← Quay lại trang sách

CON ĐƯỜNG CỘ CŨ

Chẳng bao giờ Ân đi họp mặt với bạn bè hoặc dự tiệc tùng vào ngày thứ bảy. Chàng quyết dành riêng ngày đó cho má của mình.

Sáng thứ bảy nào cũng vậy, Ân mặc bộ đồ tây cũ, đi chiếc xe đạp cũ, lăn bánh trên con đường đất gồ ghề để về thăm nhà. Cho dù con đường chạy song song được tráng nhựa hẳn hoi, có thể giúp Ân tiết kiệm phân nửa thời gian, và cho dù nóng lòng gặp má mình Ân vẫn không thể từ bỏ con đường cộ nhỏ nầy.

Con đường cộ cũ chắc đã hình thành trước khi chàng ra đời.

Ngày xưa người ta chỉ gọi nó là đường cộ mà thôi. Bây giờ thì bà con đã thôi nuôi bò để dùng trong việc đồng áng, lại có thêm con đường mới, rộng rải và phẳng phiu. Nó đã bị bỏ rơi, trở thành đường mòn và mang thêm cái tiếng “cũ” đi kèm.

Hầu hết cư dân đã thôi xử dụng con đường cộ cũ, cho nên Ân càng ngày càng gắn bó với nó hơn. Thiếu người tu bổ nên con đường ngày một hư hao. Cứ mỗi lần hai bánh xe nẩy lên, sụp xuống, Ân lại nghe lòng dạt dào thương cảm.

Từ khi thưa người qua lại, đám rau cỏ dại bắt đầu tự tung, tự tác. Chúng từ ruộng tràn lên lề rồi bành trướng lãnh thổ. Mấy cọng rau muống, rau bợ, nhãn lồng, cỏ mần chầu, cỏ may… lấn gần hết mặt đường, chỉ chừa lại mỗi một vệt đất nâu ngoằn ngoèo ở giữa y như con trăn nằm bất động.

Ân cho rằng cái con trăn ấy chưa chết, chưa bị ăn thịt, chỉ nhờ vào hai cái bánh xe của mình mà thôi! Chàng không khỏi đắc ý và cảm thấy có trách nhiệm với nó nhiều hơn!

Ân thường khởi hành khi ông trời còn trùm mền, nhắm mắt, cố tình đi thật sớm để có thể dừng lại hái vài nắm rau dại. Đấy là cái thú duy nhứt mà chàng còn giữ được cho đến ngày nay.

Má của Ân rất thích đọt nhãn lồng. Bà nói rằng bữa nào ăn món canh hoặc đọt nhãn lồng luộc chấm cá kho là tối đêm đó bà ngủ rất ngon, đóng một giấc từ đầu hôm cho tới sáng bét luôn!

Hôm nào tìm gặp một bụi nhãn lồng xum xuê là Ân mừng như trúng số! Trong túi áo, Ân luôn thủ sẵn hai cái bao ni lông sạch, một đựng đủ thứ rau, một đựng riêng đọt nhãn lồng.

Mỗi lần đến cái chợ mương ở ngã ba sông gần nhà, Ân đều ghé vào một trong các sạp bán điểm tâm để mua thức ăn sáng cho cả hai má con.

Hôm nay chàng ghé lại cái sạp ngay đầu chợ. Cái sạp ấy lúc nào cũng ấm áp bởi mùi khói của củi và những chiếc bánh tròn tròn, nho nhỏ xinh xinh.

Cô Năm, người đang ngồi trên chiếc ghế thấp đặt trên mặt đất, đang thoăn thoắt đổ từng vá bột vào những lỗ tròn quay như cái dĩa nhỏ xíu đựng ớt trong khuôn. Cổ chào Ân với đôi mắt ướt nhẹp, đỏ vì khói kèm nụ cười tươi rói bù lại. Ân ghé mua bánh khọt của cổ vì tuần trước chàng nghe má mình nhắc tới món nầy.

Cô Năm và các người bán ở đây đã quen nhẳn mặt Ân. Họ vẫn gọi chàng bằng danh từ “thầy giáo” mặc dù biết chàng đã nghĩ dạy từ lâu.

