← Quay lại trang sách

Giai đoạn một (2) Chuyển tiếp

Những phím đàn dương cầm chỉ có hai màu

đen và trắng nhưng trong tâm trí bạn, chúng hóa ra

muôn sắc muôn màu.

—Maria Cristina Mena

Kennedy

Khi tôi tới văn phòng, Ed Gourakis - một người đồng nghiệp của tôi - đang oang oang càm ràm về nhân viên mới. Một luật sư công cấp dưới của chúng tôi đã nghỉ việc để sinh con và thông báo với phòng Nhân sự rằng cô ấy sẽ không trở lại. Tôi biết thời gian qua sếp Harry có phỏng vấn tuyển dụng, nhưng chỉ đến khi Ed chặn tôi ngay tại bàn làm việc, tôi mới biết quyết định đã được đưa ra.

“Cô gặp thằng đó chưa?” Ed hỏi.

“Gặp ai mới được chứ?”

“Howard. Cái cậu mới tới đó.”

Ed là kiểu người đi làm luật sư biện hộ công chẳng qua vì anh ta có thể. Nói cách khác - anh ta có khối tài sản được ủy thác lớn đến nỗi đồng lương có còm cõi thế nào thì cũng chẳng nhằm nhò. Vậy mà, mặc dù được hưởng đủ thứ đặc quyền đặc lợi, chẳng có thứ gì là đủ tốt đối với anh ta. Cà phê của tiệm Starbucks ở đối diện thì nóng quá. Trên đường I-95N xảy ra tai nạn làm trễ mất hai mươi phút của anh ta. Máy bán hàng tự động ở tòa án thì không còn Skittles nữa.

“Tôi mới vừa vào được bốn giây. Làm sao mà tôi kịp gặp ai?”

“Hừm, rõ ràng là cậu ta tới đây để gặp nhiều đối tượng khách hàng mục tiêu đa dạng. Nhìn cái vũng trên sàn thì biết. Cậu này tai ướt tai ráo đến nỗi đi đâu là nhễu nước tới đó.”

“Thứ nhất, phép ẩn dụ đó không hợp lý chút nào. Làm gì có ai chảy nước từ lỗ tai. Thứ hai, cậu ta trẻ thì cũng có sao? Tôi biết chuyện đã xưa rồi nên người trọng tuổi như anh khó nhớ... nhưng anh cũng từng có một thời tuổi trẻ đấy.”

“Ngoài thằng đó,” Ed nói, hạ thấp giọng, “có những ứng cử viên xứng đáng hơn.”

Tôi lục tung chồng giấy tờ đủ loại trên bàn để tìm bộ hồ sơ mình cần. Có một xấp giấy màu hồng ghi tin nhắn điện thoại đang chờ đó mà quá rõ là tôi đang cố phớt lờ. “Rất tiếc vì cháu của anh không được chọn,” tôi lẩm bẩm.

“Cô vui tính lắm, McQuarrie.”

“Nghe này, Ed, tôi có việc phải làm. Tôi không có thời gian để ngồi lê đôi mách.” Tôi chúi người về phía màn hình, giả tảng như đang chăm chú hết sức vào cái thư điện tử đầu tiên, tình cờ sao đó lại là thư chào hàng từ hãng thời trang Nordstrom Rack.

Rốt cuộc Ed cũng nhận ra tôi sẽ không dây dưa tiếp chuyện anh ta thêm nữa, vậy là anh ta đùng đùng đi vào phòng nghỉ, nơi mà đảm bảo cà phê sẽ chẳng đủ thơm ngon và hương kem mà anh ta khoái nhất thì đã hết rồi. Tôi nhắm mắt lại và ngả lưng ra ghế.

Đột nhiên, tôi nghe tiếng sột soạt bên kia vách ngăn bàn và một cậu trai da đen vóc người cao, mảnh dẻ đứng dậy. Cậu ta mặc bộ vét rẻ tiền, đeo nơ cổ và cặp kính kiểu hipster. Hiển nhiên cậu ta là nhân viên mới của văn phòng này; và cậu ta đã ngồi đó suốt từ đầu, lắng nghe hết những lời bình của Ed.

“Hashtag #tình_huống_khó_xử,” cậu ta mở lời. “Tôi là Howard, trong trường hợp chị còn có chút nghi ngờ.”

Tôi toét miệng cười rộng đến nỗi tự mình liên tưởng tới mấy con rối mà Violet hay xem trên Sesame Street, cằm chúng có thể rớt 180 độ khi xúc động mạnh. “Howard,” tôi lặp lại, chân bật dậy và tay lập tức chìa ra bắt tay nhân viên mới. “Tôi là Kennedy. Thật sự rất vui được gặp cậu.”

“Kennedy,” cậu ta nhẩm. “Như của tổng thống John E Kennedy ấy à?”

Tôi cứ được hỏi câu đó suốt. “Hoặc là Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy!” tôi chỉnh cậu, mặc dù Howard đã đúng. Tôi có thể thích được đặt tên theo chính trị gia đã tranh đấu và làm được bao điều tốt cho quyền công dân, nhưng trên thực tế, mẹ tôi chỉ lấy tên đó vì say nắng người anh trai xấu số của Robert và thích thần thoại Camelot.

Tôi sẽ làm tất cả để chàng trai trẻ tội nghiệp này cảm thấy trong văn phòng có ít nhất một người vui vì cậu ấy ở đây. “Vậy. Chào mừng cậu!” tôi vui vẻ nói. “Nếu cậu cần gì hay có thắc mắc về cách làm việc ở đây thì cứ thoải mái hỏi tôi.”

“Tuyệt quá. Cảm ơn chị.”

“Chúng ta có thể đi ăn trưa cùng nhau nữa?”

Howard gật đầu. “Tôi thích thế.”

“Thôi. Giờ tôi phải ra tòa rồi.” Tôi ngập ngừng, rồi quyết định đối diện với cái vấn đề chình ình nãy giờ chúng tôi né tránh. “Mà này, đừng nghe Ed. Ở đây không phải ai cũng có suy nghĩ như anh ta đâu.” Tôi mỉm cười với cậu trai trẻ. “Ví dụ nhé, tôi nghĩ thật là tuyệt khi cậu làm việc để cống hiến lại cho cộng đồng của mình.”

Howard mỉm cười đáp lại tôi. “Cảm ơn chị, nhưng... tôi lớn lên ở Darien.”

Darien. Một trong những thành phố giàu có nhất nước Mỹ.

Rồi cậu nhân viên mới ngồi xuống, biến mất sau vách ngăn chia cách chúng tôi.

Thậm chí chưa uống tới ly cà phê thứ hai mà tôi đã phải chen lấn qua cả đống xe cộ và một nùi phóng viên, tình cảnh hỗn loạn khiến tôi tự hỏi chuyện gì đang xảy ra với Tòa án Cấp cao trong phòng xét xử nơi tôi vẫn chưa vào được, vì lý do duy nhất mà mấy đài truyền hình tới lấy tin tức pháp đình là để hỗ trợ ru ngủ cho mấy người bị mất giấc. Cho tới lúc này chúng tôi đã giải quyết xong ba vụ: một vụ tội phạm chống lại lệnh cấm chỉ mà bị đơn không biết nói tiếng Anh; một người tái phạm có bộ tóc tẩy trắng và bọng mắt bị cho là đã viết séc khống 1200 đô để mua một cái ví thiết kế; và một gã ngu ngốc đến độ không những trộm danh tính của người khác rồi bắt đầu dùng thẻ tín dụng và ngân hàng, mà còn chọn ngay người có tên Louise và ngây thơ tin rằng mình sẽ không bị tóm.

