-39 -40 - Vừa biết chớm buồn
-39 -40 -
vừa biết chớm buồn
oàn Khất Thực đành bó tay. Dân quê mỗi ngày một kéo lên thị xã hàng đàn, lũ lượt như kiến chạy mưa. Người ta chết đói nhiều quá, khiến sự cứu tế trở thành vô nghĩa. Ngay ở thị xã, lắm nhà đã phải ăn một bữa, hay ăn cơm độn ngô, khoai. Mùa lúa mới mãi tháng năm mới được gặt. Mà, đồng ruộng nhiều vùng, Nhật đã bắt phá lúa non, trồng đay, trồng gai.
Dân quê chết như rạ, trên các lối đi về thị xã. Khu Kỳ Bá có gia đình chết đói hết. Khu cầu Kiến Xương cũng đông người thị xã chết đói. Dưới An Tập, dân nghèo bắt đầu chết. Không còn gỗ đóng ván nữa, phải bó xác chết đói mà chôn. Rồi, chiếu hết, xác chết chất hàng chục cái lên xe bò, chở tới cái huyệt lớn, chôn chung. Thoạt đầu, ty vệ sinh rắc vôi bột, trước khi lấp đất. Sau, vôi bột hết luôn. Một cái huyệt chôn chung hàng trăm xác chết đói. Người chôn xác chuyên nghiệp của thị xã làm việc quần quật. Tỉnh thuê thêm người. Chôn xác được ít ngày, những người làm nghề chôn xác lăn ra chết, vì tử khí nhập vào cơ thể họ. Thị xã nồng nặc mùi thối, dưới những cơn nắng tháng ba. Người gục chết, ba bốn hôm sau mới chở tới nghĩa địa. Thị xã sợ dịch tả, dịch hạch, tự động xúm nhau đi chôn xác chết. Người ta lấy khăn bịt mũi, dùng dây thừng buộc chân xác chết, lôi xềnh xệch, trên đường phố. Nhiều người chết giấm, chết giúi, mãi khi xác thối rữa ra, mới được phát giác.
Thị xã ngập chìm trong lo âu. Ngay cả người dư dả miếng ăn cũng sợ sẽ bị chết đói. Nỗi sợ khiến dân thị xã quên thưong xót đồng bào ruột thịt..
Nhật vẫn không mảy nay xúc động. Ngựa của Nhật thả cửa ăn thóc. Dân Việt Nam chết đói ngổn ngang. Nhật không quên đi lùng bắt những người chống Nhật. Bên kia cầu Bo, nhiều cảnh chết thật quặn lòng. Những trẻ thơ nhay vú mẹ, nhay mãi mãi mà không biết mẹ đã chết. Những cái vú sữa lép kẹp. Trẻ thơ vừa nhay, vừa khóc, rồi gục đầu trên vú mẹ mà chết. Xác chết chồng lên nhau, Chết không giăng giối. Chết không biết là chết. Mới mở mắt thều thào, quờ quạng, vài phút sau đã chết. Ngồi mà chết. Ngồi bó gối, đầu đội nón lụp xụp, tưởng còn sống, đem cơm cho ăn. Đến nơi, mới biết đã chết tự lúc nào. Cố đứng dậy bước, đói quá, chết ngã úp mặt. Một trận chết đói khủng khiếp nhất nhân loại, đã diễn ra ở Thái Bình.
Dưới gầm cầu Bo, vì mùa nước cạn, dân quê tập trung một số dưới đó, để trốn rét, để trốn đói, và chờ chết. Không ai ngăn cản nổi. Thị xã biến thành mỗt thành phố dã man kiếp nào. Đói quá đỗi, dân quê đâm ra liều lĩnh, để tranh sống. Cảnh vồ bánh trái diễn ra hàng ngày, ở chợ búa. Người vợ bán hàng, chồng con cầm đòn gánh giơ sẵn, đề phòng bị vồ. Dân đói bất chấp, cứ lao vào vồ. Chiếc bánh cầm trong tay, đưa lên miệng nhai ngấu nghiến. Những chiếc đòn gánh phang túi bụi. Không biết đau. Cứ nhai, và nuốt. Ăn xong cái bánh, thì chết đòn. Chẳng ai kết tội sát nhân. Cơn đói giết người, và người giết thả cửa. Nhà nước không bắt bỏ tù ai đánh những ngưởi cướp giật đến chết.
