← Quay lại trang sách

Kennedy

“Khách hàng của em ghét em,” tôi nói với Micah khi vợ chồng tôi cùng đứng rửa chén trong nhà bếp.

“Anh chắc là cô ấy không ghét em đâu.”

Tôi liếc anh. “Cô ấy nghĩ em kỳ thị chủng tộc.”

“Cô ấy cũng có cái lý của mình,” Micah nhẹ nhàng nói, và tôi quay ngoắt qua, chân mày nhướng lên tới đường chân tóc. “Em da trắng còn cô ấy thì không, và tình cờ là cả hai người đang sống trong một thế giới mà người da trắng nắm trong tay tất cả quyền hành.”

“Em không nói cuộc sống của cô ấy không vất vả hơn em,” tôi cãi lại. “Em không phải một trong số những người cho rằng chỉ vì chúng ta đã bầu lên một tổng thống da đen, thế là một cách màu nhiệm, chúng ta hết kỳ thị chủng tộc. Mỗi ngày em đều làm việc với khách hàng thuộc thành phần thiểu số, những người bị hệ thống chăm sóc sức khỏe, hệ thống pháp luật hình sự và hệ thống giáo dục chơi cho mấy vố đau. Ý em là, nhà tù được vận hành như một tổ chức kinh doanh. Ai đó đang kiếm lời từ việc giữ cho bao giờ cũng có một dòng người vô tù ổn định.”

Vợ chồng tôi vừa tiếp vài đồng nghiệp của Micah sang dùng bữa tối. Tôi đã hy vọng sẽ dọn ra cho họ một bàn tiệc đúng chuẩn người sành ăn, nhưng kết quả là chỉ làm được một bàn taco và phục vụ bánh nướng mua tiệm mà tôi giả bộ là bánh nhà làm, sau khi bẻ vỡ rìa vỏ bánh để cho nó bớt hoàn hảo. Suốt buổi tối, tâm trí tôi cứ trôi về chỗ khác. Cũng phải thôi, khi cuộc trò chuyện chuyển sang để tài tỉ lệ sợi thần kinh võng mạc mất đi trong mắt của bệnh nhân bị tăng nhãn áp, mọi người đâu thể trách tôi được. Thế nhưng ngay từ đầu, cuộc tranh cãi với Ruth đã đeo đẳng tâm trí tôi. Nếu phần đúng thuộc về tôi, tại sao tôi không thể ngừng lật lại những lời mình nói.

“Nhưng anh không thể tùy tiện nhắc tới vấn đề chủng tộc trong một phiên xử hình sự,” tôi lý luận. “Nó giống như một quy luật bất thành văn, anh biết mà, kiểu như Không được dùng đèn pha khi có xe đi ngược chiều hay Đừng là tên khốn đẩy cả một xe đầy nhóc vô hàng tính tiền Mười hai món hoặc ít hơn. Ngay cả những vụ dựa trên luật tự vệ cũng tránh xa đề tài đó, và 99% thời gian là một gã da trắng ở Florida sợ một đứa nhỏ da đen và bóp cò. Em hiểu Ruth cảm thấy mình bị bệnh viện phân biệt đối xử. Nhưng mấy chuyện đó đâu có liên quan gì tới bản án giết người.”

Micah chuyền cho tôi một cái dĩa để lau khô. “Đừng hiểu cái này theo ý xấu nhé, em yêu,” anh nói, “nhưng thỉnh thoảng, khi em cố gắng giải thích cái gì đó và em nghĩ em đang đưa ra một gợi ý, thực ra em như một cái xe tải Mack ấy.”

Tôi quay sang anh, vung vẩy cái khăn lau chén. “Nếu như một bệnh nhân của anh bị ung thư, và anh đang cố chữa nó, nhưng cô ấy lại cứ khăng khăng bảo mình còn bị bệnh dị ứng thường xuân nữa. Lúc đó anh sẽ bảo cô ấy trước mắt nên tập trung loại bỏ khối u, còn mớ mẩn ngứa thì để sau hãy trị, chẳng phải vậy sao?”

Micah nghĩ ngợi một lát. “Hừm, anh không phải là bác sĩ chuyên khoa ung thư. Nhưng có đôi khi, lúc em bị ngứa, em sẽ cứ gãi nó mà thậm chí không hay biết mình đang làm thế.”

Tôi ngẩn ra. Hả?

“Đó là phép ẩn dụ của em mà.”

Tôi thở dài. “Khách hàng của em ghét em,” tôi lặp lại.

Ngay lúc đó thì điện thoại đổ chuông. Đã gần 10:30 tối; cái giờ mà những cuộc gọi toàn mang tới tin tức về tai nạn và đau tim. Tôi nhấc ống nghe lên với bàn tay ẩm ướt. “A lô?”

“Cho hỏi cô có phải là Kennedy McQuarrie không?” một giọng nói trầm trầm vang lên, cái giọng tôi nghe rất quen nhưng chưa định được là ai.

“Đúng thế.”

“Tuyệt vời! Cô McQuarrie, tôi là Wallace Mercy.”

Là Wallace Mercy đó sao?

Tôi thậm chí không biết mình đã buột miệng nói ra câu đó cho đến lúc ông ta bật cười. “Tin đồn về sự nổi tiếng như siêu sao của tôi là do người ta thổi phồng quá lên đấy,” ông diễn giải. “Tôi gọi cho cô để nói chuyên về một người bạn chung của chúng ta - Ruth Jefferson.”

Lập tức, tôi chuyển sang chế độ phong tỏa. “Cha Mercy, tôi không được tự ý bàn luận về một khách hàng.”

“Tôi cam đoan với cô là cô được phép. Ruth đã yêu cầu tôi làm cố vấn cho cô ấy, đại loại vậy...”

Tôi nghiến răng. “Khách hàng của tôi chưa ký thứ gì nói vậy hết.”

“Đơn miễn trách nhiệm, dĩ nhiên rồi. Tôi vừa gửi mẫu cho cô ấy một giờ trước. Sáng ngày mai nó sẽ ở trên bàn cô.”

CÁI. QUÁI. GÌ. Tại sao Ruth lại đi và ký một thứ như vậy mà không trao đổi với tôi? Sao cô ấy không cho tôi biết cô ấy có nói chuyện với người như Wallace Mercy?

Thế nhưng tôi đã biết câu trả lời rồi cơ mà: bởi vì tôi bảo Ruth vụ kiện của cô ấy không liên quan gì tới phân biệt chủng tộc, chính là vì vậy. Và Wallace Mercy thì có cái gì khác đâu ngoài phân biệt chủng tộc.