Mà thôi, như tôi thường nhắc mình, nếu khách hàng của tôi ai cũng khôn ngoan hết thì có việc đâu cho tôi làm.

Cách làm việc ở Tòa án Cấp cao New Haven vào ngày luận tội là một luật sư công của văn phòng chúng tôi sẽ đại diện cho một bị cáo cần luật sư bào chữa nhưng không có. Cảnh đó giống như bị mắc kẹt trong cửa xoay vậy, mỗi lần bạn bước vào tòa nhà là lại bắt gặp cách bài trí cùng cấu trúc hoàn toàn mới, và người ta trông đợi bạn phải biết mình đang đi đâu, biết cái gì ở chỗ nào. Hầu như bao giờ tôi cũng gặp khách hàng mới ở bàn biện hộ, khi đó tôi có khoảng thời gian cỡ một nhịp tim để thu thập hết thông tin về tình huống khiến họ bị bắt giữ rồi cố gắng giúp họ được bảo lãnh tại ngoại.

Tôi có nói rằng mình rất ghét ngày luận tội chưa nhỉ? Nhiệm vụ đó đòi hỏi tôi phải là một Perry Mason có khả năng ngoại cảm, và ngay cả khi tôi hoàn thành công việc một cách xuất sắc, giúp cho bị cáo được tại ngoại mà không phải nộp tiền bảo lãnh, thì vẫn khó có cơ hội tôi được là luật sư theo biện hộ cho vụ của anh ta. Những vụ thú vị và ngon nghẻ mà tôi muốn được ra tòa bào chữa thì hoặc là sẽ bị mấy tay quyền trọng cấp cao ở văn phòng giành lấy, hoặc là sẽ rơi vào tay luật sư tư nhân (được trả tiền).

Chắc chắn vụ của bị cáo kế tiếp cũng sẽ diễn ra y như vậy.

“Tiếp theo: tiểu bang kiện Joseph Dawes Hawkins III,” thư ký đọc to.

Joseph Dawes Hawkins còn ở cái tuổi nổi mụn trứng cá. Cậu ta có vẻ hết sức hoảng loạn, vốn là trạng thái mà một đêm bị tạm giam sẽ gây ra cho bạn nếu trải nghiệm của bạn với hành vi tội phạm chỉ giới hạn ở việc xem liền tù tì mấy tập phim The Wire. “Bị cáo Hawkins,” thẩm phán hỏi, “bị cáo có thể xác nhận danh tính của mình để lập biên bản được không?”

“Ừm. Joe Hawkins,” cậu ta đáp. Giọng cậu vỡ ra.

“BỊ cáo sống ở đâu?”

“139 đường Grand, Westville.”

Thư ký đọc cáo trạng: buôn bán ma túy.

Tôi đoán, dựa trên kiểu tóc đắt tiền của cậu bé và phản ứng mắt tròn xoe trước hệ thống pháp lý, hẳn là cậu ta chỉ bán thứ gì đó như Oxy, không phải ma túy đá hay heroin. Thẩm phán tự động thêm lời biện hộ vô tội. “Joe, bị cáo bị truy tố tội buôn bán ma túy. Bị cáo có hiểu như thế nghĩa là gì không?” Cậu bé gật đầu. “Hôm nay bị cáo có luật sư không?”

Joe quay qua vai nhìn suốt dọc gian phòng dài, gương mặt tái thêm một chút, rồi đáp, “Không.”

“Bị cáo có muốn nói chuyện với luật sư công không?”

“Có, thưa tòa,” cậu bé trả lời, và đó là tín hiệu cho tôi tiến ra sân khấu.

Sự riêng tư chỉ giới hạn trong cái được gọi là buồng yên lặng tại bàn biện hộ. “Tôi là Kennedy McQuarrie,” tôi giới thiệu. “Cậu bao nhiêu tuổi rồi?”

“Mười tám. Học sinh năm cuối trường Hopkins.”

Trường tư. Dĩ nhiên rồi. “Cậu sống ở Connecticut được bao lâu rồi nhỉ?”

“Từ khi tôi hai tuổi?”

“Đó là câu hỏi hay câu trả lời vậy?” tôi gặng lại.

“Câu trả lời,” cậu bé đáp, rồi nuốt nước bọt. Yết hầu trên cổ Joe có cỡ như nút buộc nắm tay khỉ, làm tôi liên tưởng tới các thủy thủ, rồi lại nghĩ tới việc Violet nói tục.

“Cậu có đang làm công việc gì không?”

Joe ngập ngừng. “Ý chị là ngoài việc bán Oxy ấy hả?”

“Tôi chưa nghe cậu nói gì,” tôi đáp lại ngay.

“Ồ, tôi nói...”

“Tôi chưa nghe cậu nói gì”

Cậu bé nhìn lên, rồi gật đầu. “Hiểu rồi. Không. Tôi không có công việc gì hết.”

“Cậu sống với ai?”

“Bố mẹ tôi.”

Tôi lần lượt đánh dấu vào danh sách trong đầu, dội cho cậu ta hết câu hỏi này tới câu hỏi khác. “Bố mẹ cậu có định thuê luật sư không?” cuối cùng tôi cũng hỏi.

Cậu ta liếc nhìn bộ vét của tôi, mua từ Target, đang có một vết bẩn do món sữa mà sáng nay Violet đổ ra ăn ngũ cốc dây vào. “Có.”

“Cậu cứ im lặng, để cho tôi nói,” tôi hướng dẫn và quay sang thẩm phán. “Thưa quý tòa,” tôi cất tiếng, “bị cáo Joseph đây còn nhỏ tuổi, chỉ mới mười tám và đây là lần vi phạm đầu tiên. Bị cáo là học sinh cuối cấp ba đang sống với bố mẹ - một người là cô giáo dạy nhà trẻ, một người là giám đốc ngân hàng. Căn nhà của gia đình họ thuộc sở hữu của chính bố mẹ bị cáo. Chúng tôi yêu cầu để Joseph được tại ngoại không bảo lãnh.”

Thẩm phán quay sang đối tác của tôi trong điệu vũ này, tức là công tố viên đang đứng ở cái bàn trông hệt hình ảnh phản chiếu của bàn biện hộ. Tên nữ công tố là Odette Lawton và cô ta có tính khí vui vẻ ngang với một cái án tử. Khi mà hầu hết công tố viên và luật sư công đều nhận ra đám chúng tôi chỉ là hai mặt của cùng một đồng xu mang tên lương-nhà-nước-ba-cọc-ba-đồng nên bao nhiêu thù địch đều bỏ lại hết trong phòng xử án, ra ngoài vẫn vui vẻ với nhau, thì Odette rất hạn chế giao tiếp. “Bên nguyên đang tìm kiếm điều gì, hả công tố viên?”

