CON KINH NƯỚC TRONG
Ý bỗng chỉ tay vào con kinh, hỏi:
-Con kinh nầy nước trong suốt mười hai tháng hả?
Tư gật đầu. Ý nói như vừa phát hiện một điều vô cùng mới mẻ:
-Như vậy nếu đi theo cái dòng chảy của nó mình sẽ chẳng bao giờ về tới quê.
Tư hỏi:
-Tại sao?
-Nó không nối với bất kỳ một chi lưu nào của con sông Tiền. Cho nên mình không thể đi về quê bằng xuồng được.
Ý nói vậy vì có lần Tư đòi sắm một chiếc ghe nhỏ, thả từ từ theo con nước, ngược về tận xứ của họ.
Tư phản đối:
-Những con lạch nhỏ sẽ nối chúng vào nhau. Có những nơi xe không qua nổi nhưng xuồng thì đi được tuốt!
Ý cãi:
-Vậy anh cho là tất cả các dòng sông, tất cả các con đường thủy đều nối liền với nhau hả?
-Đúng vậy!
-Thế tại sao nó vẫn trong veo, trong khi nước sông quê mình thì đang đục ngầu.
-Con kinh nầy quá nhỏ, chảy rất chậm nên phù sa lắng dần, đục không nổi nữa.
Ý vẫn không tin, nhưng từ câu nói của Tư nàng lại nảy ra một ý tưởng:
-Như vậy có thể suy ra rằng, nếu mình càng nghèo, cuộc sống càng ít ràng buộc, càng bình yên phải hông?
Tư phì cười trước cái tật của Ý. Nàng hay liên tưởng, kết nối hai sự vật khác hẳn nhau. Tư không muốn cãi, những ngày bên nhau của họ sắp hết, chàng không muốn làm Ý phật lòng.
Tư chuyển đề tài:
-Tối nay chắc có mưa.
Ý nhìn về chân trời phía tây, ở đó mây rất dày, mặt trời núp sau lưng nó rất an toàn, chẳng để lọt một tia chiều nào le lói. Ý nói:
-Quê mình đang mưa. Tối nay cơn mưa đó sẽ chạy tới nhà mình.
Giọng nói của Ý có pha chút chất cảm, hai tiếng "nhà mình" bỗng làm Tư xúc động. Từ lâu chàng vẫn thầm mong, sẽ có một ngày được gọi Ý là "nhà tôi" khi nói với bạn bè.
Họ im lặng, mỗi người đang bơi trong dòng sông suy tưởng của mình. Tư giựt câu theo quán tính, mới hay nó bị mắc gốc tự hồi đời nào.
Lưỡi câu mất, họ chẳng còn lý do để ngồi lại trên bờ kinh nầy nữa. Tư bỗng đổ nước và cá trong thùng ra. Ý ngạc nhiên:
-Sao thả cá ra hết vậy? Rồi cái nồi canh chua, cái mớ rau muống em vừa hái phải làm sao?
Tư cười:
-Ngày mai tính, chiều nay hai thằng mình đi ăn bánh xèo, bánh khọt.
Ý cằn nhằn:
-Chiều tối mà ăn mấy món có nước cốt dừa là khó tiêu lắm!
-Biết vậy rồi, nhưng cái chỗ nầy bán bánh khọt rất ngon, sợ em đi mà không kịp ăn!
Cái giọng, cái ý hàm chứa trong câu nói của Tư làm Ý buồn ngang xương. Nàng làm thinh suốt quảng đường về nhà.
Trước ngày đi, Ý kiếm chuyện để làm, để gây với Tư suốt. Như thể cố tình làm Tư ghét rồi trông Ý đi phắt cho rảnh nợ, vậy mà càng làm cho Tư thương hơn, lưu luyến hơn. Lạ làm sao! Ý chưa ra đi mà Tư đã nghe nhớ đến ngập lòng, đang đứng trên bờ kinh hút điếu thuốc, mà nhớ cho tới nổi mới rít mấy hơi liền dụi tắt, quay về nhà.
Ý đang ngồi giặt cái áo sơ mi trắng của Tư, vết đen bám thâm niên ở cổ được nàng tẩy sạch bách, cái áo trắng bóc, mùi thuốc tẩy nồng nặc. Tư cúi mặt sát xuống, hôn lên tóc nàng một cái. Ý kêu lên:
-Anh mới hút thuốc phải hông?
Tư cười kiểu cầu tài:
-Thèm quá! Mới rít có hai hơi...
Ý cắt ngang, nói bằng cái giọng chì chiết:
-Cái thân mà còn không biết thương thì nói gì tới thương người khác. Hôm qua vừa hứa bỏ mà bây giờ hút lại là sao?
Tư không trả lời, xách thùng đi lấy nước lên để Ý khỏi xuống kinh xả đồ.
Hôm sau, Tư ngồi câu từ trưa cho đến khi trăng mọc mới chịu ra về. Rồi tay xách thùng cá, vai vác cây cần câu bằng trúc nhẹ hều, bước thật chậm như đi không muốn nổi. Vừa tới nhà Ba "Nhậu" chàng nghe tiếng y hỏi:
-Có dính cá nhiều hông anh Tư? Bạn về rồi hả?
Tư trả lời gọn lỏn:
-Hông! Ừ!
Rồi đột ngột tăng tốc, đi như chạy làm ba Nhậu cụt hứng, chẳng thể hỏi thêm một câu đang nằm sẵn nơi cửa miệng.
Vào tới nhà Tư liền chẻ củi, nhóm lửa, hâm cái nồi thịt kho còn đầy tận miệng. Cơm nấu từ sáng vẫn chưa đụng tới, Tư rưới nước vào rồi bắt lên cái bếp còn sót chút than cho nóng. Bới hai chén cơm đầy, múc hai cục thịt kho, xắt một trái dưa leo, đặt tất cả vào mâm rồi bưng ra cái chỏng ngoài sân. Vừa quay vào nhà lấy cây đèn, trở ra đã thấy ba Nhậu ngồi xếp bằng trên chỏng, y hỏi:
-Sao ông biết tui tới ăn chực mà bới sẵn hai chén cơm vậy?
