thể. Trong kính hiển vi điện tử vấn đề cũng không có gì phức tạp hơn.

Dobby tháo vỏ máy rồi đặt nó lên bàn thí nghiệm.

Ông nói:

- Tôi lấy một lượng nhỏ virus, đặt lên một phiến celloidin rồi đưa phiến đó, đây, vào trong ngăn dưới này. - Dobby chỉ cho tôi thấy một ngăn. - Sau đó tôi đóng kín lại rồi mở bơm khí nén. - Ông bơm hết không khí ra khỏi ngăn kín để không gì có thể làm ảnh hưởng đến dòng điện tử chạy qua ngăn. Nếu không các phân tử khí của không khí sẽ làm sai lệch ảnh. - Đây nhé tôi đưa hộp tối đựng kính ảnh vào đây. - Dobby chỉ cho tôi. - Tiêu điểm quang đã được đo trước và cố định. Khi đã sắp đặt đâu vào đấy rồi thì đóng mạch điện lại. Dòng điện trong mạch kín sẽ tạo ra một từ trường. Những điện tử sẽ chạy theo một hướng xác định. Chúng đi qua tiêu bản, sau đó đi qua trường điện từ và chiếu ảnh của cấu tạo virus siêu hiển vi nhỏ bé nhất, nghĩa là chiếu ảnh của các phân tử của nó lên kính ảnh. Thời gian lộ sáng kéo dài không quá mười giây. Tôi ngắt dòng điện. Bây giờ chỉ còn có việc tráng phim, và sau đó thì rửa ảnh...

Với lòng vô cùng khâm phục tôi nhìn chiếc máy “E.M.” - một thành tựu tuyệt vời của tư tưởng khoa học.

- Không phải tôi đã phát minh ra kính hiển vi điện tử. Nhưng do sự chỉ dẫn của tôi, cấu tạo của chiếc máy này đã phần nào đơn giản hơn, - Dobby nói thêm với vẻ khiêm tốn. - À, và đây... - Dobby lấy trong ngăn bàn ra một vài tấm ảnh và đưa tôi xem: - Anh xem đi. Ảnh của các phân tử virus đấy. Đây là các phân tử virus bệnh khảm thuốc lá. Anh thấy không, chúng giống như những cái que con. Những đầu nhọn của chúng ngoắc vào nhau thành những sợi dài. Những tính toán trong phòng thí nghiệm cho thấy rằng trọng lượng phân tử của nhiều virus rất lớn, tới hàng triệu đơn vị.

Tôi nhìn tấm ảnh. Vậy thì lời giải đáp cho bệnh khảm là ở chỗ nào? Đó, chính những cái que nhỏ ấy đã làm nhiễm bệnh cây cối ở các đồn điền Ấn-độ, đã tạo ra những vòng chết trên lá thuốc và sự tê cứng của thân...

Khoa học đã phải làm tôi kinh ngạc bởi sự vĩ đại của nó đã để lại dấu ấn trên những tấm ảnh giản dị này. Bây giờ đối với tôi, con đường kiếm sống riêng cho bản thân với những cú nhảy trên vũ đài và sự tìm kiếm những đất nước kỳ lạ có nhiều báu vật phi thường thật là nhỏ nhen biết bao!

Tôi xem lại tập ảnh lần nữa rồi giúp Dobby cho máy “E.M.” vào hộp trong tủ.

❖ III ❖

Trong chuồng số sáu là mèo, trong chuồng số bảy là những chú chó săn thỏ chân cong, còn trong chuồng số tám là những chú chó xồm nhỏ lông đen.

Tôi nhớ là sau khi làm quen với máy “E.M.” tôi tới phòng nuôi thú để xem những chú thỏ của tôi sống ra sao. Qua một ngày nữa tôi sẽ được tiêm chủng lần cuối cùng. Chiếc gương bảo tôi rằng hiện giờ hình dáng bề ngoài của tôi vẫn chưa có gì thay đổi đặc biệt.

Các chú thỏ vẫn đang ních cỏ mà tôi cắt ở bãi đất trống về cho chúng, và không có triệu chứng gì đặc biệt.

Bỗng nhiên tôi nghe thấy tiếng meo meo gì đó rất kỳ lạ. Tôi đến bên chuồng nuôi mèo. Những chú mèo nằm rất yên lành. Nhưng lạ lùng thay - tiếng meo meo vẫn tiếp tục. Những con chó chân cong kêu meo meo! Tôi hết sức kinh ngạc đứng quan sát những con vật trong chuồng số bảy. Một con chó đang ngồi trên hai chân sau và rửa mặt bằng chân trước.

- Êu-Êu, - tôi gọi và đập vào chấn song chuồng.

Việc này làm những con mèo chuồng bên tỉnh dậy, và chúng... sủa gâu gâu ầm lên. Thực vậy, chúng sủa chưa giống hẳn với giọng chó. Nhưng đó là tiếng sủa.

“Lạ thật, - tôi nghĩ. - Nhưng đó chẳng qua là kết quả của những virus đã bị làm biến đổi. Cần phải chạy tới báo cho Dobby...”

Nhưng một ý nghĩ đã khiến tôi dừng lại.

“Thế nhỡ con người ấy lừa dối và đối với ông ta chính tôi cũng là một động vật thí nghiệm thì sao? Bỗng nhiên cả tôi cũng kêu meo meo thì sao?”

Tôi bắt đầu sợ hãi đến nỗi cảm thấy việc nằm trong máy phóng để bay vọt lên không cũng chỉ là một trò đùa.

Tôi có cảm giác rằng mặt mèo cũng trở nên giống mõm chó. Để xem lại cho rõ, tôi mở cửa chuồng. Nhưng hình như những con vật chỉ chờ đợi có giây phút đó. Những con mèo rít lên vì vui mừng, sủa bằng thứ tiếng meo meo lạ lùng rồi nhảy tọt ra khỏi chuồng. Vì định giữ chúng lại tôi đã làm đổ chuồng chó, cửa chuồng mở tung ra...

- Bác Migli! Giúp tôi một tay với! - vừa chạy khỏi phòng thú tôi vừa kêu rầm lên.

Dobby và ông bếp chạy đến. Tôi nín thở, kể lại sự việc vừa xảy ra.

- Đi vào nhà! - Dobby quát tôi. - Hôm nay, theo lệnh của tôi, bác Migli đã kê lại các chuồng rồi.

- Thưa ông, hoàn toàn đúng như vậy, - Migli khẳng định. - Cái anh Samuel này thì chuyên môn bịa chuyện. Tôi dám thề rằng anh ta đúng là kẻ mắc bệnh miên hành.

- Cuốn xéo đi, nghe rõ chưa? - Dobby ra lệnh. - Tự tôi sẽ sắp xếp lại động vật trong các chuồng.

- Nhưng thưa ông, tôi dám chắc rằng lũ mèo đã sủa... - tôi nói lắp bắp.

- Xéo đi! - Dobby thét. - Dựa vào hợp đồng anh sẽ bị phạt vì không vâng lời.

Tôi buồn rầu lủi ra khỏi phòng thú.

“Lẽ nào mọi việc chỉ là tôi tưởng tượng ra? - tôi buồn phiền suy nghĩ trong khi tháo bỏ những ống nghiệm ra khỏi máy ly tâm và dùng bàn chải đánh sạch chúng. - Được! Ngày mai tiêm phát thuốc chống virus cuối cùng, và xin vĩnh biệt ông, thưa ông Dobby. Thà ngồi nhịn đói ở Ashworth còn hơn ngồi ăn ở trên mỏm Hai Bông Hồng, trong cái biệt thự virus này!”