“Nghe này,” tôi bảo, tim đập mạnh đến nỗi có thể nghe nhịp đập của nó trong mỗi từ thốt ra từ miệng tôi. “Cãi cho Ruth Jefferson được tha bổng là việc của tôi, không phải của cha. Cha muốn tăng tỉ lệ người xem chương trình à? Đừng mơ làm được chuyện đó sau lưng tôi.”

Tôi dập máy, mạnh đến mức nó vuột khỏi tay tôi và văng đi một quãng xa trên sàn bếp. Micah tắt vòi nước. “Đám điện thoại không dây khốn kiếp,” anh nói. “Cái hồi ta còn có thể dộng chúng xuống thật thỏa mãn hơn nhiều, chẳng phải vậy sao?” Anh bước lại gần tôi, tay đút trong túi. “Em muốn cho anh biết có chuyện gì không?”

“Người mới gọi đến là Wallace Mercy. Ruth Jefferson đã thuê ông ta tư vấn cho cô ấy.”

Micah huýt sáo, tiếng huýt trầm thấp và ngân dài. “Em nói đúng,” anh nhận xét. “Cô ấy ghét em.”

Ruth mở cửa trong bộ váy ngủ và áo choàng tắm. “Làm ơn,” tôi khẩn thiết. “Tôi chỉ cần cô cho tôi năm phút thôi.”

“Chẳng phải đã hơi muộn rối hay sao?”

Tôi không biết cô ấy đang nói về chuyện đã gần mười một giờ tối hay chuyện chúng tôi đã chia tay nhau trong sự bất đồng dữ dội hồi chiều. Tôi chọn tin theo khả năng số một. “Tôi biết nếu tôi gọi, cô sẽ nhận ra số của tôi và phớt lờ nó.”

Cô ấy suy nghĩ một lát. “Chắc vậy.”

Tôi kéo chiếc áo len sát lại quanh mình. Sau khi Wallace Mercy gọi, tôi đã tót lên xe và lái đi ngay. Tôi thậm chí không chụp lấy một cái áo khoác. Tất cả những gì tôi kịp nghĩ là tôi cần phải ngăn Ruth trước khi cô ấy gửi lại tôi cái đơn miễn trách nhiệm đó.

Tôi hít vào một hơi sâu. “Không phải là tôi không quan tâm đến cách cô bị mọi người đối xử - tôi có quan tâm chứ. Nhưng tôi biết để cho Wallace Mercy nhúng tay vào thì trước mắt chỉ có hại cho cô thôi, nếu không phải về lâu về dài.”

Ruth thấy tôi run lên lần nữa. “Vào đi,” cô nói, sau một lúc im lặng.

Chiếc ghế dài đã được kéo ra thành giường, bày đủ gối, khăn trải và chăn đắp, thế nên tôi ngồi vào bàn bếp trong lúc con trai Ruth thò đầu ra từ phòng ngủ. “Mẹ? Có chuyện gì vậy?”

“Mẹ ổn cả, Edison. Ngủ đi con.”

Dường như thằng bé vẫn còn nghi ngờ, nhưng quyết định lùi lại và đóng cửa.

“Ruth,” tôi nài, “đừng ký cái đơn miễn trách nhiệm đó.”

Đến lượt mình, cô ấy cũng ngồi vào bàn bếp. “Ông ấy hứa sẽ không can thiệp vào việc của cô ở tòa...”

“Cô sẽ hủy hoại chính mình mất thôi,” tôi nói thẳng. “Nghĩ mà xem - những đám đông phẫn nộ trên đường, gương mặt cô trên TV mỗi tối, và trên chương trình điểm tâm sáng thì mấy tay chuyên gia pháp luật lại góp thêm lời ra tiếng vào về vụ kiện - cô không muốn họ kiểm soát được quyền dẫn dắt và định hướng dư luận về vụ kiện này trước chúng ta đâu.” Tôi chỉ về cánh cửa phòng ngủ đang đóng im ỉm của Edison. “Còn con trai cô thì sao? Cô sẵn sàng để nó bị lôi ra trước mắt dư luận à? Bởi vì đó là chuyện sẽ xảy ra khi cô trở thành một biểu tượng. Thế giới sẽ biết hết mọi chuyện về cô, quá khứ của cô, gia đình cô, và không ngừng soi mói chỉ trích cô. Tên cô cũng sẽ trở nên nổi tiếng như Trayvon Martin. Và cô sẽ không bao giờ lấy lại được cuộc đời mình.”

Ruth nhìn thẳng vào mắt tôi. “Cậu bé ấy cũng vậy.”

Sự thật trong câu nói ấy chia tách chúng tôi như một hẻm núi sâu. Tôi nhìn xuống vực thẳm và thấy hết lý do vì sao Ruth không nên làm vậy; trong khi cô ấy nhìn xuống và không nghi ngờ gì nữa, thấy hết lý do vì sao mình nên chọn cách này.

“Ruth, tôi biết cô không có lý do gì để tin tôi, đặc biệt là khi mới đây người da trắng đã đối xử với cô như vậy. Nhưng nếu Wallace đăng đàn, cô sẽ không được an toàn nữa. Điều cuối cùng cô muốn là vụ kiện của mình bị đem ra xử trước truyền thông. Làm ơn, hãy theo cách của tôi. Cho nó một cơ hội.” Tôi ngập ngừng. “Xin cô đấy.”

Ruth khoanh tay lại. “Nếu tôi bảo cô tôi muốn bồi thẩm đoàn biết chuyện đã xảy đến với tôi thì sao hả? Nếu như tôi muốn họ nghe câu chuyện từ phía của tôi?”

Tôi gật đầu, đưa ra mặc cả. “Vậy chúng ta sẽ để cô đứng ra tự bào chữa,” tôi hứa.

Điểm thú vị nhất ở Jack DeNardi là trên bàn làm việc của ông có để một quả bóng dây thun to ngang đầu đứa bé mới sinh. Còn lại thì ông ta giống hệt kiểu người bạn trông đợi sẽ gặp trong văn phòng làm việc cáu bẩn của bệnh viện Mercy West Haven: bụng phệ, da xám xịt, tóc chải khéo để che chỗ hói. Ông ta là kiểu nhân viên bàn giấy điển hình, và lý do duy nhất tôi tới đây là để moi thông tin. Tôi muốn biết trong những điều họ nói về Ruth, có điều gì giúp được cô ấy không - hoặc hại cô ấy.

“Hai mươi năm,” Jack DeNardi nói. “Cô ấy làm việc ở đây lâu vậy rồi đấy.”