Chợ búa vắng hoe, vì tai nạn vồ cướp. Mua cái bánh đa nướng, giấu trong áo mang về, vẫn bị dân đói chạy xô tới, đập vào ngực vỡ nát cái bánh, để xúm nhau nhặt từng mảnh vụn mà ăn. Bọn thằng Côn không dám đến khu Kỳ Bá nữa. Mấy lần đem gạo, cơm, bánh cho mẹ con thằng Vọng đều bị cướp giật. Khu Kỳ Bá chẳng còn gì để ăn chờ mùa lúa mới. Bao nhiêu cây chuối và củ chuối bị chặt và đào hết.
Chó mèo không thấy tăm hơi đâu. Chắc là bị ăn thịt rồi. Vũ và Côn đều thương Vọng lắm. Chúng nó bàn cách nắm cơm mang tới nhà Vọng. Hai hôm nay, bọn thằng Côn không vào nhà Vọng, vì chúng nó tin rằng gạo chúng nó mang cứu giúp Vọng còn đủ dùng. Cũng hai hôm nay, số người chết đói tăng lên gấp bội. Côn lo cho mẹ con Vọng quá.
Nó hỏi Vũ:
- Mày nghĩ được kế nào chưa?
Vũ đáp:
- Chưa.
Con nhà Luyến giục toáy. Thằng Lộc đòi dùng gậy, đánh nhau với những người cướp giật. Vũ sốt ruột:
- Để im tao nghĩ kế.
Nó gõ ngón tay lên trán một lúc, rồi reo to:
- Có kế đây.
Lũ bạn nhao nhao:
- Kế gì, kế gì?
Vũ xoa tay:
- Chúng mình đóng cái hộp gỗ hai ngăn. Dưới đựng mười nắm cơm, trên bày đá. Tao giả vờ kéo, túi quần tao nhét cái bánh chưng. Chúng mày cũng đem bánh chưng. Đến ngõ nhà thằng Vọng, chúng mình cho bánh, rồi kéo cái hộp đá vào nhà nó, thì hết bị cướp giật. Dân đói cướp đá làm khỉ khô gì!
Côn khen Vũ rối rít. Chúng nó bắt tay vào việc cứu trợ thằng Vọng liền. Côn nhờ mẹ thổi cơm, nắm giùm nó. Vũ tìm gỗ đóng hộp. Luyến, Lộc, Long chạy về nhà kiếm bánh chưng, bánh dầy khô. Một tiếng đồng hồ sau, bọn thằng Côn đã kéo lê cái hộp gỗ, chở đầy đá, khỏi cống Kỳ Bá. Chúng nó hồi hộp. Ngực thằng nào cũng đập thình thình.
- Nhỡ họ cầm cái hộp, họ ném tung lên, thì sao hở, Vũ?
- Tao đóng đinh chắc lắm. Hộp cơm nắm này, mẹ con thằng Vọng ăn dè được hai ngày. Có đứa nào gói muối theo không?
- Có.
- Tao sợ quá.
- Sợ thì mày về đi, Lộc ạ!
Vừa tới ngõ nhà Vọng, Luyến nói:
- Hôm kia, bị cướp giật ở chỗ này.
Bỗng Lộc hét:
- Eo ơi!
Nó nhắm mắt, chỉ tay. Vũ và Côn nhìn chỗ Lộc chỉ. Hai cái xác chết nằm bên nhau. Vũ nói:
- Bịt mũi lại đi, thở bằng mồm nhé, tụi mày nhé!