Dobby bước vào phòng thí nghiệm với những bước chân nặng nề và rửa tay rất lâu.

- Những con vật lý thú nhất chạy mất rồi, - ông nói vẻ cáu kỉnh trong khi dùng khăn mặt lau tay. - Anh hỏng quá mất rồi, Samuel ạ. Chữa cho anh khỏi bệnh xong là chúng ta chia tay thôi. Anh làm tôi lo lắng đến nỗi...

- Thưa ông, xin ông tha tội cho, - tôi nói khô khan.

Nhưng cơn tức giận của Dobby đã nguội.

- Chớ làm cho những ngày cùng làm việc cuối cùng của chúng ta đen tối đi anh Samuel ạ, - ông nói. - Rồi đây mọi vật đều phải biến đổi. Hừm... Còn bây giờ thì hòa giải nhé. Thời gian gần đây đầu óc tôi cũng căng thẳng quá. Đó là hậu quả do công việc gấp rút gây ra. Ngày mai tôi muốn làm một chuyến đi chơi xa. Tôi ngấy cái cảnh sống giam hãm này lắm rồi.

❖ IV ❖

Sáng sớm Dobby chuẩn bị đi chơi tới vùng mỏ bỏ hoang.

- Samuel ạ, cần phải thay đổi ấn tượng đôi chút, - ông nói trong khi nhét cái gói bọc bữa cơm sáng do bác Migli đã chuẩn bị chu đáo vào trong túi. Sau đó ông cầm bình nước rồi quàng chiếc đèn điện dùng đi mỏ vào cổ.

- Ông mang theo chiếc “Emmy” chứ? - tôi kêu lên, tay chỉ vào chiếc đèn.

- Phải đấy, và mang theo cả một trăm yard* dây thừng nữa, - Dobby trả lời.

- Đừng có trợn mắt lên mà ngạc nhiên như vậy, nói chung tôi không có ý định chui xuống trung tâm trái đất đâu, chẳng qua chỉ muốn biết điều gì đã xảy ra trong một cái mỏ cũ. Tôi đã nghe nói tới nó từ lâu...

Lòng tôi tràn ngập những hồi ức về thời thơ ấu.

- Ồ thưa ông!.. Có đèn thì còn sợ gì nữa... Thế mà hồi còn bé tôi với Ed đã xuống đấy chẳng đèn đóm gì hết.

- Thôi đi, đừng nói phét Samuel ạ, - Dobby xua tay.

- Xin thề danh dự, thưa ông! - tôi la lên. - Tôi đã mò xuống các mỏ ở Patrick và cạnh núi Thiếu Nữ. Chỉ còn...

Đến đây tôi câm bặt.

- Chỉ còn chưa xuống Vòi Dài thôi chứ gì? - Dobby cười. - Hừm... Vừa hay chính lần này tôi sẽ tới đó.

Tôi nhớ lại về Vòi Dài. Người ta gọi một cái giếng mỏ cũ bỏ hoang như thế. Có đủ các thứ chuyện hoang đường đầy bí ẩn và phiêu lưu mạo hiểm về nơi đó; những khách hàng quen của hiệu ăn “Hổ Vương” thích kể những chuyện bịa đặt khủng khiếp về nó. Hồi còn bé tôi chưa tới được Vòi Dài, nhưng biết rõ đường đi tới đó. Ed Orfi đã đến đấy và khoác lác tưởng như nó đã xuống đến tận đáy cái giếng than này. Và lúc bấy giờ tôi ghen với người dũng cảm đó.

- Thưa ông đường đi tới đó rắc rối lắm, - tôi nói. - Đầu tiên phải từ Đồi Đen đi xuống tới những Mỏ Chết, rồi sau đó ngoặt sang phải...

Dobby do dự:

- Hừm. Có lẽ tôi sẽ không tìm thấy đường mất.

- Thưa ông, xin ông cho phép tôi đưa ông đi, - tôi đề nghị. - Đi thăm các Mỏ Chết thì phải hết sức thận trọng. Trong số đó có một vài mỏ không có đáy...

- Anh làm tôi sợ, - Dobby nói trầm ngâm. - Thôi được, ta cùng đi vậy. Anh vào phòng ăn lấy thêm một bình đựng nước nữa rồi chúng ta lên đường. Thật là đúng lúc, đi chơi trong không khí trong lành sẽ có lợi cho chúng ta.

Tôi quàng bình nước qua vai, nhét vào túi một vài chiếc bánh sandwich rồi đeo cuộn dây thừng đằng sau vai.

Sau khi được bác Migli đưa tiễn với những lời chúc tốt đẹp, chúng tôi lên đường và đã leo qua Đồi Đen một cách tương đối nhanh chóng và nhẹ nhàng. Sau đấy thì địa hình trở nên phức tạp hơn. Trong các khe núi những giếng mỏ âm thầm khoét rộng và sâu thẳm xuống dưới. Những đống bụi than ủ dột chồng chất bên nhau. Cách đây đã lâu người ta đã bới tìm ở đấy lấy những mẩu than có thể đốt được. Mưa và tuyết đã chảy xói những bụi than, còn thời gian và sự nóng nực thì lại một lần nữa nén chặt cặn của hỗn hợp ấy thành từng lớp một.

Chúng tôi đã đi cách xa biệt thự khoảng hai dặm, và một cao nguyên hoang vắng mở ra trước mắt chúng tôi khi chúng tôi đi ra khỏi cái khe cuối cùng.

Trước đây tôi chưa từng đến cao nguyên. Thời còn thơ ấu Khe Đen là ranh giới cuối cùng, nơi kết thúc những chuyến đi của lũ trẻ. Bấy giờ cảnh không gian chưa ai từng biết đến mở ra ở phía sau làm cho chúng tôi mê say vì sự huyền bí của nó.

Bạn hãy tưởng tượng một đáy hồ cổ đã cạn nước bị những chuyển động núi lửa ngày xưa đẩy cao lên trên mặt biển thì sẽ hiểu được phong cảnh mở ra trước mắt chúng tôi là như thế nào sau khi chúng tôi đã đi bộ một tiếng đồng hồ tới gần Vòi Dài ở giữa cao nguyên.

Một lũy dày các sa thạch bã bị phong hóa bao quanh cái vùng sét trũng rộng lớn này. Những tảng sa thạch có hình dáng kỳ diệu nhất đứng sừng sững xung quanh, có tảng giống những cây nấm khổng lồ kỳ lạ, có tảng lại giống con ngư long hóa đá to bằng cái nhà ba tầng đang đứng dựng lên bằng chân sau và há cái mõm đầy răng của mình ra. Ở giữa thung lũng khoét sâu một lỗ đen ngòm của cái mỏ than bỏ hoang. Cảnh điêu tàn buồn thảm của những công trình bằng ngói với những cái mái đổ sụp vẫn còn giữ nguyên như cũ, còn những thanh sắt gỉ của khung đỡ thì giống như những cái xương của bộ xương quái vật, chúng nhô ra khỏi lớp mùn mục rữa của những mái gỗ. Và khắp nơi đều phủ đầy một lớp bụi dày ảo não.

Đó chính là mỏ Vòi Dài nổi tiếng.

- Phải hết sức thận trọng, - Dobby nghiêm nghị nói.