Đưa cái gà mên bốn ngăn cho cô Năm, Ân căn dặn:

-Cô bán cho cháu mười ngàn bánh khọt. Không cần giòn nhưng phải chan nước cốt dừa cho nhiều. Lấy rau sống khá khá một chút! Cô chịu khó lựa giùm lá non và mềm chừng nào tốt chừng nấy, vì má cháu răng rất yếu. Hai cái ngăn kia đựng nước mắm, một thứ cay còn một thứ không cay.

Cô Năm chỉ tay vô bình trà bày sẵn trên cái bàn thấp chủm gần đó rồi nói:

-Thầy dựng xe, uống ly trà cho ấm bụng, chờ tui đổ bánh nóng cho ngon.

Ân lắc đầu nói:

-Thôi khỏi! Cô cứ đổ bánh đi, cháu lại chợ mua vài món đồ rồi quay trở lại.

Chợ mương ở ngã ba sông nên mặt hàng cá phong phú hơn mấy thứ khác. Tuy nó rất nhỏ, người bán lẫn người mua chỉ lèo tèo chừng dăm ba chục, thế nhưng nhưng cá, rau ở đây tươi roi rói, ngon hơn các chợ khác.

Lần trước má chàng có nhắc món cá trê vàng nướng chan mỡ hành, giầm nước mắm gừng. Ân rảo khắp chợ, xăm soi tìm kiếm, mới hay con cá trê vàng đã tuyệt chủng mất rồi!

Ân định tìm mua một con cá lóc trọng trọng, lấy cái đầu nấu canh rau còn cái mình kho làm món mặn.

Chợt có người gọi giật ngược:

-Thầy giáo, thầy giáo!

Ân quay lại nhìn. Thím tư Câu đang hướng mắt về phía chàng, một tay cầm con lươn da vàng ươm dài ngoằn đưa ngang mặt, một tay ngoắc lia, ngoắc lịa còn nói:

-Thầy mua lươn về xào cà ri đi! Bà Ba thích món nầy lắm!

Bà Ba mà thím nói là má của Ân. Chàng hơi ngần ngại bởi chưa bao giờ làm lươn.

Ân bỗng nghĩ ra nên hỏi:

-Lươn có làm được món nướng thoa mỡ hành hông thím Tư?

Thím Tư gật đầu:

-Ngon số một! Qua mặt con cá trê luôn!

Ân ngần ngại:

-Cháu chưa làm lươn lần nào nên …

Thím Tư nói:

-Dễ ợt! Thầy lấy tro bếp vuốt cho nó hết nhớt rồi mổ banh cái bụng, moi hết ruột với máu ra là xong.

Ân mừng húm!

Khi chàng quay về cô Năm đã chờ sẵn.

Ân vừa thắng xe cô đã đưa cái gà mên cho chàng rồi nói:

-Tui làm y như thầy dặn!

Ân móc túi lấy tờ mười ngàn ra đưa, cô Năm nói:

-Hồi nãy thầy trả tiền trước rồi!

Ân bán tín, bán nghi, chàng nhớ mình chưa trả tiền nên nói:

-Cô nhớ lộn ai rồi đó! Cháu chưa đưa tiền mà!

Cô Năm lắc đầu nguầy nguậy:

-Đưa rồi, đưa rồi! Tui không có nhớ lộn đâu. Thầy quên rồi đó!

Ân nhét tiền vô túi trở lại, vừa đạp xe vừa bức rức. Bỗng nhớ ra lần trước cách đây gần một tháng, cô Năm cũng nhứt quyết không chịu cầm tiền với cùng một lý do.

Chàng chợt giật mình, chép miệng:

-Thôi rồi! Chắc cô Năm định trả cái công vợ mình đã giúp con dâu của cổ mẹ tròn con vuông năm ngoái!

Sáng hôm sau Ân cố tình nấu cơm rất sớm, ăn cơm với má xong, Ân xin về.

Bà Ba hỏi:

-Có chuyện gì hông mà về gấp vậy

Ân nói:

-Con về sớm để hái mớ rau trên đường cộ đặng kịp đem về nấu bữa trưa. Hai mẹ con con Hòa thích món canh rau tập tàng nầy dữ lắm!

Cầm túi rau chồng đưa cho, Lành, vợ Ân hỏi:

-Rau ở đâu vậy mình?

Ân đáp:

-Má biết mình thích ăn rau dại nên nhờ con Út nhỏ hái giùm đó!