“Trong hai mươi năm đó đã mấy lần Ruth được thăng chức?” tôi hỏi.

“Để coi.” Ông ta nghiền ngẫm mớ giấy tờ. “Chỉ một.”

“Một lần trong hai mươi năm á?” tôi thốt lên, không tin nổi. “Ông không thấy vậy có vẻ ít quá sao?”

Jack nhún vai. “Tôi không được tự ý bình luận về mấy chuyện đó.”

“Tại sao vậy?” tôi ép tới. “Ông là người của bệnh viện. Chẳng phải việc của ông là giúp đỡ mọi người à?”

“Bệnh nhân thôi,” ông ta làm rõ. “Không phải nhân viên.”

Tôi khịt mũi. Các tổ chức được quyền soi mói nhân sự của họ, vạch lá tìm sâu và bắt bẻ mọi lỗi lầm - nhưng chẳng bao giờ có ai dùng kính phóng đại để mà soi họ.

Ông ta lướt qua vài tờ giấy nữa. “Từ được dùng trong bản đánh giá cách làm việc gần đây nhất của cô ấy là dễ cáu.”

Không phải tôi không đồng ý với nhận xét đó.

“Rõ ràng Ruth Jefferson có năng lực. Nhưng từ những gì tôi thu thập được trong hồ sơ thì cô ấy không được thăng chức vì cấp trên cho rằng cô ấy hơi... kiêu ngạo.”

Tôi cau mày. “Cấp trên của Ruth, Marie Malone... cô ấy làm việc ở đây bao lâu rồi?”

Ông ta gõ gõ bàn phím. “Khoảng mười năm.”

“Thế ra một người làm việc ở đây mười năm lại ở vị trí có thể ra chỉ thị cho Ruth - những chỉ thị thiếu minh bạch - hẳn là thỉnh thoảng Ruth đã chất vấn chúng? Thế thì cô ấy kiêu ngạo... hay chỉ cương quyết?”

Ông quay qua tôi. “Tôi không nói được.”

Tôi đứng dậy. “Cảm ơn vì đã dành thời gian cho tôi, ông DeNardi.” Tôi thu dọn cặp hồ sơ và lấy áo khoác, rồi ngay trước khi đặt bước qua ngưỡng cửa, tôi quay lại. “Kiêu ngạo... hay cương quyết. Có lẽ nào tính từ thay đổi theo màu da của nhân viên?”

“Tôi ghét ám chỉ đó, cô McQuarrie.” Jack DeNardi mím môi. “Mercy West Haven không phân biệt đối xử với nhân viên dựa trên chủng tộc, tín ngưỡng, tôn giáo hay khuynh hướng tình dục.”

“Ồ, được rồi. Tôi đã hiểu,” tôi đáp. “Vậy chắc là hên sao đó nên Ruth Jefferson mới là nhân viên được các người chọn làm con chốt thí.”

Khi bước ra khỏi bệnh viện, tôi cân nhắc và quyết định rằng không phần nào trong cuộc nói chuyện vừa rồi có thể hoặc sẽ được đem ra sử dụng trước tòa. Tôi còn không rõ cái gì đã khiến mình quay lại vào phút cuối và ném câu chất vấn đó cho người quản trị nhân sự.

Trừ phi, có lẽ, tôi đã bị Ruth lây.

Dịp cuối tuần đó, một cơn mưa lạnh đập tới tấp vào cửa sổ. Violet và tôi ngồi ở bàn cà phê, hí hoáy vẽ vẽ tô tô. Violet đang vẽ loằng ngoằng trên tờ giấy, chẳng đếm xỉa gì tới đường viền hình con gấu trúc Mỹ có sẵn trong sách tô màu. “Bà ngoại thích tô vào đường vẽ sẵn,” con gái tôi thông báo. “Bà bảo đó là cách làm đúng đắn.”

“Chẳng có cách nào đúng hay sai hết,” tôi nói một cách tự động, tay chỉ vào hai sắc đỏ vàng bùng nổ dưới bàn tay con. “Xem cách của con đẹp chưa kia.”

Mà ai lại nghĩ ra quy định đó thế nhỉ? Tại sao lại có đường lối làm gì?

Hồi Micah và tôi đi trăng mật ở Úc, chúng tôi đã dành ba đêm cắm trại ở trung tâm đỏ của đất nước này, nơi mặt đất nứt nẻ như cổ họng khô rát và bầu trời đêm trông như một cái tô dát kim cương đặt úp. Chúng tôi gặp một người thổ dân bản địa, ông chỉ chúng tôi chòm Emu trên nền trời, chòm sao gần Nam Thập Tự, vốn không nối những chấm sao thành hình giống như chòm sao của chúng ta mà là khoảng không giữa chúng - những tinh vân cuộn xoáy trên Dải Ngân Hà tạo thành cái cổ dài và đôi chân lêu khêu của loài chim lớn. Thoạt đầu, tôi không tìm được nó. Và rồi, khi đã nhận ra, đó là tất cả những gì tôi thấy.

Khi điện thoại đổ chuông và trông thấy số của Ruth, tôi lập tức nhấc máy. “Mọi chuyện vẫn ổn chứ?” tôi hỏi.

“Ổn.” Giọng Ruth có vẻ không tự nhiên. “Không biết chiều nay cô có rảnh không?”

Tôi đưa mắt sang Micah, anh vừa bước vào phòng khách. Là Ruth, tôi mấp máy môi.

Anh lao tới bế thốc Violet, chọc lét con bé, để cho tôi biết tôi có tất cả thời gian mình cần. “Có chứ,” tôi đáp. “Trong bằng chứng có điểm gì cô muốn trao đổi với tôi à?”

“Không hẳn. Tôi cần phải đi mua quà sinh nhật cho má tôi. Và tôi nghĩ có thể cô thích đi cùng.”

Bao giờ trông thấy một cành ô-liu chìa ra cho mình, tôi cũng nhận ra ngay. “Tôi thích lắm,” tôi đáp.

Trong lúc lái xe tới nhà Ruth, tôi nghĩ về tất cả những lý do chỉ ra đây là một sai lầm nghiêm trọng. Khi mới chập chững vào nghề luật sư biện hộ công, tôi đã dành hết tiền lương của mình, vốn chẳng đủ mua tạp phẩm dùng trong tuần, cho khách hàng khi họ cần một bộ quần áo sạch hay một bữa ăn nóng. Phải một thời gian sau, tôi mới nhận ra mình không thể giúp đỡ khách hàng tới mức dùng luôn tài khoản. Thế nhưng Ruth có vẻ rất kiêu hãnh, hẳn cô ấy sẽ không đưa tôi tới trung tâm mua sắm và bóng gió rằng cô ấy cần một đôi giày mới. Chắc là cô ấy chỉ muốn xóa tan bầu không khí căng thẳng giữa chúng tôi, tôi nghĩ vậy.