Tôi thôi không nhìn cái cảnh trí buồn thảm xung quanh nữa. Chúng tôi đi tới bên rìa Vòi. Dobby ném xuống một hòn đá nhỏ và lắng nghe, nhưng từ đáy giếng sâu không thấy vẳng lại một âm hưởng nào.

- Giếng này không có đáy, - tôi nói lẩm bẩm.

- Hừm... - Dobby cười, - bởi vậy hòn đá tôi vừa ném xuống sẽ bay qua hành tinh của chúng ta, rồi bất ngờ nhoi lên ở một nơi nào đấy ví dụ như Chile chẳng hạn? Toàn chuyện nhảm nhí.

Ông dũng cảm buộc dây thừng vòng quanh bụng rồi thắt chặt chiếc “Emmy” vào ngực.

- Ông định nhảy xuống đáy Vòi thật à? - tôi la lên, trong lòng đầy khâm phục. Tôi rất thích lòng dũng cảm của Dobby.

Ông đã hiểu ý vui sướng trong câu hỏi của tôi.

- Lần này thì tôi nhân nhượng cho phép anh vượt ra khỏi nội dung hợp đồng, - ông nói nghiêm túc. - Tôi không muốn để anh nhìn tôi như nhìn một kẻ kỳ quặc. Tôi thích những công việc nghiêm túc. Phải, tôi sẽ xuống Vòi, nhưng không phải vì một trò đùa con trẻ. Anh biết không, Samuel, tôi không đến nỗi giàu như anh tưởng. Tôi luôn luôn thích tiện nghi, nhưng khinh miệt tính hoang phí. Mỗi đồng tôi tiêu là đều do lao động nặng nhọc mới có được. Kẻ nào chỉ làm việc và kiếm tiền để sống và chỉ nghĩ đến cái dạ dày của mình, đến những tiện nghi của cá nhân là kẻ tồi. Phải nghĩ đến nhân dân mà chúng ta là con em, nghĩ đến đất đai thân yêu nơi chúng ta sinh ra và sẽ tiếp nhận hài cốt chúng ta trong lòng nó khi chúng ta kết thúc bước đường đời. Samuel ạ, phải nghĩ đến tổ quốc.

- Thưa ông, tôi chưa hiểu ý ông lắm, - tôi nói dè chừng.

- Rồi anh sẽ hiểu ngay bây giờ, - Dobby nói với giọng rất chân thành và cảm động lòng người. - Câu chuyện của anh về những mỏ bỏ hoang ở đây làm tôi xúc động sâu sắc. Người ta bỏ không khai thác có vẻ như vì chúng không sinh lợi. Nhưng nếu không phải thế thì sao? Nếu ở đây vẫn còn vô vàn của cải, còn hàng triệu tấn than mà đất nước chúng ta có thể khai thác chứ không phải chở từ xa lại thì sao? Nếu những mỏ bị bỏ hoang chỉ là vì các ông chủ tham lam của những vùng mỏ này thấy kiếm được ít lời lãi thì sao? Nếu họ lười làm việc để khôi phục lại việc khai thác thì sao? - Dobby nhìn xa xăm. - Chúng ta cần noi gương người Nga, - ông nói trang trọng. - Chúng ta còn hiểu quá ít về cái dân tộc yêu lao động tuyệt diệu này. Cách đây không lâu lắm họ đã hợp nhất lại quanh mình một đại gia đình dân tộc hữu nghị thành một nước lớn. Họ đã bắt đầu xây dựng kinh tế bằng những cánh tay rắn chắc của mình. Công cuộc khai thác khoáng sản của họ mới tuyệt làm sao! Công cuộc khôi phục lại ở Ural hàng trăm mỏ do bọn chủ cũ bỏ hoang cũng vì nguyên nhân không sinh lợi giả dối mới vĩ đại làm sao! Nhưng nhân dân đã bắt tay vào công việc. Và hóa ra mỏ có lãi! Về than mà nói, người Nga đang có khả năng chiếm vị trí hàng đầu...

- Lẽ nào chúng ta đang cần than à? - tôi hỏi.

- Rồi sẽ đến lúc, Samuel ạ, chúng ta sẽ thấy quý từng bụi than một, - Dobby trả lời.

- Vậy ông muốn gì?

- Trước hết tự tôi sẽ kiểm tra xem điều gì đã xảy ra ở dưới đáy. Rồi sau sẽ mời các chuyên viên. Tôi sẽ đòi bằng được để người ta phải cho tôi thuê những chỗ này. Và có lẽ công việc sẽ không phải không có lời.

- Ô thưa ông Dobby! - tôi lắc đầu. - Một công việc nghiêm túc...

- Còn anh nghĩ sao? - ông mỉm cười. - Thôi được... Cần phải xuống và xem xét. Tối về chúng ta sẽ kể lại cho Migli của chúng ta nghe những chuyện hấp dẫn! Anh thử tưởng tượng xem, bác ta cứ tha hồ mà à với ầm! Nào, giữ dây cho thật chắc vào. Nếu ở dưới tôi giật hai lần thì kéo giúp tôi trèo lên nhé.

Chúng tôi đã buộc sẵn đầu dây kia vào một cột sắt nhô trên mặt đất.

- Samuel, tạm biệt nhé - Dobby nói vui vẻ đồng thời thả chân xuống dưới. - Hừm... anh biết không, ở đây có những bậc xuống rất tiện.

Đầu Dobby khuất hẳn. Tôi cẩn thận nới dây thừng. Dobby xuống sâu hết cả chiều dài cuộn dây. Bây giờ thì cái dây lặng lẽ kéo căng đến tận đầu của nó. Ngó nhìn xuống dưới tôi thấy rõ một đốm sáng nhỏ đang di động trong bóng tối đen ngòm.

- A-lô! - tôi hồi hộp thét lên.

Đáp lại tôi, dây thừng giật lên một cái. “Nghe thấy”, - tôi nghĩ. Sau đó một hồi lâu dây thừng không nhúc nhích. Việc này làm tôi hoảng hốt. Trong mỏ có thể có khí than, như vậy Dobby bị đe dọa chết ngạt. Cuối cùng, tôi mừng quá, dây thừng lại chuyển động. Tôi bắt đầu kéo dây lên, cảm thấy sức nặng của Dobby. Khi ông thò mặt lên khỏi giếng tôi thấy nó còn đen hơn cả người da đen. Một ông thợ nạo ống khói nhem nhuốc nào đó chứ không phải Dobby.

- Anh đừng quá sốt sắng như vậy, - ông nói lẩm bẩm và nhổ bãi nước miếng đen sì. - Anh kéo nhanh làm tôi vất vả lắm mới theo kịp.

- Thưa ông, tôi lo cho ông quá.

Dobby leo lên rồi ngồi phệt xuống đất. Mồ hôi đen bẩn chảy như suối trên hai má Dobby. Ông khoan khoái hít thở khí trời trong sạch.

- Tuyệt, Samuel ạ, - ông cười, răng nhe ra trắng nhởn. - Ở dưới đó có cái hang nhũ đá đẹp không tưởng được... Nào, anh bạn, ta ăn sáng đi thôi...

Ông mở gói bánh rồi la ầm lên.

- Hừm... Thế có bực không!

- Có chuyện gì vậy, thưa ông? - tôi hỏi.

- Hừm... Có gì đâu! Tôi để rơi mất cái tẩu. Dù sao thì cũng tiếc. Nhưng ngày mai tôi sẽ tìm lại được.