Chàng thầm cám ơn câu nói dối đó khi cảm nhận được tia mắt ngạc nhiên pha chút mừng rỡ của nàng:

-Bộ má hết giận rồi sao?

Ân gật đầu.

Từ ngày Ân theo vợ đi ở riêng, bà Ba từ mặt con dâu không thèm dòm tới. Thời gian đầu bà còn không nói chuyện với chàng, mỗi lần Ân về thăm, bà nằm quay mặt vào vách chẳng nhìn, trả lời hoặc nói với chàng một tiếng. Ân phải giải thích, năn nỉ đủ điều bà mới nguôi ngoai.

Ân là con một! Bà Ba mất chồng khi chàng chưa thôi bú, cho nên tất cả tình thương bà đều dồn cho chàng.

Ân có lẽ là đứa con trai duy nhứt trong xóm, có thể trong cả quận và tỉnh nữa, chưa mang một cái thẹo nào trên đầu gối, trên cẳng tay, cẳng chưn kể từ lúc chập chững biết đi cho đến khi lấy vợ. Chàng may mắn vì có được một bà mẹ quá tuyệt vời, chăm sóc con hết sức tận tụy, chu đáo.

Ân không biết lội, không biết trèo cây, chưa từng đánh lộn, không phân biệt được cọng cỏ với cọng lúa tuy rằng sanh trưởng ở nông thôn.

Ba của Ân tử nạn vì cứu mấy đứa học trò bị chìm đò. Vì thế ông trở thành người thầy bất tử trong lòng bà con lối xóm. Phụ huynh mấy đứa bạn học của Ân, một số là học trò của ba chàng ngày xưa, cho nên mấy đứa bạn cùng lớp, cùng trường đó đều được ba má chúng căn dặn là phải đối xử tốt với Ân. Vì vậy dù bị coi là công tử bột, Ân không hề bị ăn hiếp hay kỳ thị chút nào mà ngược lại!

Cuộc sống của Ân suôn đuột như cây chuối cho đến khi chàng đi lấy vợ. Dù Lành là người con dâu do chính tay mình chọn nhưng bà Ba lại chẳng mấy vừa lòng, bởi suy tôn con trai mình quá mức!

Bà Ba đâu có biết, không phải Lành, mà chính Ân mới là người quyết định ra riêng!

Vợ Ân là nữ hộ sinh trong bệnh viện quận.

Nghề đỡ đẻ hết sức là vất vả. Các bé sơ sinh ngại phải chường mặt lập tức ra ánh sáng mặt trời nên các ca sinh nở phần lớn đều xảy ra vào ban đêm, nhứt là thời điểm tám, chín giờ tối trở đi.

Ân rất thương vợ nên cho dù Lành về khuya cũng chịu khó thức chờ rồi hâm cơm canh để ăn cùng vợ. Điều nầy làm bà Ba xốn con mắt. Bà không nói gì nhưng đóng một cái trang rất lớn đặt ở giữa nhà thờ bà Cữu Thiên Huyền Nữ, mà dân gian gọi một cách trìu mến là bà “mẹ sanh”. Ngụ ý con trai mình theo đạo “thờ bà “.

Ân không hiểu thâm ý của mẹ, nhưng Lành hiểu. Chính cái tính thông minh hơn người đó đã hại cô. Lành cảm nhận ngay tức khắc ý nghĩ sâu xa trong từng lời nói, cử chỉ của má chồng, y như những bệnh nhân bị thấp khớp nghe tê buốt trong xương khi tiết trời rục rịch thay đổi.

Lành không thổ lộ với Ân, nhưng khi bị sẩy thai lúc có mang lần đầu, cô liền đề nghị chia tay dù thương chồng rất mực. Ân ngạc nhiên rồi chới với nhận ra, bấy lâu nay mình đứng giữa hai lằn đạn mà không hề hay biết!

Ân hiểu rằng chỉ khi sống riêng mình mới giữ được vợ. Chàng viện cớ để tiện cho công ăn, việc làm, hai vợ chồng họ phải dời về chợ ở cùng nhau, rồi nằng nặc xin ra riêng.

Thế là chiến tranh nóng với con dâu, chiến tranh lạnh với con trai bùng nổ trong gia đình bà Ba ngay lập tức.