Thế nhưng trên đường đến trung tâm, chúng tôi chỉ toàn nói chuyện thời tiết - khi nào trời tạnh ráo, nó có chuyển thành mưa tuyết không. Sau đó chúng tôi bâng quơ bàn chuyện sẽ đi đâu vào những kỳ nghỉ tới. Theo ý của Ruth, tôi đỗ xe gần T.J.Maxx. “Vậy,” tôi mở lời. “Cô có đang tìm thứ gì cụ thể không?”

Cô ấy lắc đầu. “Tôi sẽ nhận ra món quà khi trông thấy nó. Có những vật cứ như là hét lên tên của má tôi ấy, thường là mấy thứ gắn cả đống kim sa.” Ruth mỉm cười. “Nhìn cách bà ăn diện khi tới nhà thờ, cô sẽ tưởng bà sắp dự đám cưới không bằng. Tôi luôn nghĩ vì bà phải mặc đồng phục cả tuần, có lẽ đó là cách để bà thả lỏng.”

“Cô lớn lên ở đây, tại Connecticut này à?” tôi hỏi khi chúng tôi bước ra khỏi chiếc xe.

“Không. Ở Harlem. Hồi đó ngày nào tôi cũng bắt xe buýt vào Manhattan, cùng đường má tôi đi làm, rồi xuống ở Dalton.”

“Cô và chị là học sinh Dalton sao?”

“Chỉ tôi thôi. Chị Adisa không có... chí hướng học tập lắm. Chính Wesley thuyết phục tôi đến định cư ở Connecticut.”

“Làm thế nào hai người quen nhau?”

“Ở một bệnh viện,” Ruth kể. “Tôi là sinh viên ngành y tá, tại một khoa sản, và có một phụ nữ sắp sinh khi chồng đang thực hiện nghĩa vụ quân sự. Chị ấy cố liên lạc với chồng, hết lần này đến lần khác, chị ấy sắp sinh đôi mà lại sinh sớm cả tháng, chị ấy sợ và nghĩ rằng sẽ phải vượt cạn một mình. Đột nhiên, trong lúc chị ấy rặn đẻ, một người đàn ông xông vào, mặc quân phục. Vừa thấy chị ấy là anh ta lăn đùng ra ngay. Vì chỉ là sinh viên, tôi phải chăm sóc người ngất xỉu.”

“Chờ đã,” tôi chen vào. “Wesley là chồng của người khác khi cô gặp anh ấy sao?”

“Mới đầu tôi cũng tưởng vậy. Thế nhưng khi tỉnh dậy, anh ấy bắt đầu tán tỉnh tôi, cố thể hiện hết cái duyên của mình. Lúc đó tôi nghĩ Wesley là tên khốn nạn nhất mình từng gặp, đi tán gái trong lúc vợ sinh hai đứa con đôi, và tôi nói thẳng vào mặt anh như thế. Hóa ra bọn trẻ không phải con anh. Bạn thân nhất của anh ấy là người cha kia, nhưng anh ta bận tập huấn không được nghỉ phép, vậy là Wesley hứa sẽ thay bạn chăm sóc vợ cho tới khi anh bạn đến.” Ruth bật cười. “Đó là lúc tôi bắt đầu nghĩ có khi anh này không phải là tên khốn nạn. Chúng tôi đã có vài năm hạnh phúc, Wesley và tôi.”

“Anh ấy mất khi nào?”

“Lúc Edison bảy tuổi.”

Tôi không thể tưởng tượng nổi cảnh mất Micah; không tưởng tượng nổi phải một tay nuôi lớn Violet. Những điều Ruth làm được với cuộc đời cô ấy, tôi nhận ra, dũng cảm hơn bất cứ thứ gì tôi từng làm. “Tôi rất tiếc.”

“Tôi cũng vậy,” Ruth thở dài. “Nhưng cô biết đấy, chúng ta phải sống tiếp, đúng không? Vì chúng ta đâu còn lựa chọn nào?” Cô ấy quay sang tôi. “Thật ra, điều đó là má dạy cho tôi đấy. Có lẽ tôi sẽ thấy câu đó được thêu trên một cái gối.”

“Bằng loại chỉ lấp lánh nhất,” tôi thêm vào, và chúng tôi bước qua cửa tiệm.

Ruth kể tôi nghe về Sam Hallowell, cái tên gợi cảm giác rất quen, và chuyện mẹ cô đã gần năm mươi năm giúp việc cho gia đình đó. Cô ấy nói về Christina, người đã lục tủ rượu của cha và cho cô nếm ngụm brandy bị cấm đầu tiên ở tuổi mười hai, cũng là người đã trả tiền hòng qua môn lượng giác và mua đáp án bài kiểm tra của một học sinh trao đổi tới từ Bắc Kinh. Ruth còn kể Christina đã cố cho tiền cô ấy. “Cô này nghe có vẻ tệ,” tôi thú nhận.

Ruth suy nghĩ một lát. “Chị ấy không tệ. Chỉ là chị ấy chỉ biết có thế. Chị ấy có biết tới cách sống nào khác đâu.”

Chúng tôi di chuyển qua những hàng ngang lối dọc, chia sẻ với nhau chuyện của mình. Ruth thú thực rằng cô ấy từng muốn làm một nhà nhân loại học, cho tới khi biết về Lucy, cô người vượn phương Nam: Cô biết có bao nhiêu người phụ nữ từ Ethiopia tên là Lucy chứ? Tôi kể cô ấy chuyện mình vỡ nước ối giữa tòa, và tên thẩm phán khốn kiếp không cho hoãn phiên xử. Cô ấy kể về Adisa, người chị đã thuyết phục cô ấy, khi đó mới năm tuổi, rằng lý do Ruth có màu da sáng hơn là vì cô ấy đang biến thành ma, rằng lúc sinh ra cô ấy đen như quả mâm xôi, nhưng ngày càng nhợt nhạt. Tôi kể cô ấy về khách hàng mà tôi đã giấu trong tầng hầm suốt ba tuần, bởi vì cô này chắc chắn người chồng sẽ giết cổ. Ruth kể tôi về người đàn ông mà, giữa lúc bạn gái đang sinh, đã bảo em phải tẩy lông đi. Tôi thú nhận chuyện đã hơn một năm tôi không gặp cha, người đang nằm ở viện Alzheimer, bởi vì lần cuối cùng đến đó, tôi đau lòng đến nỗi nhiều tháng sau vẫn không rũ bỏ được nỗi buồn. Ruth thừa nhận việc đi qua khu dân cư nơi Adisa sống làm cô ấy sợ.