Odette ngước lên. Tóc cô ta cắt ngắn sát đầu và đôi mắt đen thầm đến nỗi bạn chẳng thể nhìn ra đồng tử. Nữ công tố trông có vẻ tươi tắn, vừa đi chăm sóc da mặt; lớp trang điểm của cô ta thật khỏi chê.

Tôi nhìn xuống tay mình. Vùng da quanh móng bị gặm nham nhở và hoặc là dưới móng tôi bị dính sơn xanh lục, hoặc là cơ thể tôi đang mục rữa từ bên trong.

“Đây là một cáo buộc nghiêm trọng,” Odette nói. “Họ không chỉ phát hiện trên người bị cáo Hawkin có mang theo thuốc giảm đau opioid chỉ được dùng khi có bác sĩ kê đơn, mà còn nhận ra bị cáo có ý định bán. Để bị cáo tại ngoại là để mặc một mối đe dọa tồn tại giữa cộng đồng và là một sai lầm cực kỳ tai hại. Tiểu bang yêu cầu tòa đặt mức tiền bảo lãnh là 10 nghìn đô có người bảo đảm.”

“Tòa định mức tiền bảo lãnh là 10 nghìn đô,” thẩm phán lặp lại, và Joseph Dawes Hawkins bị lôi ra khỏi phòng xử án bởi một nhân viên chấp hành ở tòa.

Chịu thôi, không thể vụ nào cũng thắng. Tin tốt ở đây là gia đình của Joseph thừa sức nộp tiền - ngay cả khi điều đó có nghĩa là cậu chàng phải từ bỏ một kỳ nghỉ Giáng sinh ở Barbados. Tin tốt hơn là tôi sẽ không bao giờ gặp lại Joseph Dawes Hawkins nữa. Dù cho bố cậu ta có muốn dạy thằng con trai bảo bối một bài học bằng cách chưa cho luật sư gia đình can thiệp vội, để Joey nếm mùi tù tội một đêm, tôi chắc chắn không sớm thì muộn tay luật sư hào nhoáng đó sẽ gọi đến văn phòng tôi và tiếp nhận vụ của Joey.

“Tiểu bang kiện Ruth Jefferson,” tôi nghe thư ký thông báo.

Tôi nhìn lên khi một người phụ nữ bị giải vào phòng xử án với cùm và xích, vẫn còn mặc váy ngủ, một chiếc khăn choàng quấn quanh đầu. Đôi mắt cô dáo dác thu trọn gian phòng, và lần đầu tiên, tôi nhận ra với một buổi luận tội ngày thứ Ba thì hôm nay chỗ này đông hơn thường lệ. Phải nói là chật kín.

“Bị cáo vui lòng xác định danh tính để ghi vào biên bản?” thẩm phán yêu cầu.

“Ruth Jefferson,” cô này nói.

“Kẻ giết người,” một người phụ nữ gào lên. Có tiếng xì xào trong đám đông rồi bùng lên thành tiếng gầm giận dữ. Ngay lúc đó Ruth giật mình. Tôi thấy cô dụi mặt vào vai và nhận ra cô đang chùi nước bọt mà kẻ nào đó đã phun vào cô từ ngoài rào chắn phòng xử án.

Nhân viên chấp hành của tòa lập tức lôi gã này đi - một tên cục súc to cộ mà tôi chỉ nhìn thấy từ sau lưng. Trên da đầu gã có xăm hình chữ thập ngoặc, bện với nhiều chữ cái.

Thẩm phán kêu gọi giữ trật tự. Ruth Jefferson vẫn đứng thẳng người và liên tục ngó quanh tìm ai - hoặc cái gì đó - mà cô không nhìn thấy.

“Ruth Jefferson,” thư ký đọc to, “bị cáo bị truy tố vì tội giết người và vô ý làm chết người.”

Tôi mải nghĩ xem chuyện quái gì đang xảy ra nên không nhận thấy mọi ánh mắt đều đang đổ dồn về phía mình, và có vẻ là bị cáo này đã bảo với tòa rằng cô ấy cần một luật sư biện hộ.

Odette đứng dậy. “Thưa quý tòa, đây là một tội ác đáng kinh tởm nhằm vào một đứa bé mới ba ngày tuổi. Bị cáo đã bày tỏ thái độ thù địch và căm hờn đối với bố mẹ đứa bé này, và tiểu bang sẽ đưa ra bằng chứng cho thấy bị cáo đã hành động một cách cố tình và chủ ý, có suy tính trước với dã tâm, bỏ mặc không ngó ngàng đến an toàn của đứa trẻ sơ sinh, và sự thật là dưới tay cô ta, một đứa bé đã chịu tổn thương tới chết.”

Người phụ nữ này đã giết một đứa bé sơ sinh sao? Tôi điểm qua những kịch bản trong đầu: Phải chăng cô ta là một vú em? Đây là một vụ trẻ bị lắc mạnh dẫn đến tổn thương não à? Có phải là hội chứng đột tử?

“Chuyện này thật điên rồ,” Ruth Jefferson kích động gắt lên.

Tôi dùng khuỷu tay huých nhẹ cô này. “Đây không phải lúc đâu.”

“Để tôi nói chuyện với thẩm phán,” cô khăng khăng.

“Không,” tôi bảo. “Để tôi nói chuyện với thẩm phán thay cô.” Tôi quay sang phía tòa. “Thưa quý tòa, có thể cho chúng tôi chút thời gian được không ạ?”

Tôi dẫn nữ bị cáo về bàn biện hộ, chỉ vài bước từ chỗ chúng tôi đang đứng. “Tôi là Kennedy McQuarrie. Chi tiết về vụ kiện của cô chúng ta sẽ bàn sau, nhưng lúc này, tôi cần cô trả lời vài câu hỏi. Cô đã sống ở đây bao lâu rồi?”

“Họ xích tôi lại,” Ruth phun ra, gằn từng tiếng một với giọng gay gắt. “Những người này đã xông vào tôi lúc nửa đêm và còng tay tôi. Họ đã còng tay con trai tôi...”

“Tôi biết cô đang tức giận,” tôi giải thích. “Nhưng chúng ta chỉ có khoảng mười giây để tôi tìm hiểu về cô, giúp cô qua được buổi luận tội này.”

“Cô nghĩ cô có thể hiểu tôi trong mười giây à?” Ruth hỏi vặn.

Tôi lùi lại. Nếu người phụ nữ này muốn phá hỏng cơ hội của mình tại buổi luận tội này thì đó không phải lỗi của tôi.

“Cô McQuarrie,” thẩm phán gọi, “làm ơn xong trước khi tôi nhận được thẻ thành viên của Hiệp hội Hưu trí nhé...”

“Vâng, thưa tòa,” tôi đáp, quay về phía ông ấy.