Ông trầm ngâm nhai bánh sandwich với jambon.

- Thưa ông, xin ông hãy kể lại về cái hang nhũ đá ấy, - tôi đề nghị.

- Không thể tả lại được Samuel ạ. Mọi vật đều ánh lên như những thứ đá quý. Nhưng tôi nói đùa đấy. Thực ra, có lẽ ở đây than vẫn còn khá nhiều.

Bánh đã ăn hết.

- Samuel ạ, bây giờ được hút thì thú quá, - Dobby nói rồi lại bực dọc nói thêm: - Chà, cái tẩu! Samuel, bây giờ anh lại thả tôi xuống lần nữa.

Lòng hăng hái tự nhiên của tuổi trẻ đã buộc tôi nói:

- Xin ông cho phép tôi xuống.

Nhưng Dobby đi đến bên rìa rồi chỉ tay xuống giếng:

- Xuống đấy ư? Không đâu, anh bạn ạ. Rõ ràng số tôi hôm nay được vui sướng hai lần. Phải, anh mà xuống để bôi than vào người làm gì kia chứ?

Nhưng tôi đã nài xin kỳ được. Lòng tôi bừng lên những ước mơ trẻ con về những bí mật của Vòi Dài và tôi thiết tha van vỉ Dobby đến nỗi suýt nhào xuống vực.

Dobby dứt khoát xua tay.

- Thả tôi xuống và đừng có rền rĩ nữa!

Nhưng tôi vẫn túm lấy Dobby mà khẩn khoản đồng thời viện ra hàng nghìn lý do để nói rằng chính tôi là người cần phải xuống lấy cái tẩu lên. Cuối cùng Dobby đã dịu giọng hơn.

- Anh muốn xuống để chiêm ngưỡng nhũ đá ư? Ở dưới đó làm gì có. Tôi đùa đấy. Tuy nhiên hãy xuống để mà hồi tưởng lại những trò tinh nghịch trẻ thơ của mình. Nhưng có điều là đừng xuống sâu quá đến hết chiều dài của dây.

Ông nói giọng thân ái và cởi nút dây ở bụng mình ra.

- Nghe đây, Samuel. Thoạt đầu có những bậc dẫn xuống gắn trên tường như kiểu những bậc thang. Hãy tụt xuống theo những bậc ấy thật chậm và thận trọng.

- Vâng, tôi biết cách leo trèo trong các mỏ than rồi! - tôi vui vẻ trả lời.

Dobby nhướn hai hàng lông mày rậm lên.

- Đừng có ngắt lời tôi. Ngắt lời người lớn tuổi là một thói rất xấu. Xuống sâu đến khoảng năm hoặc mười yard sẽ gặp một chiếu nghỉ, bên trái nó là một cầu thang. Nhưng đừng đặt chân trên nó: tất cả các bậc đều đã mục. Tôi khuyên anh chớ có xuống quá nữa mà phải lập tức lên ngay. Nếu không thấy cái tẩu ở đó thì đừng tìm.

- Thế còn hang?

- Không có hang nào hết! Khi nào các chuyên viên đến đây thì muốn cùng họ leo trèo bao nhiêu tùy thích. Còn bây giờ phải cẩn thận.

Trong khi dặn dò, Dobby quàng dây thừng quanh bụng tôi và buộc lại ở phía sau.

- Có lẽ chắc rồi đấy, trông có vẻ như nút đi biển - không thể tuột ra được. Tôi nhắc lại: chỉ xuống đến chiếu nghỉ thôi rồi ra hiệu ngay - tôi sẽ kéo anh lên.

- Đèn, thưa ông?

- Hừm... à phải.

Dobby đeo chiếc “Emmy” vào ngực tôi. Tôi bấm thử - đèn pin còn tốt.

- Samuel ạ, hay là anh bỏ bình đựng nước ra, - Dobby nói khi tôi vừa thò chân tụt xuống.

- Thưa ông nó chẳng ảnh hưởng gì đến tôi hết.

- Xuống đi. Tôi giữ đây rồi, - Dobby nói đồng thời chuẩn bị nới dây thừng xuống theo tôi.

- Cám ơn ông, - nói đoạn, tôi dùng chân mò mẫm bậc nhô ra trên tường và bắt đầu xuống.

- Khá lắm, Samuel ạ, - tôi nghe thấy giọng động viên của Dobby ở phía trên. - Chú ý nhìn các bậc ở phía dưới nhé.

Tôi bấm đèn. Vòi chẳng đáng sợ tí nào. Ánh sáng của đèn “Emmy” đủ để định hướng. Trong lúc xuống tôi chẳng thấy có gì là phi thường. Theo thói quen vốn có tôi đã đếm các bậc xuống để khi trở lên cho chắc chắn hơn. Ở phía dưới lũ dơi bay kêu chít chít. Xuống được mười sáu bậc thì chân tôi đụng vào một chiếu nghỉ tương đối rộng. Những bộ xương chim đang mục rữa ngổn ngang bên rìa chiếu. Hình như lũ chim cú định làm tổ ở cái nơi hẻo lánh này. Tôi ngẩng đầu lên. Phía trên, một mảnh trời xanh xám đang chiếu sáng như vẫy gọi, còn phía dưới chiếu nghỉ là một vực thẳm đen ngòm. Ở cạnh tường, tôi thấy những vết giầy đinh mới của Dobby và cái tẩu thuốc của ông. Tôi nhặt lên và đút vào túi. Tất nhiên là Dobby đã xuống sâu hơn nữa. Tôi hoàn toàn không muốn làm hiệu quay trở về chút nào.

Những thanh gỗ bắc ngang đã mục một nửa không đáng tin cậy dẫn xuống dưới. Lựa chọn một mấu đá chắc chắn, bấu hai tay vào đấy, tôi trườn người khỏi chiếu nghỉ và dùng chân lần mò một điểm tựa. Việc tụt xuống sẽ rất khó khăn. Giếng mỏ mở rộng ra và tôi lần theo một trong những thành tường trườn sâu xuống mãi, dùng hai tay, và hai chân bám chặt vào những mấu nhô ra. Tôi quên hết mọi chuyện, thậm chí quên cả nỗi sợ. Lòng tự hào ngây thơ tràn ngập tâm hồn tôi. “Thế là chính ta đang ở trong Vòi Dài, - tôi nghĩ. - Bây giờ thì Ed đừng có hòng mà làm bộ. Đây không phải là cái giếng cạnh rừng Patrick”. Cái giếng ấy không sâu, chúng tôi thường xuống đấy bắt dơi về dọa tụi con gái.

Tôi định ra hiệu gửi lời chào Dobby và túm lấy dây thừng. Nói đúng ra, tôi muốn túm lấy dây thừng và tưởng rằng đã túm lấy nó. Nhưng tôi chỉ còn có việc há hốc miệng ra vì ngạc nhiên, bởi vì thực ra nó đã lặng lẽ tuồn lên trên như chú rắn jirr. Bụi than và đủ các thứ đất đá khốn kiếp rắc xuống mũ tôi. Dây thừng đã biến mất. Tôi muốn vỗ vào cái trán đần độn của mình, nhưng hai tay đều đang bận: người tôi treo lơ lửng trên hai tay.

Bỗng nhiên đầu tôi nhẹ bẫng đi như sau khi đã uống một cốc cà phê đặc nhất. Một ý nghĩ vụt đến như con nhạn: “Nút đi biển mà thế đấy!”