Tư đáp thẳng thừng:
-Ai mà tính tới ông! Tui bới sẵn để khỏi phải rinh cái nồi ra.
Ba Nhậu, kẻ thường bảo Tư rằng y đã cắt đứt cái dây thần kinh mắc cỡ, nói bằng giọng tỉnh rụi:
-Ông không mời tui ăn còn ngon miệng. Chịu khó trở vô bưng cái nồi cơm ra luôn thể, một chút khỏi mắc công đi cha nội!
Rồi thản nhiên móc chai rượu thuốc trong túi áo ra. Tư lại quay vào, ba Nhậu gọi vói theo:
-Đem cái ly ra nữa!
Tư mang cái chung trên bàn thờ ra đưa cho Ba Nhậu, y không cầm mà bỏ chưn xuống đất rồi nói:
-Để tui đi rửa cái tay, hồi nãy mới đi đào đất.
Rồi đi xăm xăm lại cái lu gần đó múc nước rửa tay, rửa mặt, súc miệng. Tư sợ y uống nên nói:
-Nước uống ở trong bình lọc, đừng có uống nước đó!
Ba Nhậu phun hết nước trong miệng ra rồi mới nói:
-Ông khỏi phải dặn, tui cũng biết quí cái mạng mình lắm chớ bộ! Uả mua cái bình lọc hồi nào vậy?
Tư đáp giọng nhát gừng:
-Tuần trước!
Ba Nhậu đinh hỏi có phải cô bạn mua tặng, nhưng thấy Tư không có hứng nói chuyện nên thôi.
Bây giờ y mới chịu nhìn vô mâm cơm, thấy cái chén đựng thit kho thì lắc đầu nói:
-Cái thứ nầy khó bắt lửa lắm! Ba con cá ông mới câu được đâu rồi? Ông đưa đây, tui xách về cho con bé Hai nó làm món khác, để uổng cái chai rượu thuốc của tui.
Tư hất hàm về phía sàn nước. Hai nhậu không thèm ngó theo, y ngồi tại chỗ mà rống thật là to:
-Bé Hai ơi, bé Hai! Qua đây cho cha nhờ một chút coi!
Lát sau một cô gái độ chừng mười bẩy, mười tám tuổi, gầy nhom, cao lêu khêu vừa kẹp tóc, vừa bước tới, vừa hỏi:
-Cha kêu con chi vậy cha?
Ba Nhậu chỉ vô cái thùng mà bảo:
-Con bắt mấy con cá ra đem nướng, làm chén nước mắm cho ngon rồi hái mấy cọng rau thơm đem qua đây liền cho cha.
Bé Hai cằn nhằn:
-Giờ nầy đâu có thấy đường mà hái rau.
Giọng ba Nhậu ngọt như mía lùi:
-Đốt cái đèn lên mà làm con gái! Hôm nay cha con mình ra tay nghĩa hiệp, giúp chú Tư con qua cái cơn sầu tình nầy, để hông thôi tối nay ổng dám đập đầu vô gối mà chết, rồi hiện hồn về nhát cha con mình đó!
Bé Hai nghe cha nói vậy thì liếc Tư một cái, thấy mặt chàng buồn hiu thì chù ụ cái mặt, không thèm bắt cá ra mà xách luôn cái thùng về nhà.
Ba Nhậu thấy con gái đi một cách vùng vằng thì đâm ra mắc cỡ với Tư, y chắc lưỡi:
-Con gái thiếu mẹ khó dạy lắm! Hồi vợ tui còn sống, nó dễ thương hết biết. Bây giờ thành cá không ăn muối rồi.
Tư vội bênh vực cho bé Hai liền:
-Nó như vậy là ngoan lắm đó! Con nít bây giờ được chìu chuộng hết cỡ, sai rót giùm ly nước còn hổng thèm làm, đâu có được như nó. Ông mà đang ngủ ngon, bị dựng đầu dậy bắt làm đồ nhậu cũng quạu, cự nự om sòm cho coi!
Rồi bưng chén cơm lên đưa cho Ba Nhậu và hối:
-Ăn ba hột dằn bụng đi, một chút có mồi hãy uống!
Ba Nhậu từ chối:
-Anh có đói bụng thì ăn đi, tui mới ăn hồi chiều, còn no ngang.
Tư không ép, lấy đũa xắn cục thịt kho ra làm hai, cho vào chén rồi và một cách ngon lành. Ba Nhậu nghe Tư nhai rôm rốp khúc dưa leo thì cầm lòng chẳng đặng, bèn gắp nửa cục thịt còn lại, nhai một cách chậm rãi, vừa nuốt xong là hỏi Tư liền:
-Bà Xã của ông có phải là dân Bến Tre hông vậy?
Bốn chữ " Bà xã của ông" làm Tư mát ruột quá chừng, Tư đáp:
-Bả cũng dân An Giang như tui. Mà sao ông đoán như vậy?
Ba Nhậu nói bằng cái giọng ngậm ngùi:
-Cái mùi thịt kho nầy y chang như má con bé Hai làm hồi trước! Vợ tui người Bến Tre, cái món thịt kho Tàu nầy không ai qua mặt bả nổi. Bả lựa từng miếng thịt, từng trái dừa...
Y bỗng dừng lại, hỏi gặng:
-Anh biết tại sao phải lựa cả dừa nữa hông?
Tư lắc đầu, hỏi:
-Tại sao?