Chúng nó rảo bước. Bốn thằng gặp thêm cả chục xác chết. Cứ vào sâu trong ngõ, lại gặp xác chết nhiều hơn. Vũ bịt mũi chặt, giọng nó khàn khàn:
- Họ chết hết rồi.
Vũ chạy. Chiếc hộp rớt đá ngổn ngang. Chúng nó đã đứng trước cổng nhà thằng Vọng. Côn réo:
- Vọng ơi!
Không có tiếng Vọng trả lời.
- Vọng ơi!
- Vọng ơi, chúng tao đem cơm cho mày, hôm nay không bị cướp giật đâu.
Im lặng. Tiếng thằng Côn vang xa. Lộc xanh mặt:
- Hay thằng Vọng đã chết đói?
Vũ cáu tiết:
- Chết đói cái củ thìu biu!
Nó buông sợi dây kéo cái hộp, chụm hai bàn tay, gân cổ gọi:
- Vọng ơi! Vọng ghẻ tầu ơi!
Sự lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt năm đứa trẻ. Vũ đẩy cái cổng tre xiêu vẹo:
- Chúng mình vào đi, chắc nó ngủ say.
Năm đứa, ngại ngùng, đi vào sân. Rồi, chính nó mở tấm liếp. Vũ ngó trước. Nó quay ra ngay:
- Mẹ thằng Vọng nằm co quắp trên ổ rơm, chúng mày ạ!
Côn hỏi:
- Nó đâu?
Vũ lắc đầu:
- Tao không thấy.
Luyến và Lộc khênh cái liếp đóng cửa, xích một quãng. Ánh sáng lùa vào gian nhà. Vũ nhắm mắt lại. Giọng nó lạc đi:
- Mẹ... nó... chết... rồi...
Côn chạy xuống bếp. Nó lại réo:
- Vọng ơi!
Lộc lắp bắp:
- Tao bảo nó đã chết, thằng Vũ không tin.
Vũ quát:
- Nó không chết, thằng Vọng không chết...
Vũ ôm mặt, khóc hu hu. Côn khóc theo. Và, năm đứa khóc nức nở. Không có thằng Vọng ở nhà, nó đi đâu chết rồi. Mẹ nó đã chết đói, đang nằm co quắp trên ổ rơm. Chắc nó đi cướp cơm về cho mẹ ăn. bị người ta đánh chết. Năm đứa trẻ nhìn nhau. Những đôi mắt sũng nước, cùng long lanh hình ảnh thằng Vọng và cuộc đời hẩm hiu của nó.
Đứng ngẩn ngơ một lúc, Vũ bước vào gần cái ổ rơm, kéo chiếc chiếu đắp lên xác mẹ thằng Vọng. Chúng nó ném quà bánh đem biếu Vọng quanh cái hộp cơm, rồi lủi thủi ra về. Khuôn mặt chúng nhễ nhãi nước mắt.
40
Chết đói xong là chết no, chết dịch. Cơn ác mộng đã qua. Tỉnh lỵ lại mang cái vẻ bình thản muôn đời của nó. Vẻ bình thản đánh đai lấy cuộc sống người dân thị xã. Sóng gió đang nổi ở đâu xa lắm. Chứ, ở thị xã Thái Bình, sóng ngầm chỉ xô giạt trong lòng một vài người. Hầu như không ai muốn nhớ tới nạn chết đói mấy tháng trước. Dân Thái Bình chết cả mấy chục vạn người. Có làng bị chết đói hết.
