Chương 37
LỰC LƯỢNG ERUDITE và Dauntless đều đang tập trung tại khu Abnegation của thành phố, nên chừng nào chúng tôi thoát được khỏi khu Abnegation thì chừng đó chúng tôi sẽ ít đụng độ nguy hiểm hơn.
Tôi không cần phải quyết định xem ai sẽ đồng hành cùng với tôi. Caleb là lựa chọn hiển nhiên, vì anh biết gần hết về kế hoạch của phái Erudite. Marcus khăng khăng đòi đi, mặc cho tôi có phản đối tới đâu, bởi vì ông ta rất thành thạo máy tính. Và ba tôi hành động cứ như thể chỗ của ông đã được đặt trước ngay từ đầu.
Tôi nhìn những người khác chạy về hướng ngược lại – về hướng an toàn, về hướng Amity – trong một vài giây, và rồi tôi quay người đi, hướng về phía thành phố, về hướng chiến tranh. Chúng tôi đứng cạnh đường ray xe lửa, thứ này sẽ dẫn chúng tôi đến với hiểm nguy.
“Mấy giờ rồi nhỉ?” tôi hỏi Caleb.
Anh nhìn đồng hồ. “Ba giờ mười hai phút.”
“Nó sẽ tới ngay thôi,” tôi nói
“Nó có dừng lại không?” anh hỏi.
Tôi lắc đầu. “Nó đi chậm xuyên qua hai thành phố. Chúng ta sẽ chạy song song với toa tàu vài bước rồi nhảy vô.”
Nhảy lên tàu với tôi bây giờ có vẻ là điều dễ dàng, tự nhiên. Với những người còn lại sẽ không như vậy, nhưng chúng tôi không thể dừng lại nữa rồi. Tôi ngoái ra sau và thấy ánh đèn vàng ở đầu tàu chiếu ánh sáng chói lòa lên những tòa nhà và con đường màu xám. Tôi nhún chân khi ánh đèn càng lúc càng lớn hơn, và rồi đầu tàu lướt vụt qua tôi, và tôi bắt đầu chạy bộ theo. Khi thấy một cái toa tàu đang mở, tôi tăng tốc và nắm lấy tay vịn phía bên trái, quăng mình vô.
Caleb nhảy lên, tiếp đất hơi mạnh và lăn cù, và anh giúp Marcus. Ba tôi tiếp đất bằng bụng rồi mới lê chân lên. Họ di chuyển khỏi cánh cửa nhưng tôi vẫn đứng ngoài ngưỡng cửa, một tay nắm tay vịn, nhìn thành phố trôi qua.
Nếu tôi là Jeanine, tôi sẽ cử phần lớn Dauntless đến canh gác lối vào phía trên Hố Bẫy, bên ngoài tòa nhà bằng kính. Sẽ khôn ngoan hơn nếu thâm nhập vào bằng cửa sau, cánh cửa đòi hỏi phải nhảy xuống từ một tòa nhà.
“Chú cho rằng giờ cháu đã hối tiếc vì đã chọn Dauntless rồi đúng không Beatrice,” Marcus hỏi.
Tôi hơi ngạc nhiên là ba đã không hỏi tôi câu hỏi đó, nhưng ông, cũng giống như tôi, đang ngắm nhìn thành phố. Con tàu đi ngang qua khu Erudite, giờ đang tối thui. Từ xa nhìn có vẻ yên bình, và bên trong những bức tường đó có lẽ cũng bình yên. Tách biệt hoàn toàn khỏi những mâu thuẫn và thực tế những việc họ đã gây nên.
Tôi lắc đầu.
“Ngay cả khi các thủ lĩnh phái cháu quyết định tham gia nhóm đảo chính lật đổ chính quyền sao?” Marcus nói lớn.
“Có một vài điều cháu cần phải học.”
“Làm thế nào để trở nên dũng cảm?” ba tôi lặng lẽ nói.
“Làm thế nào để trở nên vị tha,” tôi nói. “Thường thì hai thứ đó là một.”