Ba Nhậu như được gãi đúng chỗ ngứa, làm một bài "diễn thuyết" hết sức hùng hồn:
-Cái nồi thịt kho muốn ngon cần phải có đủ ba yếu tố: Một là thịt phải tươi, săn chắc, mỡ không dày lắm và phải dính liền vào cái phần nạt. Hai là nước mắm phải ngon, trong, không được trở mùi. Ba là nước dừa phải là của trái dừa xiêm không non, không già, cỡ vừa rám vỏ...
Để nhấn mạnh vào tầm quan trọng của thứ dừa đó, y lại gằn giọng:
-Tại sao phải là dừa Xiêm rám vỏ, anh có biết hông?
Không chờ Tư đáp, y lại "diễn thuyết" tiếp:
-Dừa xiêm rám vỏ là cái nước thượng hảo hạng để kho thịt, kho cá. Bởi vì nó cho cái mùi hết sức độc đáo, cái màu vàng óng hết sức hấp dẫn, cái vị hết sức, hết sức...
Thấy y nhắm mắt lắc đầu hoài, Tư sốt ruột ngắt ngang:
-Ngon.
Ba Nhậu chắc lưỡi tiếp lời:
-Ăn bể mỏ còn chưa muốn ngừng. Bởi vậy bây giờ ngày mùng một tết, nhìn cái dĩa thịt kho là tui nhớ bả muốn đứt ruột!
Tư khựi miếng cơm cháy lên rồi bẻ một phần ba đưa cho Ba Nhậu, y không để vào chén mà cầm chấm nước thịt kho rồi nhai rau ráu.
Bé Hai bưng cái mâm đồ nhậu qua. Tư gắp miếng cá chấm vào chén nước mắm tỏi ớt, định bụng ăn để có cái mà khen cho con nhỏ vui lòng, nhưng mà khen hổng nổi. Ba Nhậu lấy đầu đũa nhúng vào chén nước mắm, nếm một cái rồi quát:
-Sao mà mặn như muối lồi vậy Bé Hai?
Bé Hai trả lời quạu đeo:
-Nhà mình hết đường, nước mắm còn có chút xíu nên con bỏ muối vô thêm cho...
Ba Nhậu nạt ngang:
-Rồi hổng biết đi mua hả?
Bé Hai nghinh mặt hỏi:
-Tiền đâu?
Ba Nhậu sượng trân không đáp, Tư vội nói:
-Cháu bưng chén nước mắm vô bếp pha lại giùm chú. Trong đó chắc còn đường, còn nước mắm. Có cái chai giấm cao cao, cháu cho vô một tí. Nhớ cầm cây đèn theo để thấy đường mà làm.
Bé Hai riu ríu nghe theo. Ba Nhậu vò miết cái đầu khiến tóc rối bù như ổ quạ. Y rót rượu vào chung, không mời Tư mà uống một cái ót. Trăng chiếu thẳng lên đôi môi ướt của ba Nhậu, trông chúng như được thoa một lớp son bóng, chẳng thích hợp chút nào với nét mặt nhàu nhĩ ấy. Tư bỗng nghe tiêng tiếc. Giá nó đậu trên môi của một cô gái thì sẽ gợi cảm biết bao!
Bé Hai đặt chén nước mắm vào mâm rồi ngoe ngoải bỏ về. Ba Nhậu nhìn theo thở dài:
-Phải chi còn má nó!
Buổi nhậu cố ý giúp vui của y trở nên ủ dột. Y không ăn mà cứ rót rượu uống tì tì, không ngớt ca tụng người vợ quá cố của mình. Nào là bả tính tình hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ, nấu ăn ngon số dzách, thương chồng, thương con...Y càng kể càng phóng đại. Người phụ nữ ấy càng lúc càng cao đẹp. Khi cô ta dần biến từ vợ đảm thành người mẹ hiền rồi vị nữ thánh thiêng liêng thì Tư biết là Ba Nhậu đã say.
Bất chấp Ba Nhậu phản đối, Tư đưa y về để có thể đắm mình vào nỗi nhớ. Không như vợ của Ba Nhậu, Ý không hay nói và càng ít nói ngọt. Ý săn sóc Tư một cách chu đáo nhưng lại làm ra vẻ hờ hững. Hình như Ý cho rằng nàng đã vay cái thương của Tư quá nhiều nên bây giờ chẳng muốn lấy thêm, chỉ ráng trả bớt chút nào hay chút nấy.
Vậy mà không hiểu sao cái giọng "dùi đục chấm nước mắm" đó, giờ đây khi nhớ tới, lại khiến Tư cảm động đến cay cả hai con mắt.
Một cái giựt chân quá phủ phàng khiến Tư choàng tỉnh. Ba Nhậu đang đứng bên cạnh, cầm tờ giấy hai trăm ngàn giúi sát mặt Tư mà hỏi:
-Cái nầy ông để vô túi tui hồi tối phải hông?
Tư cố nặn ra cái nét mặt ngỡ ngàng, điều nầy cũng dễ thôi vì chàng còn ba sồn, ba sực, hỏi bằng một giọng gây hấn:
-Ông nghi tầm bậy, tầm bạ rồi phá cái giấc ngủ của tui như vậy đó hả?
Ba Nhậu thấy Tư phản ứng quá mãnh liệt thì đứng đực mặt ra rồi lẩm bẩm:
-Hổng phải thằng chả thì ai làm cái chuyện nầy vậy ta?
Tư kéo mền phủ đầu định ngủ tiếp. Ba Nhậu đâu chịu để yên, y tốc cái mền ra rồi lôi Tư dậy:
-Trưa trờ, trưa trật rồi cha, dậy đi uống cà phê với tui.
Tư bỗng đổ quạu, nói như gây lộn:
-Ông đưa tiền cho con Bé Hai để nó mua thực phẩm, đừng cà phê, rượu trà gì hết! Cũng phải nghĩ cho người khác nữa chớ!