❖ V ❖

Tôi dùng cằm ấn vào nút bấm của “Emmy”, và chiếc đèn ngoan ngoãn vâng lệnh tắt đi. Sau khi nằm sóng soài người ra, tôi đã kịp thời nép sát người vào tường giếng. Một tảng đá lớn rơi vụt qua bên cạnh tôi với tốc độ của một thiên thạch. Trong bóng tối cô tịch tôi vẫn cảm thấy nó mù quáng bay đi. Nó lao xuống rầm rầm, bật từ bên tường này rồi đập sang bên tường kia. Tiếp theo nó, một tảng đá thứ hai đập vào chỗ nhô ra của chiếu nghỉ và vỡ tung tóe. Những mảnh con của nó bắn ra làm xây xát tay và má tôi.

Tôi không thích cái trò dội bom ấy. Nếu cạnh đấy có một chỗ hõm vào thì có thể náu được. Tôi dùng một tay để bấu, còn tay kia thì quờ quạng trên tường. Chân phải tôi sờ thấy một chỗ nhô ra, tôi dựa chân vào đấy và nín thở. Đá lại theo nhau lao xuống ầm ầm sạt qua người tôi. Ngay một hòn đá nhỏ khi rơi từ trên cao xuống cũng có tốc độ như viên đạn. Soài người ra và nép vào sát tường, tôi tìm cách thoát thân phía dưới chiếu nghỉ. Bỗng nhiên chân tôi bị trượt đi, tôi chúi người xuống dưới và ấn cằm vào cái nút bấm dự phòng của chiếc “Emmy”. Một lỗ hẹp của đường vào bên sườn dẫn về một phía ở ngay cạnh dưới chân tôi. Tôi khó nhọc tuồn vào, hai chân đưa về phía trước. Sau đó tôi lật mình lại, tắt chiếc “Emmy” rồi mò đi.

Bỗng nhiên đất rung chuyển ở phía sau tôi, nó gầm lên, điên loạn. Và rồi đến cái im lặng thầm kín vĩnh cửu ở dưới lòng đất như trong một nấm mộ đã bị chôn vùi. Việc gì đã xảy ra nhỉ? Dobby thắt nút kém ư? Hay ông ta... cố tình?

Nhưng tôi không có thì giờ để phán xét những nguyên nhân hành động của Dobby.

Tôi thử quay trở lại, nhưng những dự kiến xấu nhất của tôi đã trở thành hiện thực. Lối vào giếng chính đã bị lấp kín. Chỉ còn có cách tiến về phía trước theo con đường giếng bên. Nếu tìm ra được đường thông gió thì còn gì bằng. Chắc chắn là nó sẽ đưa tôi lên trên. Nếu đây là những mỏ cũ ở Patrick thì áng chừng tôi còn biết cách bố trí của chúng. Nhưng Vòi Dài là mỏ lớn nhất trong tất cả những mỏ bỏ hoang thì tôi lại hoàn toàn không biết gì. Nếu ở đây không có dòng không khí đi vào thì tôi sẽ chết ngạt như con chuột trong tráp kín.

Nằm trong đường ngầm hẹp, tôi đã vạch ra kế hoạch thoát thân. Người ta đã trù tính những chiếc đèn đi mỏ “Emmy” chạy pin khô loại “X-8” có thể làm việc liên tục trong tám giờ liền. Chiếc đèn bị chôn vùi cùng với tôi đã được sử dụng tới gần một tiếng. Bởi vậy tôi chỉ còn có thể sử dụng được sáu tiếng nữa, nếu Dobby đã không làm hỏng pin khi xuống Vòi. Cần phải dự tính mọi chuyện. Nhưng sau sáu tiếng nữa thì sao?

“Bóng tối vĩnh cửu, - tôi tự trả lời. - Nhưng, Samuel Pingle ạ, cứ bình tĩnh. Rốt cuộc người đã được một bài học tốt, và ngớ ngẩn như vậy là đủ rồi”.

Trước mắt tôi vụt hiện ra một cách rõ ràng nhất tất cả những tai họa tôi gặp phải từ lúc ở Ashworth trở về biệt thự của Dobby.

Nhưng hiện nay thời giờ rất quý giá. Tôi đã kiểm kê lại tài sản của mình. Trong các túi còn lại một hộp thuốc lá năm điếu, hai mươi ba que diêm, một chiếc khăn mùi xoa và chiếc bánh sandwich với pho mát ăn dở. Bây giờ tất cả những thứ đó đều hoàn toàn vô ích, và tôi chỉ thèm có mỗi con dao nhíp. Nếu tôi có mang theo cái cắt móng tay thì đó cũng còn có thể xem là một công cụ. Chiếc mũ kepi đã bị đá làm tung mất, và tôi cũng chẳng tiếc gì. Chỉ có chiếc “Emmy” và bình nước là những vật quý. Tôi uống một ngụm rồi bò đi.

Nếu đường hầm này là một đường nối giữa hai lò dọc vỉa thì có thể thử thoát ra qua lò dọc vỉa bên cạnh. Nhưng nhỡ cả lò ấy cũng bị bít kín thì sao?

Tôi bò và luôn đinh ninh rằng dù sao cũng phải tiết kiệm ánh sáng và nước. Nhờ ánh sáng của “Emmy” tôi nhìn về phía trước, nhớ lấy đường rồi lại tắt đi. Sau đó tôi bò bằng cả hai chân và hai tay, dùng tay sờ soạng đất. Nếu đụng đầu thì lại bật đèn để nhìn. Lối đi giữa các vỉa than lúc thì hẹp lại, lúc lại mở rộng ra. Cái đáng sợ nhất là sự sụt lở hoặc nghẽn lối. Nhưng tôi không ngạt thở. Nghĩa là không khí vẫn vào được tới đây. Việc tiến lên phía trước của tôi chỉ có thể đem so sánh với sự ngụp lặn trong một bể tắm chứa đầy mực. Tôi bò đi như thể con pholidota cổ sơ, trong lòng thôi thúc một nguyện vọng duy nhất là tìm thấy ánh sáng tự do.

Bỗng nhiên cánh tay quờ quạng của tôi cảm thấy một khoảng trống. Qua ánh sáng của “Emmy” tôi thấy rằng mình đang nằm trên bờ vực thẳm. Một mái vòm đen mở rộng ra phía trên tôi. Những vỉa than dày phân cách rõ ràng trên các tường hang.

Nước nhỏ giọt xuống các cột chống lò. Không khí lạnh và ẩm từ phía dưới lùa lên. Đi đâu bây giờ? Một vài mỏ ở Ashworth có những lối đi ra ở phía dưới chân những ngọn đồi - có lẽ vì thế mà tôi có ý định tụt xuống dưới.

- Chà, Pingle ạ, - tôi bật thốt to lên, và giọng tôi vọng lại ầm vang trong cái hang dưới mặt đất này, - sống hay chết là ở chỗ này đây.

Nước bẩn chảy róc rách ở đáy chỗ đất nẻ. Một vài bộ xương ngựa được rửa sạch bởi dòng suối ngầm ở dưới đất này. Tôi vất vả tụt xuống dưới và lần theo dòng nước. Suối chảy vòng theo mỏ, và tôi không biết đã lần mò trong bóng tối bao lâu ở dưới đất, thỉnh thoảng tôi thò tay xuống suối để xem nó chảy về hướng nào rồi đi theo hướng đó.