Côn thì không thể quên Vọng. Thằng Vọng cũng bị chết đói. Côn tưởng chừng gia đình nó có người chết đói khổ sở, đau đớn. Tháng rồi, dưới giàn hoa thiên lý nhà thằng Vũ, Luyến buột miệng nói Giá chúng mình rủ thằng Vọng về nhà chúng mình ở, chắc nó không thể bị chết đói. Cả Côn và Vũ đều ân hận. Dễ dàng thế, mà Côn và Vũ không nghĩ ra. Thằng Vọng chết đói, sẽ chẳng bao giờ được leo lên vồng cầu Bo, xem Nhật xúc đất, kéo xe bò. Nó sẽ chẳng bao giờ được thấy thầy Đàn, thầy Hoan tát sĩ quan Nhật hộc máu mồm giữa phố. Ta sắp đánh Nhật. Côn tin tưởng ngày thầy Đàn trở về Thái, hiên ngang như Trần Quốc Tuấn trên sân khấu kịch của hướng đạo. Ngày ấy, chắc vui lắm.
Mùa hạ năm nay thật buồn tẻ. Hoa phượng vẫn nở, mầu hoa không rực rỡ. Tại học trò đã nghỉ học trước hè, nghỉ từ tháng ba chết đói. Loài ve sầu rên rỉ mỏi miệng, cũng chẳng ai thèm cảm xúc. Có lẽ mùa hạ sang năm sẽ buồn tẻ hơn. Cồn hồi tưởng những mùa hè năm xưa, mà thương tiếc. Chắc chắn, không còn những trận đá bóng sôi nổi, với An Tập, trường Tầu. Vọng đã mang theo sân cỏ xuống đất sâu. Mất Vọng! Bóng tròn hết quyến rũ đôi chân thằng Côn. Tại Nhật hết. Nhật sang Thái Bình, gây nên bao điều khốn khổ.
Côn nắm quả đấm, thụi lên mặt bàn. Cha nó ngồi đọc sách gần đó, ngạc nhiên:
- Con làm sao thế?
Côn rươm rướm nước mắt:
- Thằng Vọng chết đói, bố ạ!
Cha thằng Côn gỡ cặp kính trắng, dụi mắt:
- Con nói bố nghe rồi mà...
- Phát xít Nhật làm nó chết.
- Bố dặn con, con chả chịu nghe lời bố. Con muốn Nhật bắt cả nhà mình giết chết à?
Thằng Côn đưa hai tay ôm đầu:
- Con biết hết chuyện.
Cha nó buông rơi cuốn sách:
- Con biết chuyện gì?
Côn òa lên khóc:
- Con lớn rồi, con lớn rồi... Con biết ta sắp đánh Nhật, bố đọc giấy gì ở nhà thằng Vũ.
Cha nó đến gần chỗ nó ngồi, cầm tay nó:
- Con lớn rồi, bố không bảo con là trẻ con nữa. Nhiều việc con chớ nên biết tới.
- Con ghét Nhật. Thằng Vũ dám chửi Nhật lùn. Nó bảo, ở Hà Nội, người ta giết Nhật như ngóe. Dân Hà Nội cừ lắm, sao dân Thái Bình không cừ?
- Dân Thái Bình sẽ cừ. Thầy con đã là một người cừ.
- Thầy con sắp đánh Nhật?
- Ừ, thầy con đang đánh Nhật, ở xa.
- Bao giờ thầy con đánh Nhật ở Thái?
- Sắp sửa.
Cha thằng Côn dịu dàng:
- Con thấm nước mắt đi. Đã lớn rồi, nghe chuyện người lớn phải giữ kín, hiểu chưa?
Côn rút khăn thấm nước mắt. Nó nhìn cha, mỉm cười.
- Thôi, con đi chơi đi.
Côn chào cha. Nó chạy ra đường, và đến nhà Vũ, rủ Vũ lên cầu Bo. Nước lũ đã về. Chóng ghê. Mới năm ngoái, Luyến và Côn đứng đây, nhìn nước lũ cuồn cuộn trôi ra biển.
- Con nhà Luyến, năm ngoái, đòi đóng bè chuối, thả xuống cống Đậu, ăn canh bánh đa của bác lang Tặng mày đấy.
Vũ phì cười:
- Xuống cống Đậu rửa bát à? Ông chán cống Đậu từ lâu.
Côn kéo Vũ sát bên mình:
- Mày biết chưa?
Vũ thì thào:
- Biết gì?