Ân bắt đầu thấm thía câu “cái gì cực đoan cũng không tốt kể cả tình thương lẫn đức hạnh “, mà ngày xưa chàng không chấp nhận, quá ư là đúng trong trường hợp của mình.

Không hề quý vợ hơn mẹ, nhưng chàng muốn chứng tỏ cho bà Ba thấy rằng việc chàng ở xa mẹ không phải là không còn thương, quý bà mà trái lại. Ngoài lý do muốn duy trì cuộc hôn nhân của mình, Ân còn muốn giúp má mình lấy lại cân bằng trong cuộc sống.

Trước khi ra riêng, Ân nhờ người chị em bạn dì ở sát bên nhà săn sóc má giùm mình. Tất cả các huê lợi trong vườn chàng tặng hết cho chị coi như để đền ơn.

Căn nhà mới mà chàng và vợ tạo được rất nhỏ, rất đơn sơ nhưng tràn đầy hơi ấm. Ân và vợ như sống lại thời kỳ trăng mật. Lành hiểu rằng chồng đã hy sinh tất cả, chẳng những đành xa mẹ còn xa cả cái không gian sống mà anh yêu quí, nên hết lòng bồi đáp. Lành trao cho chồng tất cả tình thương mà mình có, đáp ứng một cách nhiệt tình, không còn tỏ vẻ khứng chịu một cách gượng ép nữa.

Sau những giây phút thăng hoa bên vợ, Ân lại thấy thương má mình đến trào nước mắt. Khi hai vợ chồng họ có đứa con đầu, qua tình thương mà vợ dành cho mình và cho con, Ân biết rằng má chàng ngày xưa đã thương yêu ba chàng và chàng biết bao! Thời gian hạnh phúc bên chồng của bà trôi qua quá ngắn, bà lấy tình thương của chàng để làm cứu cánh, chính vì vậy mà vô tình trở thành cay nghiệt với con dâu.

Ân đặt tên con là Hòa, với hy vọng má và vợ mình cũng hòa thuận với nhau. Lành biết ý của chồng nên quyết tâm hàn gắn, cố gầy dựng tình thương với má chồng từng chút một. Sự cố gắng của cô giống như một người đi cầu khỉ. Bà Ba bị tổn thương sâu sắc, vẫn còn ấm ức với cái ý nghĩ con trai chọn vợ bỏ mẹ, nên cứ cố tình hất con dâu té giập mật cho bỏ ghét!

Sự kiên nhẫn của con người ta không phải là sợi dây thun siêu dai, siêu dẻo, nên khi Lành từ chối không về thăm má chồng nữa, Ân không nở mở lời trách vợ.

Ân tìm cách xoa dịu cả hai. Mỗi lần mua hoặc nấu món gì mang về cho mẹ, Ân đều nói dối là vợ làm, nên dần dần bà Ba cũng động tâm.

Mỗi lần về thăm má, Ân thường rủ vợ đi chung cho vui, thế nhưng Lành đều lắc đầu từ chối.

Không phải cô còn giận, còn hờn. Cô biết rằng những giây phút gần gũi con trai rất hiếm hoi ấy, vô cùng quý giá đối với bà Ba nên chẳng muốn quấy rầy.

Từ khi nhận mớ rau của bà gửi cho, Lành luôn tự mình làm hoặc mua thức ăn, bánh trái hợp với ý má chồng để Ân mang về cho bà.

Tối hôm đó Lành bất ngờ nói:

-Sáng mai mình chở em về thăm má với nghen!

Mấy ngày trước Ân có nghe vợ than mệt, khó ngủ...

Nhìn gương mặt còn xanh rớt của Lành, Ân khuyên:

-Mình coi mòi không được khỏe, thôi để lần sau đi!

Lành nằng nặc:

-Bữa nay em hết mệt rồi! Cũng đã khuấy sẵn nồi bột gạo với nước cốt dừa, đã làm món bánh đúc mặn mà má ưa rồi! Em muốn đích thân đưa mời má.

Ân đành nói:

-Để anh đi mượn chiếc xế nổ của thằng Nghĩa, chở em đi đường mới cho lẹ!

Lành lắc đầu:

-Mình ở chơi cả ngày, mượn xe người ta lâu quá kỳ lắm! Với lại em thích mình chở em bằng xe đạp, đi con đường cộ cũ coi nó đẹp tới cỡ nào mà mình mê dữ vậy!