Tôi bắt đầu thấy đói, thế là tôi chụp một hộp bắp rang phủ caramel đang bày ở đó và mở nó ra, để rồi thấy Ruth trừng mắt nhìn tôi. “Cô đang làm gì vậy?” cô ấy hỏi.

“Ăn?” tôi đáp, miệng đầy bắp. “Cô cũng ăn chút đi. Tôi đãi.”

“Nhưng cô chưa trả tiền mà.”

Tôi nhìn Ruth như thể cô ấy đã phát điên. “Dĩ nhiên là tôi sẽ trả, khi chúng ta đi. Có gì đâu?”

“Ý tôi là...”

Thế nhưng trước khi cô ấy kịp lên tiếng đáp lại, một nhân viên đã tới xen vào giũa chúng tôi. “Tôi có thể giúp cô tìm gì không?” cô này hỏi, nhìn thẳng vào Ruth.

Nữ nhân viên mỉm cười, nhưng không đi chỗ khác. Cô ta theo sau chúng tôi một quãng, như món đồ chơi bị đứa trẻ kéo theo bằng một sợi dây. Ruth hoặc là không nhận ra, hoặc cô tình không để ý. Tôi đề nghị chọn găng tay hay khăn quấn mùa đông, nhưng Ruth nói mẹ cô có một chiếc khăn may mắn đã dùng từ lâu lắm, mà bà chẳng bao giờ đổi nó lấy bất cứ thứ gì. Ruth liên tục nói hết chuyện này tới chuyện khác cho tới khi chúng tôi tìm thấy khu vực bán DVD cũ giá trẻ. “Cái này có vẻ hay đây. Tôi có thể mở cho bà xem một loạt những chương trình bà thích nhất, kết hợp với bắp rang lò vi sóng là có một buổi tối xem phim hết ý.” Cô ấy bắt đầu lướt qua các hộp DVD: Save by the Bell. Full House. Buffy the Vampire slayer.

“Dawsons Creek,” tôi đọc. “Ôi chao, tự dưng nhớ hồi đó quá. Lúc đó tôi tin chắc mình sẽ lớn lên và cưới Pacey.”

“Pacey? Tên gì mà kỳ vậy?”

“Cô chưa xem phim đó à?”

Ruth lắc đầu. “Tôi hơn cô cả chục tuổi đấy. Và nếu có cái gì gọi là phim cho mấy cô gái da trắng thì đây chính là nó.”

Tôi thò tay vào sâu bên trong và lôi ra một đĩa The Cosby Show. Tôi định đưa nó cho Ruth nhưng rồi lại giấu đi sau một hộp The X-Files, vì rủi như cô ấy nghĩ tôi chỉ chọn nó vì màu da của diễn viên thì sao? Thế nhưng Ruth đã giật cái đĩa khỏi tay tôi. “Cô có xem phim này khi nó được chiếu trên TV à?”

“Tất nhiên. Không phải ai cũng xem sao?”

“Tôi đoán đó là vấn đề đấy. Nếu cô cho gia đình ‘người tốt việc tốt’ nhất trên TV là người da đen, có lẽ người da trắng sẽ không hãi hùng đến vậy.”

“Chẳng biết vào những ngày này, tôi có thể dùng từ Cosby và người tốt việc tốt trong cùng một câu không nữa,” tôi lẩm bẩm, vừa lúc đó thì nhân viên bán hàng của T.J.Maxx một lần nữa tiến lại gần chúng tôi.

“Mọi chuyện vẫn ổn chứ?”

“Ổn cả,” tôi đáp, bắt đầu thấy phiền. “Nếu cần gì chúng tôi sẽ gọi cô ngay.”

Rốt cuộc Ruth chọn phim ER, vì mẹ cô ấy thích George Clooney, cộng thêm một đôi găng có diềm đính lông thỏ thật. Tôi chọn một bộ pijama cho Violet và một xấp áo lót cho Micah. Khi chúng tôi tới chỗ máy tính tiền, người quản lý đi theo chúng tôi. Tôi thanh toán trước, đưa thẻ tín dụng cho nhân viên cửa hàng, rồi chờ Ruth hoàn tất giao dịch.

“Cô có mang chứng minh thư không?” người tính tiền hỏi. Ruth rút ra giấy phép và thẻ an sinh xã hội của cô ấy. Nhân viên cửa hàng nhìn cô, rồi nhìn cái hình trên giấy phép, và cho mấy món đồ qua máy tính tiền.

Khi chúng tôi rời cửa hiệu, một tay bảo vệ chặn chúng tôi lại. “Thưa cô,” ông ta nói với Ruth, “tôi có thể xem hóa đơn của cô không?”

Tôi bắt đầu lục túi xách để lấy hóa đơn cho ống này kiểm tra luôn thể, nhưng ông xua tôi đi. “Cô thì không có vấn đề,” ông ta nói, thái độ như không màng tới tôi, rồi chuyển sự chú ý trở lại Ruth, kiểm tra xem những món đồ trong túi có khớp với hóa đơn không.

Đó là lúc tôi nhận ra Ruth không muốn tôi đi cùng vì cô ấy cần tôi giúp chọn quà cho mẹ.

Ruth muốn tôi tới đây để tôi hiểu ở vị trị cô ấy thì sẽ thế nào.

Người quản lý theo sát gót, phòng hờ trộm cắp.

Vẻ nghi ngại của nhân viên tính tiền.

Và thực tế rằng trong số một tá người cùng lúc rời T.J.Max, chỉ có mỗi Ruth bị gọi lại kiểm tra túi xách.

Tôi nghe má mình đỏ lên - xấu hổ thay cho Ruth, và xấu hổ vì mình không nhận thấy chuyện gì đang xảy ra ngay cả khi nó sờ sờ đó. Khi bảo vệ trả lại túi xách cho Ruth, chúng tôi rời cửa hiệu, chạy qua màn mưa lại xe tôi.

Vào trong xe, chúng tôi ngồi xuống, thở hổn hển và ướt nhẹp. Cơn mưa phủ lên giữa chúng tôi và thế giới một tấm màn. “Tôi hiểu rồi,” tôi lên tiếng.