Mụ người đi vì mệt mỏi, tôi thậm chí không cảm thấy vui sướng khi một làn gió mát mẻ thổi nhẹ vào người tôi từ phía bên. Dòng không khí trong sạch làm tôi yên lòng. Ngả lưng vào thành lò dọc vỉa cũ, tôi ngủ thiếp đi. Nhưng lúc tỉnh dậy thì tôi đã biết mình đang ở đâu, và tôi tin tưởng bò ngược hướng gió.

Rừng Patrick với những ngọn thông đung đưa niềm nở đón tiếp tôi trong những vòng tay xanh rờn của nó. Mặt trời đang lặn chiếu xuống những thân cây lâu đời màu nâu thành những vệt sáng sặc sỡ đỏ tía. Không khí tràn đầy mùi nhựa cây thơm phức, những con chim đậu khuất hót líu lo thánh thót, châu chấu nhảy lách tách, cây cối lay động rì rào. Những lá nhọn từ trên các cây thông xanh rơi khắp người tôi. Một người nào đấy cưỡi mô-tô lao đi trên đường cái. Ở đây thật tuyệt diệu và mùi nhựa cây mới thơm ngát trong lành làm sao! Nằm trên bãi cỏ mà những bụi rậm của nó đã che khuất mất đường đi ra khỏi cái mỏ cũ Ống Sáo Ẩm - nơi tụi trẻ con ở Ashworth đứa nào cũng biết, tôi hít không khí tràn đầy sức sống vào căng lồng ngực. Và những đợt bão mùa thu ở đây lúc nào gió cũng rít lên buồn thảm, còn dòng suối nhỏ dưới đất thì vọt lên trên, dòng nước đập vào những tảng đá rồi trôi xuống dưới về phía Ashworth qua cái cầu.

Tôi đã rơi vào một nơi như vậy đó! Tôi không rõ giếng Vòi ngẫu nhiên bị lở sụt hay do Dobby cố ý gây nên. Nếu là ngẫu nhiên thì tôi phải quay trở lại biệt thự để tiêm nốt thuốc chống virus và làm yên lòng ông chủ. Và hơn nữa tiền của tôi vẫn còn để lại đó. Nhưng nếu mọi việc đều được bố trí một cách cố tình để hòng thoát khỏi tôi thì sao? Tôi thấy điều này có lẽ đúng hơn. Ông ta thí nghiệm virus của mình vào người tôi, tôi không tin cái câu chuyện thần thoại của ông về việc lây bệnh của rắn jirr, ông ta không thể chữa cho tôi khỏi bệnh, sợ chuyện ầm ĩ lên, và thế là...

Tôi quyết định hãy chờ xem đã. Cứ mặc do Dobby tưởng rằng tôi đã vĩnh viễn ở lại dưới Vòi Dài. Được, để rồi xem...

Một người đội mũ lưỡi trai nằm úp bụng xuống đất trong một khu rừng thưa giữa các bụi cây và rất chăm chú nhìn ống nhòm về phía nào đó ở trên. Tôi đã nhận ra người này. Chính là hắn đã hích vào tôi ở hiệu thuốc. Chính hắn đã quan sát biệt thự của Dobby. Bây giờ tôi đã bắt gặp hắn đang làm cái việc đó. Nhưng hắn mải mê quan sát biệt thự đến nỗi không biết tôi đang dừng lại cách ba bước sau lưng hắn. Bây giờ cuộc sống đã dạy tôi không nên nhúng vào công việc của kẻ khác, còn những chuyện quen biết tình cờ thì tôi đã chán ngấy đến cổ rồi. Nhưng những lá khô kêu sột soạt dưới chân tôi, và người ấy ngoảnh lại.

- Anh cần gì ở đây? - hắn ta hỏi với giọng cáu kỉnh. Bộ mặt tròn vạnh với nhiều nếp nhăn nhỏ của hắn biểu lộ thái độ hết sức khó chịu.

- Tôi không có ý định làm phiền ông, - tôi trả lời tương đối thô lỗ. - Nhưng việc gì mà ông nằm soài ra ngang đường thế, ông định làm mồi cho bánh xe ô tô của tôi...

- Đường ở phía dưới kia, - hắn càu nhàu. - Cút đi. Anh có hình dạng thật đáng sợ... Chắc là anh vừa đi thăm địa ngục về...

- Ông đoán đúng, - tôi nói. - Ở đấy có những hang vú đá rất kỳ diệu. Vĩnh biệt.

Và tôi đi xuống đường cái phía dưới. Hắn gọi tôi lại.

- Sao? - tôi quay lại. - Ông cần gì?

Bấy giờ hắn đứng bên cây thông, vui vẻ nâng lưỡi trai của mũ kepi và mỉm cười.

- Đừng nghĩ xấu về tôi. Tôi chẳng qua chỉ là một người nghèo và đi rình bẫy chim. Ống nhòm giúp tôi tìm được tổ của chúng và chọn chỗ đặt bẫy.

- Điều ấy chẳng can gì đến tôi, - tôi trả lời lãnh đạm rồi bỏ đi.

❖ VI ❖

Ông Tom Bridge chẳng già đi chút nào kể từ ngày tôi gặp ông lần cuối. Ông thư thả thò cái đầu nhẵn thín như quả bóng ra ngoài cửa sổ khi tôi sẽ gõ vào trong khung cửa và gọi ông từ phía sân giống như những khách quen của hiệu ăn “Hổ Vương” vẫn thường làm nếu họ cần thu xếp một công việc khó khăn nào đó.

- Chào ông Tom, - tôi nói, cố sao cho giọng không có vẻ gì quá kín đáo.

Cặp mắt nhỏ hơi xanh trên bộ mặt mũm mĩm của Bridge không tỏ ra là sẵn sàng tiếp chuyện.

Trong những mối quan hệ về công việc ông chủ hiệu ăn thích ngắn gọn và chính xác. Vì vậy bằng giọng hơi suồng sã của một người bạn cũ tôi đề nghị:

- Này bác Tom, nghe đây, bác có muốn mua lại của tôi chiếc đèn “Emmy” và cái bầu đựng nước không? Rất cần cho những chuyến du lịch và các cuộc đi chơi xa.

- Trời ơi, chỉ vì những chuyện vặt ấy mà người ta cũng làm tôi phải bỏ công bỏ việc! - Bridge nói khò khè bằng giọng trầm trầm với vẻ không hài lòng, đồng thời vươn dài người ra hơn nữa qua cửa sổ để nhìn cho rõ hơn thân hình tôi từ chân cho tới đầu.

Những sự kiện xảy ra trong những năm gần đây đã dạy tôi biết tự chủ, và tôi đã bình tĩnh chịu đựng cái nhìn sắc như dao của Bridge, thậm chí còn lấy tay mân mê bao thuốc lá với những điếu còn lại ở trong túi.

- Thôi được, đưa hàng đây xem, anh bạn, - Bridge nói, dường như đã phần nào dịu dàng hơn và đặt những lá bài đang chơi cầm trên tay xuống bệ cửa sổ.

Tôi hiểu ngay rằng tôi đã phá quấy trong lúc ông ta đang mê mải chơi bài. Tôi đã xin lỗi, nhưng Bridge chẳng để ý gì, và hình như miễn cưỡng chìa bàn tay nổi đầy mạch máu đỏ tía ra cầm lấy chiếc “Emmy” của tôi.