“Tiểu bang nhận ra tính chất hiểm độc không thể dung thứ được của tội ác này,” Odette nhấn mạnh. Nữ công tố nhìn thẳng vào Ruth. Sự đối lập giữa hai người phụ nữ da đen này thật ấn tượng: bộ vét ôm dáng trang nhã, đôi giày gót nhọn và chiếc sơ mi vừa khít không một nếp nhăn so với cái đầm ngủ và khăn choàng quấn đầu của Ruth cũng như một trời một vực. Chừng như cảnh tượng này không chỉ là bức ảnh chụp chớp nhoáng một khoảnh khắc bất kỳ. Chừng như nó là một lời tuyên bố; một tình huống nghiên cứu cho một khóa học mà tôi không nhớ mình có đăng ký tham dự. “Xét đến tính chất nghiêm trọng của cáo buộc, Tiểu bang yêu cầu để bị cáo bị giam không bảo lãnh.”

Tôi cảm thấy không khí bị rút cạn từ phổi Ruth.

“Thưa quý tòa,” tôi lên tiếng, rồi ngừng lại.

Tôi không có gì để mà biện giải. Tôi không biết Ruth Jefferson làm nghề gì. Tôi không biết cô ấy có một căn nhà hay chỉ vừa chuyển tới Connecticut hôm qua. Tôi không biết cô ấy đã chụp một chiếc gối lên mặt bé sơ sinh đến lúc nó tắt thở hay bất bình chính đáng vì một cáo buộc vô căn cứ.

“Thưa quý tòa,” tôi lặp lại. “Tiểu bang chưa hề đưa ra bất kỳ chứng cứ nào cho lời khẳng định của họ. Đây là một cáo buộc vô cùng nghiêm trọng mà hầu như chẳng có bằng chứng nào. Vì lẽ này, tôi đề nghị tòa cho bảo lãnh ở mức 25 nghìn đô có người đảm bảo.”

Đó là tất cả những gì tôi có thể làm được khi trong tay chẳng có chút thông tin nào từ bị cáo. Công việc của tôi là giúp Ruth Jefferson vượt qua buổi luận tội, một cách hiệu quả và công bằng nhất có thể. Tôi ngước nhìn đồng hồ. Có lẽ còn khoảng mười khách hàng nữa sau cô.

Đột nhiên tay áo tôi bị người cạnh bên giật khẽ. “Cô thấy thằng bé kia không?” Ruth thì thầm và nhìn ra chỗ ngồi cho người dự phiên tòa. Ánh mắt cô hướng về một cậu trai trẻ cuối phòng xử án, cậu này bật dậy ngay như thể bị hút thẳng lên bởi nam châm. “Con trai tôi đó.” Ruth nói, rồi quay sang tôi. “Cô có con không?”

Tôi nghĩ về Violet. Tôi tưởng tượng xem sẽ thế nào nêu rắc rối lớn nhất trong đời mình không phải là thấy đứa con dỗi hờn ấm ức, mà bị còng tay.

“Thưa quý tòa,” tôi lên tiếng, “tôi xin rút lại điều mình vừa nói.”

“Sao chứ, luật sư?”

“Trước khi thảo luận về mức tiền bảo lãnh, tôi muốn có cơ hội nói chuyện với khách hàng của tôi.”

Thẩm phán cau mày. “Cô vừa có một cơ hội rồi đấy thôi.”

“Tôi muốn có cơ hội nói chuyện lâu hơn mười giây với khách hàng,” tôi sửa lại.

Thẩm phán lấy tay xoa mặt. “Được rồi,” ông ta nhượng bộ. “Cô có thể nói chuyện với khách hàng vào giờ nghỉ và chúng ta sẽ trở lại vụ này sau.”

Nhân viên chấp hành tòa án túm lấy tay Ruth. Tôi có thể thấy cô không hiểu chuyện gì đang xảy ra. “Tôi sẽ tới sau,” tôi chỉ nói được với bị cáo của mình có thế trước khi Ruth bị lôi ra khỏi phòng xét xử, và rồi trước khi kịp nhận ra, tôi đã chuyển sang biện hộ cho một thanh niên hai mươi tuổi tự nhận mình là biểu tượng # (“Giống như Prince, nhưng không phải,” anh ta giải thích), đã dùng sơn xịt vẽ graffiti hình một cái dương vật khổng lồ trên cầu cao tốc và không hiểu nổi tại sao đó lại là hành động phá hoại phạm pháp mà không phải tác phẩm nghệ thuật.

Tôi còn mười lượt luận tội nữa và trong suốt khoảng thời gian đó, suy nghĩ của tôi luôn hướng về Ruth Jefferson. Cảm ơn Chúa vì hợp đồng của hiệp hội người tốc ký đã bắt buộc phiên tòa phải có mười lăm phút nghỉ vệ sinh, và trong thời gian đó, tôi dò dẫm theo những lối đi nhớp nháp, bẩn thỉu của tòa án cấp cao đến buồng giam, nơi họ đã đưa khách hàng của tôi tới.

Nữ bị cáo nhìn lên từ chiếc giường tầng kim loại nơi cô đang ngồi, xoa xoa hai cổ tay. Cô không còn bị xích như khi ở trong phòng xử án, khi mà tay chân cô phải mang cùm giống tất cả bị đơn mang cáo buộc giết người, nhưng lúc này dường như cô không nhận ra chúng chẳng còn đó nữa. “Nãy giờ cô đã ở đâu?” cô hỏi, giọng gay gắt.

“Làm việc của mình,” tôi trả lời.

Ruth nhìn vào mắt tôi. “Tôi cũng chỉ đang làm việc của mình khi chuyện xảy ra,” cô nói. “Tôi là y tá.”

Tôi bắt đầu khớp được những mảnh ghép thành một phần bức tranh toàn cảnh: chắc hẳn đã có chuyện xảy ra trong lúc Ruth chăm sóc cho đứa bé, chuyện gì đó mà bên công tố không cho là tai nạn. “Tôi cần cô cho tôi một số thông tin. Nếu cô không muốn bị giam trong lúc chờ xét xử, cô và tôi cần phải hợp tác với nhau.”

Trong một lúc lâu, Ruth chỉ im lặng, và tôi lây làm ngạc nhiên. Khách hàng của tôi thường không phán xét người khác; họ là những người đã quen bị phán xét... và bị coi là thiếu sót.

Cuối cùng cô cũng gật đầu.

“Được rồi,” tôi thở phào, không nhận ra nãy giờ mình đang nín thở. “Nay cô bao nhiêu tuổi?”

“Bốn mươi tư.”

“Cô đã kết hôn chưa?”

“Rồi,” Ruth đáp. “Nhưng chồng tôi đã mất ở Afghanistan, trong lần thứ hai được điều ra trận. Một quả bom tự chế phát nổ. Chuyện đã mười năm rồi.”

“Con trai cô - có phải thằng bé là con một?” tôi hỏi.

“Phải. Edison đang học phổ thông,” cô đáp. “Thằng bé đang đăng ký xét tuyển đại học. Lũ súc vật đó đã xông vào nhà tôi và còng tay một học sinh toàn được điểm A.”

“Chúng ta sẽ nói tới chuyện đó sau,” tôi hứa. “Cô có bằng y tá chứ?”