Rồi sợ Ba Nhậu nghi ngờ nên nói tiếp:
-Biết đâu đây là tiền của nó!
Ba Nhậu quả quyết:
-Đời nào nó để tiền vô túi của tui. Hổng móc ra thì thôi! Mà nó làm sao có được món tiền cỡ nầy?
Tư gợi ý:
-Biết đâu nó trúng số!
Ba Nhậu lắc đầu nguầy nguậy:
-Tiền hổng đủ ăn, lấy đâu ra để mua vé số? Thôi để tui về hỏi lại cho chắc ăn.
Tư nằm nán cho đến khi nắng chiếu qua song cửa sổ, đoán chắc đã trưa nên thôi không nướng nữa.
Đánh răng rửa mặt xong Tư bám khung cửa, đu vài cái cho giãn gân cốt rồi đi thu dọn cái chiến trường còn bề bộn hồi tối. Bé Hai đang ở đó, tay cầm cái áo rách mướp dùng làm giẻ lau từ nhà đem qua, thấy Tư ra tới liền hỏi:
-Cái dĩa cá nướng còn nguyên nầy đổ hay để vậy chú Tư?
Tư nói một cách gấp gáp:
-Để, để lại chớ đổ đi đâu mà uổng vậy? Rau với nước mắm nữa, để lại cho chú hết!
Bé Hai đặt mấy thứ Tư nói vào mâm, bưng vô bếp lấy lồng bàn đậy lại, trở ra xếp chén vô nồi bưng xuống bờ kinh ngồi rửa. Tư định cản lại nhưng rồi làm thinh, nghĩ bụng chắc Ba Nhậu đã đoán ra nên sai con gái qua trả "ơn" đây. Thôi để Bé Hai rửa dọn cho cha con họ vui.
Bé Hai ngồi khom mình trên cầu vói tay khoát nước, xô mấy nhánh lục bình tản ra. Mấy tia nước giật mình nhảy lung tung, bám vào những sợi tóc phất phơ trước trán. Tia nắng chiếu vào khiến chúng long lanh như những hạt kim cương. Hình ảnh ấy mang một nét đẹp phi thực khiến Tư xúc động. Chàng quay liền vào phòng để lấy quyển tập phác thảo. Tìm hoài mà không thấy, Tư cố xua cơn bực dọc đang mấp mé. Tiếng xe gắn máy dừng trước cổng và cái giọng ồm ồm của Hưng cất lên:
-Anh Tư ơi, anh Tư!
Tư không đáp, cố cầm chân cái hình ảnh quí giá vừa bắt gặp trong đầu. Tiếng gọi lại cất lên, to và lâu hơn lần trước:
-Anh Tư ơi! Hỉ tín, hỉ tín, mở cửa nhanh lên, nhanh lên!
Tư thở dài, tiếc cho cái cảm hứng vừa vuột mất, bước ra với hai bàn tay không, nhìn Hưng một cách bực bội. Hưng chẳng thèm để ý, cười tít mắt, nói:
-Nào, trải chiếu hoa mà đón thần tài đi, tiền tới rồi nè!
Tư đổi sắc mặt liền, mừng quýnh, nói lắp bắp:
-Bức, bức... nào?
Hưng trả lời:
-"Câu đêm".
Tư hỏi một cách hào hứng:
-Ai mua vậy? Khách quen hay lạ?
-Lạ hoắc! Anh không đoán được đâu, không phải người thường đâu nha?
Tư đùa:
-Nữ hoàng nước Anh hả?
Hưng cười hô hố rồi nói:
-Anh có nghe tên Đại Đức Thích Thiện Nhiên chưa?
Tư lắc đầu. Hưng nói tiếp:
-Hình như ổng là đồng hương với anh đó! Ổng nói là cái cảnh trong tranh giống hệt cái vàm trước nhà má ổng.
Rồi Hưng móc túi đưa Tư mấy tờ giấy màu xanh có in hình tổng thống nước Mỹ. Tư chưa đếm mà đã hỏi:
-Sao nhiều dữ vậy?
Hưng nói với vẻ tự hào:
-Tui thấy ổng quá khoái bức tranh, lại là Việt Kiều nên đẩy giá lên một chút! Cũng may nó chưa kịp gắn cái bảng giá.
Bé Hai bưng nồi và chén từ dưới kinh đi lên, mình mẩy ướt nhẹp, thấy cái ông chú Tư nghiêm nghị ngày thường, mặt mày hí hửng, cười như con nít thì trố cả hai mắt lên mà nhìn. Tư nhìn lại, cũng ngạc nhiên chẳng kém:
-Bộ cháu té xuống kinh hả?
Bé Hai lắc đầu:
-Đâu có! Khi không mà có chiếc o bo chạy ngang một cái vù. Sóng rút, kéo cái nồi trôi theo. Cháu phải lội ra vớt lại.
Hai mắt Hưng mở to hết cỡ, như muốn nuốt trọng cái cơ thể thanh tân với bộ đồ ướt dính sát rạt của cô gái trẻ. Bé Hai đỏ mặt vì mắc cỡ, đặt cái nồi xuống chõng rồi quày quả bỏ đi. Hưng nhìn theo cho đến mất hút rồi quay lại nheo một con mắt với Tư, nói bằng giọng tinh nghịch:
-Hèn gì đại ca từ bỏ nơi phồn hoa đô hội, về đây để hưởng lạc thú bên hoa đồng, cỏ nội!
Tư nghiêm giọng:
-Đừng có nói bậy! Nó là con của ông bạn nhà kề bên đó!
Hưng hỏi, giọng rất ư "cà chớn":
-Thiệt vậy hông "chú Tư"?
Tư trợn mắt, hỏi lại:
-Mầy hỏi vậy là có ý gì?