“Đó có phải là lí do em xăm biểu tượng của Abnegation trên vai không?” Caleb hỏi. Tôi dám chắc là đã thấy một nụ cười trong mắt ba tôi.
Tôi khẽ mỉm cười và gật đầu. “Và biểu tượng của Dauntless ở vai bên kia.”
Tòa nhà bằng kính phía trên Hố Bẫy chói nắng vào mắt tôi. Tôi đứng dậy, giữ tay vịn kế bên cạnh cửa để giữ thăng bằng. Gần tới rồi.
“Khi con nói nhảy,” tiếng, “mọi người nhảy nhé, xa hết mức có thể.”
“Nhảy?” Caleb thắc mắc. “Chúng ta đang ở trên cao bảy tầng đó Tris.”
“Nhảy lên mái nhà,” tôi bổ sung. Thấy vẻ mặt sửng sốt của anh, tôi nó thêm, “Đó là lí do tại sao họ lại gọi nó là bài kiểm tra lòng dũng cảm.”
Phân nửa lòng can đảm là khả năng quan sát tình huống. Lần đầu tiên tôi làm trò này, đó là một trong những chuyện khó khăn nhất tôi từng thực hiện. Còn bây giờ, sửa soạn nhảy khỏi một con tàu đang lao vùn vụt chẳng là cái đinh gì, vì số lượng những việc hiểm nguy tôi đã làm trong mấy tuần vừa rồi còn hơn cả người ta tích trữ cả đời. Mà đó là không việc nào trong số đó so sánh được với cái việc tôi sắp sửa làm trong khu Dauntless. Mà nếu còn sống sót, không nghi ngờ gì về việc tôi phải làm những việc còn khó bạo hơn nữa, như là sống không môn không phái, điều mà trước giờ tôi cứ nghĩ là chẳng đời nào mình vướng phải.
“Ba, ba nhảy đi,” tôi nói, lùi lại để ông đứng trước ngưỡng cửa. Nếu ba và chú Marcus đi trước, tôi có thể canh thời gian để họ chỉ phải nhảy khoảng cách ngắn nhất. Hy vọng Caleb và tôi nhảy được đủ xa, vì chúng tôi trẻ hơn. Đó là cơ hội tôi phải liều nắm lấy.
Đường ray bẻ cong, và khi chúng song song với rìa mái nhà, tôi hét lớn, “Nhảy!”
Ba tôi nhún gối và phóng mình tới trước. Tôi không muốn nhìn coi ba có thành công hay không. Tôi đẩy Marcus tới trước và hô “Nhảy!”
Ba tôi đáp xuống mái nhà, sát rìa tới nỗi tôi muốn rụng tim luôn. Ba ngồi bệt xuống nền sỏi, và tôi đẩy Caleb lên trước. Anh đứng ngoài rìa toa tàu và nhảy mà không cần tôi nhắc. Tôi lùi ra sau mấy bước để lấy đà và phóng ra khỏi toa tàu vừa khít lúc con tàu chạy tới cuối mái nhà.
Trong tích tắc, tôi lơ lửng trong không trung, và rồi chân tôi đập vào nền xi măng và tôi té qua một bên, xa khỏi rìa mái nhà. Đầu gối tôi đau thốn, và lực tác động làm tôi rùng mình, vai nhức bưng bưng. Tôi ngồi xuống, thở nặng nhọc, và nhìn qua phía bên kia mái nhà. Caleb và ba tôi đang đứng ở rìa mái nhà, kéo Marcus lên. Ông ra không thành công, nhưng cũng chưa rớt xuống đất.
Đâu đó bên trong tôi, một giọng nói ác độc vang lên: rớt đi,t đi, rớt đi.
Nhưng ông ta không rớt. Ba tôi và Caleb kéo mạnh ông ta lên. Tôi đứng dậy, phủi đất khỏi quần. Ý nghĩ về những việc tiếp theo làm tôi bận tâm. Đòi mọi người nhảy khỏi con tàu là một chuyện, nhưng còn nhảy khỏi một mái nhà thì sao?