Ân vui đến phát rung, nôn nao mong trời mau sáng y như ngày xưa nôn tới tết.

Sáng đó Ân dậy sớm hơn vợ một chút. Chiếc xe đạp cũ được chàng o bế lại. Từng cây căm được lau bóng lưỡng. Cái sàn chở bằng sắt được chàng cột chiếc gối nhỏ xíu vào để vợ ngồi cho êm.

Con đường cộ hôm nay đẹp và thơm hơn ngày thường. Hoa cỏ còn ngậm sương nên mùi hương vẫn còn lãng đãng. Mấy con ong, bướm chắc đã già nên ngủ ít, chúng cũng dậy rất sớm và bắt đầu vo ve.

Đến bụi nhãn lòng Ân dừng xe bảo vợ:

-Mình ghé lại hái cho má mớ rau, má thích ăn đọt nhãn lòng luộc lắm!

Lành nhìn rau cỏ dại mọc hai bên lề, biết ngay mấy túi rau Ân đem về cho mình có xuất xứ từ đâu. Cô chợt hiểu ra tâm nguyện của Ân.

Lành hỏi chồng bằng giọng cảm động:

-Mình rất muốn em và má thương nhau đúng hông?

Ân gật đầu, chàng đáp:

-Đó là điều mong mỏi tha thiết nhứt của anh!

Lành hăng hái đi tìm đọt nhãn lồng với chồng, tỏ ra thích thú trước những hoa cỏ dại không tên bên đường. Cô đặc biệt ưu ái mấy cái bông rau muống màu trắng ngát. Cô dừng lại lâu hơn bên chúng để ngắm những chiếc cánh rất mỏng manh mang màu áo học trò ấy, với cái nhụy ở giữa còn trắng hơn màu trắng! Chúng đơn sơ quá! Tinh khiết quá! Khiêm tốn quá! Đến nổi khiến Lành xúc động đến rưng rưng.

Thấy vợ chìm đắm trước vẻ đẹp của đám hoa dại, Ân vô cùng sung sướng. Chàng không dám giục, mãi đến khi hai cái túi ni lông đã đầy nhóc và ông trời mở banh cả hai con mắt mới nói:

-Đi thôi mình! Nắng lên rồi!

Ân gò lưng đạp nhanh vì sợ má mình chờ lâu đói bụng. Thấy lưng áo chồng thấm mồ hôi, Lành liền bỏ hai ống giò về phía trước, đặt bàn chân lên pê đan để đạp phụ chồng.

Cử chỉ đó làm Ân dạt dào xúc động. Cái chất thơ trong chàng sủi bọt rồi tuôn rỉ rả.

Ân tằng hắng một cái rồi nói:

-Sửa lỗ tai mà nghe thơ nè bà con!

Rồi ngâm:

- Đưa vợ về thăm nhà

Xe đạp cũ đường xa

Cỏ bên lề xanh lạ!

Lác đác nụ vàng hoa

Vợ tôi, hoa đồng nội

Thương chồng đổ mồ hôi

Chẳng chịu tréo cẳng ngồi

Vói chân cùng góp sức.

Con bướm già rạo rực

Quanh quẩn mãi bên chưn

Gió ghẹo tóc tưng bừng

Quyện vào nhau tha thiết

Mình ơi mình có biết?

Con đường cộ hôm nay

Bỏ đất chạy theo mây

Thiên đàng dần xít lại!

Lành xúc động quá, áp mặt vào lưng chồng hít thật sâu mùi mồ hôi trên ấy. Ân nghe lưng áo mình ấm ấm, chàng tự hỏi chẳng lẽ mồ hôi cũng có nhiệt độ như nước mắt.

Nỗi lo lắng bị má chồng hắt hủi của Lành được xua tan như lớp màng màng trên sông bị bọt xà bông đáp vào. Bà Ba đón con dâu bằng nụ cười hiếm hoi, moi ra từ đáy lòng của mình.

Mảnh đất tình cảm của Bà Ba dành cho Lành đã được Ân nhổ sạch cỏ già, gai nhọn...Chàng còn gieo vào đó những hạt mầm của các loại cỏ cây, rất đẹp, rất thơm, rất nên thuốc...như dây nhãn lồng chẳng hạn. Chúng đã bắt đầu đâm chồi nẩy lộc nên hể tưới là tươi liền.