Hưng thấy Tư đổ quạu thì không dám giỡn nữa, vội chuyển tia mắt nhìn xuống kinh. Con nước ngày rầm tràn bờ, trong vắt, thấy bắt thèm nên rủ Tư:
-Mình xuống lội mấy vòng đi? Anh cho tui mượn cái khăn, với cục xà bông.
Tư mở tủ lấy cái khăn còn mới tinh đưa cho Hưng. Chàng không muốn Hưng xài cái khăn còn vương mùi của Ý. Hưng nhắc:
-Cục xà bông nữa!
Tư lại mở tủ, đưa cho y cục xà bông cũng mới tinh với cùng một lý do.
Một tuần sau Hưng lại mang tiền xuống cho Tư, bức "Bông súng" đã được bán. Nó sắp bị phòng tranh gửi trả thì may mắn lọt vào mắt của vị sư hôm trước. Lần nầy Hưng không dám nâng giá vì bị Tư phản đối quyết liệt cái kiểu làm ăn đó. Ngoài ra vị đại đức ấy còn đặt Tư vẽ một bức về cánh đồng ngập nước với những đám bông điên điển.
Nỗi buồn của Tư được bù đắp một cách thỏa đáng, không phải chàng quá ham tiền, chỉ bởi đối với người họa sĩ, không có niềm vui nào to lớn cho bằng được thưởng thức, đồng cảm và tán dương.
Hưng đã có sẵn ý đồ nên mang theo một thùng bia, một con vịt quay để ăn mừng với nhau. Y đề nghị Tư rủ Ba Nhậu cho xôm tụ. Ba Nhậu bỏ ngang cái luống đậu phọng đang bón phân, hớn hở nhận lời, không quên cặp nách chai rượu thuốc. Rồi bất mãn vì dù được quảng cáo hết cỡ, xị rượu thuốc cũng không ai đụng tới. Y lại ngồi tại mâm mà gióng giả gọi con gái:
-Bé Hai, hái cho cha mấy trái ớt.
Bé Hai đem ớt xong, vừa về tới nhà lại nghe tiếp:
-Bé Hai, hái cho cha mấy cọng rau thơm!
Cô gái lại đội nón, bưng rỗ ra vườn rau sau lưng nhà, hái mấy thứ rau ăn sống như vấp cá, húng quế, húng cây, húng nhủi...Những cọng rau khi bị tay chạm vào, như được kích thích liền tỏa ra cái mùi đặc trưng của chúng. Tất cả các hương thơm ấy cộng lại, tạo cho cô một cảm giác vô cùng sảng khoái. Đang phồng mũi hít thì nghe tiếng cha cô giục:
-Làm gì mà lâu quá vậy con?
Bé Hai hơi bực mình. Cái tật của cha cô là như vậy đó! Hể có khách là hay giựt le, sai con gái tưng bừng, cố thị uy, lên mặt làm cha. Thường thì Bé Hai răm rắp nghe theo nhưng đôi khi chịu không thấu cũng đổ quạu, ra vẻ chống đối. Cô vội bưng rỗ rau chỉ được lưng lưng xuống kinh rửa cho nhanh. Cái rỗ rau ướt nhẹp được mang lên. Bé Hai bưng thẳng tới mâm nhậu, chưa kip đặt xuống chõng thì Tư sai:
-Cháu lấy cái thau nhôm trong bếp, ra cái bình lọc hứng nước, cho muối vào rồi ngâm thêm cho nó sát trùng. Nước kinh tuy trong nhưng có lẫn nhiều loại ký sinh trong đó lắm!
Bé Hai vội làm theo đúng như chỉ thị. Bị quay như chong chóng mà cô gái không hề bực bội, mặt mũi tươi hơn hớn mới lạ!
Chẳng riêng gì Bé Hai, Hưng cũng thế. Cái tánh huênh hoang, bạ đâu nói đó hôm nay được gói cất cẩn thận. Y tỏ ra hết sức đàng hoàng, và dù kém Ba Nhậu chưa tới chục tuổi cũng xưng con, xưng cháu một cách rất ư lễ độ.
Ba Nhậu tinh ý lắm! Y rất tự hào vì được làm cha của một cô gái xinh xắn, dễ thương. Cái cảm giác mất mặt, do xị rượu đem qua bị rẻ rúng ban nãy, đã được gột sạch. Y hết sức hả lòng, hả dạ. Tự ái được ve vuốt bởi cô con gái của mình chẳng những không bị xem thường như cái món rượu thuốc "gia truyền" kia, mà rõ ràng đang được cái quí ông, xem ra rất sang trọng nầy hết lòng trân trọng.
Tư thì lo ngay ngáy, nghĩ bụng:"Cái thằng Hưng nầy vốn có số đào hoa, thay bồ như thay áo, không khéo lại gieo tai họa cho cha con người ta." Chàng định bụng sau bữa nhậu, sẽ nói riêng cho Ba Nhậu biết để y giữ con thật cẩn thận.
Bắt đầu từ hôm đó bé Hai hay qua nhà Tư hơn, khi thì mang thau đồ bẩn về nhà để giặt, xách nước đổ đầy cái lu ngoài hiên. khi thì lau sạch trơn cái mặt chõng bám bụi. Có hôm cô còn quét cái vườn thật kỹ, moi khắp ngóc ngách không bỏ sót một chiếc lá nào làm Tư tiếc ngẩn, tiếc ngơ. Hôm trước chàng đã kịp ngăn khi thấy Ý cầm trên tay cây chổi, bởi có chủ tâm giữ lá lại cho thật nhiều để vẽ một bức tranh về khu vườn ngập lá!