“Phần tiếp theo là lí do tại sao con nói đến chứng sợ độ cao,” tôi nói, bước về phía rìa mái nhà. Tôi nghe tiếng bước chân theo sau mình và bước lên gờ tường. Gió từ một bên tòa nhà thổi đến và tốc vạt áo tôi lên. Tôi nhìn xuống cái hố dưới đất, bảy tầng lầu phía dưới tôi, rồi nhắm mắt lại để cho gió thổi lên mặt mình.
“Có một cái lưới căng dưới đáy,” tôi nói, nhìn ra sau. Họ có vẻ bối rồi. Họ vẫn chưa hiểu tôi đang đòi họ làm gì.
“Đừng nghĩ ngợi gì hết,” tôi nói. “Chỉ nhảy xuống thôi.”
Tôi quay người lại, ngả ra sau, cố giữ thăng bằng. Tôi rơi như một hòn đá, mắt nhắm, một tay dang ra để cảm nhận cơn gió. Tôi thư giãn cơ bắp của mình hết mức trước khi đập lên tấm lưới, giờ nó giống như một tấm xi măng đập vào vai tôi. Tôi nghiến răng và lăn ra rìa, chụp lấy cột đỡ tấm lưới, rồi quăng chân qua bên. Tôi tiếp đất bằng đầu gối, mắt nhòe nước.
Caleb kêu ư ử khi tấm lưới quấn lấy người anh rồi căng ra lại. Tôi khó khăn đứng lên.
“Caleb!” tôi thì thào. “Ở đây!”
Thở phì phò, Caleb bò đến viền tấm lưới và thả mình qua rìa, đập mạnh xuống sàn. Nhăn nhó vì đau, anh gượng lết dậy và nhìn tôi, miệng há to.
“Em… làm trò này… mấy lần rồi?” anh vừa thở vừa hỏi.
“Lần này nữa là hai,” tôi đáp.
Anh lắc đầu.
Khi ba tôi chạm lưới, Caleb giúp ông trèo dậy. Khi đã đứng được trên sàn nhà rồi, ông dựa vô tường và ói ra luôn. Tôi đi xuống cầu thang, và lúc xuống tới dưới rồi, tôi nghe tiếng Marcus rớt xuống với một tiếng r.
Cái hang trống trơn và những hành lang trải dài vào bóng tôi.
Jeanine đã nói như thể không còn ai ở lại khu Dauntless ngoại trừ những tên lính cô ta gửi đến canh gác mấy cái máy tính. Nếu chúng tôi tìm ra những tên lính Dauntless, chúng tôi sẽ tìm ra được hệ thống máy. Tôi ngoái nhìn ra sau. Marcus đứng trên sàn, mặt trắng bệch như giấy nhưng không trầy xước gì.
“Vậy ra đây là khu vực Dauntless,” Marcus lên tiếng.
“Đúng vậy,” tôi nói. “Thì sao ạ?”
“Thì chú chưa bao giờ nghĩ sẽ có lúc đặt chân vô đây chứ sao,” ông ta đáp, tay lần mò trên tường. “Không cần phải đề phòng như vậy đâu, Beatrice ạ.”
Trước đây tôi không hề để ý thấy đôi mắt ông ta lại lạnh lùng đến vậy.
“Con có kế hoạch nào không Beatrice?” ba hỏi tôi.
“Có ạ.” Đúng vậy. Tôi có, dù tôi không chắc mình nghĩ ra nó hồi nào.
Tôi cũng không chắc nó sẽ thành công. Tôi có thể trông cậy vào vài thứ: Hiện không có nhiều lính Dauntless trong khu vực, được biết là những thành viên Dauntless không mấy khôn khéo, và tôi sẽ làm bất cứ thứ gì để ngăn chúng lại.
Chúng tôi đi dọc hành lang dẫn tới Hố Bẫy, cứ độ hơn ba mét lại có một ngọn đèn. Khi chúng tôi bước vào vùng sáng đầu tiên, tôi nghe tiếng súng nổ và nằm sụp xuống sàn. Ai đó hẳn đã thấy chúng tôi. Tôi bò vào trong vùng tối tiếp theo, tia lửa từ khẩu súng lóe sáng ở bên kia căn phòng, ngay cạnh cánh cửa dẫn đến Hố Bẫy.