Bà Ba vừa thưởng thức món bánh đúc mặn, vừa khen:

-Con khuấy bột với cái gì mà nó trong veo, dẻo, mềm, dễ nhai, dễ nuốt quá vậy, vợ thằng Ân?

Lành thưa:

-Con có ngâm mấy lát khóm vô chung, không biết có phải nhờ nó hay không nữa!

Bà Ba lại tấm tắc:

-Cái bột thì béo, thơm mùi nước cốt dừa lắm! Còn cái nhưn tôm thịt củ sắn nầy, nó được con bầm nhuyễn nhừ rồi xào hành tỏi nên rất thơm, nêm nếm cũng vừa ăn, hợp ý má lắm đó!

Lời khen chân tình của người mẹ chồng vốn hết sức khéo léo và kiệm lời ấy, khiến Lành vui còn hơn cái lần cô được xướng tên, lên nhận giải nhứt trong cuộc thi nấu ăn năm nào.

Lúc Lành chào để ra về bà Ba còn dặn dò:

-Mai mốt có rảnh thì về chơi với má!

Tuần sau, Lành lại xin Ân cho đi theo và cũng đòi đi trên con đường cộ cũ.

Ân lại nôn nao, lại dậy sớm để lau xe, lại cột cái gối nhỏ vô sàn chở.

Lành lại ngồi phía sau, lại bỏ chưn ra phía trước để đạp phụ chồng. Cô cứ luôn tay móc những hạt đen đen trong túi ra rải đều hai bên lối đi.

Ân quay lại bắt gặp bèn hỏi:

-Mình rải cái gì vậy?

Lành xòe tay cho chồng thấy mớ hạt giống với kích thước khác nhau.

Cô nhặt từng thứ lên rồi giải thích:

-Cái nầy là hột rau sao nháy nè! Cái nầy là hột tóc tiên nè! Cái nầy là hột rau muống Tàu nè! Cái nầy là hột nhãn lồng nè! Cái nầy là hột mồng tơi nè! Cái nầy là hột rau dền cơm nè!

Ân ngạc nhiên hỏi:

-Ở đâu mà mình có nhiều quá vậy?

Lành đáp:

-Thì mua chớ đâu! Bây giờ người ta bán đủ thứ hột của đủ thứ cây hết!

Lành đi cùng Ân về thăm má chồng thêm vài lần nữa. Khi bà Ba đã bắt đầu nghe quen với nỗi mong nhớ con dâu thì Lành bỗng thôi về.

Bà Ba hỏi Ân bằng giọng trách móc:

-Con vợ mầy bộ lúc nầy bận rộn lắm sao?

Ân đáp bằng giọng buồn buồn:

-Vợ con không được khỏe!

Cho rằng con trai nói dối để chạy tội cho vợ, bà Ba giận lẩy rồi không thèm hỏi tới.

Mấy tháng sau Ân lại đưa Lành về. Lần nầy chàng để vợ nằm lại một mình trong khu vườn rộng.

Bà Ba thôi không còn rầy con dâu nữa! Sáng sáng bà một tay chống gậy, một tay xách cái gà mên đựng món điểm tâm mang ra ngôi mộ mới.

Bà vừa xớt thức ăn ra chén vừa gọi con dâu:

-Vợ thằng Ân! Bây về đây ăn với má cho vui!

Mỗi sáng thứ bảy Ân lại đạp xe, lại gò lưng trên con đường nhỏ về thăm mẹ và vợ. Khi thì đi một mình, khi thì có con gái ngồi đàng sau.

Đến mùa mưa, những đóa hoa sao nháy, tóc tiên, nhãn lồng…mang đủ màu tím, vàng, trắng, đỏ, cùng phô sắc bên lề, khiến con đường cộ cũ tưng bừng sức sống.

Bây giờ ngoài hai cái túi ni lông đựng rau cho má, Ân còn đem theo cái giỏ xách bằng giấy để mấy cái bông hái cho Lành không bị giập.

Bày cẩn thận chúng lên mộ vợ, chàng nói:

-Mình về mà coi nè! Bông của mình trồng đã nở rồi, đẹp lắm!

L D Y