“Tôi học Đại học tiểu bang New York ở Plattsburgh rồi vào Yale học ngành Y tá.”

“Hiện tại cô có việc làm không?”

“Hai mươi năm nay tôi làm việc ở bệnh viện Mercy West Haven, tại khoa sản. Thế nhưng tuần này, họ đã tước đi công việc của tôi.”

Tôi ghi chú lại vào sổ. “Nguồn thu nhập hiện tại của cô là gì?”

Ruth lắc đầu. “Tiền trợ cấp từ sự hi sinh của chồng tôi, chắc thế.”

“Nhà ở hiện nay có thuộc về cô không?”

“Có, một căn nhà phố ở East End.”

Đó là khu vực Micah và tôi sống. Một khu dân cư da trắng giàu có. Những gương mặt da đen tôi trông thấy thường chỉ vụt qua trong những chiếc xe. Bạo lực là thứ hiếm hoi ở đó, và mỗi lần một vụ cướp xe hay cướp giật xảy ra, mục bình luận trên tờ báo mạng New Haven Independent toàn là dân East End vào ta thán rằng “những phần tử” từ các vùng nghèo lân cận như Dixwell và Newhallville đã tìm đường trà trộn vào nơi an cư lạc nghiệp hoàn hảo của họ.

Khi dùng từ “những phần tử”, dĩ nhiên họ muốn nói tới người da đen.

“Cô có vẻ ngạc nhiên,” Ruth nhận xét.

“Không,” tôi đáp nhanh. “Tình cờ đó cũng là nơi tôi sống, mà tôi chưa thấy cô bao giờ.”

“Tôi tránh gây chú ý về mình,” cô đáp khô khốc.

Tôi hắng giọng. “Cô có họ hàng ở Connecticut không?”

“Chị tôi, Adisa. Chị là người ngồi cạnh Edison. Chị sống ở Church Street South.”

Đó là một tổ hợp căn hộ ở khu Hill dành cho những người thu nhập thấp, giữa ga Union và quận Yale Medical. Hình như 97% trẻ con ở đó sống trong nghèo khó và tôi đã có không ít khách hàng là cư dân khu này. Chỉ cách East End vài dặm, vậy mà đó là một thế giới khác: bọn trẻ con bán ma túy cho anh trai chúng, mấy thằng anh thì bán ma túy vì chẳng có công việc nào, đám con gái chọn kiếp bướm đêm, tối nào cũng có nổ súng giữa các băng nhóm. Tôi tự hỏi làm thế nào Ruth lại có cuộc sống khác chị mình đến thế.

“Bố mẹ cô còn sống không?”

“Mẹ tôi làm việc ở phố Tây Thượng Manhattan.” Ánh mắt Ruth lảng đi, không nhìn tôi nữa. “Cô nhớ Sam Hallowell chứ?”

“Cái ông đài truyền hình ấy à? Không phải ông ta mất rồi sao?”

“Đúng là ông đã mất. Nhưng mẹ tôi vẫn là người giúp việc cho gia đình họ.”

Tôi mở ra tập hồ sơ mang tên Ruth, trong đó có cáo trạng của bồi thẩm đoàn đã phát lệnh bắt giữ cô. Trước đó tôi không có thời gian xem qua cái gì khác ngoài lời buộc tội, nhưng lúc này tôi đọc lướt với siêu năng lực chỉ các luật sư biện hộ công mới có, khi mà vài từ nhất định bật lên từ trang giấy và hằn vào ý thức ta. “Davis Bauer là ai?”

Giọng Ruth nhỏ lại. “Đứa bé,” cô đáp, “đã chết.”

“Kể tôi nghe chuyện đã xảy ra đi.”

Thế là Ruth bắt đầu dệt nên một câu chuyện. Trong lời cô, dẫu không nhìn thấu thực hư do chủ quan người kể, tôi vẫn thoáng thấy đâu đó cảm giác hổ thẹn. Cô kể tôi nghe về vợ chồng nhà Bauer, miếng giấy ghi chú của người phụ trách, cuộc phẫu thuật cắt bao quy đầu, vụ mổ cấp cứu và cơn tai biến của đứa bé. Cô nói rằng gã đàn ông có hình xăm chữ thập ngoặc đã nhổ vào cô trong phòng xử án là cha đứa bé kia. Mạch chuyện như những sợi chỉ kết lại quanh chúng tôi, như tơ từ một cái kén.

“... và điều tiếp theo tôi biết,” Ruth nói, “là đứa bé đã chết.”

Tôi nhìn xuống tờ khai của cảnh sát. “Cô chưa bao giờ động vào đứa nhỏ?” tôi hỏi lại.

Ruth nhìn tôi một lúc lâu, như thể đang cố dò xét xem liệu tôi có đáng tin cậy. Rồi cô lắc đầu. “Không, cho đến khi y tá phụ trách bảo tôi bắt đầu ấn ngực.”

Tôi hơi chồm về phía trước. “Nếu tôi có thể đưa cô ra khỏi đây, cho cô về nhà với con trai mình, cô phải trả một phần trên tổng số tiền bảo lãnh. Cô có tiền để dành không?”

Cô ưỡn vai ra sau, thẳng lưng lên. “Có tiền để dành cho Edison học đại học, nhưng tôi sẽ không đụng vào khoản đó.”

“Cô có sẵn lòng đưa nhà của mình ra không?”

“Thế có nghĩa là gì?”

“Cô để tiểu bang lấy nhà cô làm vật thế chấp,” tôi giải thích.

“Vậy rồi sao? Nếu tôi thua kiện thì Edison không còn chỗ nào để ở à?”

“Không. Đây chỉ là biện pháp đảm bảo cô không bỏ trốn nếu họ để cô tại ngoại.”

Ruth hít một hơi sâu. “Được rồi. Nhưng cô phải giúp tôi một việc. Cô phải nói với con trai tôi rằng mẹ nó không sao.”

Tôi gật đầu, rồi cô cũng gật đầu.

Trong khoảnh khắc đó, chúng tôi không phải một người da đen một người da trắng, người bị cáo kẻ luật sư. Chúng tôi không bị chia cách bởi cái tôi biết về hệ thống pháp luật và những điều cô chưa hay biết. Chúng tôi chỉ là hai người mẹ, đang ngồi cạnh bên nhau.

Lần này, khi đi qua chỗ ngồi cho người dự phiên tòa trong phòng xử án, tôi cảm giác như mình đã đeo vào một cặp kính điều chỉnh khúc xạ. Tôi nhận thấy những điều mà trước đó tôi không để ý. Họ có thể không xăm mình như cha đứa bé, nhưng cũng là người da trắng. Chỉ vài người mang giày Doc Martens; phần còn lại xỏ giày thể thao bình thường. Bọn này cũng thuộc nhóm da đầu chăng? Vài người cầm biển đề tên Davis, vài người cài ruy băng màu xanh da trời[38] trên áo để thể hiện tình đoàn kết. Làm thế nào mà tôi bỏ sót những chi tiết này trong lần đầu vào phòng xử án được nhỉ? Mấy người này tập hợp lại để ủng hộ nhà Bauer sao?