“Mọi người vẫn ổn chứ?” tôi hỏi.
“Ừ,” ba tôi nói.
“Ở đây nhé.”
Tôi chạy nép vào một bên tường. Những bóng đèn nhô ra khỏi bờ tường, ngay phía dưới mỗi cái là một cái khe tối đên. Người tôi vừa đủ nhỏ để núp trong đó, nếu quay người qua một bên. Tôi có thể bò dọc theo rìa căn phòng và làm bất ngờ bất kì tên lính canh nào đang bắn vào chúng tôi trước khi hắn có cơ hội nã một viên đạn vào sọ tôi. Có thể.
Một trong những điều tôi biết ơn phái Dauntless là sự chuẩn bị giúp tôi loại trừ nỗi sợ hãi của mình.
“Ai đằng kia,” mọt giọng nói la lên, “hạ vũ khí xuống và giơ tay lên!”
Tôi nép sát vào bức tường đá. Tôi nhanh chóng nhảy qua một bên, chân này tréo qua chân kia, liếc mắt nhìn xuyên qua bóng tối nhập nhoàng. Một phát súng nữa nổ lên trong thinh lặng. Tôi trườn đến cái đèn cuối cùng và đứng yên trong tối một lúc, điều chỉnh để mắt quen dần.
Xáp lá cà thì tôi không thắng được, nhưng nếu tôi di chuyển đủ nhanh, tôi sẽ không phải đánh nhau. Hết sức nhẹ nhàng, tôi hướng về phía tên lính gần cánh cửa. Còn cách vài mét, tôi nhận ra mình biết mái tóc sẫm màu lúc nào cũng bóng lưỡng đó, ngay cả trong bóng tối, và cái mũi dài với cánh mũi hẹp đó.
Là Peter.
Cơn ớn lạnh tràn vào người tôi, bao quanh trái tim tôi và ùa vào tận sâu trong dạ dày tôi.
Vẻ mặt nó căng thẳng – nó không bị mộng du. Nó nhìn quanh quất, nhưng ánh mắt nó rà soát không gian phía trên và đằng trước tôi. Xét trên sự im lặng của nó thì nó không định đàm phán gì với chúng tôi đâu; nó sẽ giết chúng tôi mà không cần hỏi hạn gì sất.
Tôi liếm môi, chạy nước rút mấy bước cuối cùng và vung gan bàn tay lên. Cú đánh chạm trúng mũi nó và nó hét vang, giơ cả hai tay lên để che mặt. Cả người tôi run lên vì lo lắng khi mắt nó hơi hé mở ra, tôi đá nó một phát vô háng. Nó khuỵu xuống, súng rơi leng keng trên mặt đất. Tôi chụp lấy và ấn nòng súng lên đỉnh đầu nó.
“Tại sao mày còn tỉnh?” tôi hỏi.
Nó ngẩng đầu lên, và tôi lên nòng, nhướn mắt nhìn nó.
“Những thủ lĩnh Dauntless… bọn họ đánh giá hồ sơ của tao và cho tao miễn trình mô phỏng,” nó đáp.
“Vì bọn họ hiểu rằng mày đã có sẵn máu sát nhân trong người rồi và chẳng bận tâm chuyện ra tay giết hại vài trăm nhân mạng trong tình trạng tỉnh táo đâu,” tôi nói. “Hợp lý thật.”
“Tao không có… máu sát nhân!”
“Chưa từng thấy tên Candor nào dối trá như mày.” Tôi vỗ vỗ khẩu súng lên sọ nó. “Những cái máy tính điều khiển trình mô phỏng ở đâu hả Peter?”
“Mày sẽ không bắn tao.”
“Người ta thường hay có khuynh hướng đánh giá tao hơi cao,” tôi lặng lẽ nói. “Họ hay nghĩ rằng vì tao nhỏ bé, hay là một đứa con gái, hay là một Cứng Đơ, tao không thể nào tàn nhẫn được. Nhưng người ta lầm rồi.”