- Thầy mình sắp về Thái đánh Nhật.
- Thế hở?
- Ừ, bố tao dặn đừng nói với ai.
Vũ xăn tay áo:
- Tao sẽ đi theo thầy.
Côn ghé miệng, kề tai Vũ:
- Dân thị xã sửa soạn đánh Nhật. Thầy mình cầm đầu. Bố tao bảo đánh đến đít rồi.
Vũ sướng rên, nhảy cỡn:
- Tao phải trói một thằng, bắt kiến lửa, bỏ lên bụng nó, mới thích. Kiến lửa cắn rốn nó, nó giẫy đành đạch. Ông đứng ông múa mọi, và dzô tô nay, a ri ga tô.
Côn vung tay:
- Ông nhốt một thằng, không cho ăn cơm, để nó chết đói như thằng Vọng.
Hai đứa trẻ mong đợi thầy chúng nó trở về Thái. Thầy chúng, chắc chắn, sẽ chở về những mộng ước ắp đầy những con mắt chúng. Hai đứa trẻ thị xã không muốn âm thầm sống trong vòng đai bình thản. Chúng nó muốn thoát ra. Nỗi thèm khát của chúng bộc lộ rõ rệt. Bây giờ, mới đúng lúc khung cảnh bình thản của tỉnh lỵ không thích hợp với chúng nó.
- Tao dắt thằng Nhật qua nhà con Thúy, tao đá đít, con Thúy sẽ phục lăn.
Vũ vỗ vai Côn:
- Mày chắc con Thúy phục tao chứ?
Côn gật đầu:
- Nó vẫn phục mày.
Nó hỏi Vũ:
- Mày lại nhà nó chưa?
Vũ thấy Côn thoáng buồn. Nó thúc khuỷu tay vào bụng bạn:
- Tao không đến đâu. Mày đến chơi với nó đi, kẻo nó giận.
Côn thè lưỡi, liếm môi:
- Tao không thích chơi với nó nữa. Tao thề không thèm nói chuyện với nó.
Vũ gậm nhấm móng tay:
- Mày buồn cười bỏ xừ đi ấy. Bây giờ, mày thích cái gì?
Côn nín thinh. Nắng chiều chỉ còn thoi thóp trên các lùm cây bên kia sông. Dòng nước, tự nhiên, buồn bã. Như là nó chán chảy xuôi ra biển. Nó muốn chảy ngược về nguồn. Côn hướng mắt nhìn phía xa. Gió thổi tung tóc thằng bé. Đôi mắt nó tròn to, long lanh một niềm ao ước.
Lần đầu tiên, Côn trái lời Vũ. Côn không còn giống Vũ. Côn cũng chẳng giống Côn năm ngoái, năm xưa. Nó đứng đây, không tương tư tiếng tu hú, không nhớ những lần đóng bè qua sông. Phía xa, nó đang tưởng tượng, có thầy Đàn dạy bao nhiêu đứa trẻ yêu nước. Côn, mơ hồ, nghe tiếng nói của thầy. Và, tình nó thương thằng Vọng dâng lên, đùn cay mắt nó.
- Bây giờ, mày thích cái gì?
Côn quàng tay, bá cổ Vũ:
- Tao thích thầy mình về Thái.
Vũ xiết chặt Côn. Nắng đã tắt hẳn. Gió thổi lộng. Hai đứa trẻ tỉnh nhỏ cùng đăm đăm trông về chốn trời xa. Nơi ấy, nhiều người sắp về. Và, tỉnh lỵ sẽ hết thê lương, buồn tẻ.
Chú thích:
[1] Đông Cao, một làng cách mạng chống Pháp thuộc huyện Tiền Hải, gần bãi biển Đồng Châu. Pháp không đánh nổi, phải dùng tàu bay thả bom tàn phá cả làng. Thủ lãnh Đông Cao chống Pháp là ông Ngô Duy Phớn.
Sưu tầm: casau
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 5 tháng 2 năm 2014