← Quay lại trang sách

DẦU XANH

Không biết từ khi nào, chai dầu hiệu con ó, hay còn gọi là dầu xanh vì có màu lá cây đậm, được hầu hết bà con ta, từ thành thị đến thôn quê hết sức ưa chuộng.

Nó là mặt hàng gần như bắt buộc mà mọi Việt kiều phải thủ sẵn vài lố trong va li để đem về tặng. Có thể nói rằng "phi dầu xanh, bất thành Việt kiều". Không có chai dầu đó, cho dù da họ có trắng bóc, quần áo có mùi thơm đặc trưng mà dân nội địa dẫu giàu nức đố đổ vách cũng chẳng thể nào có được, cho dù trong câu nói thỉnh thoảng họ vô tình chêm vào mấy từ lạ tai, cũng không được chào đón như một việt kiều chánh hiệu. Ánh mắt mọi người nhìn họ sẽ hơi lành lạnh, bởi thiếu mùi vị thơm nồng của chai dầu gió có hình con ó. Nó, chính nó chứ không ai khác, chẳng những giúp ấm hai cái màng tang, chót mũi, rún...mà còn len sâu vào tim giúp bà con ta ấm áp cả tấm lòng.

Chai dầu xanh đã vượt xa cái chức năng "ngừa phong, đón gió" đơn thuần. Nó trở thành một món trang sức. Khi mà những gia đình có thân nhân sống ở nước ngoài "lên đời" vù vù, thì chai dầu xanh nằm trong túi áo, túi xách của một ai đó, giúp nâng vị trí của chủ nó lên thêm một bậc. Cho nên...

Bà Ba móc chai dầu xanh trong túi áo ra khoe với bà Tám:

-Hôm trước thằng Ơn ghé thăm, cho tui chai dầu xanh nầy nè!

Bà Tám cười hì hì:

-Nó cũng có ghé thăm tui, cũng cho tui một chai y hệt. Tui đem cho con Út liền, nó mới sanh nhường cho nó xài, tui quen cái mùi dầu Nhị thiên đường rồi, đổi dầu khác chịu hổng nổi!

Bà Ba cũng cười, nói với vẻ hài lòng:

-Thằng Ơn nó đi thăm giáp xóm không có bỏ sót nhà nào. Vợ chồng Năm Câu coi vậy mà có phước, sanh được thằng con ăn ở có tình, có nghĩa hết sức!

Bà Tám chắc lưỡi:

-Tội nghiệp! Hai vợ chồng họ sao mà vắn số quá! Phải chi sống tới bây giờ thì vui biết mấy. Nghe nói hôm thằng Ơn ra thăm mả, nó khóc thôi là khóc.

Bà Ba chép miệng:

-Nó khóc cũng phải. Tại tưởng nó chết nên hai vợ chồng y mới buồn rầu đổ bịnh, rồi mất sớm như vậy. Mà nó làm hai cái mả cho ổng bả đẹp nhứt xóm, chắc họ mát bụng lắm.

Bà Tám hỏi:

-Nghe nói nó giàu lắm hả chị?

Bà Ba gật đầu:

- Chắc là vậy rồi. Hổng giàu thì làm sao mà mua tặng giáp xóm mỗi nhà một cái bình lọc nước được? Ai mà ngờ bây giờ nó vừa giàu có, lại cao to trắng trẻo, bảnh tỏn quá trời, quá đất! Nhớ hồi mới chui ra, nó y như con mèo ướt. Bà mụ Thắm đưa, tui còn hổng dám bồng.

Bà Tám lại chắc lưỡi thêm lần nữa, nói:

-Mới đây mà mấy chục năm, lẹ thiệt! Nhớ hồi nào...

Mấy mươi năm về trước, đúng mùng hai tết, khi cả xóm cây me đang tập trung vào mấy sòng bài ngoài sân. Con nít người lớn đang xúm đen, xúm đỏ, ì xèo cười nói, cãi cọ... thì có tiếng gọi thất thanh từ dưới bến sông:

-Bà con ơi! Cứu giùm vợ tui!

Thằng Nho làm cái, Hai bàn tay đang chia bài thoăn thoắt vội ngưng ngang. Mấy "tay em" gom tiền rồi vọt liền xuống bến ông Ba, nơi phát ra cái tiếng kêu thảng thốt đó.

Chưa đến nơi, mấy chục cái miệng đã nhao nhao:

-Chuyện gì? Chuyện gì vậy?