Tôi nhích khẩu súng sang trái bảy phân và bắn vô cánh tay nó.
Tiếng thét của nó vang vọng khắp hành lang. Máu phun ra từ vết thương, và nó lại hét lên, đập đầu xuống đất. Tôi nhích súng trở lại vị trí cũ trên đầu nó, phớt lờ cảm giác tội lỗi trong ngực.
“Giờ khi mày đã biết sai lầm của mày rồi,” tôi nói, “tao sẽ cho mày thêm một cơ hội khai ra những gì tao cần biết trước khi tao bắn mày vô chỗ nào đó tệ hơn.”
Có một thức khác tôi có thể tin vào: Peter không phải là một tên quân tử.
Nó ngẩng đầu lên và chiếu đôi mắt sáng của nó vào mắt tôi. Nó cắn chặt môi, run run thở ra. Rồi hít vào. Và lại thở ra.
“Họ đang nghe,” nó phều phào. “Nếu mày không giết tao, họ sẽ ra tay. Cách duy nhất để tao nói là mày phải đem tao theo ra khỏi đây.”
“Cái gì?”
“Đem tao… ư ư… đi theo,” nó co rúm người lại vì đau.
“Mày muốn tao cho mày,” tôi nói, “cái đứa đã từng cố giết tao… đi cùng à?.
“Đúng thế,” nó rên lên. “Nếu mày muốn tím được thứ mày cần.”
Nghe thì có vẻ như đó là một lựa chọn, nhưng thật ra là không. Mỗi phút tôi phí phạm vào việc nhìn trừng trừng Peter, nghĩ về việc nó đã lảng vảng trong những cơn ác mộng của tôi như thế nào và những tổn thương mà nó gây ra cho tôi, một tá thành viên Abnegation khác lại chết trong tay đội quân Dauntless nhũn não.
“Được thôi,” tôi nói muốn không nên lời. “Được thôi.”
Tôi nghe tiếng chân vang lên phía sau. Cầm chắc súng trong tay, tôi ngoái nhìn ra sau. Ba tôi và những người kia đang bước về phía tôi.
Ba tôi cởi cái áo dài tay của ông ra. Ông mặc một cái áo thun màu xám bên dưới. Ông quỳ xuống kế bên Peter và băng cái áo quanh tay nó, cột lại thật chặt. Vừa chùi mái đang chảy dọc cánh tay Peter, ông vừa ngẩng lên nhìn tôi và hỏi, “Có nhất thiết phải bắn thằng bé không?”
Tôi không trả lời.
“Đôi lúc nỗi đau là vì lợi ích lớn lao hơn,” Marcus bình tĩnh nói.
Trong đầu tôi, tôi thấy ông ta đứng trước tôi và Tobias, tay cầm thắt lưng và giọng nói ông ta vang vọng. Ba chỉ muốn tốt cho con thôi. Tôi trừng mắt nhìn ông ta trong vài giây. Ông ta có thật sự tin như vậy không? Nghe giống như điều mà một Dauntless sẽ nói vậy.
“Đi thôi,” tôi nói. “Đứng dậy, Peter.”
“Em muốn nó đi bộ hả?” Caleb thắc mắc. “Em có khùng không?”
“Em có bắn vô chân nó không?” tôi đáp. “Không. Nó đi được. Chúng ta đi đâu đây Peter?”
Caleb giúp Peter đứng dậy.
“Tòa nhà bằng kính,” nó nói, co rúm người. “Tầng tám.”
Nó dẫn đường đi qua.
Tôi bước vào tiếng gầm rú của con sông và ánh sáng xanh của Hố Bẫy, nơi này đang vắng vẻ hơn hết thảy những lần trước đây tôi thấy nó. Tôi kiểm tra những bức tường, tìm kiếm dấu hiệu của sự sống, nhưng tôi không thấy chuyển động nào cũng như không bóng người nào đứng trong bóng tối. Tôi nắm chặt súng trong tay và hướng về con đường dẫn lên tòa nhà bằng kính. Sự trống trải làm tôi rùng mình. Nó khiến tôi nhớ về cánh đồng mênh mông trong những cơn ác mộng về bầy quạ của mình.