Tôi hình dung cảnh Ruth đi dọc con phố East End và tự hỏi có bao nhiêu cư dân từng hoài nghi cô làm gì ở đó, mặc dù chẳng bao giờ nói ra trước mặt. Thật dễ dàng biết bao khi được trốn sau làn da trắng, tôi nghĩ, đưa mắt nhìn những kẻ hẳn là theo chủ nghĩa da trắng thượng đẳng. Bao giờ người ta cũng tin các người hơn. Trong mắt họ, các người không có vẻ đáng ngờ.

Tương phản rõ rệt là những gương mặt da đen ít ỏi trong phòng. Tôi tiến tới chỗ cậu bé Ruth chào ban nãy và cậu lập tức đứng lên. “Edison phải không?” tôi bắt chuyện. “Tên cô là Kennedy.”

Cậu bé cao hơn tôi gần ba mươi phân, nhưng vẫn còn gương mặt của một đứa trẻ. “Mẹ của cháu không sao chứ ạ?”

“Mẹ cháu vẫn ổn, cô ấy nhờ cô ra nhắn với cháu như thế.”

“Hừm, cô chuyển lời cũng nhanh lắm đấy,” người phụ nữ bên cạnh cậu bé mỉa mai. Mái tóc dài của chị ta thắt thành bím rực đỏ và nước da chị thẫm màu hơn Ruth. Chị ta đang uống Coca, mặc dù theo lệ thì không được mang nước và thức ăn vào phòng xử án, và khi thấy tôi nhìn lon nước, chị này nhướng một bên mày lên như thể thách tôi dám nói gì.

“Chắc cô là chị của Ruth.”

“Tại sao cô nghĩ vậy? Vì tôi là đứa mọi đen duy nhất trong phòng này ngoài thằng con của nó à?”

Tôi giật mình lùi lại trước cái từ chị ta sử dụng, mà tôi tin chắc đó là phản ứng chị mong chờ. Trong khi Ruth chỉ có vẻ phán xét và cáu kỉnh thì người chị gái là cả một con nhím không thể kiểm soát cơn nóng giận. “Không,” tôi đáp, cũng bằng cái giọng tôi dùng cho Violet khi cố nói lý lẽ với con bé. “Thứ nhất, cô không phải là người... da màu... duy nhất ở đây. Và thứ hai, em gái cô đã nói cho tôi biết cô ngồi cạnh Edison.”

“Cô có thể giúp mẹ cháu ra ngoài được không?” Edison hỏi.

Tôi tập trung sự chú ý vào thằng bé. “Cô sẽ cố gắng hết sức.”

“Cháu gặp mẹ được chứ?”

“Không phải bây giờ.”

Cánh cửa dẫn vào phòng mở ra và thư ký bước vào, bảo chúng tôi đứng lên khi anh ta thông báo sự trở lại của thẩm phán.

“Cô phải đi thôi,” tôi nói với cậu bé.

Chị của Ruth nhìn tôi chằm chằm. “Làm việc của mình đi, cô gái da trắng,” chị ta bảo.

Thẩm phán ngồi vào chỗ và gọi lại vụ của Ruth. Ruth được đưa trở ra từ trong lòng tòa nhà và ngồi xuống bên cạnh tôi. Cô nhìn tôi với vẻ dò hỏi và tôi gật đầu: Thằng bé không sao.

“Cô McQuarrie,” thẩm phán thở dài. “Cô đã có thừa thời gian nói chuyện với khách hàng chưa?”

“Rồi, thưa tòa. Mới vài hôm trước thôi, Ruth Jefferson còn là y tá của bệnh viện Mercy West Haven, chăm sóc cho những phụ nữ đang chuyển dạ và những đứa con vừa chào đời của họ như cô ấy đã làm suốt hai mươi năm nay. Khi tình trạng y tế khẩn cấp liên quan tới một đứa bé xảy ra, Ruth đã làm việc với các nhân viên bệnh viện, cố gắng cứu lấy mạng sống của bé. Bất hạnh thay, sức người không chống lại mệnh trời. Trong cuộc điều tra đang tiến hành nhằm làm rõ nguyên nhân sự cố, Ruth bị đình chỉ công tác. Bị cáo đây là người đã tốt nghiệp đại học; con trai cô ấy là học sinh danh dự. Ngoài ra, chồng bị cáo còn là một anh hùng quân đội đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mạng ở Afghanistan. Bị cáo có gia đình trong cộng đồng và có vốn sở hữu căn nhà đang sống. Tôi đề nghị tòa hãy đặt ra một mức tiền bảo lãnh hợp lý. Khách hàng của tôi sẽ không bỏ trốn; cô ấy không có tiền án; cô ấy sẵn sàng tuân theo bất cứ quy định nào tòa đặt ra để cô ấy được bảo lãnh tại ngoại. Vụ của bị cáo hoàn toàn có thể biện hộ được.”

Tôi đã tô vẽ Ruth như một công dân đứng đắn và đáng trọng của Mỹ quốc, người không may đã bị hiểu lầm. Tôi chỉ còn thiếu nước cầm quốc kỳ ra vẫy nữa mà thôi.

Thẩm phán quay sang Ruth. “Số vốn sở hữu mà chúng ta đang nói đến là bao nhiêu vậy?”

“Thứ lỗi cho tôi, thế có nghĩa là gì?”

“Căn nhà của cô có giá trị bao nhiêu,” tôi giải thích. “Cô nợ bao nhiêu tiền thế chấp nhà?”

“100 nghìn đô,” Ruth trả lời.

Thẩm phán gật đầu. “Tôi sẽ đặt mức bảo lãnh là 100 nghìn đô. Điều kiện để bảo lãnh tại ngoại là ngôi nhà sẽ được lấy làm vật thế chấp. Vụ tiếp theo?”

Những kẻ thượng tôn da trắng trong phòng xử án bắt đầu la ó phản đối. Tôi không chắc họ sẽ vừa lòng với bất kỳ phán quyết nào nhẹ hơn hành hình kiểu lynch. Thẩm phán kêu gọi trật tự và gõ búa. “Đưa họ ra ngoài,” cuối cùng ông ra lệnh và nhân viên chấp hành bắt đầu di chuyển qua các dãy ghế ngồi.

“Giờ thì sao nữa?” Ruth hỏi.

“Cô sẽ được tại ngoại.”

“Ơn Chúa. Sau bao lâu thì tôi mới được ra?”

Tôi ngước lên. “Vài ngày.”

Một nhân viên chấp hành túm tay Ruth để giải cô về buồng giam. Khi cô bị đưa đi, bức màn phía sau mắt cô trượt ra và lần đầu tiên tôi thấy trong đó lóe lên nỗi sợ.

Thực tế không giống như trên TV và các bộ phim; bạn không chỉ cứ đơn giản là bước ra khỏi phòng xử án, tự do tự tại. Có nhiều thứ giấy tờ phải lo và còn phải làm việc với người bảo đảm. Tôi biết thế, bởi vì tôi là luật sư công. Phần lớn khách hàng của tôi cũng biết vậy vì họ thường là người tái phạm.