Người đàn ông đứng trước mũi chiếc xuồng nhỏ xíu, có cái mui như hai hàn tay chấp lại, nói như khóc:

-Vợ tui chuyển bụng từ khuya tới giờ mà chưa sanh được, bây giờ đang đau dữ quá!

Con Làng trờ tới, nghe nói vậy lật đật quay ngang, vừa chạy vừa nói:

-Để tui đi rước mụ cho.

Nó mới phóng có mấy bước là bị má nó kêu giựt ngược:

-Làng trở lại, để chị hai mầy, con Lẹ nó đi cho người ta đẻ lẹ.

Bà ta miệng nói, tay đẩy tới trước một cô gái ốm nhom, kẹp tóc đang đứng bên cạnh.

Làng quay trở lại, mặt phụng phịu thầm trách ông già tía, đặt làm chi cái tên dỡ òm, làm mất cơ hội đóng cái vai cứu khốn phò nguy mà mình hằng ao ước!

Mọi người trong xóm, hầu như đủ mặt, đứng lố nhố trên bờ. Tiếng rên của người phụ nữ dưới xuồng vọng lên làm ai cũng xót ruột. Tám Lanh, má của hai cô gái Lẹ, Làng ban nãy đưa ý kiến:

-Chiếc xuồng nhỏ xíu khó day trở lắm! Phải đem lên bờ mới được.

Câu nói rất hợp lý mà không ai hưởng ứng, bởi họ cho rằng "sanh dữ, tử hiền", thà cho mượn nhà để làm đám ma chớ ít ai chịu để thiên hạ vô đẻ nhờ.

Ông Bảy Chức, người cao niên nhất góp ý:

-Cái chuồng bò của ông Ba có sẵn đây nè, hay là đem đại vô đi!

Từ ngày ông Ba sắm được cái máy cày tay thì cái chuồng nầy bị bỏ trống. Cũng may là chưa kịp tháo bỏ để lấy chỗ trồng rau. Nghe nói vậy ổng liền gật đầu:

-Được a! Để tui đi kiếm đồ vừng lại cho kín. Nhà ai còn giữ mấy tấm liếp phơi bánh tráng thì gom lại liền. Ai còn lạt lợp nhà cũng đem tới luôn thể nghe bà con!

Cả chục người đàn ông lẫn phụ nữ đang đứng bỗng chạy ào như ma đuổi, lát sau họ đến, mang theo những thứ đang cần mà nhà mình có sẵn đó!

Cái chuồng bò nhanh chóng được vừng vách. Một người đàn ông, vai vác tấm giạt và bốn cái cọc tre vừa bứng từ nhà mình đến (vợ ông ta vừa hốt bếp xong), đặt mấy món đó xuống đất rồi nói:

-Phải ráp cái giường đẻ trước mới được. Ai nhà gần chạy về lấy cho mượn thêm mấy cái xuổng, búa coi!

Ông Ba nhanh chóng mang ra hai cái xuổng, lát sau có mấy người khác đem đến thêm nào xuổng, nào búa lủ khủ. Bốn người đàn ông đào bốn cái lỗ để trồng mấy cây cọc tre xuống. Người ta dùng búa nện lên đầu mấy cây cọc tre, cho nó cắm sâu vào lớp đất cứng phía dưới, lấp đất lại và nện cho thật chắc. Tấm giạt thẳng băng đóng bằng cây cau già được gác lên, thế là xong!

Cái giường đẻ được đặt sát vách sau. Một bức vách chặn ngang, làm bằng mấy tấm liếp lá dừa còn in dấu tròn tròn của những cái bánh tráng, được dựng liền tức khắc, cái phòng nằm để đẻ đã hoàn tất.

Công việc vừa xong, mấy người đàn ông vừa phủi tay ra về thì nhân vật chánh, bà mụ Thắm tới. Bà hối người đàn ông cõng vợ mình lên bờ. Người vợ bới cái đầu cho gọn, vịn vai chồng ráng mà đi chớ nhất quyết không chịu nằm lên lưng. Người chồng một tay dìu vợ, tay còn lại cắp theo chiếc chiếu cuốn tròn có cả gối, mền, mùng trong đó. Tám Lanh đỡ bó chiếu, trải lên cái tấm giạt tre cho thai phụ nằm liền.

Cái mền vải được treo lên, che cái cửa buồng khiến căn phòng kín mít. Ánh sáng chui qua mấy chỗ dột trên mái giúp căn phòng sáng sủa. Cũng may là mùa mưa đã đi qua.