“Sao con nghĩ con có quyền nhả đạn vào người khác hả?” ba tôi nói khi theo tôi trèo lên con đường. Chúng tôi đi ngang qua tiệm xăm. Cô Tori đang ở đâu? Và Christina nữa?
“Giờ không phải lúc tranh luận về đạo đức đâu ba,” tôi đáp.
“Bây giờ là lúc thích hợp nhất,” ông nói, “vì con sẽ lại sớm có cơ hội bắn ai đó nữa thôi, và nếu con không nhận ra rằng…”
“Nhận ra gì?” tôi nói mà không ngoái ra sau. “Rằng mỗi giây con phí phạm sẽ có thêm một Abnegation phải chết và một Dauntless nữa trở thành kẻ sát nhân sao? Con nhận ra điều đó rồi. Giờ tới lượt ba.”
“Luôn có một cách đúng đắn để giải quyết mọi việc.”
“Điều gì khiến ba chắc chắn ba biết cách đó là gì?” tôi hỏi.
“Làm ơn thôi cãi nhau đi,” Caleb cắt ngang, giọng khiển trách. “Chúng ta còn khối việc quan trọng hơn cần làm bây giờ nè.”
Tôi tiếp tục đi, mặt nóng bừng. Nếu là cách đây vài tháng thì tôi chẳng có gan cãi lại ba như vậy đâu. Vài tiếng trước chắc cũng không. Nhưng điều gì đó đã thay đổi khi mẹ tôi bị bắn gục. Khi Tobias bị bắt đi.
Tôi nghe thấy tiếng ba vừa thở phì phò vừa càu nhàu qua tiếng nước chảy. Tôi quên mất ba đã lớn tuổi rồi, và bộ xương của ông đã không còn chịu nổi sức nặng của cơ thể ông nữa.
Trước khi leo lên những bậc thang bằng kim loại dẫn lên trần của tòa nhà bằng kính, tôi đợi trong bóng tối và quan sát ánh sáng mặt trời chiếu trên những bức tường của Hố Bẫy. Tôi nhìn cho đến khi một cái bóng đi ngang qua bờ tường đầy nắng và đếm cho đến khi cái bóng tiếp theo xuất hiện. Những tên lính đi tuần mỗi một phút rưỡi một lần, mỗi lần đứng im hai mươi giây, rồi tiếp tục.
“Có nhiều người mang súng trên kia. Khi chúng thấy con, chúng sẽ giết con, nếu có thể,” tôi lặng lẽ nói với ba. Tôi nhìn vào mắt ông. “Con có nên để chúng làm thế không?”
Ba nhìn tôi chằm chặp trong vài giây.
“Đi đi,” ông nói, “và Chúa sẽ giúp con.”
Tôi cẩn thận leo lên những bậc thang, dừng lại ngay trước khi đầu bị lộ ra ngoài. Tôi chờ đợi, quan sát những cái bóng di chuyển, và khi một trong những cái bóng dừng lại, tôi rướn người lên, chĩa súng ra, và bắn.
Viên đạn không trúng tên lính canh. Nó làm bể vụn ô cửa sổ ngay cạnh hắn. Tôi nã thêm một phát nữa và hụp xuống khi hàng đống viên đạn khác đì đùng bắn trên sàn nhà quanh tôi. Ơn trời, trần nhà bằng kính chống đạn, nếu không lớp kính đã vỡ và tôi đã rơi xuống mà chết rồi.
Một lính canh đã bị hạ. Tôi hít một hơi sâu và chỉ thò một tay lên trần nhà, nhìn xuyên qua kính để thấy mục tiêu của mình. Tôi nghiêng súng lại và bắn vào tên lính đang chạy về phía tôi. Đạn trúng tay hắn. May thay đó lại là tay cầm súng, hắn làm rơi súng và trượt dài trên sàn.