Ruth nhìn tôi. “Cô còn chưa bắt đầu hiểu nữa kia,” cô ấy đáp lại, không tỏ ra cay nghiệt.

“Vậy mà cô không nói gì hết,” tôi chỉ ra. “Cô quen với nó rồi sao?”

“Tôi nghĩ ta chẳng bao giờ quen được hết. Chỉ là biết cách bỏ qua thôi.”

Tôi nghe những lời Ruth đã nói về Christina vang vọng trong tâm trí: Chị ấy có biết tới cách sống nào khác đâu.

Ánh mắt chúng tôi gặp nhau. “Thú thật nhé? Môn học tôi từng bị điểm thấp nhất ở trường đại học là Lịch sử người da đen. Tôi là cô gái da trắng duy nhất tham dự khóa học chuyên đề đó. Bài kiểm tra tôi làm khá tốt nhưng năm mươi phần trăm điểm số là điểm tham gia phát biểu, mà tôi thì không hề mở miệng suốt học kỳ, không một lần nào. Tôi sợ mình nói sai hoặc nói ra điều gì ngu ngốc khiến người ta tưởng rằng tôi định kiến. Rồi tôi lại lo bạn học sẽ nghĩ con nhỏ đó không quan tâm tới môn học vì nó chẳng đóng góp thảo luận gì.”

Ruth lặng im một lúc. “Thú thật nhé? Lý do chúng ta không nói về chủng tộc là vì chúng ta không nói cùng ngôn ngữ.”

Thế rồi hai chúng tôi ngồi lặng hồi lâu, lắng tai nghe tiếng mưa rơi. “Thú thật nhé? Tôi chẳng thích cái phim The Cosby show chút nào.”

“Thú thật nhé?” Ruth nhoẻn cười. “Tôi cũng vậy.”

Đầu tháng mười hai, tôi phải cố gắng làm việc cật lực gấp đôi. Tôi rà soát hết bằng chứng, tôi viết kiến nghị trước phiên xử, và tôi xử lý cho xong ba mươi vụ khác đang kèn cựa với vụ của Ruth để tránh sự chú ý của tôi. Sau bữa trưa, lẽ ra tôi phải lấy lời khai của một cô gái hai mười ba tuổi bị bạn trai đánh vì phát hiện cô ngủ với em trai anh ta. Thế nhưng xui sao đó, trên đường đi, nhân chứng bị tai nạn xe nhẹ nên phải dời lịch lại, và tôi bỗng thấy mình rỗi ra hai tiếng đồng hồ. Nhìn xuống núi giấy tờ chất đống trên bàn làm việc, tôi đưa ra một quyết định bốc đồng. Tôi thò đầu qua vách ngăn trước mặt tìm Howard. “Nếu có người hỏi tôi ở đâu,” tôi bảo cậu, “cứ nói tôi ra ngoài mua tampon nhé.”

“Khoan. Thật hả chị?”

“Không. Nhưng người đó sẽ ngượng lắm, mà vậy cũng đáng đời vì ai mượn soi mói chuyện của tôi.”

Trời ấm áp khác thường - gần 10 độ. Tôi biết khi thời tiết tốt, mẹ tôi thường đi đón Violet ở trường và dẫn con bé tới sân chơi. Hai bà cháu có đồ ăn vặt - táo với các loại hạt - và mẹ tôi sẽ để Violet chơi trên khung vận động trước khi về nhà. Quả nhiên, con gái tôi đang treo ngược trên xà khỉ, váy phủ xuống cằm khi nó thấy tôi. “Mẹ!” con bé kêu lên, và với sự duyên dáng cùng khả năng vận động hẳn là thừa hưởng từ Micah, nó lộn người đáp xuống đất và chạy ào lại chỗ tôi.

Trong lúc tôi nhấc bổng con lên tay, mẹ tôi quay lại từ trên băng ghế. “Con bị đuổi việc rồi à?” bà hỏi.

Tôi nhướng mày. “Đó thật sự là cái đầu tiên nảy ra trong đầu mẹ sao?”

“Ừ thì, mẹ nghĩ lần cuối cùng con đột xuất ghé qua vào giữa ngày là khi bố của Micah đang hấp hối.”

“Mẹ,” Violet thông báo, “con đã làm cho mẹ một món quà Giáng sinh ở trường và nó là một sợi dây chuyền và chim có thể ăn nó.” Con bé vặn vẹo người trong vòng tay tôi, thế là tôi thả nó xuống và lập tức con tôi chạy lại chỗ cái xà.

Mẹ tôi vỗ lên chỗ ngồi cạnh bà trên ghế. Bà quấn khăn và áo ấm kín mít, bất kể nhiệt độ, máy đọc sách Kindle đặt trên đùi và bên cạnh là một hộp bento nhỏ hiệu Tupperware có mấy miếng táo và đậu đủ loại. “Vậy,” bà hỏi, “nếu con chưa bị đuổi thì vì đâu mà hai bà cháu lại có bất ngờ thú vị này?”

“Vì một vụ tai nạn xe, mẹ ạ - không phải của con.” Tôi vốc một nắm hạt cho vào miệng. “Mẹ đang đọc gì thế?”

“Sao chứ, con yêu, mẹ không bao giờ đọc trong khi cháu mẹ đang đu trên xà khỉ. Mắt mẹ chẳng rời con bé phút nào.”

Tôi đảo tròn mắt. “Mẹ đang đọc gì vậy?”

“Mẹ không nhớ tên nó nữa. Cái gì đó về một nữ công tước bị ung thư và một gã ma cà rồng đề nghị làm cho nàng ta bất tử. Hình như thể loại đó gọi là tiểu thuyết về bệnh tật,” mẹ tôi nói. “Mẹ đọc để chuẩn bị cho câu lạc bộ sách ấy mà.”

“Ai chọn nó vậy?”

“Không phải mẹ. Mẹ không chọn sách. Mẹ chọn rượu thôi.”

“Quyển sách cuối cùng con đọc là Ai cũng ị” tôi nói, “nên con đoán là mình chẳng có quyền phán xét ai.”

Tôi ngả người ra, ngẩng mặt nhìn lên vầng mặt trời chiều muộn. Mẹ vỗ vỗ đùi bà, và tôi duỗi người trên ghế, nằm xuống đó. Bà nghịch tóc tôi như vẫn làm hồi tôi ở vào tuổi Violet. “Mẹ biết cái khó khăn nhất của việc làm một người mẹ là gì không?” tôi nói vẩn vơ. “Đó là ta không bao giờ có thời gian để làm một đứa trẻ nữa.”