Thu hoạch đậu phọng xong, Ba Nhậu đem hai trăm ngàn qua trả. Tư không chịu nhận, chàng chối đây đẩy là không phải của mình. Vậy là có cớ để Ba Nhậu sai Bé Hai nấu một nồi cháo gà và chặt cái bắp chuối hột vô trộn gỏi. Ba Nhậu lại ca tụng người vợ quá cố của mình với cái tài chế biến các món ăn bằng bắp chuối hột. Y nói:
-Cái bắp chuối hột nầy là "vua" của tất cả các loại bắp chuối. Nó chứa mủ đầy óc nóc vậy mà ra gió vẫn trắng tinh, giòn mềm chớ không "xảm" như bắp chuối sứ. Má con Bé Hai có cái món gỏi gà chay làm bằng bắp chuối hột, ăn y như thịt gà mái tơ xé phai. Cái món canh chua lươn nấu với nó bả làm cũng ngon số dzách. Bả còn chế ra món cá mòi chay bằng bắp chuối nữa, cái hộp cá mòi hiệu "Ba cô gái" của Thái Lan chẳng thể nào bằng.
Tội nghiệp cho Bé Hai, đem hết công sức ra trộn dĩa gỏi, theo ý Tư cũng vào hạng thượng thừa, vậy mà bị ông cha đem ra so sánh với bà má rồi chê dậm dề khiến cái mặt buồn thiu.
Dưới con mắt của một họa sĩ, Tư thấy rằng con người ta đẹp nhất khi đang yêu. Cả Hưng lẫn Bé Hai đều trở nên bừng sáng và hết sức sinh động. Gương mặt của họ như được cả mặt trăng và mặt trời chiếu vào, vừa rực rỡ, chói chang vừa rất đỗi mơ màng. Nhất là ở Bé Hai! Hình như tình yêu làm cho tim cô đập mạnh hơn, máu chảy nhanh hơn khiến má cô hồng và môi cô cũng thắm hơn. Đôi mắt rất trong, rất sáng, với cái nhìn thẳng thắng vốn có của cô bỗng trở nên hết sức dịu dàng.
Có lần Tư bắt gặp Bé Hai đang phơi đồ. Cô cầm một cái áo trên tay, giũ cho thẳng rồi không trải ra phơi trên hàng rào dâm bụt mà áp nó lên mặt rồi lim dim hai mắt như đang áp má lên làn da người mình thương. Cái nét xuất thần ấy truyền đến Tư như một luồng điện, cứ đứng ngây người ra mà ngắm cho đến khi bé Hai chợt tỉnh, phát hiện ra chàng đang nhìn trân trân liền bỏ cả thau đồ đang phơi dở, ôm cái áo mà đâm đầu chạy thẳng vô nhà.
Tư bỗng ao ước có ngay trong tay một cây cọ thần kỳ, ghi lập tức cho bằng hết cái hình ảnh tuyệt vời đó! Tư nhận ra mình may mắn nhứt trên đời. Những khoảnh khắc quý báu ấy có mấy ai được hưởng cho dù chỉ một lần? Mấy ai có được cái diễm phúc như chàng, bắt gặp một cô gái đẹp đang sống trong phút giây đẹp nhất của cô ấy? Cảm xúc gần như thiêng liêng đó, đang đưa tâm thể Tư trồi lên tận đỉnh của ngọn núi an lạc, rồi từ niềm vui nó bỗng biến hình thành một nỗi ngậm ngùi! Tư tự hỏi tại làm sao mà những cái đẹp đều có một cuộc sống ngắn ngủi đến vậy?
Chàng đâm ra ngần ngại, cái ý định nói cho Ba Nhậu biết đành gác lại. Chàng sợ với bản chất đơn giản và lối suy nghĩ có phần hời hợt, người cha ấy sẽ thẳng tay phá bỏ khoảnh khắc hạnh phúc nhất của cô con gái. Chàng vốn trân trọng cái đẹp nên quyết định, cho dù hậu quả như thế nào, cũng giúp cho Bé Hai duy trì thời kỳ nầy càng lâu càng tốt. Chàng sẽ bảo vệ Bé Hai bằng phương thức khác.
Tư suy nghĩ mãi, chàng cho rằng tốt nhất mình nên nói chuyện với Hưng. Cho y biết là chàng vô cùng quý mến cha con Bé Hai và sẽ trừng phạt kẻ nào làm họ tổn thương. Tư bỗng bật cười khi tưởng tượng mình trong cái "lốt" hiệp sĩ, với áo giáp sắt và ngồi uy nghi trên lưng ngựa, chỉ gươm vào mặt Hưng mà nói:
-Nầy tên kia, mi sẽ bước qua cái xác của ta nếu làm họ đổ máu!
Ngay khi gặp lại Hưng Tư liền hỏi:
-Mầy đang để ý con Bé Hai phải hông?
Hưng đáp một cách nghiêm túc:
-Chắc lần nầy em dính lưới thiệt quá anh.
Tư nhìn vào mắt Hưng để tìm hiểu xem y nói câu đó với mấy chục phần trăm thành ý. Cái vẻ chân thật pha chút ngượng ngùng trong ấy khiến chàng vững tin nên nói:
-Nó hình như cũng "cảm" mầy rồi đó! Cha con họ tuy nghèo nhưng tốt lắm! Hiền lành lắm! Mầy sẽ không tìm ra một cô vợ nào tinh khôi, tài sắc vẹn toàn như nó đâu!
Hưng hỏi lại:
-"Tài"?
Tư cười:
-Má nó hồi trước nghe đâu là thợ nấu nổi tiếng nhứt vùng nầy. Nó thừa hưởng cái gen của bả nên nấu ăn cũng khá lắm! Như vậy không phải tài thì là gì?
Hưng nói:
-Nhưng sao em thấy hình như cổ đang né mình. Cứ mỗi lần định lại gần nói chuyện là cổ lũi mất biệt.