Cả người tôi run lên, tôi phóng mình qua cái lỗ trên trần nhà và chộp lấy khẩu súng trước khi hắn lấy lại được. Một viên đạn trượt véo qua đầu tôi, sát sàn sạt tới mức thổi tóc tôi bay phất phơ. Trợn mắt, tôi vung tay phải vòng qua vai, một cơn đau xé gan trào lên, và bắn ba phát ra sau. Bằng phép màu nào đó, một trong những viên đạn bắn trúng một tên lính, và mắt tôi nhòe đi vì cơn đau trên vai. Tôi mới vừa xé banh vết thương của mình. Chắc chắn rồi.
Một tên lính canh khác đứng trước mặt tôi. Tôi nằm sấp dưới sàn và chĩa cả hai khẩu súng vào hắn, tay vẫn để trên sàn. Tôi nhìn vài cái nòng súng đen ngòm của hắn.
Rồi một chuyện bất ngờ xảy ra. Người đó hất cằm qua một bên. Ra hiệu cho tôi đi tiếp.
Anh ta chắc chắn là một.
“Xong rồi!” tôi hét lên.
Tên lính lùi vào trong căn phòng bối cảnh kinh hoàng, và biến mất.
Tôi từ từ đứng lên, ép tay phải trên ngực. Viễn cảnh trước mắt tôi là một đường hầm. Tôi đang chạy trên con đường này và sẽ không thể dừng lại được, sẽ không thể nghĩ tới điều gì khác, cho tới khi đến cuối con đường.
Tôi đưa cho Caleb một khẩu súng và giắt khẩu kia vô thắt lưng.
“Em nghĩ anh và chú Marcus nên ở đây với nó,” tôi hất hàm về phía Peter. “Nó chỉ làm chậm chân chúng ta thôi. Hãy đảm bảo là không có ai đuổi theo bọn em.”
Tôi hy vọng ảnh không hiểu ra điều tôi đang làm – giữ ảnh ở đây để anh được an toàn, dù anh hẳn rất sẵn lòng hy sinh tính mạng vì chuyện này. Nếu tôi lên trên kia, có khả năng tôi sẽ không quay trở xuống. Điều tốt nhất tôi có thể hy vọng là phá hủy được trình mô phỏng trước khi ai đó kịp lấy mạng tôi. Từ khi nào tôi quyết định thực thi nhiệm vụ tự sát này? Tại sao quyết định đó lại không khó khăn thêm chút nào vậy?
“Anh không thể ở lại đây khi em liều cái mạng mình lên trên đó được,” Caleb phản đối.
“Em cần anh ở đây,” tôi đáp.
Peter sụp xuống gối. Mặt nó nhễ nhại mồ hôi. Trong một tích tắc tôi gần như cảm thấy tội nghiệp nó, nhưng rồi tôi nhớ đến Edward, và sự thô ráp của miếng vải chụp lên mắt khi bọn tấn công bịt mặt tôi, và lòng thương cảm của tôi lập tức biến thành nỗi căm hận. Caleb rốt cục cũng gật đầu.
Tôi tiến đến một trong những tên lính canh đang nằm dưới đất và lấy súng của hắn, tránh nhìn vết thương khiến hắn ngưng thở. Tim tôi đập thình thịch. Tôi chưa ăn, tôi chưa ngủ, tôi chưa khóc hay la hét hay ngay cả dừng lại một giây nào. Tôi cắn môi và tiến về phía thang máy bên phải căn phòng. Tầng tám.
Khi cánh cửa thang máy đã đóng lại, tôi dựa đầu vào tường kính và lắng nghe tiếng kêu bíp bí.Tôi liếc nhìn ba.
“Cảm ơn con. Vì đã bảo vệ Caleb,” ba lên tiếng. “Beatrice, ba…”
Thang máy đã lên đến tầng tám, và cánh cửa mở ra. Hai tên lính canh cầm súng đứng sẵn, gương mặt vô hồn. Mắt tôi mở lớn, và tôi thụp xuống đất khi khẩu súng tóe lửa. Tôi nghe tiếng đạn đập vào kính. Mấy tên lính sụp xuống sàn, một tên còn sống và rên rỉ, tên kia nhanh chóng chết giấc. Ba tôi đang đứng trên bọn chúng, súng vẫn còn đang giương ra.