“Chúng ta không bao giờ có thời gian nữa, chấm hết,” mẹ tôi đáp lại. “Và trước khi ta kịp nhận ra thì đứa con gái bé bỏng của ta đã rời tổ đi cứu thế giới rồi.”

“Lúc này cô con gái ấy chỉ đang khoái trá chén đậu thôi,” tôi nói và xòe tay ra xin thêm. Tôi cho một hạt vào giữa môi và suýt nữa đã phun ra. “Ui, chúa ơi, con ghét hạt hạch Brazil.”

“Tên nó là vậy hả?” mẹ tiếp lời tôi. “Nó có vị như bàn chân ấy. Nó là đứa con hoang con ghẻ của hộp đậu đủ loại, cái thứ mà chẳng ai ưa nổi.”

Bất giác tôi nhớ lại hồi bằng tuổi Violet, được tới nhà bà ngoại ăn bữa tối ngày lễ Tạ ơn. Ngôi nhà đầy ắp những bà dì, ông cậu, anh chị họ và em họ. Tôi yêu món bánh khoai lang ngoại làm, yêu những chiếc khăn lót bà để trên đồ nội thất, không cái nào giống cái nào, như bông tuyết. Tuy vậy tôi phải cố hết sức tránh xa ông cậu Leon, em trai của ông tôi, người họ hàng quá lớn lối, quá say xỉn, và chừng như lúc nào cũng hôn nhầm lên môi bạn dù ông nhắm vào gò má. Bà tôi thường dọn một tô hạt lớn ra làm món khai vị và ông cậu Leon sẽ giữ đồ kẹp quả hạch, kẹp vỡ vỏ và chuyền chúng cho bọn nhóc con: quả óc chó, quả phỉ, hồ đào, đào lộn hột, quả hạnh và hạt hạch Brazil. Chỉ có điều ông cậu không bao giờ gọi chúng là hạt hạch Brazil hết. Ông sẽ giơ cái hạt nâu dài và nhăn nheo lên. Bán móng chân mọi đen đây, ông rao lanh lảnh. Ai muốn ăn móng chân mọi đen nào?

“Mẹ còn nhớ ông cậu Leon chứ?” tôi đột ngột hỏi, ngồi bật dậy. “Cách ông ấy từng gọi loại hạt này?”

Mẹ tôi thở dài. “Ừ. ông cậu Leon tính tình hơi kỳ quặc.”

Hồi đó tôi không biết nghĩa của từ đó. Tôi cũng cười như mấy đứa nhỏ khác thôi. “Tại sao không có ai nói gì với ông ấy? Sao không ai bảo ông ấy im lại?”

Mẹ nhìn tôi, lộ rõ vẻ bực bội. “Có vậy thì cũng đâu phải là ông cậu Leon sẽ nghe theo mà thay đổi đâu chứ.”

“Dĩ nhiên là không rồi, nếu ông ấy có người hưởng ứng,” tôi chỉ ra. Tôi gật đầu về phía bãi cát, nơi Violet đang sóng vai cùng một cô bạn gái da đen bé nhỏ, cùng lấy gậy chọc chọc vào đống cát. “Lỡ như con bé lặp lại điều ông cậu Leon từng nói, bởi vì con bé không biết đó là sai thì sao? Mẹ nghĩ người ta sẽ phản ứng thế nào?”

“Hồi đó North Carolina đâu phải như ở đây bây giờ,” mẹ tôi nói lại.

“Có lẽ tình hình sẽ khác nếu người như mẹ thôi kiếm cớ biện hộ cho điều sai trái.”

Ngay khi lời nói vừa rời khỏi miệng, tôi đã cảm thấy áy náy vô cùng vì biết mình đang đổ cho mẹ trong khi thật sự muốn tự trách mình. Trên khía cạnh pháp luật, tôi vẫn biết hướng đi an toàn nhất cho Ruth là tránh bàn tới vấn đề chủng tộc, nhưng trên phương diện đạo đức, tôi thấy mình khó lòng chấp nhận điều đó. Lỡ như lý do tôi vội vàng gạt yêu tố chủng tộc ra khỏi vụ kiện của Ruth không phải vì hệ thống pháp luật không chịu nổi gánh nặng đó, mà vì tôi sinh ra trong một gia đình nơi mà những câu đùa cợt về người da đen cũng là một phần truyền thống ngày lễ hội, chẳng khác gì sứ xương và món nhồi xúc xích của bà tôi? Mẹ tôi, vì Chúa, lớn lên với một người hệt như mẹ Ruth ở trong nhà - nấu nướng, quét dọn, đưa con của chủ đến trường, dẫn đứa trẻ tới những sân chơi giống như cái ở đây.

Mẹ tôi im lặng lâu đến mức tôi biết mình đã làm bà cảm thấy bị xúc phạm. “Vào năm 1954, lúc mẹ chín tuổi, một phiên tòa ra phán quyết cho năm đứa bé người da đen tới trường mẹ học. Mẹ nhớ một thằng trong lớp đã nói bọn đó có sừng, giấu trong mớ tóc bù xù. Và giáo viên của mẹ, cô đã cảnh báo rằng năm học sinh mới có thể chôm tiền ăn trưa của bọn mẹ.” Mẹ quay sang tôi. “Buổi tôi trước khi bọn trẻ nọ chính thức đi học, bố của mẹ đã tổ chức một cuộc họp gia đình. Ông cậu Leon có mặt. Mọi người nói rằng trẻ con da trắng sẽ bị bắt nạt, lớp học sẽ khó kiểm soát, bởi vì bọn trẻ kia không biết cách cư xử chút nào. Ông cậu Leon đùng đùng nổi giận, ông giận tới nỗi mặt đỏ bừng và toát mồ hôi. Ông bảo không muốn con gái mình thành chuột thí nghiệm. Họ định hôm sau sẽ đứng cản ngoài trường, mặc dù biết sẽ có cảnh sát ở đó để đảm bảo bọn trẻ mới có thể vào học. Bố của mẹ thề sẽ không bán cho thẩm phán Hawthorne cái xe nào nữa.”

Mẹ bắt đầu thu dọn hạt và táo, gói chúng lại. “Beattie, người giúp việc của gia đình, cũng có mặt vào tối đó. Phục vụ nước chanh và bánh ngọt bà đã làm hồi trưa. Giữa cuộc họp, mẹ phát chán và vào nhà bếp, để rồi thấy Beattie đang khóc. Trước đó mẹ chưa thấy bà ấy khóc bao giờ. Bà ấy nói con trai mình là một trong năm đứa trẻ được đưa tới đó.” Mẹ tôi lắc đầu. “Mẹ thậm chí không biết bà có một đứa con. Beattie đã ở với gia đình mẹ trước cả khi mẹ biết đi biết nói, và mẹ thậm chí chưa từng nghĩ bà có thể thuộc về một ai khác ngoài người trong nhà này.”