- Ăn cắp được à? - Bridge hạ thấp cái giọng khò khè của mình xuống thành những tiếng thì thào thận trọng, rồi lại nhìn chằm chằm vào tôi.

- Không hẳn thế, - tôi trả lời và cẩu thả châm thuốc hút. - Chẳng qua là tôi đã phải bỏ cái công việc mà mới đầu cứ tưởng hời. Không, không khi nào tôi trở về cái chốn chết tiệt ấy nữa.

- Anh từ Wesley đến à?

- Thế thì có can gì đến bác, hả? - tôi hỏi. - Tôi cần một chỗ ở tiện nghi trong vài ngày, nơi không một ai có thể thấy tôi.

Trong khi ấy Bridge ấn vào nút chiếc “Emmy”, quan sát ánh sáng rực của nó và hình như thích thú với việc ấy. Nhưng tôi đã đoán được sự láu lỉnh của ông ta. Mặt trời gần như đã lặn hẳn, Bridge làm như vậy vì muốn nhìn tôi cho rõ hơn trong lúc trời nhá nhem tối. Tôi nhích gần lại sao cho ánh đèn chiếu rõ mặt tôi.

- Chà, anh bạn ạ, - Bridge nói khò khè, - tôi hoàn toàn không quen mặt anh. Liệu anh là một trong những kẻ sẵn sàng hạ thủ một người đi lang thang trong đêm khuya khoắt?

Lại một lần nữa tôi chịu đựng nổi cái nhìn như đâm vào người của Bridge.

- Bác Tom, tôi không thích cái lối ăn nói kiểu ấy, - tôi nói chân thành. - Nhưng không phải ai cũng nhất định phải ăn bánh mì với bơ. Tôi bán đồ vật của mình đi để mua cái ăn. Khoảng hai ngày nữa thì tôi có thể thoát khỏi tai họa.

Bridge đặt chiếc “Emmy” xuống bệ cửa sổ.

- Anh bạn ạ, với anh có thể xảy ra tai họa, - ông ta nói lẩm bẩm vẻ lọc lõi và chăm chú nhìn với vẻ thèm khát chiếc bình đựng nước có gắn theo bên cái cốc nhỏ bằng bạc.

- Nhưng bác Tom ạ, bác là người tốt bụng nhất trong vùng, - tôi nói. - Mọi người ở Wesley và Ashworth đều biết rằng không ai chơi bài giỏi bằng Tom Bridge của chúng ta, còn lòng tốt hay giúp đỡ anh em của bác thì...

Tôi đã phải ném ra trước Bridge con chủ bài cuối cùng là sự nịnh hót khôn khéo, giống như Dobby đã từng dùng để bẫy tôi mới đây. Não của Bridge không phải được làm bằng gỗ thông, vì thế lão béo đã mềm nhũn người ra như thể chiếc bánh ngọt ngày lễ làm bằng mứt hoa quả vừa đổ khuôn.

- Chà, rõ ràng là phải giúp đỡ rồi, - Bridge nói lẩm nhẩm bằng giọng khàn khàn. - Nào, anh bạn, hãy đi vào gian nhà phụ. Nhưng tôi muốn biết tên anh...

- Jack.

Bridge nhăn mặt lại.

- Jack ạ, người anh bẩn như cái chổi quét bếp ấy.

- Tôi từ chỗ làm việc về thẳng đây, - tôi cho là cần phải trả lời ông ta. - Ở mỏ người ta vẫn chưa xây buồng tắm bằng đá hoa với những hoa sen nước nóng cho chúng tôi.

Bridge mỉm cười ranh mãnh.

- Nhưng đây là lần đầu tiên trong đời thấy một người thợ mỏ xuống gương lò nóng chảy mồ hôi mà lại đi giầy đinh hảo hạng, thắt cravate vải tơ và mang theo một bình nước sang trọng như thế kia.

Tôi chỉ còn biết thở dài, còn Bridge thì cũng đã ngán đi sâu vào các chi tiết về tiểu sử của tôi.

- Thôi được. Đợi nhé, tôi sẽ ra ngay...

- Ồ, những ý nghĩ tốt đẹp của tôi về một người bạn cũ như bác chẳng bao giờ sai! - tôi lại tâng bốc thêm đồng thời cảnh giác lấy lại cái đèn và bình đựng nước trên bệ cửa sổ.

Bridge không quên cầm những lá bài lên rồi đóng sập cửa sổ lại.

Trên sân, Bridge chỉ cho tôi một gian nhà kho ở trong các kiến trúc phụ thấp, lợp bằng ngói mà người ta có thể lạc đường trong các xó xỉnh của nó như trong Vòi Dài vậy.

- Beach Boy bao giờ cũng nghỉ chân tại đây, - Bridge nói với vẻ tự hào. - Tiếc rằng anh ta đã bị treo cổ. Nhưng đó chẳng qua chỉ do hiểu lầm.

Beach Boy chẳng làm tôi lưu ý. Tôi chỉ muốn làm hợp đồng cho nhanh, và chúng tôi đã thỏa thuận xong.

- Bác Tom, thế là đã dứt khoát. Hãy cầm lấy những vật mua rẻ bằng một phần tư giá thành.

Bridge hết sức khoái chí: - Jack ạ, anh không thiệt đâu, cứ nhớ lấy lời tôi. Những người nghỉ chân có tiếng tăm bao giờ cũng thích gian phòng này. Mà này, tôi trông anh như con sẻ bị bắn ấy. Nghỉ đi. Tôi sẽ bảo người đến hầu anh rửa ráy và thay quần áo, rồi sau đấy anh tới gian lớn nhé. Hôm nay, tôi làm bữa cơm chiều thịnh soạn để đãi khách. Có món xúp nấu bằng đầu bê. Món thứ hai là thịt cừu nấu khoai tây. Đồ uống thì, ngoài một cốc bia ra, ai uống gì sẽ tự trả tiền, - thông báo xong, Bridge để tôi ở lại một mình trong nơi ở mới.

Vừa đi khỏi, Bridge liền bấm nút chiếc “Emmy”. Chiếc đèn sáng lóe lên trong khoảnh khắc như để từ biệt tôi. Tôi bắt đầu tiếc là đã đẩy nó đi. Có thể là đầu tiên chỉ nên bán bầu nước thôi. Bởi vì chiếc đèn đi mỏ là người bạn đường duy nhất trung thực và đáng tin cậy của tôi trong chuyến du lịch dưới mặt đất. Nếu không có “Emmy” bên mình thì tôi không thể nào thoát ra khỏi cái mỏ Vòi khủng khiếp ấy được.

Tôi nằm nghỉ trên chiếc đi-văng thủng khoảng mười lăm phút. Có tiếng gõ cửa. Một đứa bé gái nhem nhuốc đi chân không xuất hiện ngoài ngưỡng cửa.

- Ông chủ gửi cho ông áo choàng và bảo cháu nói rằng mặc thứ ấy rất hợp với bữa cơm khách, - nó nói giọng choe chóe vẻ giễu cợt.

Cặp mắt nhỏ bé của nó ánh lên như hai hạt thủy tinh màu gắn trên đầu con chuột làm đồ chơi. Nó mở các gói vừa đem đến ra và nói liến thoắng.

- Cháu tên là Kate. Cháu thay nước trong các bình. Cháu biết quét nhà và dùng giẻ lau, lau bàn ghế. Nếu ông cần sai bảo gì thì chỉ cần thét về phía sân: “Kate, đến đây!” và thế là hai giây sau cháu sẽ có mặt. Cháu rửa củ ở dưới bếp, rồi gọt, thái để nấu...