Tiếng bà mụ Thắm vang lên đều đều:

-Bây giờ bắt đầu rặng à nghe! Ngậm chặt cái miệng, hít cho thiệt sâu rồi ém cái hơi lại mà đẩy nó xuống bụng dưới.

Có tiếng rặng è è rồi thở ra một cách bất lực, tiếp theo là những tiếng rên thống thiết. Tiếng dỗ dành lại tiếp tục. Các âm thanh nặng nề, bức bối đó cứ lập đi, lập lại. Lát sau bà mụ Thắm đi ra, gọi một cô gái đứng gần đó lại nói nhỏ:

-Tư, con chạy ra đồng hái một nắm cỏ mực giùm. Coi mòi dám bị băng huyết chớ chẳng chơi. Con đem đâm, vắt lấy nước cho thiệt kẹo, đốt vỏ dừa khô lấy than hòa vô, để sẵn đó!

Thấy cái cô gái nhìn mình ra vẻ bán tín, bán nghi, bà liền giải thích:

-Hai cái vị thuốc đó cầm băng huyết nhanh hạng nhứt, đi liền đi.

Tư chừng như đã vững dạ, lật đật chạy một cái vù.

Thuốc đã chế xong mà thai phụ vẫn chưa sanh được. Có người mách là phải nuốt trọng, tròng đỏ, tròng trắng của cái hột gà so, để lấy chất trơn cho dễ đẻ.

Món đó không ngờ quá ư hiệu nghiệm. Mùi tanh của trứng sống làm thai phụ bợn dạ, buồn nôn, co thắt ruột rồi rặng một cách trót lọt. Tiếng trẻ sơ sinh khóc ré lên cùng tiếng kêu mừng rỡ của bà mụ Thắm "Con trai", khiến mọi người đều thở phào nhẹ nhỏm.

Chén thuốc đen thùi được kề tận miệng. Sản phụ nín thở nuốt một hơi, những tia máu tuôn xối xả cũng từ từ chậm lại.

Bà Ba chạy về nhà nấu liền một nồi cơm. Bà chắt nước ra tô để làm canh. Xớt lửa qua cái lò kế bên, bắt cái trách đất lên rồi bỏ mấy hột tiêu vô rang cho thơm để làm món muối tiêu. Bà vớt hết mấy khứa cá lóc kho trong nồi thịt tết vào trách, thêm nước mắm vào kho lại cho thiệt sánh rồi rắc thật nhiều tiêu vô. Các món ăn của sản phụ phải thật mặn để có nhiều sữa. Phải thật cay cho sữa nóng, đứa bé bú vào mới không bị sình bụng.

Bà Ba múc từng muỗng cơm, lấy đũa rỉa một miếng cá đặt lên trên rồi đút cho người mẹ trẻ. Khuyến khích cô ta uống hết tô nước cơm cho mau lên sữa. Suốt bữa ăn sản phụ phải nằm dán lưng trên giường. Những người vừa sinh xong, bị cấm ngồi dậy liền vì sợ bị băng huyết và sa tử cung.

Mấy người phụ nữ khác đến. Mỗi người đem lại cho vài gốc củi. Tám Lanh mang đến một cái nồi đất bị bể. Bà ba liền bưng ra ngoài để gầy lửa trong đó, chờ củi cháy hết khói, có than đỏ rồi bà mới đem để dưới tấm giạt.

Thương hoàn cảnh tứ cố vô thân của họ, bà con trong xóm tới lui thăm viếng, chăm sóc đều đặn. Cái chuồng bò bị bỏ không, lúc trước chẳng ai thèm ngó ngàng, nay đã trở thành nơi họp mặt mỗi tối.

Sự kiện đó đã trở thành một kỷ niệm chung của cả xóm. Người ta nhớ nó như nhớ những khoảnh khắc đẹp trong đời. Thậm chí họ còn dùng nó làm móc để xác định thời điểm của những việc quan trọng, xảy ra trước hoặc sau đó.

Để bày tỏ lòng tri ân đối với bà con trong xóm, hai vợ chồng bèn đặt tên cho đứa con trai đầu lòng đó là Ơn.

Tết năm ấy, hết thảy các căn nhà trong xóm cây me. Ngoài mùi nhang khói, bánh trái trên bàn thờ, người ta còn ngửi thấy một mùi dầu xanh thoang thoảng.