Nhưng Ruth, cô ấy không giống phần lớn khách hàng của tôi.

Thậm chí cô ấy còn không phải là khách hàng của tôi nữa, nếu bạn xét đến cùng.

Tôi đã làm việc với văn phòng luật sư công gần bốn năm và đã chuyển ra khỏi bộ phận tội nhẹ. Tôi đã nhận nhiều vụ trộm, phá hoại tài sản, đánh cắp danh tính và ký séc khống đến mức giờ đây tôi có thể cãi chúng trong giấc ngủ. Thế nhưng đây lại là một vụ giết người, một phiên tòa đang thu hút sự chú ý của dư luận mà ngay khi vừa được định ngày xét xử là sẽ bị cướp khỏi tay tôi. Nó sẽ rơi vào tay ai đó trong văn phòng có nhiều kinh nghiệm hơn, chịu đi chơi gôn với sếp, hoặc một kẻ có cái của ấy.

Về lâu về dài, tôi sẽ không còn là luật sư của Ruth. Nhưng lúc này, người giữ vai trò đó vẫn là tôi, và tôi có thể giúp cô ấy.

Tôi gửi một lời cảm ơn thầm lặng tới những kẻ thượng tôn da trắng đã gây ra cảnh náo loạn. Rồi tôi chạy xuống lối đi chính giữa hàng ghế ngồi đến chỗ Edison và cô của cậu. “Nghe này. Cô cần phải lập một bản sao có chứng thực giấy tờ nhà của Ruth,” tôi bảo người chị. “Một bản sao giấy báo thuế có chứng thực và một bản sao báo cáo tình trạng trả thế chấp mới nhất của em cô, trong đó ghi rõ con số đã trả xong hiện tại, rồi cô cần phải đem chúng đến văn phòng thư ký...”

Tôi nhận ra chị của Ruth đang nhìn tôi như thể tôi đột nhiên chuyển sang nói tiếng Hungary. Mà cũng phải, chị ta sống ở Church Street South; chị ta không sở hữu chỗ ở của mình. Những gì tôi vừa nói cũng như tiếng nước ngoài với chị.

Rồi tôi thấy Edison đang hí hoáy viết lại tất cả những gì tôi nói lên mặt sau tờ hóa đơn trong ví rút ra. “Cháu sẽ theo lời cô dặn,” cậu bé hứa.

Tôi đưa cậu bé danh thiếp của mình. “Đây là số điện thoại di động của cô. Nếu có câu hỏi gì, cháu cứ gọi vào đó. Nhưng sau này, cô sẽ không phải là luật sư biện hộ cho mẹ cháu nữa. Ai đó thuộc văn phòng cô sẽ liên lạc với cháu sau khi mẹ cháu được thả ra.”

Lời thú nhận này khiến chị của Ruth bừng tỉnh lại. “Thế là xong rồi hả? Cô đưa nhà của nó ra thế chấp để nó được thả, vậy là đã xong việc tốt của mình rồi chứ gì? Tôi đoán vì em tôi da đen, hiển nhiên là nó có tội và cô không muốn để tay mình lấm bẩn, nhỉ?”

Mấy lời quy chụp này thật ngớ ngẩn và hàm hồ quá sức, nhất là khi phần lớn khách hàng của tôi là người Mỹ gốc Phi. Thế nhưng trước khi tôi có thể giải thích về hệ thống cấp bậc chính trị trong văn phòng luật sư công, Edison đã lên tiếng can ngăn. “Dì ơi, bình tĩnh đi.” Rồi thằng bé quay sang tôi. “Cháu xin lỗi.”

“Không,” tôi bảo cậu bé. “Cô xin lỗi.”

Khi tôi về nhà tối đó, mẹ tôi đang ngồi với đôi chân mang tất, xem kênh Disney Junior trên TV, trong tay bà là một ly vang trắng. Đêm nào bà cũng nhấm một ly như thế từ khi tôi bắt đầu biết nhớ. Hôi tôi còn nhỏ, bà nói đó là thuốc của bà. Trên ghế bành cạnh mẹ tôi là Violet, nằm nghiêng một bên, người cuộn tròn và đang say ngủ. “Mẹ không nỡ xê dịch con bé,” mẹ tôi nói.

Tôi nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh con, cầm lấy chai rượu trên bàn cà phê và nốc thẳng từ miệng chai. Mẹ tôi nhướng mày. “Tệ đến thế à?” bà hỏi.

“Mẹ không biết đâu.” Tôi vuốt nhẹ mái tóc của Violet. “Hôm nay chắc mẹ làm con bé mệt phờ rồi.”

“Ừm.” Mẹ tôi ngập ngừng. “Bọn mẹ đại khái đã có một cơn tam bành nho nhỏ vào giờ cơm tối.”

“Tại mấy thanh cá tẩm bột chiên phải không? Con bé không ăn chúng đâu, kể từ khi nó đâm ra ghiền Nàng Tiên Cá.”

“Không, con bé chịu ăn cá rồi, và con sẽ rất vui khi được biết Ariel đã rời đi, không còn phiền hà chúng ta nữa. Thực ra đó chính là cái khiến Violet nóng nảy bực mình đấy. Bọn mẹ bắt đầu xem Hoàng tử ếch và Violet cho mẹ biết nó muốn làm Tiana vào dịp Halloween.”

“Ơn Chúa,” tôi thốt lên. “Một tuần trước Violet cứ khăng khăng mặc bikini vỏ sò, và cách duy nhất để chuyện đó xảy ra là con bé phải tròng đồ hóa trang lên trên bộ đồ lót dài của nó.”

Mẹ tôi nhướng mày. “Kennedy,” mẹ nói. “Con không nghĩ Violet sẽ vui hơn khi được làm Lọ Lem sao? Hoặc là Rapunzel? Hoặc là cái cô tóc trắng mới ra có thể đóng băng mọi thứ?”

“Elsa à?” tôi tiếp lời mẹ. “Tại sao vậy?”

“Đừng bắt mẹ nói trắng ra, con yêu,” mẹ tôi đáp.

“Ý mẹ là vì Tiana da đen sao?” tôi kêu lên. Ngay lập tức, tôi nghĩ về Ruth Jefferson, về bọn thượng tôn da trắng la ó trong phòng xử án.

“Mẹ không nghĩ Violet muốn bày tỏ quan điểm về quyền bình đẳng đâu, về loài ếch thì có. Con bé nói với mẹ nó sẽ xin một chú ếch làm quà Giáng sinh rồi hôn con vật xem chuyện gì sẽ xảy ra.”

“Không đời nào con tặng Violet một con ếch làm quà Giáng sinh. Nhưng nếu con bé muốn làm Tiana vào dịp Halloween, con sẽ mua đồ hóa trang cho nó.”

“Mẹ sẽ may bộ đồ hóa trang đó,” mẹ tôi sửa lại. “Cháu của mẹ không thể đi xin kẹo trong thứ giấy rác mua ở cửa hàng có nguy cơ bốc cháy khi con bé bước qua một cái đèn bí ngô.” Về việc này, tôi không cãi mẹ. Tôi còn không thể may cho hai miếng vải dính lại với nhau. Trong tủ đồ tôi có một cái quần dài mà tôi dán lại bằng keo siêu dính.