Tư vỗ vai Hưng một cái để khích lệ:
-Đó là dấu hiệu của những nàng trinh nữ, tin tao đi, họ cố đè nén tình cảm của mình để rồi nó sẽ bùng lên như núi lửa. Cốt yếu là mầy phải biết trân trọng phẩm cách của họ, phải cư xử hết sức lịch sự. Những cô gái nghèo, họ rất mặc cảm. Mầy cũng nên nhớ là tao coi cha con bé Hai như ruột rà, máu mũ.
Thế rồi cái cô gái " tinh khôi " ấy đã làm cho Tư vô cùng thất vọng, khi một hôm tình cờ phát hiện Bé Hai đang rón rén vào phòng, cho tay vào cái túi quần tây đang treo có cái bóp chàng trong đó.
Tư như người đang đứng trên đỉnh núi cao, bất ngờ bị một tia nham thạch, phún xuất từ miệng núi lửa ngay dưới chân bắn tung lên trời. Chàng chới với, quay trở ra ngay, không muốn cái hình ảnh phũ phàng ấy in sâu vào đầu mình hơn nữa. Và cũng tránh cho bé Hai không phải xấu hổ rồi đâm ra thù ghét chàng thậm tệ.
Tư thầm trách ông trời, tại sao cứ khi nào cái lòng thương và sự tin cậy đối với con người trong chàng dâng lên cao nhất là bị ổng chộp lấy rồi thẳng tay ném xuống, sao cho nát vụn mới hài lòng! Chàng phạm tội gì mà ổng nỡ trừng phạt một cách phũ phàng đến vậy?
Trong nỗi thất vọng cùng cực đó, Tư bỗng thấy như mình là người có lỗi, nghe thương hại cái con bé khờ dại ấy vô cùng! Chàng biết rằng sau nầy khi thấy hoặc nhớ đến cô, chàng sẽ lại xót xa y như với chú gà con ngày xưa của ngoại. Chú gà mà chàng đã vô tình giẫm phải!
Cứ mỗi lần gặp chuyện buồn, Tư lại vác cần đi câu cá. Con kinh như một người bạn thông tuệ, cho chàng những lời khuyên hết sức bổ ích.
Chuyến câu nầy Tư chuẩn bị chu đáo hơn tất cả những lần trước. Chàng mang theo cái võng bố, chai nước to đầy, mấy gói mì ăn liền để nhai trừ bữa... Và dù cảm thấy rất có lỗi với Ý, cũng ráng xách theo một gói thuốc lá.
Con kinh đón Tư bằng gương mặt bình thản và lòng bao dung cố hữu, Tư tưởng tượng như nó đang hỏi:
-Chào anh bạn, lại gặp bế tắc phải không?
Và chàng trả lời:
-Tôi chẳng biết phải làm gì bây giờ! Tại sao tất cả những lỗi lầm của người khác đều đè nặng lên tôi, khiến tôi cảm thấy như chính mình là người có tội?
-Thì chính bạn là người có lỗi chứ còn ai vào đây nữa? Nầy nhé: Bên cạnh sự thiếu thốn, vất vả của họ, bạn sống phây phây. Trong khi họ đổ mồ hôi, sôi nước mắt, giành giật với thiên nhiên để kiếm một miếng bánh nhỏ nhoi. Trong khi đôi tay họ chay phồng vì những cán liềm, cán cuốc...Bởi công việc của họ là cung cấp lương thực để duy trì sự sống của loài người trên trái đất nầy. Đáng lý họ phải được đền đáp thỏa đáng bằng cả tinh thần lẫn vật chất, thì trái hẳn lại. Bạn thì chỉ với một cây cọ trong tay, làm một công việc hết sức an nhàn nhưng thu nhập gấp trăm ngàn lần họ. Bạn được họ tôn trọng và tự cho là mình hơn hẳn chỉ vì đang cung cấp mấy món ăn tinh thần, mang cái tên rất mỹ miều là nghệ thuật. Khi họ đòi hỏi sự công bằng, thì bạn lại cho rằng họ vi phạm luật trời và luật người.
-Vậy bạn cho rằng cái hành vi ấy là do bất công mà ra sao?
-Đúng vậy! Nếu họ được xã hội quan tâm hơn, cuộc sống được bảo đảm hơn thì cần gì phải đánh đổi danh dự để lấy mấy đồng bạc mà họ không cần đến?
-Vậy cô bé ấy cứ tiếp tục cái việc mà bạn cho là lấy lại công bằng? Và tại sao tôi là người phải trả?
-Bạn không phải là người duy nhất phải trả và cũng không phải trả bằng cách ấy. Điều bạn cần là phải nói chuyện với cô ta, tìm hiểu nguyện vọng của cổ rồi cố đem hết khả năng ra giúp.
Đó là một buổi đi câu thành công nhất của Tư, cho dù chàng chẳng mang được con cá nào về.
Hôm sau Tư quyết định sẽ gặp và nói chuyện với Bé Hai. Thật là trớ trêu! Ngày thường hình như nhìn đâu cũng gặp nhưng đến lúc cần thiết lại chẳng thấy cô ta. Cửa rào đóng kín và khóa lại bằng cái ống khóa nhỏ xíu tròng vào cái dây lòi tói to đùng. Chắc hai cha con họ đang ở ngoài rẫy. Tư hơi ngần ngại rồi đi thẳng ra đó. Không thấy Ba Nhậu, chỉ có một mình Bé Hai giữa mấy luống bắp chưa trổ cờ. Cô bé đón Tư bằng một vẻ mặt như cố ghìm một niềm vui, chẳng vướng chút gì sợ sệt làm Tư quá đỗi ngạc nhiên. Tư nhìn gương mặt với làn da mịn như nhung chẳng gợn chút xíu ăn năn, ray rức nào với lòng ngán ngẩm. Núp sau cái nón lá vẫn là đôi mắt ngây thơ, trong sáng, nhìn chàng một cách gần như háo hức. Tư tự hỏi:
-Sao cái con nhỏ nầy chẳng có chút gì ngượng ngùng, xấu hổ vậy trời? Chắc có lẽ nó cho là mình không thấy, hay cái chuyện nầy cũng giống như móc bóp của ba nó lấy tiền đi mua kẹo?