Tôi lật đật đứng dậy. Vài tên lính đang chạy xuống hành lang từ phía bên trái. Xét trên sự đều nhịp của tiếng chân thì bọn họ đang bị trình mô phỏng điều khiển. Tôi có thể chạy theo hành lang bên phải, nhưng nếu như lính canh đến từ hành lang bên trái thì đó chính là nơi chứa các máy tính. Tôi lại nằm thụp xuống giữa hai tên lính ba tôi vừa bắn và nằm yên hết sức có thể.
Ba tôi bỗng nhảy ra khỏi thang máy và phóng vụt sang hành lang bên phải, dụ những tên lính Dauntless đuổi theo ông. Tôi phải đưa tay chặm miệng để không hét lên gọi ông. Hành lang đó là một ngõ cụt.
Tôi cố vùi mặt xuống để không nhìn thấy, nhưng tôi không thể. Tôi nhổm lên trên lưng của tên lính chết. Ba tôi nổ súng ngược ra sau trong lúc những tên lính đang đuổi theo ông, nhưng ông không đủ nhanh. Một người trong số chúng bắn vào bụng ông, và ba tôi rên lên lớn tới mức tôi có thể cảm nhận được nó trong lồng ngực mình.
Ông ôm lấy bụng, vai đập vô tường, và nổ thêm một phát súng. Một phát nữa. Những tên lính đang lạc trong trình mô phỏng; chúng cứ tiến tới ngay cả khi bị đạn bắn trúng, tiến tới cho đến khi tim ngừng đập, nhưng chúng không đến được chỗ ba tôi. Máu trào ra trên tay ông và mặt ông nhợt nhạt dần. Một phát súng nữa và tên cuối cùng cũng gục ngã.
“Ba ơi,” tôi gọi. Tôi định hét lên, nhưng cuối cùng nó chỉ là tiếng kêu khản đặc.
Ba đổ xuống sàn. Mắt chúng tôi gặp nhau, như thể khoảng cách mấy chục mét giữa chúng tôi chẳng là gì cả.
Miệng ông hé mở như thể đang định nói gì đó, nhưng rồi đầu ba gục xuống, cả cơ thể mềm nhũn đi.
M tôi cay xè, và tôi thấy yếu ớt đến nỗi không đứng dậy được; mùi mồ hôi và máu khiến tôi muốn bệnh. Tôi muốn cừ nằm dài trên sàn như thế và để cho mọi chuyện kết thúc đi. Tôi muốn ngủ ngay bây giờ và không bao giờ thức dậy nữa.
Nhưng những gì tôi nói với ba lúc trước là đúng – mỗi giây tôi phí phạm sẽ có thêm một thành viên Abnegation phải chết. Giờ với tôi trên thế giới chỉ còn một điều duy nhất, và đó là phải phá hủy cho được trình mô phỏng.
Tôi ráng hết sức đứng dậy và chạy dọc hành lang, rẽ phải ở cuối đường. Chỉ có một cánh cửa phía trước. Tôi mở ra.
Bức tường đối diện dày đặc màn hình, mỗi cái cao và rộng tới cả mét. Có hàng tá màn hình, mỗi cái hiện hình ảnh của một vùng khác nhau của thành phố. Hàng rào. Tòa Trung Tâm. Những con đường ở khu vực Abnegation, nơi đang dày đặc lính Dauntless. Tầng trệt của tòa nhà phía dưới chúng tôi, nơi Caleb, Marcus và Peter đang đợi tôi quay lại. Đó là một bức tường của tất tần tật những gì tôi đã nhìn thấy, tất tần tật những gì tôi biết.
Có một cái màn hình có một dòng mã thay vì hình ảnh. Nó lướt qua rất nhanh trước khi tôi kịp đọc được gì. Đó chính là trình mô phỏng, đoạn mã đã tổng hợp xong, một danh sách phức tạp các lệnh dự đoán và chỉ định cho ra hàng ngàn kết quả khác nhau.
Trước màn hình là một cái ghế và một cái bàn. Ngồi trên ghế là một tên lính Dauntless.
“Tobias,” tôi kêu lên.