“Tuyệt. Con rất vui vì mẹ có thể vượt qua sự phản đối của mình để biến ước mơ của Violet thành hiện thực.”

Mẹ tôi nghếch cằm lên. “Mẹ không nói con nghe chuyện này để con có thể khiển trách mẹ, Kennedy. Chỉ vì mẹ lớn lên ở miền Nam không có nghĩa là mẹ cũng mang định kiến.”

“Mẹ,” tôi chỉ ra. “Mẹ từng có một bà vú da đen đấy.”

“Và mẹ đã yêu quý Beattie như người trong nhà mình,” mẹ tôi đáp.

“Chỉ có điều... bà ấy không phải người nhà.”

Mẹ tôi rót thêm rượu ra ly. “Kennedy,” bà thở dài. “Đó chỉ là một bộ đồ hóa trang vớ vẩn. Không phải lẽ đấu tranh.”

Đột nhiên tôi cảm thấy mệt mỏi kinh khủng. Không chỉ vì nhịp độ công việc hay số lượng quá tải những vụ kiện bào mòn sức lực tôi. Mà vì tôi chẳng biết bấy nhiêu việc mình làm có tạo ra được thay đổi gì không nữa.

“Một lần nọ,” mẹ tôi kể, giọng dịu dàng, “lúc mẹ ở tầm tuổi Violet và Beattie không để ý, mẹ đã thử uống nước từ cái bồn sặc sỡ đủ màu ở công viên. Mẹ bước lên bậc xi măng rồi vặn vòi. Mẹ trông chờ một thứ gì phi thường, màu nhiệm. Mẹ trông đợi cầu vồng. Nhưng con biết không - nó cũng như nước của tất cả mọi người.” Mẹ nhìn vào mắt tôi. “Violet sẽ là cô bé Lọ Lem xinh đẹp nhất.”

“Mẹ...”

“Mẹ chỉ nói thế này thôi. Phải mất bao nhiêu năm Disney mới cho những cô bé da đen đó nàng công chúa của riêng chúng? Con nghĩ để cho Violet muốn cái bọn trẻ kia đã chờ đợi từ lâu là điều đúng đắn à?”

“Mẹ!”

Bà giơ hai tay lên đầu hàng. “Được rồi. Tiana. Tốt thôi.”

Tôi đưa chai rượu lên miệng, dốc ngược xuống và uống cạn đến từng giọt cuối cùng.

Sau khi mẹ rời đi, tôi thiếp ngủ trên ghế cùng Violet và khi tôi thức dậy, phim Vua Sư Tử đang được chiếu trên đài Disney Junior. Tôi chớp mắt vừa kịp thấy cái chết của Mufasa diễn ra trên màn hình. Nhà vua đang bị bầy linh dương giẫm đạp thì Micah bước vào, dùng một tay nới lỏng nút thắt cà vạt. “Chào anh,” tôi lên tiếng. “Em không nghe tiếng xe chạy lên nhà.”

“Vì anh là một ninja tài tình giả trang làm bác sĩ phẫu thuật nhãn khoa mà.” Anh cúi xuống hôn tôi rồi mỉm cười nhìn Violet, con bé đang ngáy khe khẽ. “Ngày hôm nay của anh toàn là bệnh tăng nhãn áp và dịch kính. Còn ngày của em thế nào?”

“Đỡ ghê hơn một chút,” tôi đáp.

“Bộ Sharon Điên trở lại nữa à?”

Sharon Điên là một bị cáo nhiều lần ngựa quen đường cũ, một kẻ bám đuôi chết mê chết mệt Peter Solovey, hiệu trưởng Đại học Yale. Cô ta để lại hoa và thư tình cho ông, có lần còn để đồ lót nữa. Tôi đã cãi sáu lượt luận tội cho cô ta, mà Salovey chỉ mới làm hiệu trưởng từ năm 2013 thôi đó.

“Không,” tôi trả lời, rồi tôi kể anh nghe về Ruth, cậu bé Edison và bọn da đầu trong phòng xử.

“Thật á?” Micah hứng thú hơn với đối tượng sau cùng. “Kiểu, có dây đai quần, áo khoác phi công, giày bốt và đủ các thứ ấy hả?”

“Thứ nhất, không, và thứ hai, em có nên cảm thấy e sợ vì anh biết hết mấy chi tiết đó không?” Tôi dịch chuyển chân trên bàn cà phê để anh có thể ngồi xuống đối diện mình. “Sự thật là, bọn họ trông hệt chúng ta. Nghĩ cũng đáng sợ. Ý em là, rủi đâu hàng xóm nhà bên là một kẻ thượng tôn da trắng mà mình không hay biết?”

“Anh sẽ liều và nói rằng bà Greenblatt không phải một mụ da đầu,” Micah dí dỏm. Cùng lúc, anh nhẹ nhàng ẵm Violet vào lòng.

“Nói vậy thôi. Vụ này quá lớn nên chẳng đời nào tới tay em được,” tôi bảo anh trong lúc cùng lên lầu vào phòng con gái. Rồi tôi bổ sung, “Ruth Jefferson sống ở East End đấy.”

“Hừm,” Micah đáp lại. Anh đặt Vi lên giường, kéo chăn đắp cho con bé rồi đặt lên trán nó một nụ hôn.

“Anh hừm là ý gì vậy?” tôi gặng hỏi, sẵn sàng tranh cãi, mặc dù bản thân cũng đã phản ứng giống anh.

“Có ý gì đâu em,” Micah nói. “Chỉ là một cách trả lời thôi mà.”

“Có đấy, điều anh thực sự nghĩ, mà lịch sự không muốn nói ra, là chẳng có gia đình da đen nào ở East End cả.”

“Chắc thế. Có lẽ vậy.”

Tôi theo anh vào phòng của chúng tôi và mở khóa kéo chiếc váy, lột bỏ quần tất. Khi đã tròng vào cái áo thun và quần đùi tôi thường mặc ngủ, tôi vào nhà tắm và đánh răng bên cạnh Micah. Xong xuôi, tôi nhổ ra và lấy lưng bàn tay chùi miệng. “Anh có biết trong phim Vua sư tử, lũ linh cẩu - bọn xấu - tất cả đều nói bằng tiếng lóng của người da đen hoặc dân Mỹ Latinh không? Và những chú sư tử con được dặn không được tới gần chỗ linh cẩu sống?”

Micah nhìn tôi, dường như đang buồn cười lắm.

“Anh có nhận ra rằng Scar, nhân vật phản diện, có màu sẫm hơn Mufasa?”

“Kennedy.” Micah đặt tay lên hai bờ vai tôi rồi cúi xuống hôn tôi. “Có lẽ là em nghĩ quá nhiều rồi đấy.”

Đó là khoảnh khắc tôi biết mình sẽ làm tất cả từ lấp biển đến dời non để trở thành luật sư biện hộ cho Ruth.

Chú thích:

[38] Ruy băng màu xanh có nhiều ý nghĩa, trong đó có phản đối bạo hành, ngược đãi trẻ em.