“Chuyện gì đã xảy ra hả mẹ?” tôi hỏi.

“Bọn trẻ tới trường. Cảnh sát đưa chúng vào khuôn viên. Mấy đứa con nít khác gọi chúng bằng những cái tên tồi tệ. Một bé trai bị nhổ vào mặt. Mẹ nhớ nó đã đi ngang mẹ, nước bọt chảy xuống cổ áo trắng, và mẹ tự hỏi phải chăng thằng bé là con của Beattie.” Mẹ nhún vai. “Dần dà có nhiều đứa trẻ da đen tới trường hơn. Chúng im lặng, giờ ăn trưa hay giải lao cũng tụm lại với nhau. Còn bọn mẹ thì chơi với nhóm của mình. Mẹ không thể nói đó là xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc.”

Mẹ tôi gật đầu về phía Violet và người bạn nhỏ của con bé, đang rắc cỏ lên mấy cái bánh bùn của chúng. “Chuyện này đã diễn ra từ rất lâu, lâu hơn so với tất cả chúng ta, Kennedy à. Từ chỗ con bước vào, trong cuộc đời con, có vẻ như chúng ta còn xa lắm mới đến đích. Còn với mẹ?” Bà mỉm cười khi hướng về hai đứa trẻ. “Mẹ nhìn cảnh đó, và mẹ đoán là mình rất ngạc nhiên khi thấy chúng ta đã đi được bao xa.”

Tôi đang ở tòa, đại diện cho một khách hàng vi phạm lệnh cấm chỉ, và quyết định tiện thể kiểm tra sổ ghi án để xem thẩm phán nào đã được chỉ định cho vụ của Ruth. Một thú vui điển hình của luật sư là thu thập và cất giữ những tình tiết về đời sống riêng tư của thẩm phán - họ cưới ai, họ có giàu không, họ có đi nhà thờ mỗi cuối tuần hay chỉ đi nghỉ dưỡng ở vùng thấy mực nước biển, họ có ngu ngốc như mấy con ốc hay không; họ có thích nhạc kịch, họ có đi uống với luật sư ở ngoài giờ. Chúng tôi cất giữ những sự thật và lời đồn đó như lũ sóc dự trữ hạt cho mùa đông giá, để khi thấy người thụ lý vụ của chúng tôi, chúng tôi có thể giở mấy chi tiết vụn vặt đó ra xem liệu mình có cửa chiến thắng.

Khi thấy người đó là ai, tim tôi chìm nghỉm.

Thẩm phán Thunder sống không thẹn với tên mình. Ông là thẩm phán chuyên ra những hình phạt cực nặng, tự có kết luận riêng từ trước và nếu bạn bị ông kết án, bạn sẽ đi xa một thời gian rất, rất dài. Tôi biết điều này không phải qua đồn đại, mà từ kinh nghiệm bản thân.

Trước khi tôi trở thành luật sư công, lúc tôi còn là thư ký cho một thẩm phán liên bang, đồng nghiệp của tôi bị dính vào một vấn đề đạo đức liên quan tới mâu thuẫn lợi ích từ công việc trước của anh ấy ở một hãng luật. Tôi là thành viên trong đội biện hộ cho anh ấy, và sau nhiều năm thu thập chứng cứ, chúng tôi ra tòa trước thẩm phán Thunder. Ông ta chúa ghét mấy vụ truyền thông nhốn nháo và việc thư ký của một thẩm phán liên bang dính vào lùm xùm vi phạm đạo đức đã biến phiên xử của chúng tôi thành một vụ như vậy. Mặc dù chứng cứ chúng tôi đưa ra hết sức chặt chẽ, Thunder muốn cho những luật sư khác thấy một tấm gương nhãn tiền, và đồng nghiệp của tôi đã bị kết án, phải đi tù sáu năm. Nếu bấy nhiêu vẫn chưa đủ sốc, vị thẩm phán này còn quay sang đối diện với thành viên toàn đội biện hộ chúng tôi. “Các cô cậu nên tự lấy làm hổ thẹn, anh Dennehy đã lừa được hết thảy các người,” thẩm phán Thunder quở trách. “Thế nhưng anh ta không lừa nổi tòa đây.” Với tôi, đó là giọt nước cuối cùng. Tôi đã quần quật từ sáng đến tối, làm việc cả tuần không ngủ. Tôi mệt như chó, đang phải dùng thuốc cảm và liều prednisone chống viêm mạnh, đuối như trái chuối và nản hết mức vi cãi thua vụ này - thế nên có lẽ tôi không được hòa nhã hay tỉnh táo lắm vào giờ phút đó.

Có lẽ tôi đã lỡ miệng sỉ nhục thẩm phán Thunder bằng một từ không hay ho lắm.

Chuyện xảy ra sau đó là một hội nghị luật sư mà trong đó, tôi đã thiết tha nài xin để không bị khai trừ và đảm bảo với thẩm phán rằng trên thực tế, tôi không nói từ kia mà đã nói Ma thuật! vì quá ấn tượng với cách phân xử của ông.

Từ bấy đến nay, tôi đã cãi hai vụ trước thẩm phán Thunder. Và tôi đã thua hết cả hai.

Tôi quyết định không cho Ruth biết về lịch sử giữa tôi với ông thẩm phán. Biết đâu lần thứ ba lại may mắn thì sao.

Tôi cài nút áo khoác, chuẩn bị rời khỏi tòa án, tự động viên mình suốt đường đi. Tôi sẽ không để một bước lùi nhỏ như vầy định đoạt cả vụ kiện, khi mà chưa tới một tháng nữa là lựa chọn bồi thẩm đoàn.

Khi bước ra khỏi tòa nhà, tôi nghe cất lên tiếng nhạc thánh ca.

Trên công viên New Haven, đối diện tòa án, là một biển người da đen. Tay họ đan vào nhau. Giọng họ hòa làm một và vút lên bầu trời: Chúng ta sẽ vượt qua. Họ mang poster có tên và chân dung của Ruth trên đó.

Đứng trước và ở ngay giữa là Wallace Mercy, đang cất cao giọng hát bằng cả trái tim. Và bên cạnh, khoác vào tay ông ấy, là chị của Ruth, Adisa.