- Cháu lên mấy? - tôi hỏi, trong lòng thấy vui vui vì những lời lẽ sinh động của con người và tính cởi mở thơ ngây của một đứa bé đã thổ lộ cho tôi biết những công việc nhỏ bé của mình.

- Lên chín.

Từ phía sân vọng lại một giọng đàn bà đang rít lên:

- Kate, lại đây mau!

Cặp mắt nhỏ bé của con bé cười tinh quái.

- Đấy là bà Bridge. Nhưng chẳng có chuyện gì đâu, dù là bà ấy có thét lên.

- Kate, để người ta phải đợi là không tốt, - tôi nói nghiêm khắc, và thế là con bé nhảy tót ra khỏi phòng.

Tôi đã rửa ráy xong và vẫn không nhận ra mình qua tấm gương treo trước chậu rửa mặt.

Bridge gửi cho tôi chiếc áo cánh đã sờn, cái quần có dây đeo và chiếc mũ kepi lưỡi trai đã gẫy. Sau khi đã rửa ráy xong tôi thay quần áo và nghĩ: “Ngày mai ta sẽ tìm hiểu mọi chuyện ở Ashworth, rồi thì sẽ thanh toán với Dobby”.

❖ VII ❖

Trong gian lớn của hiệu ăn “Hổ Vương” khói thuốc lá và hơi ẩm bốc lên bay nghi ngút thành những đám mây. Chúng rung rinh lay động khi cửa vào bếp được mở rộng ra. Từ trong bếp đưa ra mùi thịt cừu rán, mùi bắp cải chua và hơi bia đã lên men nồng nặc. Ánh hồng từ lò sưởi hắt vào chân những người đang tụ tập ở cạnh quầy bán thức ăn. Sau bàn, ông Bridge trang nghiêm đang rót rượu mạnh vào các cốc nhỏ. Chiếc tẩu lớn uốn cong xuống ở phía dưới đang cuộn khói dày đặc. Cứ mỗi lần Bridge rít một hơi thì đầu mũi của ông lại được chiếu sáng hồng lên trong chốc lát. Bằng những động tác khéo léo của lưỡi và môi Bridge đẩy tẩu thuốc từ mép này sang mép kia; đồng thời ông tính tiền, trao đổi chuyện trò với hàng chục người một lúc và thỉnh thoảng lại thét vào trong bếp.

- Cốc thứ hai chứ? Mời ông... Xin gửi lại tiền thừa của ông... Kate, lại đây! Peggy! Đừng có ngồi mà ngáp ruồi thế. Chúng không ngon như các người tưởng đâu... Peggy! Đem hai cốc bia tới góc trái cho các ông...

Ngồi sau những chiếc bàn lớn thấm đầy mỡ của đồ ăn và ướt át vì đồ uống là những người đánh cá, phu khuân vác bến cảng, thợ mỏ ở Ashworth và những con người lặng lẽ là những người thích ngồi hút thuốc và nghe ngóng xem thiên hạ đang xảy ra chuyện gì.

Thấy tôi, Bridge hất đầu về phía chiếc bàn con bỏ trống, cạnh bàn là một cái ghế bằng gỗ có lưng tựa cao. Đó là một chỗ thuận tiện. Được lưng ghế che khuất, tôi có thể nghe được hết mọi chuyện người ta bàn tán trong hiệu ăn và qua chiếc gương dài treo trên tủ đồ ăn sau quầy bán tôi thấy được tất cả những gì đang diễn ra. Hỡi Beach Boy dũng cảm, phải chăng anh đã ngồi ở đây?

Peggy tóc hung đỏ đem đồ ăn lại cho tôi. Tôi gặm một miếng xương cừu béo nhẫy. Người ta chơi bài cạnh cửa sổ. Những tiếng kêu thét ầm ĩ và cuồng nhiệt vang lên. Sau khi đã uống rượu ở cạnh quầy, mọi người cho rằng mình có nghĩa vụ phải đến bên những người chơi bài và thả ra những lời lẽ châm chọc.

- Michael vẫn chưa bị chặt... Không cần giữ những con át!

- Ha-ha! Đánh những con tẩy xuống!

Một cặp mắt sắc sảo và trông quen đến kỳ lạ nhìn tôi từ trong gương. Người bẫy chim bé nhỏ đứng cạnh cửa vào cùng với một ông già cụt tay. Sau đó họ đi qua khắp gian lớn tới thẳng quầy bán. Bridge mỉm cười niềm nở.

- Chào các ông!..

Có lẽ người bẫy chim đang trong một tâm trạng tinh thần rất vui vẻ. Chiếc mũ bằng dạ có lưỡi trai dài đội hất ra phía gáy, cổ áo sơ mi mở banh ra. Hắn ta nói to:

- A, ông khỏe chứ? Vậy thì rót cho... hai cốc nhé. Rượu chanh. Uống đi ông Brand.

Bác tôi đưa cánh tay run rẩy ra cầm lấy cốc rượu nhỏ.

- Tôi không từ chối.

- Vì sức khỏe của ông, - người bẫy chim nói. - Ông uống đi rồi hãy kể nốt câu chuyện.

Bác tôi và người bẫy chim đứng cách tôi ba bước, họ nốc rượu và chẳng để ý đến ai.

- Phải, thằng bé nhà tôi không may, - bác tôi nói văn hoa. - Nó là một đứa trẻ lêu lổng. Nếu tôi nói rằng nó bẩm sinh đã là một tên lưu manh thì cũng không có gì là sai sự thật. Toàn thể Ashworth đều khuyên cha nó phải trừng trị bằng roi vọt, bởi vì cần phải thế. Cùng với mười đứa lêu lổng khác, nó lần mò ra các vùng xung quanh, phá các tổ chim, chui xuống các mỏ bỏ hoang. Và đây này, bác Tom có thể kể cho mà nghe bác ấy đã kéo thằng bé lêu lổng của chúng tôi ra khỏi cái khe như thế nào. Chà, bác bận ư, Bridge? Xin cảm ơn, tôi sẽ uống cạn. Lẽ ra đã không cần... Mỗi cốc rượu là cái đinh thừa đóng vào quan tài của tôi. Và thế là, sau khi đã lang thang khắp xó xỉnh, thằng bé trở về nhà mới bẩn thỉu chứ, làm u già Olivia phải phát khóc lên khi rửa ráy cho nó trong cái chậu giặt. Kể ra nó không ngã lộn cổ xuống cái mỏ Vòi không đáy nào đấy thì cũng thật là lạ... Nhưng em gái tôi, mẹ nó, và chú Isidore đến là yêu thương thằng nhóc...

Tôi rùng mình và chút nữa thì hóc xương. Câu chuyện nói về tôi. Vừa lúc ấy những người chơi bài tranh cãi nhau ầm ĩ làm lấp cả lời nói của bác tôi. Sự can thiệp của ông Bridge đã dẹp yên được những người đang cãi cọ. Và tôi lại nghe được câu chuyện của ông bác:

- Nhưng giá mà ông được thấy nó khi nó trở về đây với mảnh bằng. Một cậu ấm chính cống. Nhưng tôi cảm thấy rằng cái trường học của con em giới quý tộc đã làm hỏng tính tình thằng bé. Nó cầm món tiền cuối cùng của cha rồi ra đi lập thân. Thoạt đầu nó viết thư báo rằng nó đang sống