Đột nhiên Tư nổi giận đùng đùng. Chàng nghiêm giọng nói với Bé Hai:
-Cái việc cháu làm là xấu lắm, cháu có biết không? Thử nghĩ xem nếu ba cháu mà biết thì ổng buồn và giận biết mấy, chắc ổng sẽ đập cháu một trận nhừ tử.
Gương mặt của bé Hai bỗng ỉu xìu như bông bí nhúng nước sôi, cô nói lí nhí:
-Ba cháu biết rồi mà ổng có nói gì đâu!
Tư chới với, trời đất ơi! Lẽ nào Ba Nhậu tệ đến mức nầy? Chàng chống chế:
-Cho dù ba cháu vì thương mà bỏ qua cho cháu, nhưng người trong xóm và bè bạn cháu mà biết thì họ sẽ khinh bỉ cháu dữ lắm! Nếu không phải là chú mà là người khác, thì họ sẽ đi rêu rao khắp xóm, cháu còn có thể bị ngồi tù nữa đó!
Bé Hai đáp bằng giọng ấm ức:
-Con Mây biểu cháu phải làm như vậy. Bạn cháu thiếu gì đứa làm cách đó, đâu có ai bị như chú nói!
Tới mức nầy thì Tư chịu hết nổi, chàng gằn giọng:
-Cháu làm cho chú quá thất vọng, đáng lẽ phải tủi nhục vì cái hành động xấu xa ấy, cháu lại coi đó là chuyện bình thường. Nếu cháu không gạt bỏ cái tư tưởng bệnh hoạn đó thì đừng có gặp mặt chú nữa!
Rồi không chờ nghe, cũng không thèm nhìn mặt cô gái, Tư bỏ đi luôn. Chàng cảm thấy ngợp, thở không muốn nổi, không thích và cũng không còn chút hơi sức nào để dạy bảo Bé Hai. Trời ơi! cái xóm nhỏ với những người mà chàng cho rằng hiền khô nầy. Cái không gian tĩnh lặng bên dòng kinh trong veo nầy. Chốn mà chàng cho là nơi bình yên xanh mát nhất, chưa bị ô nhiễm và lòng người còn đơn sơ, đã hoàn toàn biến dạng chỉ với một câu nói của Bé Hai. Tư lầm lũi đi, chàng không về nhà mà thẳng ra lộ, vẫy chiếc xe lam đang trờ tới, leo lên ngồi mà còn chưa quyết định sẽ ghé chỗ nào.
Tư đáp thêm hai chuyến xe buýt để đi đến nhà một người bạn ở quận mười hai. Tư không thân lắm với y nhưng trong nhóm người Tư quen chỉ có y đang ở một mình. Người bạn đón Tư với vẻ ngạc nhiên nhiều hơn mừng rỡ, y hỏi:
-Ngọn sóng nào đưa rồng đến nhà tôm vậy?
Tư không đáp, buông người ngồi phịch xuống ghế, cả người chàng như đang mang đầy thương tích. Người bạn lại hỏi:
-Ông từ bệnh viện đến thẳng đây phải không?
Tư ngạc nhiên:
-Sao ông hỏi lạ vậy?
Y đáp, vẻ thành thạo:
-Thằng Ân hôm trước cũng mang nét mặt như ông đến nhà tôi. Hỏi ra mới biết nó vừa được chẩn đoán là ung thư phổi ở giai đoạn cuối.
Tư cười trấn an y:
-Tôi từ nhà đến, buồn quá đi tìm chỗ trút đây.
Y hỏi:
-Bộ ông chia tay với bà Ý rồi hả?
Tư gật đầu, rồi nói:
-Nhưng đó không phải là cái lý do đưa tôi đến đây.
Rồi Tư kể cho người bạn nghe tuốt luốt mọi sự kiện, mọi cảm xúc của mình, như lộn trái cái túi áo ra mà giũ cho sạch bụi.
Người bạn vừa nghe vừa đập tay vào đầu gối của Tư mà cười ngặt nghẽo. Y nói:
-Tôi không ngờ ông còn ngây thơ như con nít vậy. Xã hội là một dòng chảy, nước trên đầu nguồn đục thì tất cả những chỗ khác cũng đục thôi!
Tư ở chơi với người bạn mấy ngày. Trước khi về y hỏi mượn chàng một số tiền. Tư móc bóp ra đếm trao cho anh ta. Chàng ngạc nhiên khi thấy xấp tiền vẫn còn nguyên không mất đến một tờ. Bao nhiêu câu hỏi hiện lên trong đầu Tư. Lẽ nào hôm ấy chàng trông nhầm? Bé Hai không lấy tiền thì cho tay vào túi để làm gì? Mãi nghĩ ngợi, Tư cầm tiền đưa ra như cái máy. Người bạn nhận rồi đưa lại cho chàng một tờ giấy, Tư xua tay:
-Ông khỏi cần...
Người bạn vội nói:
-Không phải giấy vay tiền của tôi đâu, cái nầy trong túi của ông rớt ra.
Tư nhìn tờ giấy, tim bỗng đập nhanh, chàng linh cảm có một điều vô cùng quan trọng sắp giáng xuống đời mình. Đó là một tờ giấy học trò, chắc được rức ra từ một quyển tập chưa xài vì còn thơm mùi giấy mới. Tư mở ra xem. Mấy nét chữ đỗ nghiêng như lúa chín ngã rạp trên đồng làm chàng chết đứng, tưởng như đang đứng trước mắt mình là Bé Hai với gương mặt đỏ bừng vì mắc cỡ và giọng nói e ấp, khẽ khàng:
-Chú Tư ơi! Cháu thương chú lắm!